Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam

bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học kinh tế quốc dân khoa NGâN HàNG - TàI CHíNH đề án môn học Lý THUYếT TàI CHíNH TIềN Tệ Đề tài: VAI TRò CủA thị trường CHứNG KHOáN TRONG NềN KINH Tế Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : ts. Lưu thị hương Sinh viên thực hiện : Lê tuấn anh Lớp : ngân hàng 41D Hà Nội - 2001 Lời nói đầu Từ năm 1986, Đảng và nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ trương đổi mới nền kinh tế, nhằm chuyển nền kinh tế nước ta từ chế độ kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sang nền kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trưòng có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nền kinh tế thị trường chỉ mới được xác lập trong một thời gian chưa dài nhưng nước ta đã đạt được một số thành tựu to lớn, nền kinh tế đã đi vào ổn định, tốc độ phát triển vững chắc, đời sống nhân dân được nâng lên, vị trí của nước ta không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế, được bạn bè khâm phục. Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước mà đảng và nhà nước ta đã đề xướng, với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản đưa nước ta thành một nước công nghiệp, đã bước đầu thu được những thành công đáng khích lệ, đã tạo ra được những điều kiện tiền đề ban đầu cho sự phát triển vững chắc sau này. Song cũng đã bắt đầu gặp không ít khó khăn, ảnh hưỡng đến tiến trình phát triển kinh tế, đặc biệt là vấn đề huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Nền kinh tế tuy chưa hoàn thiện nhưng cơ bản đã xác lập được những yếu tố của nền kinh tế thị trường, một loạt các thị trường đã được tổ chức thành lập. Thị trường chứng khoán là một định chế tài chính đặc biệt, không thể thiếu trong một nền kinh tế thị trường, việc thành lập thị trường chứng khoán ở nước ta sẽ góp phần hoàn thiện cơ cấu của nền kinh tế. Với mong muốn tìm hiểu về thị trường chứng khoán, nhân tố mới mẻ ở nước ta, em đã chọn đề tài “Vai trò của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế Việt Nam". Do trình độ còn hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót, mong được sự giúp đỡ của cô để hoàn thiện thêm. Em xin chân thành cảm ơn! Phần i: Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán I- Khái niệm về thị trường chứng khoán. 1. Tính khách quan của sự ra đời và tồn tại của thị trường chứng khoán. Giữa thế kỷ 15 ở Châu Âu tại một số thành phố, trung tâm buôn bán đã có sự xuất hiện những hình thái sơ khai của TTCK. Tại những địa điểm có vị trí địa lý thuận lợi các lái buôn và các thương gia thường họp nhau lại để thương lượng, trao đổi hàng hoá. Các cuộc nói chuyện này chỉ diễn ra bằng miệng mà không có giấy tờ, ngoại tệ hay hàng hoá, hàng mẩu nào trong tay cả. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau các hợp đồng mua bán trao đổi thực hiện ngay và những hợp đồng cho tương lai 3 tháng, 6 tháng hoặc một năm sau mới thực hiện. Những cuộc đàm đạo này lúc đầu chỉ có một nhóm nhỏ, dần dần số người gia tăng, rồi hình thành một khu chợ riêng. Cuối thế kỷ 15, khu chợ riêng trở thành một thị trường. ở đó họ thống nhất với nhau những quy ước cho các cuộc thương lượng. Dần dần các quy ước đó được sửa đổi hoàn chỉnh thành những quy tắc có giá trị bắt buộc chung. Giao lưu kinh tế ngày càng phát triển, các phiên chợ cách nhau cả tháng không còn phù hợp, họ đã rút xuống hàng tuần, sau đó là hàng ngày. Phiên chợ riêng được diễn ra lần đầu tiên vào năm 1453 tại một lữ điếm của gia đình Vanber ở Bruges (Bỉ). Lần đầu tiên tên gọi Mậu dịch trường hay còn gọi là sở giao dịch được đặt cho tên cho phiên chợ. Vào năm 1547, thành phố Bruges mất đi sự phồn vinh do eo biển Even bị cát lấp, tàu bè vào ra khó khăn, mậu dịch trường ở đây bị sụp đổ và được chuyển qua thị trấn Auvers, một hải cảng lớn của Bỉ thời đó. Giữa thế kỷ 16, viên quan đại thần tài chínhVương quốc Anh Theomes gresham đến đây thị sát, và sau đó đã thiết lập một mậu dịch trường ở London. Các mậu dịch trường khác cũng lần lượt được thành lập ở Pháp, Đức và ở một số nước Bắc Âu. Số thành viên tham gia vào các mậu dịch trường ngày càng đông, đến lúc một mậu dịch trường chung không còn phù hợp và không đủ sức cho các giao dịch với các nội dung hoàn toàn khác nhau. Giao dịch hàng hoá được tách ra thành các khu thương mại, giao dịch ngoại tệ được tách ra thành thị trường hối đoái, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành TTCK và các giao dịch hợp đồng cho tương lai được tách ra thành các thị trường tương lai hay còn gọi là thị trường kỳ vọng. Vậy là thị trường chứng khoán được xuất hiện vào thế kỷ 15. Sự hình thành thị trường chứng khoán cũng đông thời với thị trường hối đoái và các thị trường khác. Quá trình các giao dịch chứng khoán được diễn ra và hình thành thị trường chứng khoán một cách tự phát cũng tương tự tại Pháp, Hà Lan, các nước Tây Â, Bắc Âu và Bắc Mỹ. Từ thế