Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 (máy)

LỜI MỞ ĐẦU Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất độc lập, giữ vị trí quan trọng tạo ra tài sản cố định cho nền kinh tế quốc dân. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ bản phát triển tạo điều kiện thúc đẩy mối giao lưu với các nước trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá. Xuất phát từ những đặc điểm kinh tế - kĩ thuật riêng biệt của ngành mà việc quản lý sản xuất kinh doanh xây dựng sao cho có hiệu quả càng trở nên cấp thiết

doc133 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1243 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 (máy), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong cơ chế thị trường. Đặc biệt trong bối cảnh hiện đại hóa xây dựng diễn ra ở khắp mọi nơi thì chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp xây dựng, đồng thời cũng là mối quan tâm của các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước, các nhà đầu tư, các đối tác. Có thể nói giá thành với chức năng vốn có của nó đã trở thành tấm gương phản chiếu toàn bộ các biện pháp kinh tế, tổ chức quản lý và kĩ thuật mà doanh nghiệp đã và đang thực hiện trong quá trình sản xuất kinh doanh xây dựng. Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành cung cấp, các nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, qua thời gian nghiên cứu, tìm hiểu lý luận và thực tế công tác tổ chức kế toán tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo trong Khoa kế toán, đặc biệt là Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Thiều và các anh chị trong phòng Tài chính - Kế toán ở công ty, em đã chọn đề tài: “Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6” để làm luận văn tốt nghiệp của mình. Bài luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng Chương 2: Thực trạng tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Chương 3: Phương hướng hoàn thiện tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở công ty cổ phần LICOGI 16.6 Trong quá trình nghiên cứu đề tài, em đã cố gắng tiếp cận với thực tiễn kế toán của công ty và nhận được sự giúp đỡ tận tâm của các thầy cô cũng như các anh chị trong phòng Kế toán công ty song với kiến thức còn hạn chế, chắc chắn bài luận văn của em không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo cùng các các anh chị trong phòng Tài chính - Kế toán công ty và những người quan tâm để bài luận văn được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2010 Sinh viên thực hiện Đặng Lan Anh CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG 1.1 Sự cần thiết phải tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng Xây dựng cơ bản là một ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế quốc dân, để thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cũng như các doanh nghiệp nói chung, sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp xây dựng trong nền kinh tế thị trường là không thể tránh khỏi. Để tồn tại và phát triển, các doanh nghiệp phải thực sự làm ăn có lãi, tạo uy tín trên thương trường, những công trình của doanh nghiệp phải có sức cạnh tranh mạnh mẽ, nghĩa là chất lượng cao và giá thành hạ. Muốn vậy, các doanh nghiệp phải áp dụng nhiều biện pháp khác nhau để tổ chức và quản lý tốt quá trình sản xuất kinh doanh, trong đó việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm hợp lý, khoa học có ý nghĩa đặc biệt và trở thành khâu trung tâm của công tác kế toán. Thông qua những thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm do bộ phận kế toán cung cấp sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp có một cách nhìn chính xác về giá trị thực của công trình, hạng mục công trình cũng như toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp xây dựng, để từ đó có thể đưa ra những phân tích, đánh giá tình hình thực hiện các định mức dự toán chi phí, tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn có hiệu quả hay lãng phí và tình hình thực hiện kế hoạch giá thành sản phẩm nhằm đưa các quyết định quản lý thích hợp. Không chỉ quan trọng với bản thân doanh nghiệp, những thông tin về chi phí giá thành còn có ý nghĩa đặc biệt với các cơ quan quản lý chức năng của nhà nước cũng như các nhà đầu tư, các đối tác… Dưới góc độ của kế toán quản trị thì chi phí và giá thành còn là cơ sở để định giá bán sản phẩm và hạch toán kinh tế nội bộ, là căn cứ để xác định kết quả kinh doanh. Với tầm quan trọng này, công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chi phối đến các phần hành kế toán khác, đồng thời phục vụ đắc lực cho công tác quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp. 1.1.1 Đặc điểm sản xuất xây dựng ảnh hưởng đến kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng So với các ngành sản xuất khác, ngành xây dựng cơ bản có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp. Thứ nhất, sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài... Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán. Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp. Thứ hai, sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ, chi phí chủ yếu phát sinh trong quá trình cung ứng và quá trình sản xuất. Phù hợp với đặc điểm này, kế toán chỉ tập trung theo dõi và tập hợp chi phí trong quá trình sản xuất. Thứ ba, sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp. Thứ tư, sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt... Đặc điểm này khiến cho kế toán chi phí trở nên khó khăn, đồng thời đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát phải chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán. Những đặc điểm trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây dựng. Công tác kế toán vừa phải đáp ứng yêu cầu chung về chức năng, nhiệm vụ kế toán của một doanh nghiệp sản xuất vừa phải đảm bảo phù hợp với đặc thù của loại hình doanh nghiệp xây dựng. 1.1.2 Vai trò, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng. Để đáp ứng được yêu cầu quản lý kinh tế, kế toán phải xác định rõ vai trò và nhiệm vụ của mình trong việc tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, cụ thể như sau: - Trước hết cần nhận thức đúng đắn vị trí vai trò của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong toàn bộ hệ thống kế toán doanh nghiệp, mối quan hệ với các bộ phận kế toán có liên quan, trong đó kế toán các yếu tố chi phí là tiền đề cho kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành. - Căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, đặc điểm quy trình công nghệ, khả năng hạch toán, yêu cầu quản lý cụ thể của doanh nhiệp để lựa chọn, xác định đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và phương pháp tính giá thành phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp. - Tổ chức tập hợp và phân bổ từng loại chi phí sản xuất theo đúng đối tượng và theo đúng phương pháp đã xác định. - Xác định chính xác chi phí của sản phẩm dở dang cuối kỳ. - Thực hiện tính giá thành sản phẩm kịp thời, chính xác theo đúng đối tượng tính giá thành và phương pháp tính giá thành hợp lý. - Tổ chức bộ máy kế toán một cách khoa học, hợp lý trên cơ sở phân công rõ ràng trách nhiệm của từng nhân viên, từng bộ phận kế toán có liên quan, đặc biệt là bộ phận kế toán các yếu tố chi phí. - Định kỳ, cung cấp các báo cáo về chi phí sản xuất và tính giá thành cho lãnh đạo doanh nghiệp và tiến hành phân tích tình hình thực hiện định mức, dự toán chi phí sản xuất, tình hình thực hiện kế hoạch, giá thành, đề xuất các kiến nghị cho lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra các quyết định thích hợp, trước mắt cũng như lâu dài đối với sự phát triển kinh doanh của doanh nghiệp. 1.2 Chi phí sản xuất và phân loại chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng 1.2.1 Khái niệm, bản chất chi phí sản xuất Chi phí sản xuất là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp đã chi ra để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Đối với hoạt động xây dựng cơ bản, chi phí sản xuất của doanh nghiệp xây dựng là toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa phát sinh trong quá trình xây dựng và cấu thành nên giá thành sản phẩm xây dựng. Về bản chất, chi phí sản xuất là sự chuyển dịch vốn của doanh nghiệp vào đối tượng tính giá nhất định nhưng nó khác với chi tiêu và cũng khác với vốn. Chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất và được bù đắp bằng thu nhập hoạt động sản xuất kinh doanh; chi tiêu là việc dùng tiền để chi cho các hoạt động ngoài sản xuất kinh doanh, có thể lấy từ các quỹ của doanh nghiệp và không được bù đắp. Còn vốn là biểu hiện bằng tiền của tất cả tài sản được sử dụng vào hoạt động sản xuất với mục đích sinh lời nhưng không phải đều là phí tổn. Cũng cần xem xét chi phí trên góc độ của kế toán quản trị: mục đích của kế toán quản trị chi phí là cung cấp thông tin chi phí thích hợp, hữu ích, kịp thời cho việc ra quyết định của các nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy đối với kế toán quản trị chi phí không đơn thuần nhận thức chi phí như kế toán tài chính, mà chi phí còn được nhận thức theo cả khía cạnh nhận diện thông tin để phục vụ cho việc ra quyết định: Chi phí có thể là phí tổn thực tế gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày khi tổ chức thực hiện, kiểm tra, ra quyết định; chi phí cũng có thể là phí tổn ước tính để thực hiện dự án, những phí tổn mất đi khi lựa chọn phương án, bỏ qua cơ hội kinh doanh. Khi đó trong kế toán quản trị lại cần chú ý đến sự lựa chọn, so sánh theo mục đích sử dụng, môi trường kinh doanh hơn là chú trọng vào chứng minh bằng các chứng cứ, chứng từ. 1.2.2 Phân loại chi phí sản xuất Phân loại chi phí là việc sắp xếp các loại chi phí khác nhau vào từng nhóm theo đặc trưng nhất định nhằm tạo thuận lợi cho công tác quản lý, hạch toán, kiểm tra chi phí cũng như phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh. Tùy theo yêu cầu của từng mặt quản lý, giác độ xem xét chi phí... mà các loại chi phí được sắp xếp, phân loại theo các cách thức khác nhau. * Phân loại chi phí sản xuất theo hoạt động và công dụng kinh tế Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: là chi phí về các loại vật liệu chính, vật liệu phụ, vật kết cấu (trừ vật liệu sử dụng cho máy thi công) và các thiết bị đi kèm với vật kiến trúc như thiết bị vệ sinh, thông gió, điều hoà nhiệt độ… Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp kể cả công nhân của doanh nghiệp và công nhân thuê ngoài. Chi phí sử dụng máy thi công: là chi phí liên quan đến việc sử dụng máy thi công trực tiếp cho việc thực hiện sản phẩm xây lắp bao gồm: chi phí khấu hao máy thi công, tiền thuê máy thi công, tiền lương của công nhân điều khiển máy thi công; chi phí nhiên liệu, động lực, dầu mỡ dùng cho máy thi công; chi phí sửa chữa máy thi công… Chi phí sản xuất chung: là các chi phí khác ngoài các khoản chi phí trên phát sịnh ở tổ đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội; các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn và tiền ăn ca của công nhân viên toàn đội xây dựng; vật liệu, công cụ dụng cụ xuất dùng chung cho đội xây dựng; khấu hao tài sản cố định dùng chung cho đội xây dựng; chi phí dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền dùng chung cho đội xây dựng. * Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất bao gồm các yếu tố: Chi phí nguyên vật liệu: Là toàn bộ chi phí về các loại nguyên vật liệu phụ tùng thay thế, vật liệu thiết bị xây dựng cơ bản mà doanh nghiệp đã sử dụng trong quá trình sản xuất sản phẩm. Chi phí nhân công: Là các khoản chi phí về tiền lương, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tiền lương của người lao động Chi phí khấu hao máy móc thiết bị: Là toàn bộ số khấu hao TSCĐ sử dụng vào hoạt động sản xuất xây lắp của doanh nghiệp. Chi phí dịch vụ mua ngoài là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp phải trả về các dịch vụ bên ngoài sử dụng vào quá trình xây lắp của doanh nghiệp như tiền điện tiền nước, điện thoại.. Chi phí khác bằng tiền: Là toàn bộ các khoản chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất xây lắp ở doanh nghiệp ngoài các yếu tố trên và được thanh toán bằng tiền. Phân loại chi phí theo nội dung, tính chất kinh tế của chi phí có tác dụng cho biết nội dung, kết cấu tỷ trọng từng loại chi phí mà doanh nghiệp đã sử dụng vào quá trình sản xuất trong tổng chi phí sản xuất của doanh nghiệp, là cơ sở để kế toán tập hợp chi phí sản xuất theo yếu tố, phục vụ việc lập thuyết minh báo cáo tài chính. * Ngoài hai cách phân loại trên còn có cách phân loại khác như: Phân loại chi phí theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và quy mô sản xuất thì chi phí gồm: chi phí cố định và chi phí biến đổi. Phân loại chi phí sản xuất theo khả năng quy nạp chi phí vào các đối tượng kế toán thì chi phí gồm: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ với quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm thì chi phí gồm: chi phí cơ bản và chi phí chung. Trên góc độ của kế toán quản trị thì chi phí còn được nhận thức theo cả khía cạnh nhận diện thông tin để phục vụ cho viêc ra quyết định sản xuất kinh doanh. Khi đó, phân loại chi phí hợp lý sẽ phục vụ cho việc so sánh, lựa chọn các phương án tối ưu trong từng tình huống ra quyết định kinh doanh cụ thể. 1.3 Giá thành sản phẩm và phân loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng 1.3.1 Giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hóa được tính trên một khối lượng kết quả sản phẩm dịch vụ, lao vụ hoàn thành nhất định. Trong doanh nghiệp xây dựng, giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về vật liệu, nhân công, chi phí sử dụng máy thi công và các khoản chi phí sản xuất chung mà doanh nghiệp xây dựng đã bỏ ra liên quan đến công trình, hạng mục công trìnhs hay khối lượng công trình xây dựng hoàn thành. Như vậy, giá thành sản phẩm chính là sự dịch chuyển giá trị của những yếu tố chi phí bên trong nó, còn chi phí là cơ sở để hình thành nên giá thành. Trong kế toán quản trị thì giá thành sản phẩm xây dựng là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp, việc tăng năng suất lao động, tiết kiệm vật tư, nhân công, rút ngắn thời gian thi công sử dụng hợp lý vốn sản xuất cùng với các giải pháp kinh tế kỹ thuật áp dụng trong toàn doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp quản lý, sử dụng chi phí hợp lý, hạ giá thành ở mức tối đa. 1.3.2 Phân loại giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng Để đáp ứng nhu cầu quản lý, hạch toán và thực hiện kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, doanh nghiệp cần phải phân loại giá thành theo các tiêu thức khác nhau. * Phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính giá thành Theo cách phân loại này thì giá thành được chia thành giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá thành thực tế. - Giá thành dự toán: Là tổng chi phí dự toán để hoàn thành khối lượng xây lắp công trình, hạng mục công trình. Giá thành dự toán được xác định trên cơ sở các định mức kinh tế kỹ thuật và đơn giá của Nhà nước. Giá thành này nhỏ hơn giá dự toán ở phần thu nhập chịu thuế tính trước và thuế giá trị gia tăng đầu ra: Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình = Giá trị dự toán của công trình, hạng mục công trình - Thu nhập chịu thuế tính trước - Thuế giá trị gia tăng đầu ra - Giá thành kế hoạch: là giá thành được xây dựng trên cơ sở những điều kiện cụ thể của doanh nghiệp về các định mức, đơn giá, biện pháp thi công. Giá thành này thường nhỏ hơn giá trị dự toán xây lắp ở mức hạ giá thành kế hoạch: Giá thành kế hoạch của công trình, hạng mục công trình = Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình + Mức hạ giá thành kế hoạch - Giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp: là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các chi phí trực tế mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện hoàn thành các khối lượng xây lắp. Giá thành này được tính dựa trên cơ sở số liệu kế toán về chi phí sản xuất đã tập hợp được cho khối lượng xây lắp thực hiện trong kỳ. Giá thành công trình lắp đặt thiết bị không bao gồm giá trị thiết bị đưa vào lắp đặt vì thiết bị này thường do đơn vị chủ đầu tư bàn giao cho doanh nghiệp nhận thầu xây lắp: Giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình = Giá thành dự toán của công trình, hạng mục công trình + Mức hạ giá thành thực tế Ba loại giá thành sản xuất nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và được thể hiện khái quát như sau: Giá thành dự toán ³ Giá thành kế hoạch ³ Giá thành thực tế Trong đó giá thành dự toán đóng vai trò làm giá cả và việc so sánh phải được thực hiện đối với cùng một đối tượng tính giá thành nhất định. Trong xây dựng, giá thành thực tế có thể lớn hơn so với giá thành kế hoạch do quản lý sản xuất kém hiệu quả hoặc có trường hợp giá thành thực tế lớn hơn giá thành dự toán do khi tham gia đấu thầu để giải quyết công ăn việc làm cho người lao động doanh nghiệp xây lắp đã đưa ra giá thành dự toán thấp. Cách phân loại này có tác dụng giúp cho các nhà quản lý và giám sát chi phí có thể xác định được tương đối chính xác nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó tiến hành điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp với điều kiện cụ thể của doanh nghiệp. Ngoài ra, để đáp ứng kịp thời yêu cầu của các nhà quản lý thì giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp còn được sử dụng và được theo dõi đồng thời cả hai chỉ tiêu giá thành sản phẩm xây lắp hoàn chỉnh và giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước như sau: - Giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn chỉnh: là giá thành sản xuất của công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành đảm bảo chất lượng, kỹ thuật, đúng thiết kế, hợp đồng bàn giao và được bên chủ đầu tư nghiệm thu thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá một cách chính xác và toàn diện hiệu quả sản xuất thi công trọn vẹn cho một công trình, hạng mục công trình. Tuy nhiên, chỉ tiêu này có nhược điểm không đáp ứng được các số liệu kịp thời cho quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong thời kỳ công trình, hạng mục công trình, khối lượng chưa hoàn thành. - Giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước: là khối lượng xây lắp hoàn thành đến một giai đoạn nhất định và thoả mãn các điều kiện: Phải nằm trong thiết kế và đảm bảo chất lượng, kỹ thuật; khối lượng phải được xác định một cách cụ thể và được chủ đầu tư nghiệm thu và chấp nhận thanh toán; phải đạt điểm dừng kỹ thuật hợp lý. Chỉ tiêu giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn thành quy ước khắc phục được nhược điểm của chỉ tiêu giá thành sản xuất khối lượng xây lắp hoàn chỉnh nhưng không cho phép đánh giá một cách toàn diện giá thành sản xuất trọn vẹn một công trình, hạng mục công trình. 1.3.3 Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt của quá trình sản xuất, chúng cùng là biểu hiện bằng tiền những hao phí về lao động sống và lao động vật hoá bỏ ra trong quá trình sản xuất, xây dựng để hoàn thành một công trình, hạng mục công trình. Mối quan hệ này được thể hiện qua công thức: Z = Dđk + C – Dck Trong đó: Z: Giá thành sản phẩm Dđk, Dck : Chi phí sản xuất dở dang đầu kỳ, cuối kỳ. C: Chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Tuy nhiên, giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm lại có sự khác biệt như: Thứ nhất, chi phí sản xuất luôn được xác định trong một kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm lại liên quan tới cả khối lượng dở dang kỳ trước chuyển sang nhưng lại không bao gồm chi phí thực tế của khối lượng xây dựng dở dang cuối kỳ. Như vậy, giá thành sản phẩm hoàn thành trong kỳ bao gồm chi phí kỳ trước chuyển sang và một phần của chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ. Thứ hai, chi phí sản xuất được tập hợp theo một kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm xây dựng là chi phí sản xuất được tính cho một công trình, hạng mục công trình hay khối lượng công tác xây lắp hoàn thành. Hơn nữa, đối với những thiệt hại trong xây lắp như: thiệt hại về ngừng sản xuất và thiệt hại phá đi làm lại,... thì toàn bộ chi phí sửa chữa khắc phục thiệt hại được trừ khỏi giá thành sản phẩm phát sinh trong kỳ: Giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp hoàn thành = Dđk + C – Dck – Ch (Ch: Chi phí sửa chữa khắc phục thiệt hại sản phẩm xây lắp) Khi Dđk = Cck hoặc không có sản phẩm dở dang, thiệt hại trong xây lắp thì giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp chính là toàn bộ chi phí sản xuất đã tập hợp được. Như vậy, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm có mối quan hệ mật thiết với nhau, chi phí sản xuất chính là căn cứ để tính sản phẩm xây lắp hoàn thành. Việc tổ chức kiểm tra tính hợp pháp, hợp lý của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp, ở từng bộ phận, từng đối tượng góp phần giúp cho nhà quản trị có thể tăng cường quản lý về tài sản vật tư, lao động, tiền vốn… một cách tiết kiệm, có hiệu quả. Đó là một trong những điều kiện quan trọng giúp cho doanh nghiệp một ưu thế cạnh tranh tốt trên thị trường. 1.4 Nội dung tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng 1.4.1 Đối tượng, phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng 1.4.1.1 Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phạm vi giới hạn mà các chi phí sản xuất phát sinh được tập hợp nhằm đáp ứng nhu cầu kiểm tra, giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành. Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất là khâu đầu tiên của công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Xác định đúng đắn đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phù hợp với hoạt động, đặc điểm của từng công trình thi công và đáp ứng được yêu cầu quản lý của doanh nghiệp mới tạo điều kiện tốt nhất để tổ chức công việc kế toán tập hợp chi phí sản xuất. Việc xác định đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp cần phải dựa vào những đặc điểm sau: - Đặc điểm tổ chức thi công của doanh nghiệp - Quy trình công nghệ kỹ thuật sản xuất ra sản phẩm xây lắp - Mục đích sử dụng chi phí - Yêu cầu tính giá thành, khả năng, trình độ và yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Từ đó, đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng có thể là các công trình, hạng mục công trình, các giai đoạn quy ước của hạng mục công trình có giá trị dự toán riêng hay nhóm công trình hoặc các đơn vị thi công (xí nghiệp, đội xây lắp). 1.4.1.2 Phương pháp tập hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng * Phương pháp tập hợp trực tiếp: Phương pháp này áp dụng trong trường hợp chi phí sản xuất phát sinh có liên quan trực tiếp đến từng đối tượng tập hợp chi phí đã xác định. Do đó, ngay từ khâu hạch toán ban đầu thì chi phí phát sinh được tập hợp riêng cho từng đối tượng tập hợp chi phí dựa trên chứng từ ban đầu. Trường hợp doanh nghiệp xác định đối tượng tập hợp chi phí là công trình hay hạng mục công trình thì hàng tháng căn cứ vào các chi phí phát sinh có liên quan đến công trình hay hạng mục công trình nào thì tập hợp chi phí cho công trình, hạng mục công trình đó. * Phương pháp tập hợp và phân bổ gián tiếp chi phí sản xuất: Phương pháp này áp dụng để tập hợp các chi phí gián tiếp, đó là các chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng tập hợp chi phí đã xác định mà kế toán không thể tập hợp trực tiếp các chi phí này cho từng đối tượng đó.Theo phương pháp này, trước tiên căn cứ vào các chi phí phát sinh kế toán tiến hành tập hợp chung các chi phí có liên quan đến nhiều đối tượng theo địa điểm phát sinh hoặc theo nội dung chi phí. Để xác định chi phí cho từng đối tượng cụ thể phải lựa chọn các tiêu chuẩn hợp lý và tiến hành phân bổ các chi phí đó cho từng đối tượng liên quan. Việc phân bổ chi phí cho từng đối tượng thường được tiến hành theo hai bước sau: Bước 1: Xác định hệ số phân bổ H = C T Trong đó: H: Hệ số phân bổ chi phí C: Tổng chi phí cần phân bổ cho các đối tượng T: Tổng đại lượng tiêu chuẩn phân bổ. Bước 2: Xác định chi phí cần phân bổ cho từng đối tượng tập hợp cụ thể Ci = H x Ti Trong đó: Ci: Chi phí sản xuất phân bổ cho đối tượng i Ti: Đại lượng tiêu chuẩn phân bổ của đối tượng i. 1.4.2 Tổ chức kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng 1.4.2.1 Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp trong doanh nghiệp xây dựng Chứng từ hạch toán ban đầu: Khi phát sinh các khoản chi phí về NVLTT, kế toán căn cứ vào phiếu xuất kho, hóa đơn giá trị gia tăng khi mua hàng hoặc bảng kê thanh toán hóa đơn, bảng tổng hợp vật tư ở các tổ, đội xây dựng gửi lên và các chứng từ khác có liên quan để xác định trị giá NVLTT xuất dùng tại các tổ, đội xây dựng . Nội dung và nguyên tắc kế toán CPNVLTT: CPNVLTT xây lắp là những chi phí vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện, các bộ phận kết cấu công trình, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành thực thể công trình xây lắp hoặc giúp cho việc thực hiện và hoàn thành khối lượng xây lắp như: Sắt thép, xi măng, gạch, gỗ, cát đá, sỏi, tấm xi măng đúc sẵn, kèo sắt, cốp pha, dàn giáo…Nó không bao gồm vật liệu, nhiên liệu sử dụng cho máy thi công và sử dụng cho quản lý đội công trình. CPNVLTT thường chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm xây lắp. Trong hạch toán CPNVLTT, kế toán phải tôn trọng những quy định có tính nguyên tắc sau: Vật liệu sử dụng cho việc xây dựng công trình, hạng mục công trình nào thì tính trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc có liên quan, theo số lượng thực tế đã sử dụng và theo giá thực tế xuất kho. Cuối kỳ hạch toán hoặc khi công trình đã hoàn thành, kế toán phải tiến hành kiểm kê số vật liệu chưa sử dụng hết ở các công trường để tính số vật liệu thực tế sử dụng cho công trình, đồng thời phải hạch toán đúng số phế liệu thu hồi (nếu có) theo từng đối tượng công trình, hạng mục công trình cụ thể của doanh nghiệp. Trong điều kiện vật liệu sử dụng cho việc xây dựng nhiều công trình, hạng mục công trình kế toán tiến hành áp dụng phương pháp phân bổ để tính chi phí vật liệu trực tiếp cho từng đối tượng công trình, hạng mục công trình theo tiêu thức hợp lý: Theo định mức tiêu hao, chi phí vật liệu trực tiếp theo dự toán… Kế toán phải sử dụng triệt để hệ thống định mức tiêu hao vật liệu áp dụng trong xây dựng cơ bản và phải tác động tích cực để không ngừng hoàn thiện hệ thống định mức đó. Để phản ánh các chi phí nguyên liệu, vật liệu sử dụng trực tiếp cho hoạt động xây lắp, kế toán sử dụng TK- 621 “Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này không có số dư và được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình, từng khối lượng xây lắp, các giai đoạn quy ước đạt điểm dừng kỹ thuật có dự toán riêng. Đối với công trình xây lắp, các thiết bị do chủ đầu tư bàn giao đưa vào lắp đặt không phản ánh ở tài khoản này. Sơ đồ 1:Trình tự kế toán CPNVLTT TK 152 TK 621 TK 152, 111… VL xuất kho sử dụng trực tiếp cho thi công công trình TK 111, 112, 141, 331 Mua VL không qua kho sử dụng trực tiếp cho xây lắp TK 133 Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có) TK 1413 VL dùng không hết nhập kho hay bán, thu hồi TK 154 Kết chuyển CPNVLTTcuối kỳ TK 632 CPNVLTT vượt trên mức bình thường Quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp các công trình hoàn thành bàn giao được duyệt 1.4.2.2 Kế toán chi phí nhân công trực tiếp (CPNCTT) trong doanh nghiệp xây dựng Chứng từ hạch toán ban đầu: Đối với doanh nghiệp xây lắp để hạch toán chi phí nhân công, cuối tháng căn cứ vào bảng chấm công, kế toán phải tính số tiền lương trả cho công nhân sản xuất cũng như các đối tượng khác thể hiện trên bảng tính lương và thanh toán lương, được tổng hợp phân bổ cho các đối tượng tập hợp chi phí sản xuất trên bảng phân bổ tiền lương. Nội dung và nguyên tắc kế toán CPNCTT: CPNCTT bao gồm tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân trực tiếp thực hiện khối lượng công tác xây lắp, công nhân phục vụ xây lắp kể cả công nhân vận chuyển, bốc dỡ vật liệu trong phạm vi mặt bằng thi công và công nhân chuẩn bị, kết thúc thu dọn hiện trường thi công, không phân biệt công nhân trong danh sách hay thuê ngoài. Kế toán CPNCTT của hoạt động xây lắp, phải tôn trọng những quy định sau: Tiền lương, tiền công phải trả cho công nhân liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì phải hạch toán trực tiếp cho công trình, hạng mục công trình đó trên cơ sở các chứng từ gốc về lao động tiền lương. Trong điều kiện sản xuất xây lắp không cho phép tính trực tiếp chi phí nhân công cho từng công trình, hạng mục công trình thì kế toán phải phân bổ CPNCTT cho các đối tượng theo tiền lương định mức hay gia công định mức. Các khoản trích theo tiền của công nhân trực tiếp xây lắp (KPCĐ, BHXH, BHYT) được tính vào CPSXC của hoạt động xây lắp. Để phản ánh CPNCTT tham gia vào quy trình hoạt động xây lắp, kế toán sử dụng TK- 622 “Chi phí nhâ._.n công trực tiếp”. Tài khoản này không có số dư cuối kỳ và được mở chi tiết cho từng công trình, hạng mục công trình, hạng mục công trình của doanh nghiệp xây dựng. Sơ đồ 2: Trình tự kế toán CPNCTT: TK 622 TK 334 TK 154 Tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp Kết chuyển CPNCTT cuối kỳ TK632 CPNCTT vượt trên mức bình thường TK 1413 Quyết toán tạm ứng về khối lượng xây lắp các công trình hoàn thành bàn giao được duyệt 1.4.2.3 Kế toán chi phí sử dụng máy thi công trong doanh nghiệp xây dựng Chứng từ hạch toán ban đầu: Để tập hợp CPSDMTC kế toán căn cứ vào các chứng từ của doanh nghiệp quy định để hạch toán như: Sử dụng các phiếu xuất kho, bảng theo dõi lịch trình máy, bảng kê chi phí mua ngoài, bảng phân bổ tiền lương cho nhân viên sử dụng máy thi công… Nội dung và nguyên tắc kế toán chi phí sử dụng máy thi công: Máy thi công là loại xe máy chạy bằng động lực (điện, xăng, dầu, khí nén,..) đuợc sử dụng trực tiếp để thi công xây lắp các công trình như: máy trộn bê tông, cần cẩu, máy đào xúc đất, máy ủi, máy đóng cọc,… Các loại phương tiện này doanh nghiệp có thể tự trang bị hoặc thuê ngoài. CPSDMTC là toàn bộ các chi phí trực tiếp phát sinh trong quá trình sử dụng máy thi công để thực hiện khối lượng công việc xây lắp bằng máy. Kế toán CPSDMTC cần phải tôn trọng những quy định sau: Thứ nhất, hạch toán CPSDMTC phải phù hợp với hình thức quản lý sử dụng máy thi công của doanh nghiệp. Thông thường có 2 hình thức quản lý, sử dụng máy thi công: Tổ chức đội máy thi công riêng biệt chuyên thực hiện khối lượng thi công bằng máy hoặc giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp. Nếu doanh nghiệp xây lắp tổ chức bộ máy thi công riêng biệt thì tuỳ thuộc vào đội máy có tổ chức kế toán riêng hay không mà CPSDMTC được hạch toán phù hợp. Nếu doanh nghiệp xây lắp không tổ chức đội máy thi công riêng biệt mà giao máy thi công cho các đội, xí nghiệp xây lắp sử dụng thì CPSDMTC phát sinh được hạch toán vào TK 623 - “Chi phí sử dụng máy thi công” Thứ hai, CPSDMTC phải được hạch toán chi tiết theo từng loại máy hoặc nhóm máy thi công, đồng thời phải chi tiết theo các khoản mục đã quy định. Thứ ba, phải tính toán phân bổ CPSDMTC cho các đối tượng sử dụng (công trình, hạng mục công trình) phải dựa trên cơ sở giá thành 1 giờ/máy hoặc giá thành 1 ca/máy hoặc 1 đơn vị công việc thi công bằng máy hoàn thành. Để tập hợp và phân bổ CPSDMTC phục vụ trực tiếp cho hoạt động xây lắp, kế toán sử dụng TK 623 -“Chi phí sử dụng máy thi công”. Tài khoản này chỉ sử dụng để hạch toán CPSDMTC đối với doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình theo phương thức thi công hỗn hợp vừa thủ công vừa kết hợp máy. Trường hợp doanh nghiệp thực hiện xây lắp công trình hoàn toàn theo phương thức sử dụng bằng máy thì không sử dụng TK 623 mà hạch toán toàn bộ chi phí xây, lắp trực tiếp vào các TK 621, 622, 627. Không hạch toán vào TK 623 khoản trích về BHXH, BHYT, KPCĐ tính trên lương phải trả công nhân sử dụng máy thi công. TK 623 được mở 6 tài khoản cấp 2 như sau: TK 6231: Chi phí nhân công sử dụng máy, TK 6232: Chi phí vật liệu, TK 6233: Chi phí dụng cụ sản xuất, TK 6234: Chi phí khấu hao tài sản cố định, TK 6237: Chi phí dịch vụ mua ngoài, TK 6238: Chi phí khác bằng tiền. Sơ đồ 3: Trình tự kế toán CPSDMTC (Trường hợp doanh nghiệp không tổ chức bộ máy thi công riêng biệt, thi công hỗn hợp vừa bằng máy, vừa thủ công) TK 334 TK 623 TK 154 Tiền công phải trả cho công nhân điều khiển máy TK 152,153, 111, 141… NVL, CC xuất kho hoặc mua ngoài sử dụng cho máy thi công TK 133 Thuế GTGT đầu vào được KT (nếu có) TK 214 CPSDMTC tính cho từng công trình, hạng mục công trình Chi phí khấu hao máy thi công TK 111, 112, 331... Chi phí dịch vụ mua ngoài, Chi phí bằng tiền khác Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có) TK 133 TK 1413 Quyết toán tạm ứng khối lượng xây lắp các công trình hoàn thành bàn giao được duyệt TK 152, 111… Các khoản ghi giảm CPSDMTC CPSDMTC vượt trên mức bình thường TK 632 Sơ đồ 4: Trình tự kế toán CPSDMTC trong trường hợp công ty có tổ chức đội máy thi công riêng TK154 (Chi tiết theo c.trình) TK 154 (Chi tiết theo MTC) TK 623 TK 621 TK 152, 334, 111... NVL dùng cho MTC Tập hợp CPNVL dùng cho MTC TK 622 Tập hợp chi phí NC điều khiển MTC Phân bổ CPSDMTC cho từng công trình Kết chuyển CPSDMTC cuối kỳ theo từng công trình Lương nhân viên điều khiển MTC TK 627 Tập hợp CPSXC dùng cho MTC Chi phí khác liên quan đến MTC Sơ đồ 5: Trình tự kế toán chi phí sử dụng máy thi công thuê ngoài Giá thuê chưa có thuế TK 133 TK 111, 112, 141… TK 623 TK 154 Kết chuyển CPSDMTC cuối kỳ Thuế GTGT đầu vào được khấu trừ (nếu có) 1.4.2.4 Kế toán chi phí sản xuất chung trong doanh nghiệp xây dựng (CPSXC) Chứng từ hạch toán ban đầu: Các chứng từ liên quan đến tập hợp CPSXC ở doanh nghiệp xây dựng đó là các bảng kê chi phí phát sinh, bảng phân bổ tiền lương của nhân viên quản lý, lương của nhân viên sử dụng máy, các phiếu xuất kho nguyên vật liệu, hóa đơn giá trị gia tăng và các chứng từ khác phục vụ cho việc hạch toán chi phí sản xuất chung mà được đội trưởng các đội sản xuất thi công tập hợp và gửi về phòng kế toán hàng tháng. Nội dung và nguyên tắc kế toán chi phí sản xuất chung: CPSXC của hoạt động xây lắp là những chi phí có liên quan đến việc tổ chức, phục vụ và quản lý thi công của các đội xây lắp ở các công trường xây dựng. CPSXC là chi phí tổng hợp bao gồm nhiều khoản chi phí khác nhau thường có mối quan hệ gián tiếp với các đối tượng xây lắp như: tiền lương nhân viên quản lý đội xây dựng, khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ được tính theo tỷ lệ quy định trên tiền lương phải trả cho công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân sử dụng máy thi công và nhân viên quản lý đội, khấu hao tài sản cố định dùng cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội xây lắp. Kế toán CPSXC cần tôn trọng những quy định sau: - Phải tổ chức hạch toán CPSXC theo từng công trình, hạng mục công trình đồng thời phải chi tiết theo các điều khoản quy định. - Thường xuyên kiểm tra tình hình thực hiện các định mức CPSXC và các khoản có thể giảm CPSXC. - Khi thực hịên khoán CPSXC cho các đội xây dựng thì phải quản lý tốt theo định mức đã giao khoán, từ chối không thanh toán số CPSXC ngoài định mức bất hợp lý. - Trường hợp CPSXC có liên quan đến nhiều đối tượng xây lắp khác nhau, kế toán phải phân bổ CPSXC cho các đối tượng có liên quan theo tiêu thức hợp lý như CPNCTT hoặc chi phí định mức. Để tập hợp chi phí sản xuất, chi phí quản lý và phục vụ thi công ở các đội xây lắp theo nội dung quy định và phân bổ hoặc kết chuyển chi CPSXC vào các đối tượng xây lắp có liên quan, kế toán sử dụng TK- 627 “Chi phí sản xuất chung”. TK 627 không có số dư và được mở 6 tài khoản cấp 2:TK6271 : Chi phí nhân viên quản lý . TK 6272: Chi phí vật liệu TK 6273: Chi phí công cụ, dụng cụ sản xuất TK 6274: Chi phí khấu hao TSCĐ TK 6277: Chi phí dịch vụ mua ngoài TK 6278: Chi phí dịch vụ mua ngoài khác. Sơ đồ 6: Trình tự kế toán chi phí sản xuất chungTK 334 TK 627 TK 111, 152… Tiền lương, phụ cấp của nhân viên quản lý đội. TK 214 Các khoản ghi giảm CPSXC (phế liệu thu hồi, NVL xuất dùng không hết) Chi phí KHTSCĐ dùng cho đội TK 111, 112, 331... Chi phí dịch vụ mua ngoài, Chi phí bằng tiền khác Thuế GTGT đầu vào được KT (nếu có) TK 133 TK 1413 Quyết toán tạm ứng khối lượng xây lắp các công trình hoàn thành bàn giao được duyệt TK 338 Các khoản trích theo lương của công nhân viên toàn đội TK 152, 153 NVL,CCDC xuất dùng cho đội TK 154 Kết chuyển CPSXC cuối kỳ TK 632 CPSXC không được phân bổ -ghi nhận CPSXKD trong kỳ 1.4.2.5. Kế toán tổng hợp chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây dựng Đối với hoạt động kinh doanh xây lắp quy định chỉ áp dụng phương pháp kê khai thường xuyên nên TK 154 dùng để tập hợp chi phí sản xuất, kinh doanh, phục vụ cho việc tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp công nghiệp dịch vụ của doanh nghiệp xây lắp. Tài khoản sử dụng là TK- 154 “Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang”. Tài khoản này trong ngành xây lắp có 4 tài khoản cấp 2: TK 1541: Xây lắp, TK 1542: Sản phẩm khác, TK 1543: Dịch vụ, TK 1544: Chi phí bảo hành xây lắp. TK 152, 153, 138… Sơ đồ 7: Trình tự kế toán tổng hợp chi phí sản xuất TK 154 TK 621 Kết chuyển CPNVLTT cuối kỳ Giá thành khối lượng xây lắp hoàn thành bàn giao TK 632 Kết chuyển chi phí NCTT cuối kỳ TK 622 Các khoản giảm giá thành Kết chuyển CPSDMTC cuối kỳ TK 623 TK 627 Kết chuyển CPSXC 1.4.3 Đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ trong doanh nghiệp xây dựng Sản phẩm dở dang trong doanh nghiệp xây lắp là các công trình, hạng mục công trình dở dang chưa hoàn thành hoặc bên chủ đầu tư chưa nghiệm thu, chấp nhận thanh toán. Đánh giá sản phẩm dở dang là tính toán, xác định phần chi phí sản xuất trong kỳ cho khối lượng sản phẩm làm dở cuối kỳ theo nguyên tắc nhất định. Thông thường doanh nghiệp xây dựng hay áp dụng các phương pháp đánh giá sản phẩm dở dang sau: * Đánh giá sản phẩm xây lắp dở dang theo chi phí thực tế phát sinh : Phương pháp này được áp dụng đối với các đối tượng công trình, hạng mục công trình được quy định thanh toán sau khi đã hoàn thành toàn bộ. Trong trường hợp này chi phí sản xuất sản phẩm dở dang là tổng chi phí sản xuất phát sinh từ lúc khởi công công trình, hạng mục công trình, cho đến thời điểm tính toán xác định mà chưa có công trình, hạng mục công trình hoàn thành. Thực chất thì đến khi công trình hoàn thành toàn bộ thì không có đánh giá sản phẩm dở dang. Theo phương pháp này: Chi phí xây lắp dở dang cuối kỳ = Chi phí thực tế của KLXLDD đầu kỳ + Chi phí thực tế của KLXL thực hiện trong kỳ x Chi phí theo dự toán của KLXLDD cuối kỳ Chi phí theo dự toán của KLXL hoàn thành bàn giao + Chi phí theo dự toán của KLXLDD cuối kỳ * Đánh giá sản phẩm xây lắp dở dang theo giá trị dự toán : Phương pháp này được áp dụng đối với các công trình, hạng mục công trình được quy định thanh toán sản phẩm xây lắp theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý (tức là tại đó có thể xác định được giá trị dự toán) thì giá trị sản phẩm dở dang là giá trị khối lượng xây lắp chưa đạt tới điểm dừng kỹ thuật hợp lý đã quy định và được tính theo chi phí thực tế trên cơ sở phân bổ chi phí thực tế của hạng mục công trình đó cho các giai đoạn đã hoàn thành và giai đoạn còn dở dang theo giá trị dự toán của công trình, hạng mục công trình. Theo phương pháp này: Chi phí sản phẩm dở dang cuối kỳ = Chi phí thực tế của KLXLDD đầu kỳ + Chi phí thực tế của KLXL thực hiện trong kỳ x Giá trị dự toán của KLXLDD cuối kỳ Giá trị dự toán của KLXL hoàn thành bàn giao trong kỳ + Giá trị dự toán của KLXLLDD cuối kỳ 1.4.4 Nội dung công tác tính giá thành sản phẩm xây lắp 1.4.4.1 Đối tượng tính giá thành, kỳ tính giá thành sản phẩm xây lắp * Đối tượng tính giá thành sản phẩm: có thể là các loại sản phẩm, công việc lao vụ hoàn thành do doanh nghiệp sản xuất ra cần được tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm. Xác định đối tượng tính giá thành là công việc đầu tiên trong toàn bộ công tác tính giá thành sản phẩm, nó có ý nghĩa quan trọng, là căn cứ để kế toán mở các bảng chi tiết tính giá thành và tổ chức công tác tính giá thành theo từng đối tượng phục vụ cho việc kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch giá thành. Trong doanh nghiệp xây dựng, sản phẩm có tính đơn chiếc, đối tượng tính giá thành là từng công trình, hạng mục công trình đã xây dựng hoàn thành. Ngoài ra, đối tượng tính giá thành có thể là từng giai đoạn công trình hoặc từng giai đoạn hoàn thành quy ước có giá trị dự toán riêng, tuỳ thuộc vào phương thức bàn giao thanh toán giữa đơn vị xây lắp và chủ đầu tư. * Kỳ tính giá thành: là thời kỳ bộ phận kế toán giá thành cần tiến hành công việc tính giá thành cho các đối tượng tính giá thành. Kỳ tính giá thành có thể là một tháng, một quý, một năm... tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất sản phẩm và chu kỳ sản xuất của một sản phẩm. Để xác định kỳ tính giá thành thích hợp, kế toán phải căn cứ vào đặc điểm tổ chức sản xuất và chu kỳ sản xuất sản phẩm. Căn cứ vào đặc riêng của ngành xây dựng cơ bản mà kì tính giá thành có thể được xác định như sau: Đối với những công trình, hạng mục công trình nhỏ thời gian thi công ngắn thì kỳ tính giá thành là thời gian mà sản phẩm xây lắp hoàn thành và được nghiệm thu, bàn giao thanh toán cho chủ đầu tư. Đối với những công trình lớn hơn, thời gian thi công dài hơn thì chỉ khi nào có một bộ phận công trình hoàn thành có giá trị sử dụng được nghiệm thu bàn giao thì lúc đó doanh nghiệp tính giá thành thực tế của bộ phận đó. Đối với những công trình, lắp đặt máy móc thiết bị có thời gian thi công nhiều năm mà không tách ra được từng bộ phận công trình nhỏ đưa vào sử dụng thi từng phần việc xây lắp đạt đến điểm dừng kỹ thuật hợp lý theo thiết kế kỹ thuật có ghi trong hợp đồng thi công sẽ được bàn giao thanh toán thì doanh nghiệp xây lắp tính giá thành thực tế cho khối lượng bàn giao. Ngoài ra đối với công trình lớn, thời gian thi công kéo dài, kết cấu phức tạp… thì kỳ tính giá thành có thể xác định là hàng quý, vào thời điểm cuối quý. 1.4.4.2 Phương pháp tính giá thành sản phẩm xây lắp Phương pháp tính giá thành sản phẩm là phương pháp sử dụng số liệu về chi phí sản xuất để tính toán ra tổng giá thành và giá thành đơn vị thực tế của sản phẩm hoặc lao vụ đã hoàn thành theo các yếu tố hoặc khoản mục giá thành trong kỳ tính giá thành đã được xác định .Trong các doanh nghiệp xây dựng thường áp dụng phương pháp tính giá thành sau: * Phương pháp tính giá thành trực tiếp (giản đơn): Đây là phương pháp tính giá thành phổ biến trong các doanh nghiệp xây lắp. Theo phương pháp này thì tất cả các chi phí phát sinh trực tiếp cho một công trình, hạng mục công trình từ khi khởi công đến khi hoàn thành chính thức là giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình đó. Trong trường hợp công trình, hạng mục công trình đã hoàn thành toàn bộ mà có khối lượng hoàn thành xây lắp bàn giao thì: Giá thành thực tế của KLXL hoàn thành bàn giao = Chi phí thực tế dở dang đầu kỳ + Chi phí thực tế phát sinh trong kỳ - Chi phí thực tế dở dang cuối kỳ Trong trường hợp chi phí sản xuất tập hợp cho cả công trình nhưng giá thành thực tế phải tính riêng cho từng hạng mục công trình, kế toán có thể căn cứ vào chi phí sản xuất của cả nhóm và hệ số kinh tế kĩ thuật đã quy định cho từng hạng mục công trình để tính giá thành thực tế cho từng hạng mục công trình. * Phương pháp tính giá thành theo đơn đặt hàng (ĐĐH): Đối với doanh nghiệp xây dựng thực hiện công tác quản lý chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm theo những hợp đồng có thời gian ngắn và bên A quy định thanh toán sản phẩm sau khi đã hoàn thành toàn bộ thì nên sử dụng phương pháp tính giá thành theo ĐĐH. Khi đó đối tượng tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành sản phẩm là từng ĐĐH. Trong xây dựng đơn đặt hàng có thể là từng công trình, hạng mục công trình hoặc khối lượng xây lắp nhất định, do đó đối tượng tập hợp chi phí sản xuất phải là từng đơn đặt hàng. Việc tính giá thành chỉ tiến hành khi đơn đặt hàng hoàn thành nên kỳ tính giá thành thường không đồng nhất với kỳ báo cáo. Đối với những ĐĐH đến kỳ báo cáo chưa hoàn thành thì toàn bộ chi phí đã tập hợp theo đơn đó đều coi là sản phẩm dở dang cuối kỳ chuyển kỳ sau. Đối với những ĐĐH đã hoàn thành thì tổng chi phí đã tập hợp được theo đơn đó chính là tổng giá thành sản phẩm theo đơn. Hệ số phân bổ = Tổng chi phí tập hợp được Tổng giá trị dự toán của công trình, hạng mục công trình, khối lượng hoàn thành Tuy nhiên, công tác hạch toán nội bộ phải yêu cầu cụ thể chi tiết cho từng hạng công trình hay khối lượng công việc hoàn thành trong từng ĐĐH. Do đó, doanh nghiệp phải xác định được hệ số phân bổ chi phí. Từ đó, tính giá thành thực tế của hạng mục công trình hay khối lượng công việc hoàn thành theo công thức sau: Giá thành thực tế của công trình, hạng mục công trình, khối lượng xây lắp hoàn thành = Giá trị dự toán của công trình, hạng mục công trình x Hệ số phân bổ Hàng tháng chi phí sản xuất thực tế phát sinh được tập hợp theo từng ĐĐH và khi hoàn thành công trình thì chi phí sản xuất thực tế tập hợp được cũng chính là giá thành thực tế của ĐĐH đó. * Phương pháp tính giá thành theo định mức: Phương pháp này áp dụng đối với các doanh nghiệp xây dựng thoả mãn các điều kiện sau: - Phải tính được giá thành định mức trên cơ sở các định mức và đơn giá tại thời điểm tính giá thành. - Vạch ra được một cách chính xác các thay đổi về định mức trong quá trình thực hiện thi công công trình. - Xác định được các chênh lệch định mức và nguyên nhân gây ra chênh lệch đó. Theo phương pháp này giá thành thực tế sản phẩm xây lắp được xác định: Giá thành thực tế của sản phẩm xây lắp = Giá thành định mức của sản phẩm xây lắp ± Chênh lệch do thay đổi định mức ± Chênh lệch do thoát ly định mức Ngoài các phương pháp tính giá thành chủ yếu trên, trong doanh nghiệp xây lắp có thể sử dụng một số phương pháp khác: Phương pháp tính giá thành theo hệ số; phương pháp tỷ lệ; phương pháp tổng cộng chi phí ... Việc áp dụng phương pháp tính giá thành nào cũng đều phải dựa vào tình hình thực tế của từng doanh nghiệp như trình độ tổ chức, trình độ công nghệ sản xuất... 1.5 Các hình thức sổ kế toán sử dụng để tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp xây dựng Theo quyết định số 15/2006/QĐ-BTC của bộ trưởng bộ tài chính ra ngày 20/3/2006 thì sổ kế toán dùng để ghi chép, hệ thống và lưu giữ toàn bộ các nghiệp vụ kinh tế, tài chính đã phát sinh theo nội dung kinh tế và theo trình tự thời gian có liên quan đến doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể lựa chọn một trong các hình thức sổ sau: - Hình thức kế toán Nhật ký chung - Hình thức kế toán Nhật ký - Sổ cái - Hình thức kế toán Chứng từ ghi sổ - Hình thức kế toán Nhật ký - Chứng từ 1.6 Kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong điều kiện khoán Để phù hợp với nền kinh tế thị trường hiện nay thì các doanh nghiệp nói chung và nhất là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng cơ bản nói riêng đều áp dụng phương thức giao khoán sản phẩm xây lắp cho các đơn vị cơ sở, các tổ, đội thi công. Việc áp dụng phương thức giao khoán sản phẩm xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý nói chung và công tác kế toán giá thành nói riêng. Phương thức này đã tăng cường tính tự chủ trong sản xuất kinh doanh xây dựng, nâng cao tinh thần trách nhiệm của người lao động, việc quản lý chi phí dựa trên các dự toán và các định mức được chặt chẽ hơn… Đặc điểm chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm xây lắp trong điều kiện khoán: Chi phí doanh nghiệp xây lắp (bên nhận khoán) là toàn bộ chi phí sản xuất liên quan đến thi công công trình, hạng mục công trình (vật liệu, nhân công, máy thi công, sản xuất chung) làm cơ sở để xác định giá thành sản xuất thực tế của công trình, hạng mục công trình nhận khoán hoàn thành.Các hình thức khoán thường được áp dụng: Khoán gọn công trình: đơn vị giao khoán tiến hành khoán toàn bộ giá trị công trình cho bên nhận khoán, khoán trọn gói toàn bộ các khoản mục chi phí, khi quyết toán công trình, quyết toán trọn gói cho bên giao khoán. Đơn vị nhận khoán sẽ tổ chức cung cứng vật tư, thiết bị kỹ thuật, nhân công, tiến hành thi công. Khi công trình hoàn thành bàn giao quyết toán sẽ được thanh toán toàn bộ giá trị công trình nhận khoán. Khoán theo từng khoản mục chi phí: sẽ khoán những khoản mục chi phí khi thoả thuận với bên nhận khoán: vật liệu, nhân công, sử dụng máy. Bên nhận khoán sẽ bỏ ra chi phí những khoản mục đó và bên giao khoán sẽ chịu trách nhiệm chi phí và kế toán các khoản mục chi phí không giao khoán và phải giám sát về kỹ thuật và chất lượng công trình. 1.7 Tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong điều kiện áp dụng kế toán trên máy vi tính 1.7.1 Sự cần thiết phải ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán Trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì qui mô hoạt động của doanh nghiệp ngày càng mở rộng, khối lượng thông tin cần thu thập xử lý, cung cấp ngày càng nhiều và phức tạp. Thêm vào đó các đối tượng sử dụng thông tin ngày càng phong phú, mục đích sử dụng khác nhau, đòi hỏi thông tin kế toán cung cấp phải kịp thời và có chất lượng. Để đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô của các cơ quan Nhà nước, yêu cầu quản lý , kiểm soát của bản thân mỗi doanh nghiệp thì việc ứng dụng phần mềm kế toán trong công tác kế toán là điều tất yếu và mới có thể xử lý một khối lượng thông tin lớn trong thời gian hạn chế. 1.7.2 Trình tự ghi sổ kế toán theo hình thức kế toán trên máy vi tính Hàng ngày, kế toán căn cứ vào chứng từ kế toán hoặc bảng tổng hợp chứng từ kế toán cùng loại đã được kiểm tra và dùng làm căn cứ ghi sổ, xác định tài khoản ghi nợ, ghi có để nhập dữ liệu vào máy vi tính theo các bảng biểu được thiết kế sẵn trên phần mềm kế toán. Theo quy trình của phần mềm kế toán thì các thông tin được tự động nhập vào sổ kế toán tổng hợp và các sổ kế toán chi tiết có liên quan. Cuối tháng hoặc có thể bất kỳ thời điểm cần thiết nào, kế toán thực hiện thao tác khóa sổ và lập báo cáo tài chính. Việc đối chiếu giữa số liệu tổng hợp và số liệu chi tiết được thực hiện tự động và luôn đảm bảo chính xác, trung thực theo thông tin được nhập trong kỳ. Người làm kế toán có thể kiểm tra, đối chiếu số liệu giữa các sổ kế toán với báo cáo tài chính khi đã in ra giấy. Thực hiện các thao tác để in báo cáo tài chính theo quy định. Cuối tháng, cuối năm sổ kế toán tổng hợp và sổ kế toán chi tiết được in ra giấy, đóng thành quyển và thực hiện các thủ tục pháp lý theo quy định về sổ kế toán ghi bằng tay. Sổ kế toán Sổ tổng hợp Sổ chi tiết PHẦN MỀM KẾ TOÁN Chứng từ kế toán - Báo cáo tài chính - Báo cáo kế toán quản trị Bảng tổng hợp chứng từ kế toán cùng loại MÁY VI TÍNH Ghi chú: Nhập số liệu hàng ngày In sổ, báo cáo cuối tháng, cuối năm Đối chiếu, kiểm tra 1.7.3 Chức năng, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong điều kiện ứng dụng máy vi tính Để tổ chức tốt kế toán CPSX và tính GTSP trong điều kiện ứng dụng máy vi tính, kế toán CPSX và tính GTSP cần thực hiện tốt các nhiệm vụ sau: Tổ chức mã hoá, phân loại các đối tượng kế toán tập hợp CPSX, đối tượng tính giá thành phù hợp với đặc thù của doanh nghiệp và yêu cầu quản lý, cho phép nhận diện, tìm kiếm một cách nhanh chóng không nhầm lẫn các đối tượng trong quá trình xử lý thông tin tự động; tuỳ theo yêu cầu quản lý để xây dựng hệ thống danh mục tài khoản kế toán chi tiết cho từng đối tượng kế toán để kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm; tổ chức tập hợp, kết chuyển hoặc phân bổ chi phí sản xuất theo đúng trình tự đã xác định; tổ chức xác định các báo cáo cần thiết về CPSX và GTSP để chương trình tự động xử lý, kế toán chỉ việc xem, in và phân tích CPSX và GTSP. Ngoài ra, có thể xây dựng hệ thống sổ báo cáo có tính tự động và xây dựng các chỉ tiêu phân tích cơ bản để thuận tiện cho việc bổ sung và phân tích. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KẾ TOÁN TẬP HỢP CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH XÂY LẮP Ở CÔNG TY CỔ PHẦN LICOGI 16.6 2.1 Đặc điểm chung của công ty cổ phần LICOGI 16.6 ảnh hưởng đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần LICOGI 16.6 Công ty Cổ phần LICOGI 16 là một thành viên của Tổng Công ty Xây dựng và Phát triển Hạ tầng (LICOGI) được thành lập theo quyết định 90 của Thủ Tướng Chính Phủ năm 1996. Từ khi mới thành lập, Tổng công ty đã tham gia đấu thầu thi công rất nhiều công trình lớn tầm cỡ Quốc gia. Chất lượng công trình và tiến độ thi công luôn đảm bảo là tiêu chí hoạt động của Ban lãnh đạo và toàn thể Cán bộ công nhân viên của Tổng công ty ngay từ những ngày đầu mới thành lập. Điều đó mang lại uy tín với khách hàng và các đối tác, giúp cho LICOGI không ngừng phát triển và ngày càng lớn mạnh. Để đáp ứng nhu cầu xây dựng và cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế nước nhà, và từng bước trở thành Nhà thầu lớn trên thị trường xây dựng trong và ngoài nước. Tổng công ty không ngừng mở rộng hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh, nâng cấp thiết bị, đào tạo bổ sung đội ngũ kỹ thuật, thành lập các công ty thành viên. Công ty Cổ phần LICOGI 16.6 được thành lập ngày 09 tháng 02 năm 2006, trên cơ sở chi nhánh Công ty Cổ phần LICOGI 16 - Tổng công ty Xây dựng và Phát triển Hạ tầng. Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 0103017362 do Sở Kế hoạch và Đầu tư Hà Nội cấp ngày 09 thàng 02 năm 2006. Tên tiếng Anh: LICOGI 16.6 Joint Stock Company Tên giao dịch: LICOGI 16.6 Mã số thuế: 0102264629 Tài khoản: 1500201054200 mở tại Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn Điện thoại: 04.22250718 Fax: 04.22250716 Email: licogi@licogi166.vn Website: www.licogi166.vn - www.licogi166.com Vốn điều lệ: 25.000.000.000 ( hai mươi lăm tỷ đồng) Tổng số CBCNV: 465 người với các trình độ như sau: Trình độ đại học: 75 người, trình độ cao đẳng: 55 người, công nhân kỹ thuật: 141 người, lao động phổ thông: 194 người. Dù mới thành lập nhưng với đội ngũ kỹ sư, công nhân kỹ thuật lành nghề, Công ty Cổ phần LICOGI 16.6 đã tham gia vào nhiều dự án lớn của đất nước: Quốc Lộ 51, Đường Xuyên Á, đường giao thông khu vực nhà máy thủy điện Hàm Thuận – Đami, nhà ga sân bay Quốc tế Nội Bài, siêu thị An Lạc, nhà thi đấu thể thao Phú Thọ… Công ty Cổ phần LICOGI 16.6 là cổ đông chiến lược chiếm 25% vốn điều lệ tương đương 12,5 tỷ đồng của Công ty Cổ phần Sông Đà 12 – Cao Cường, sản xuất phụ gia khoáng tro bay cung cấp cho Thủy Điện Sơn La, Bản Chát và các công trình đê, kè, đập khác. Hiện tại Công ty đã trúng thầu và được giao các công trình lớn có giá trị như sau: - Là đơn vị duy nhất triển khai thi công đập bê tông đầm lăn (RCC) của Công trình Nhà máy thủy điện Bản Chát - Huyện Than uyên - Tỉnh Lai Châu (với tổng khối lượng 1.600.000 m3) … giá trị hợp đồng 1.400 tỷ đồng. - Xây dựng hệ thống đường giao thông, hệ thống thoát nước, hệ thống điện chiếu sáng thuộc khi công nghiệp Gang thép Nghi Sơn – Thanh Hóa; - Xây dựng hệ thống đường dây 35KV và trạm biến áp 35/0, 4KV tại Công trình thủy điện Bản Chát – Lai Châu; Vậy với một khoảng thời gian chưa đủ dài mà Công ty Cổ phần LICOGI 16.6 đã góp không ít sức người và sức của cho một đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển. 2.1.2 Đặc điểm về tổ chức sản xuất và công tác quản lý kinh doanh của công ty cổ phần LICOGI 16.6 2.1.2.1 Lĩnh vực hoạt động, ngành nghề kinh doanh của Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Công ty tổ chức thi công xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, sân bay, bến cảng, đường dây và các trạm biến thế điện; các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị và khu công nghiệp, các công trình cấp thoát nước, vệ sinh môi trường, các dự án thủy điện vừa và nhỏ; Ngoài ra, công ty còn sản xuất, mua bán các loại vật liệu xây dựng; đầu tư, kinh doanh nhà ở, khu đô thị mới, hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp; gia công, chế tạo các sản phẩm cơ khí xây dựng, cốp pha định hình, dàn giáo, khung nhà công nghiệp, kinh doanh bất động sản. Về các hoạt động dịch vụ, công ty cho thuê thiết bị, cung cấp vật tư kỹ thuật, tư vấn đầu tư (Không bao gồm tư vấn pháp luật, tài chính), dịch vụ sửa chữa, lắp đặt các máy móc, thiết bị các sản phẩm cơ khí và kết cấu địa hình khác, … 2.1.2.2 Đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Là một doanh nghiệp hoạt động chính là xây lắp nên công ty cổ phần LICOGI 16.6 mang đặc trưng riêng về điều kiện tổ chức sản xuất của ngành xây lắp và cũng mang đặc trưng riêng phù hợp với công ty mình. Các công trình xây lắp đều có những yếu tố kỹ thuật, định mức thi công khác nhau nhưng nhìn chung quy trình công nghệ như sau: Đấu thầu và nhận công trình Lập dự toán công trình. Tiến hành hoạt động xây lắp Giao nhận các hạng mục công trình hoàn thành Duyệt quyết toán công trình hoàn thành Do hoạt động xây lắp mang tính đơn chiếc, mỗi sản phẩm là một công trình xây dựng, một vật kiến trúc, nên các công trình thường độc lập với nhau và chỉ mang một số đặc điểm chung về tổ chức sản xuất như: Thứ nhất, tổ chức mặt bằng thi công: Thực hiện giải phóng mặt bằng, xác định thuận lợi và khó khăn đối với từng địa điểm công trình cụ thể Thứ hai, tổ chức các yếu tố sản xuất: Về nhân lực: Sau khi ký hợp đồng giao nhận các đội trưởng thuộc từng đội thi công được giao nhiệm vụ và tiến hành cử nhân công xuống từng công trình mà mình được giao, lúc đó tùy trường hợp cụ thể mà sử dụng nhân công trong biên chế hay thuê ngoài. Về nguyên vật liệu: Khi có nhu cầu vật liệu phát sinh thì chủ công trình sẽ trình lên Giám đốc và phòng kế hoạch, sau đó sẽ được nhận tạm ứng để mua nguyên vật liệu hoặc được công ty mua rồi chuyển đến chân công trình. Về máy thi công: Chủ nhiệm công trình xác định chủng loại và số lượng máy thi công cần thiết, khi nhu cầu sử dụng phát sinh Chủ nhiệm công trình có thể thuê ngoài hoặc điều thêm máy thi công của công ty. Mỗi hạng mục công trình bao gồm nhiều thao tác kỹ thuật, vật liệu khác nhau vì vậy công tác thi công của công ty cổ phần LICOGI 16.6 cũng như công tác hạch toán phải chi tiết, bám sát tạo điều kiện cho việc tính giá được chính xác. 2.1.2.3 Đặc điểm tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Sơ đồ 8: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty cổ phần LICOGI 16.6: Giám đốc Công ty Phó Giám đốc Tài chính Phó giám đốc thi công Phòng Tổ chức Hành chính Phòng đầu tư Phòng kinh tế kỹ thuật Phòng kế toán Tài chính Ban điều hành, các đội sản xuất Chức năng của từng bộ phận: Ban giám đốc: Gồm một Giám đốc và hai Phó giám đốc. Giám đốc công ty là người lãnh đạo cao nhất có quyền quyết định, chỉ đạo mọi hoạt động của doanh nghiệp, chịu trách nhiêm mọi hoạt động và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Phó giám đốc thi công có trách nhiệm chỉ đạo và kiểm tra việc tổ chức sản xuất của các đội, các xưởng và triển khai các dự án đầu tư. thiết kế kỹ thuật, quy trình công nghệ của các mặt hàng theo đúng hợp đồng. Phó giám đốc tài chính chỉ đạo và hướng dẫn kiểm tra các đơn vị về mặt tài chính, luân chuyển và sử dụng tiền cũng như các hình thức tài sản liên quan._. quát về tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Công ty cổ phần LICOGI 16.6 được thành lập trong một thời gian ngắn (từ năm 2006 đến nay), những ngày đầu mới thành lập công ty đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhưng với chủ trương, đường lối đúng đắn của ban lãnh đạo công ty, cùng với sự đóng góp của toàn thể cán bộ công nhân viên trong Công ty, công ty đã vượt được khó khăn ban đầu, từng bước phát triển và ngày càng đứng vững trên thị trường, đạt lợi nhuận cao, đời sống nhân viên ngày càng tăng lên, chất lượng lao động ngày càng cao. Với bộ máy quản lý gọn nhẹ, các bộ phân chức năng được tổ chức và hoạt động chặt chẽ, phân công nhiệm vụ rõ ràng. Đặc biệt công ty đã chú trọng đến việc hạch toán chi phí và tính giá thành sản phẩm đúng đắn, chặt chẽ. Từ đó, cung cấp kịp thời thông tin cần thiết cho các nhà quản lý ra quyết định kinh doanh và định hướng cho sự phát triển mới của công ty. Sau hơn hai tháng thực tập, dưới giác độ là một sinh viên lần đầu tiên làm quen với thực tế em xin đưa ra một số đánh giá về công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 . Ưu điểm Về bộ máy quản lý: Công ty có bộ máy quản lý hiệu quả và linh hoạt, đội ngũ lãnh đạo nhiệt tình, sáng tạo, bản lĩnh vững vàng. Đặc biệt với sự phân công quản lý cụ thể, mỗi người phụ trách một công việc nên tiến độ thi công luôn được các lãnh đạo nắm bắt kịp thời, đưa ra những chỉ đạo hợp lý, khắc phục ngày những vướng mắc trong thi công và trong sản xuất. Về tổ chức sản xuất: Hệ thống các phòng ban chức năng của công ty cố vấn một cách có hiệu quả cho cấp quản lý cao nhất về các mặt sản xuất kinh doanh với việc áp dụng cơ chế khoán tới từng đội xây dựng. Công ty đã tạo được ý thức trách nhiệm trong từng đội sản xuất, nhờ đó chi phí của công ty được sử dụng một cách có hiệu quả hơn. Về tổ chức quản lý lao động, quản lý vật tư: Công ty áp dụng hình thức trả lương khoán sản phẩm và hình thức trả lương theo thời gian, xây dựng hình thức lương hợp lý nên đã khuyến khích được cán bộ công nhân viên, anh em công nhân làm việc hết sức mình, năng suất lao động luôn đạt hiệu quả cao nhất. Đối với vật tư trong kho luôn có một khoản dự trù vừa phải để tránh tình trạng cung ứng vật tư cho công trình không kịp thời làm giảm tiến độ thi công công trình. Trong trường hợp vật tư mua ngoài, công ty luôn tìm tòi và có quan hệ tốt với nhà cung ứng nhằm không chỉ được cung cấp kịp thời, đảm bảo chất lượng mà giá cả còn phải chăng. Về công tác kế toán :Bộ máy kế toán của công ty được tổ chức tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ, quy trình làm việc khoa học với đội ngũ nhân viên kế toán có trình độ, có chuyên môn tốt, ý thức trách nhiệm cao và nhiệt tình trong công việc, luôn phát huy hết khả năng của mình đồng thời không ngừng học hỏi, giúp đỡ lẫn nhau về chuyên môn nghiệp vụ. Trong bộ máy kế toán, mỗi nhân viên đều được quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn nhưng vẫn có sự liên kết chặt chẽ với nhau. Do có sự phân công lao động kế toán nên đã tạo điều kiện đi sâu vào từng phần hành đồng thời không có sự chồng chéo công việc giữa các nhân viên kế toán. Điều này giúp cho bộ máy kế toán hoạt động bắt nhịp phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý. Đặc biệt, công ty đã áp dụng một phần mềm kế toán chuyên nghiệp nên mặc dù nghiệp vụ nhiều nhưng vẫn được xử lý kịp thời và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu hiện đại hoá thông tin. Việc kiểm kê đánh giá khối lượng xây lắp dở cuối kì theo giá trị dự toán cũng được thực hiện hợp lý và chặt chẽ, góp phần không nhỏ trong việc xác định đúng chi phí thực tế của khối lượng xây lắp dở dang cuối kì. Công ty thực hiện việc lập, luân chuyển và lưu giữ chứng từ theo đúng chế độ và quy định hiện hành về luân chuyển chứng từ. Bên cạnh những chứng từ do chế độ kế toán quy định và hướng dẫn ở công ty còn sử dụng các chứng từ khác được lập nhằm phục vụ công tác hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh tại công ty một cách hợp lý, phù hợp với đặc điểm riêng của ngành xây dựng. Hệ thống sổ kế toán được mở đúng chế độ quy định bao gồm các sổ kế toán tổng hợp, chi tiết đáp ứng yêu cầu tổng hợp số liệu cung cấp thông tin cần thiết cho đối tượng sử dụng. Với hình thức khoán gọn xuống từng đội xây dựng có kết hợp với sự kiểm tra giám sát tập trung trọng điểm đã gắn liền trách nhiệm vật chất của đội thi công tạo điều kiện cho việc tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm. Đối tượng kế toán tập hợp chi phí sản xuất và đối tượng tính giá thành được xác định hợp lý, đúng đắn, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác tập hợp chi phí và tính giá thành. Khi tiến hành thi công công trình, nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp thi công công trình được tiến hành mua ngoài là chuyển thẳng đến chân công trình không qua nhập kho đã tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bốc dỡ và bảo quản nguyên vật liệu vì đặc điểm của ngành xây dựng là các công trình ở rất xa nhau. Do đó công ty không tiến hành dự trữ nguyên vật liệu. Biện pháp này đã giúp công ty tiết kiệm được khoản chi phí vận chuyển và cất giữ lớn, do vậy đã tiết kiệm được chi phí góp phần hạ giá thành sản phẩm. Những ưu điểm về quản lý và tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm nêu trên đã có tác dụng tích cực đến việc tiết kiệm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm xây lắp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 không tránh khỏi những hạn chế và còn một số tồn tại nhất định cần phải hoàn thiện. 3.1.2 Hạn chế Bên cạnh những ưu điểm nổi bật về quản lý tổ chức sản xuất kinh doanh, tổ chức công tác kế toán, quá trình hạch toán của phòng kế toán còn một số hạn chế nhất định trong việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp. Qua thời gian ngắn tìm hiểu và tiếp cận với công tác quản lý, công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành nói riêng và với sự hiểu biết còn hạn chế nhưng để công tác kế toán chi phí và tính giá thành được hoàn thiện hơn tôi xin nêu ra một số ý kiến nhận xét sau: Về việc tập hợp chứng từ kế toán: Công tác luân chuyển chứng từ còn chậm, trong khi địa bàn hoạt động của công ty rộng, số lượng các công trình lớn, nằm rải rác, phân tán. Việc tập hợp chứng từ gốc chậm dẫn đến việc phản ảnh chi phí phát sinh không kịp thời, công việc hạch toán không đảm bảo yêu cầu, trong đó bao gồm cả việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm công trình của công ty. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Vật liệu sử dụng cho thi công công trình là do chủ công trình mua và chuyển thẳng đến chân công trình. Cuối kỳ đội trưởng các đội xây dựng mới gửi hóa đơn, chứng từ thanh toán về phòng kế toán, kế toán chỉ căn cứ vào hóa đơn mua vật liệu, chứng từ vận chuyển hoặc hóa đơn chứng từ vận chuyển … để tiến hành nhập liệu ghi nhận chi phí nguyên vật liệu phát sinh trong kỳ. Mặc dù, việc mua nguyên vật liệu đã được tính toán theo dự toán và kế hoạch thi công nhưng thực tế có thể số vật liệu cuối kỳ còn lại tại các công trình do chưa sử dụng hết cũng chiếm một lượng không phải là nhỏ, do đó chi phí nguyên vật liệu trực tiếp thực tế phát sinh trong kỳ có thể chưa được phản ánh chính xác. Thực tế chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kỳ sẽ bao gồm giá trị nguyên vật liệu thực tế mua trừ đi phần giá trị còn lại chưa sử dụng cuối kỳ cộng thêm phần giá trị nguyên vật liệu còn lại tại công trình từ cuối kỳ trước. Bên cạnh đó, có thể xảy ra thâm hụt về nguyên vật liệu, chất lượng nguyên vật liệu không đảm bảo, … sẽ ảnh hưởng đến công tác tập hợp chi phí tính giá thành sản phẩm. Chi phí nhân công trực tiếp: Cách tính lương cho nhân công trực tiếp sản xuất tại các công trình không hợp lý, cách tính này không khuyến khích những lao động có tay nghề cao và làm việc có hiệu quả nhất. Chi phí sản xuất chung và chi phí sử dụng máy thi công: Chi phí sản xuất chung và chi phí sử dụng máy thi công liên quan đến nhiều đối tượng, không tập hợp trực tiếp cho từng công trình, kế toán tiến hành phân bổ cho các công trình theo tiêu thức nhân công trực tiếp. Nhưng việc phân bổ theo tiêu thức này chỉ phù hợp với những công việc mang tính gia công, chi phí nhân công chiểm tỷ trọng tương đối lớn. Đối với công ty xây lắp thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất nên kế toán chọn làm tiêu thức phân bổ sẽ phù hợp hơn. Về việc tổ chức công tác kế toán trong điều kiện ứng dụng máy vi tính: Phần mềm kế toán công ty sử dụng tương đối hoàn thiện nhưng chủ yếu là xử lý tổng hợp, phần lớn số liệu đã được kế toán đội tập hợp trong các bảng tổng hợp, việc theo dõi chi tiết theo các yếu tố chi phí không được thực hiện trên máy. Ngoài ra, trong phần mềm không có phần trích khấu hao tài sản cố định nên kế toán công ty phải tiến hành theo dõi và trích khấu hao tài sản trên Excel. Chương trình cũng chưa có phần cập nhật và quản lý tiền lương trên máy, mà hầu hết phần tính và tập hợp chi phí nhân công và công việc phân bổ chi phí vẫn còn tính thủ công. Về công tác kế toán quản trị: Kế toán quản trị là bộ phận không thể tách rời của hệ thống kế toán và đước thực hiện ở tất cả các khâu từ lập dự toán đến thực hiện, kiểm tra giúp các nhà quản trị đưa ra quyết định đúng đắn, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả của chi phí. Tuy nhiên, kế toán quản trị trong Công ty cổ phần LICOGI 16.6 còn mới mẻ, nhận thức và tổ chức trong các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Công tác quản lý hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chủ yếu do kế toán tài chính đảm nhận, chưa phản ánh rõ ràng mối quan hệ chi phí – khối lượng – lợi nhuận, cũng như chưa phân tích cụ thể, chi tiết chi phí theo biến phí, định phí cũng như khoản mục và yếu tố chi phí. Do đó, sự đóng góp của công tác kế toán vào các mục tiêu qủn lý chung của công ty chưa hoàn toàn tương xứng với nhiệm vụ và trình độ của bộ máy kế toán. 3.2 Phương hướng hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Qua một thời gian ngắn nghiên cứu, tìm hiểu thực tế tại công ty cùng với đối chiếu lý luận đã được học trong trường, và với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp của công ty, em xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến như sau: 3.2.1 Đối với tình hình luân chuyển chứng từ Công ty cần phải xem xét lại quy chế đối với các công trình thi công ở xa và có thể áp dụng biện pháp phạt (ngừng cung cấp vốn, phạt tiền...) đối với đội xây dựng nào gửi hóa đơn chứng từ về muộn mà không có lý do chính đáng, làm ảnh hưởng tới quá trình hạch toán ở phòng kế toán. Khối lượng công việc của kế toán đội là tương đối lớn, điều kiện làm việc lại không được thuận lợi, đòi hỏi tinh thần trách nhiệm cao. Do vậy, công ty cần có chính sách khuyến khích hơn nữa với những nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ như: tăng thưởng, phụ cấp lao động… Kế toán công ty tổ chức hướng dẫn chi tiết nhân viên kế toán các đội lập bảng tổng hợp chi phí sản xuất phát sinh dựa trên các bảng tổng hợp chi phí bộ phận tại các công trình, hạng mục công trình trong tháng gửi kèm cùng các chứng từ gốc (hóa đơn, chứng từ vận chuyển…). Cuối tháng hoặc đến cuối kỳ gửi chứng từ gốc về phòng kế toán công ty, kế toán đội sẽ gửi kèm bảng tổng hợp chi phí sản xuất. Kế toán công ty chỉ cần kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của các chứng từ, kiểm tra đối chiếu số liệu giữa các chứng từ gốc với bảng tổng hợp chi phí sản xuất kèm theo xem xét việc phản ánh chi phí sản xuất phát sinh theo các khoản mục có đúng không, thực hiện những sửa đổi nếu có sai sót. Sau đó kế toán sẽ căn cứ vào dòng “tổng cộng” làm căn cứ tính toán chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ để tiến hàng nhập liệu vào máy, và mã hoá theo từng yếu tố chi phí. 3.2.2 Đối với chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Kế toán công ty cần yêu cầu các nhân viên thống kê đội lập bảng kê vật liệu thừa chưa sử dụng hết ở công trình để có căn cứ phản ánh chính xác hơn chi phí NVLTT thực tế phát sinh. Để lập bảng kê này, nhân viên thống kê đội cùng cán bộ kỹ thuật tiến hành kiểm kê xác định khối lượng vật liệu còn lại tại công trường để tiến hành tính toán ghi vào bảng kê. Bảng kê được lập theo từng công trình hoặc hạng mục công trình tại thời điểm hoàn thành. Công việc này cũng có thể thực hiện vào cuối tháng (nếu điều kiện cho phép). Bảng kê NVL còn lại cuối kỳ có thể lập theo mẫu : Biểu số 3.1 Đơn vị: Công ty cổ phần LICOGI 16.6 BẢNG KÊ NGUYÊN VẬT LIỆU CÒN LẠI CUỐI KỲ Ngày 31 tháng 12 năm 2009 STT Tên vật liệu Đơn vị tính Khối lượng Đơn giá Thành tiền Ghi chú 1 Xi măng Bút Sơn kg 5 1.181.810 5.904.050 2 Ống thép đen 219,1*5.56*6 cây 1 2.427.300 2.427.300 Tổng cộng 8.331.350 Dòng tổng cộng ở cột thành tiền cho biết tổng giá trị NVL còn lại cuối kỳ, là căn cứ để tính toán xác định chi phí NVLTT thực tế phát sinh để tiến hành nhập liệu. Nếu ở các đội thực hiện lập bảng kê NVL còn lại cuối kỳ chưa sử dụng thì cuối tháng kế toán tính toán xác định CPNVLTT phát sinh phát sinh để tiến hành nhập liệu. Như vậy, CPNVLTT trong hạng mục công trình Trạm cấp nước, thuỷ điện Bản Chát chính xác sẽ là: 2.192.529.765 - 8.331.350 = 2.184.198.415 đ Để thực hiện việc lập bảng kê vật liệu còn lại cuối kỳ và bảng tổng hợp chi phí sản xuất đòi hỏi nhân viên kế toán đội phải có trình độ nhất định về kế toán. Do đó ban tài chính kế toán cần tổ chức hướng dẫn đào tạo cơ bản về lập các chứng từ nói trên cho các nhân viên thống kê đội. Nếu điều kiện công ty không cho phép không thể tổ chức việc kiểm kê NVL còn lại cuối kỳ ở các công trình thì cũng cần phải tổ chức kiểm kê lượng vật liệu còn lại chưa sử dụng tại công trường xây dựng khi công trình đã hoàn thành. Bởi nguyên vật liệu dù được mua dựa trên tính toán theo dự toán và kế hoạch thi công song việc thừa vật liệu trong thi công là điều khó tránh khỏi cho dù là không nhiều. Khi đó tùy theo phương thức xử lý lượng vật liệu thừa này mà thực hiện hạch toán cho phù hợp : Nếu chuyển số vật liệu này sang thi công công trình khác: kế toán thực hiện nhập liệu theo định khoản: Nợ TK 621 (chi tiết công trình nhận vật liệu) 8.331.350 Có TK 621 (chi tiết công trình thừa vật liệu) 8.331.350 Nếu thực hiện bán số vật liệu thừa không sử dụng hết kế toán có thể tính toán xác định giá vốn vật liệu thừa đem bán và ghi nhận doanh thu. Song do lượng vật liệu thừa thường ít kế toán có thể ghi giảm chi phí tương ứng với số tiền thu được theo định khoản : Nợ TK 111,112,131,… Có TK 3333 (nếu có) Có TK 621 (chi tiết cho công trình thừa vật liệu) Trong trường hợp xuất kho nguyên vật liệu từ kho của công ty, công ty nên lập phiếu xuất kho theo định mức nhằm kiểm tra nguyên vật liệu tho định mức theo công trình mà ban kinh tế - kỹ thuật đã vạch ra để hạn chế hao hụt, phát hiện sai sót cũng như việc theo dõi trên chứng từ được rõ ràng. Biểu số 3.2 PHIẾU XUẤT KHO THEO HẠN MỨC Số: Nợ TK: Ngày: Có TK: Bộ phận sử dụng: Lý do xuất: Xuất tại kho: STT Tên vật tư Mã số Đơn vị tính Hạn mức được duyệt đầu kỳ Số lượng xuất Đơn giá Thành tiền Ngày Ngày … Cộng Cộng 3.2.3 Đối với chi phí nhân công trực tiếp Hiện nay công ty đang tính lương cho công nhân sản xuất trực tiếp, áp dụng hình thức lương khoán theo sản phẩm: Đơn giá tiền công = Tổng số tiền thanh toán Tổng số công thực hiện Tính lương theo phương pháp này không tính đến tay nghề hay cấp bậc người lao động, nên không khuyến khích người lao động nâng cao năng suất. Vì vậy, công ty nên phân cấp tay nghề lao động thành các mức như: A=1.3; B=1.1; C=0.9 ; Hệ số này cùng với số công, tính được lương người lao động theo công thức: Li = ĐG x Ci x Ki x Pi ĐG: Đơn giá tiền công L : Tổng số tiền lương được thanh toán Li: Tiền lương công nhân thứ i Ci: Số công làm việc của công nhân thứ i Ki: Hệ số xếp loại của công nhân thứ i Pi: Hệ số cấp bậc của công nhân thứ i Ví dụ : Anh Nguyễn Văn Toàn có Số công làm việc trong 1 tháng là 26 công ; hệ số xếp loại : 1.1 ; hệ số cấp bậc : 2. Lại có đơn giá tiền công tính theo công thức trên là 65.000 đ, ta tính được Tiền lương tháng của anh Toàn là : 65.000 x 26 x 1.1 x 2 = 3.718.000 đ. Theo cách này khuyến khích người làm việc hiệu quả hơn, năng suất lao động cao hơn. Công ty phải theo dõi và xác định khối lượng hoàn thành do đội thực hiện từng kỳ, nên lập bảng thanh toán nhân công công trình giao khoán theo mẫu sau đây : Biểu số 3.3: Đơn vị: Công ty cổ phần LICOGI 16.6 BẢNG THANH TOÁN NHÂN CÔNG CÔNG TRÌNH ……. Hạng mục : Tổng giá trị giao khoán : Tên công trình Khối lượng thực hiện hợp đồng giao khoán Luỹ kế thanh toán kỳ trước Thanh toán kỳ này Luỹ kế thanh toán đến kỳ này Tổng cộng 3.2.4 Đối với chi phí sử dụng máy thi công Công ty nên thay đổi tiêu thức phân bổ, lấy số giờ, ca máy hoạt động làm tiêu thức phân bổ. Trên thực tế mỗi máy thi công có thể tham gia nhiều công trình trong một thời gian hay hai hoặc ba công trình giao khoán nội bộ khác nhau. Vì vậy công ty nên bố trí nhân viên làm nhiệm vụ theo dõi số ca sử dụng máy thi công, phiếu theo dõi hoạt đông máy thi công nên bổ sung thêm cột “Số ca máy hoạt động” để đảm bảo việc theo dõi chặt chẽ hơn. Ví dụ: Biểu số 3.4: Đơn vị: Công ty cổ phần LICOGI 16.6 PHIẾU THEO DÕI HOẠT ĐỘNG MÁY THI CÔNG Tên máy: Máy ủi RRC Tháng 3 năm 2009 Ngày tháng Người điều khiển Công trình Số ca (giờ) hoạt động Xác nhận 10/3/2009 Lê Trung Hoàn Đập dâng không tràn 11 giờ 15/03/2009 Lê Trung Hoàn VP công ty 13 giờ 23/3/2009 Lê Trung Hoàn VTV truyền hình 10 giờ Tổng cộng 34 giờ Cuối tháng, kế toán tổng hợp lại số ca, giờ máy hoạt động, số ca, giờ hoạt động của từng công trình, sau đó tiến hành phân bổ chi phí sử dụng máy thi công cho các công trình theo tiêu thức số ca (giờ) máy hoạt động. Công thức tính như sau: CPSD MTC(A) phân bổ cho công trình N = Tổng CPSD MTC(A) x Số ca (giờ) MTC(A) phục vụ công trình N Tổng số ca (giờ)MTC(A) hoạt động trong tháng Giả sử tổng chi phí sử dụng máy ủi RRC trong tháng 3 năm 2009 là 15.000.000 đ. Ta có: CPSD máy ủi RRC phân bổ cho công trình VP công ty = 15.000.000 x 13 = 5.735.294 đ 34 Với cách phân bổ này thì công trình nào sử dụng máy thi công nhiều hơn sẽ được phân bổ nhiều CPSDMTC hơn. Như vậy, việc phân bổ chi phí hợp lý sẽ phản ánh đúng chi phí phát sinh. 3.2.5 Đối với chi phí sản xuất chung Chi phí sản xuất chung liên quan đến nhiều đối tượng kế toán không tập hợp được thì tiến hành phân bổ cho các công trình theo tiêu thức phân bổ chi phí nhân công trực tiếp. Tiêu thức này không phù hợp với tât cả các công trình nhưng kế toán có thể linh động điều chỉnh theo công trình. Nếu công tình có tính chất gia công thì phân bổ theo tiêu thức nhân công trực tiếp, nếu công trình là xây lắp thì phân bổ theo tiêu thức CPNVLTT vì CPNVLTT chiếm chủ yếu trong quá trình thi công. Ví dụ: Trong tháng 3 năm 2009, công ty tập hợp được chi phí sản xuất chung liên quan đến việc thi công 3 công trình là 598.453.455 đ. CPNVLTT của 3 công trình đó lần lượt là: - Công trình nhà máy thuỷ điện Bản Vẽ: 30.000.000 đ - Công trình Nhà VP cty 16: 33.456.900 đ - Công trình trung tâm truyền hình VTV 156.900.450 đ Như vậy, CPSXC phân bổ cho công trình Nhà VP cty 16 là: 598.453.455 x 33.456.900 = 17.871.438 đ 930.000.000+33.456.900+156.900.450 3.2.6 Đối với công tác kế toán giá thành Để phục vụ cho việc theo dõi tình hình thực hiện giá thành một cách thường xuyên, công ty nên xác định lại kỳ tính giá thành thay vì thực hiện việc kết chuyển tính giá thành vào cuối năm tài chính, cụ thể: - Đối với những công trình lớn, thời gian thi công kéo dài, kết cấu phức tạp thì kỳ tính giá thành của doanh nghiệp là xác định theo từng quý và được tính toán vào cuối quý. - Đối với những công trình, hạng muc công trình có thời gian thi công không kéo dài thì kỳ tính giá thành của doanh nghiệp là thời gian mà sản phẩm xây lắp hoàn thành và được nghiệm thu, bàn giao thanh toán cho chủ đầu tư. 3.2.7 Phần mềm kế toán của công ty Tuy việc áp dụng phần mềm kế toán đã mang lại nhiều hữu ích trong công tác kế toán nói chung và công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành của công ty nói riêng, xong để nâng cao hơn nữa tính hiệu quả của việc áp dụng phần mềm kế toán máy, Công ty nên không ngừng cải thiện và nâng cấp cải tạo phần mềm hiện nay, nhất là bổ sung thêm phần theo dõi và trích khấu hao TSCĐ, phần quản lý tiền lương. Công ty cần đào tạo đội ngũ kế toán viên sử dụng thành thạo máy vi tính cũng như am hiểu rõ về phần mềm kế toán mà Công ty đang sử dụng. Giải quyết tốt vấn đề đó sẽ giúp cho công tác tổ chức kế toán trên phần mềm kế toán máy ngày càng mang lại những hiệu quả đáng kể cho công ty: không những đáp ứng nhanh chóng yêu cầu quản lý, số liệu tính toán chính xác, kịp thời mà còn tiết kiệm một khoản chi phí lớn cho việc tổ chức nhân sự làm công tác kế toán nói chung và công tác tính giá thành nói riêng. 3.2.8 Về công tác kế toán quản trị Kế toán quản trị là khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động của doanh nghiệp phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ doanh nghiệp. Những thông tin mà kế toán quản trị cung cấp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó không chỉ là thông tin quá khứ, thông tin hiện tại mà còn bao gồm các thông tin về tương lai. Vì vậy, kế toán quản trị là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của hệ thống kế toán và được thể hiện ở tất cả các khâu, từ lập kế hoạch dự toán đến thực hiện, kiểm tra giúp các nhà quản trị ra quyết định quản lý đúng đắn, tiết kiệm và nâng cao hiệu quả của chi phí. ở các nước Anh, Pháp, Mỹ…kế toán quản trị đã được hình thành và phát triển trong vài chục năm nay và nó rất được các doanh nghiệp chú trọng. Tuy nhiên, ở các doanh nghiệp Việt Nam trong đó có Công ty cổ phần LICOGI 16.6 , kế toán quản trị còn mới mẻ, nhận thức và tổ chức trong các doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Công tác quản lý hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm chủ yếu do kế toán tài chính đảm nhận, chưa phản ánh được rõ ràng mối quan hệ chi phí- khối lượng- lợi nhuận, cũng như chưa phân tích cụ thể, chi tiết chi phí theo biến phí, định phí cũng như khoản mục và yếu tố chi phí. Do đó, sự đóng góp của công tác kế toán vào các mục tiêu quản lý chung của Công ty chưa hoàn toàn tương xứng với nhiệm vụ và trình độ của bộ máy kế toán. Xuất phát từ vai trò và tầm quan trọng của kế toán quản trị, Công ty cần xây dựng hệ thống kế toán quản trị theo hướng: Thứ nhất, kế toán quản trị cần quan tâm tới phân loại chi phí thành biến phí và định phí nhằm cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập kế hoạch, kiểm tra và chủ động điều tiết chi phí cho phù hợp. Bằng cách phân loại này, nhà quản trị sẽ thấy được sự biến động của chi phí có phù hợp hay không với sự biến động của mức độ hoạt động và từ đó có các biện pháp hữu hiệu nhằm quản lý tốt các chi phí. Kế toán có thể thực hiện phân loại theo một trong hai phương pháp: phương pháp bình phương bé nhất, phương pháp cực đại - cực tiểu. Xét trong khoảng thời gian ngắn hạn khi doanh nghiệp không có nhu cầu mở rộng quy mô hoạt động thì định phí là một đại lượng tương đối ổn định, do đó muốn tối đa hoá lợi nhuận cần phải tối đa hoá lãi trên biến phí (số dư đảm phí). Đây là cơ sở rất quan trọng cho việc xem xét ra các quyết định có liên quan tới chi phí- khối lượng- lợi nhuận và giá cả. Trên cơ sở phân tích mối quan hệ đó, kế toán quản trị có thể tư vấn cho nhà quản trị trong việc định giá giao khoán, đồng thời phương pháp tính giá dự thầu dựa trên cơ sở lãi trên biến phí sẽ cung cấp cho doanh nghiệp một phạm vi giá linh hoạt để có thể quyết định thắng thầu. Thứ hai, xây dựng kế toán quản trị để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát chi phí trong quá trình sản xuất, giúp các nhà quản trị có quyết định đúng đắn,tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả của chi phí. Thu thập thông tin cần thiết phục vụ cho dự đoán, dự báo; lập dự toán chi phí giá thành đồng thời so sánh dự toán với thực tế để xem xét sự biến động của các khoản mục thực tế có hợp lý không, từ đó đưa ra giải pháp phù hợp. Trên đây chỉ là một số biện pháp có thể góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho kế toán công ty trong quá trình tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản xuất sản phẩm xây lắp, tính đúng, tính đủ những chi phí phát sinh và tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm mục đích hạ giá thành sản phẩm. Tôi hy vọng những ý kiến trên là thiết thực đối với công tác kế toán của Công ty cổ phần LICOGI 16.6. Điều kiện thực hiện: Về phía nhà nước: Trong những năm gần đây, nhà nước luôn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế phát triển. Để tạo điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp, đông thời phải phù hợp hơn nữa với đòi hỏi trong việc quản lý kinh tế của nhà nước, nhà nước nên có một số giải pháp sau đây: Thứ nhất, nhà nước cần sớm chấn chỉnh, hoàn thiện chuẩn mực kế toán cho phù hợp với xu thế của thế giới. Đồng thời với có chuẩn mực kế toán mới thì nên nhanh chóng ban hành các thông tư hướng dẫn để các doanh nghiệp sớm cập nhật và sửa đổi kịp thời cho đúng với chế độ kế toán. Thứ hai, tạo môi trường pháp lý ổn định cho các doanh nghiệp, điều này sẽ làm tăng cướng quan hệ quốc tế, đảm bảo quyền bình đẳng trong kinh doanh trong các thành phần kinh tế, tạo sự cạnh tranh lành mạnh, xoá bỏ tiêu cực trong kinh doanh như buôn lậu, trốn thuế, tham nhũng, … trong nền kinh tế xã hội. Thứ ba, Nhà nước cần chấn chỉnh, đơn giản hoá thủ tục hành chính sao cho rõ ràng, đúng đắn. Điều này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời cơ hội kinh doanh; giảm bớt các thủ tục giấy tờ, nhất là thời gian chờ đợi giao dịch, … Với các doanh nghiệp xây lắp, thì Nhà nước nên chủ trương giảm bớt các thủ tục đấu thầu không cần thiết nhưng vẫn phải đảm bảo tính chặt chẽ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khởi công sớm, nhất là khâu giải phóng mặt bằng thi công. Vai trò của Nhà nước là vô cùng quan trọng, điều tiết các chính sách vĩ mô, tạo môi trường kinh tế trong đó có các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không phụ thuộc rất nhiều vào tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của các chính sách kinh tế của Nhà nước. 3.3.2 Về phía Công ty cổ phần LICOGI 16.6 Công ty cổ phần LICOGI 16.6 là một doanh nghiệp mới thành lập, còn nhiều hạn chế từ các khâu quản lý đến các vấn đề tài chính, … Để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất, tính giá thành sản phẩm nói riêng, công ty nên kết hợp hiệu quả các biện pháp nói trên. Công ty nên đặc biệt chú trọng đến vấn đề năng lực của nhân viên và tính đúng đắn của việc tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, bởi đây là then chốt của việc đưa ra mọi quyết định kinh doanh. Bên cạnh đó, công ty cũng phải tự đánh giá được khả năng của mình trên thị trường như thế nào, mạnh yếu ra sao, từ đó xây dựng nên chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp. Công ty cần quy định trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân, tập thể về vật chất và hành chính trong công tác kế toán tập hợp chi phí và tính giá thành sản phẩm. Đồng thời, phải quy định chặt chẽ quyền lợi, nghĩa vụ, mức độ chịu trách nhiệm của ban lãnh đạo, ban kiểm soát nội bộ để phát hiện sai sót và điều chính trong quá trình thực hiện công tác kế toán. KẾT LUẬN Trong nền kinh tế hiện nay, kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm càng trở nên quan trọng đối với công tác kế toán của các doanh nghiệp công nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Những thông tin mà kế toán cung cấp đặc biệt là thông tin về chi phí và giá thành sản phẩm giúp doanh nghiệp có cơ sở xác định kết quả kinh doanh cũng như đánh giá được khả năng và thực trạng sản xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp, từ đó đề ra những biện pháp quản lý kinh doanh thích hợp. Ngoài ra, những thông tin này còn là cơ sở để doanh nghiệp phân tích, đánh giá phục vụ công tác quản trị nội bộ doanh nghiệp nhằm mục tiêu tiết kiệm và nâng cao hiệu quả của chi phí, hạ giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do đó, cải tiến và hoàn thiện công tác hạch toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm là một trong những yêu cầu không thể thiếu đối với sự phát triển và lớn mạnh của doanh nghiệp nhằm phát huy vai trò kế toán là giám đốc bằng tiền đối với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách toàn diện và có hệ thống, phát hiện và khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong quá trình hoạt động. Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian thực tập, em đã cố gắng tìm hiểu thực tế công tác tổ chức kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty cổ phần LICOGI 16.6. Với sự nỗ lực của bản thân và sự giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo trong khoa Kế toán và đặc biệt là Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Thiều, cùng các anh chị phòng Tài chính - Kế toán Công ty cổ phần LICOGI 16.6 đã giúp em nghiên cứu và hoàn thành luận văn: “Tổ chức công tác kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm tại Công ty cổ phần LICOGI 16.6”. Việc hoàn thiện công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp trong các doanh nghiệp xây dựng là vấn đề phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm, giúp đỡ của nhiều bộ ngành. Do trình độ có hạn, thời gian tìm hiểu thực tế chưa nhiều, bài luận văn chỉ đề cập đến những vấn đề có tính chất cơ bản nhất cũng như chỉ mới đưa ra những ý kiến bước đầu, chắc hẳn không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự quan tâm, góp ý và chỉ bảo của các thầy cô giáo trong khoa Kế toán - Học viện Tài chính, cùng các cô, các anh chị trong phòng Tài chính - Kế toán của Công ty bài luận văn được hoàn thiện hơn. Với lòng biết ơn sâu sắc, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các anh chị phòng Tài chính - Kế toán của Công ty cổ phần LICOGI 16.6 và đặc biệt Ths. Nguyễn Mạnh Thiều cùng các thầy cô giáo trong khoa Kế toán- Học viện Tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này. Hà Nội, ngày 05 tháng 05 năm 2010 Sinh viên thực hiện Đặng Lan Anh MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26855.doc
Tài liệu liên quan