kỷ XX, thị trường chứng khoán new yok chiếm vai trò quan trọng nhất trên thị trường tài chính thế giới. Năm 1990, doanh số hoạt động của các chứng khoán ở đây lên đến 397, 7 tỷ USD. Quy mô lớn thư hai là thị trường chứng khoán Tokyo: 300 tỷ USD, tiếp theo là các thị trường chứng khoán Luân Đôn, Frăng Phuốc, Pari … Lịch sử phát triển các thị trường chứng khoán thế giới trải qua một sự phát triển lúc lên lúc xuống theo kiểu răng cưa. Thời kỳ huy hoàng nhất là vào những năm 1875-1913, thị trường chứng khoán phát triển mạnh cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nhưng rồi đến “ngày thứ năm đen tối” 29/10/1929 đã làm cho thị trường chứng khoán New york và các thị trường chứng khoán Tây, Bắc Ău và Nhật Bản khủng hoảng, mất lòng tin. Sau thế chiến thứ 2 các thị trường chứng khoán phục hồi và phát triển mạnh. Nhưng, cuộc khủng hoảng tài chính năm 1987 một lần nữa đã làm cho các thị trường chứng khoán trên thế giới điên đảo. Hậu quả của nó còn nặng nề hơn cuộc khủng hoãng 1929, nhưng chỉ 2 năm sau cuộc khủng hoảng, thị trường chứng khoán thế giới lại đi vào giai đoạn ổn định và phát triển và đã trở thành một định chế tài chính đặc biệt không thể thiếu đối với bất cứ quốc gia nào có nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường. Thị trường chứng khoán và các thị trường tài chính nói chung đã trải qua một cuộc cách mạng thực sự trong những năm gần đây do có các biến động kinh tế lớn trong bối cảnh kinh tế, pháp lý, hoặc kỷ thuật. Các cuộc cải cách có nhiều hình thức khác nhau: + Cải cách chế độ thuế khoá nhằm thu hút người có tiền tích luỹ ra thị trường chứng khoán bằng cách giảm thuế thu nhập đánh vào các khoản đầu tư vào cổ phiếu. + Thành lập một thị trường không chính thức: Năm 1983 ở một số nước, thị trường không chính thức đã được thành lập để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tầm cở trung bình có thể tham gia trên thị trường chứng khoán, các điều kiện về hành chính và tài chính được têu cầu ít hơn trên thị trường chính thức. + Tạo ra các hình thức chứng phiếu mới: một loạt các sản phẩm tài chính mới đã được xây dựng để nhằm đáp ứng tốt hơn hình thức tài trợ qua thị trường chứng khoán cho các nhu cầu của các nhà vay vốn. Phần lớn các sản phẩm mới về chứng phiếu này tồn tại dưới hình thức lai tạo, bằng cách tận dụng lợi thế của một hình thức pháp lý nào đó mà không có các điểm bất lợi hoặc để kết hợp các ưu điểm của nguồn vốn tự có với các ưu điểm của các chứng phiếu đại diện quyền cho vay. Hình thức thu hút vốn tài chính này không phải lúc nào cũng thu hút được người có tiền tích luỹ. Đó là điều giải thích cho tính chất ngắn hạn hay tính khả dụng kém của một số loại chứng phiếu không hâm mộ đối với các nhà đầu tư. + Hiện đại hoá thị trường vay nợ của nhà nước. Để tạo điều kiện cho nhà nước có thể vay vốn trên các thị trường và để giảm nhẹ bớt chi phí; Thị trường tín phiếu kho bạc đã được hiện đại hoá rất nhiều theo mô hình của kho bạc Mỹ: Tạo ra tư cách pháp nhân cho các SVT-chuyên gia về các tín phiếu kho bạc, kỹ thuật mới về đấu thầu và phát hành các tín phiếu; Đồng nhất các đợt phát hành trái phiếu qua việc phát hành các OAT-trái phiếu kho bạc đồng nhất. + Đổi mới kỹ thuật: Để tạo dựng một có cấu đủ hiện đại nhằm đáp ứng được sự phát triển của việc tài trợ phi trung gian hoá, các chức năng của ngành kinh doanh thị trường chứng khoán đã được tin học hoá mạnh mẽ. Hai cải cách lớn nhất về kỹ thuật: một mặt liên quan đến sự giao dịch(front-office) và mặt khác đến việc xử lý hành chính các nghiệp vụ giao dịch(back-office) tạo điều kiện cho việc lưu thông các cổ phiếu giữa các tổ chức thành viên, thông qua nghiệp vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác. Phương thức tổ chức, giao dịch của Thị trường chứng khoán đã được cải thiện không ngừng. Đặc biệt, khi ngành điện tử, tin học phát triển, tin học được ứng dụng vào Thị trường chứng khoán, thì Thị trường chứng khoán đã trở thành một ngành công nghệ có kỹ thuật riêng(công nghệ chứng khoán ). Tuy nhiên, các Thị trường chứng khoán trên thế giới không giống nhau, tuỳ theo đặc điểm kinh tế, xã hội và tâm lý dân chúng của mổi nước, họ có cách thức tổ chức và giao dịch riêng. Nhưng dù được tổ chức theo cách thức nào, thì đại cương các Thị trường chứng khoán đều dựa trên những nguyên tắc căn bản liên quan đến chứng khoán, tổ chức thị trường, giao dịch và sự kiểm soát của nhà nước. Trải qua các cuộc khủng hoảng, cuối cùng thị trường chứng khoán lại được phục hồi và tiếp tục phát triển, trở thành thể chế tài chính không thể thiếu được. Đến nay, hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển đều có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán đã trở thành một định chế tài chính không thể thiếu được trong đời sống kinh tế của những nước theo cơ chế thị trường. Hiện nay, thị trường chứng khoán đã phát triển mạnh mẽ ở hầu hết các nước công nghiệp Châu Âu, Châu Mỹ và các nước có nền kinh tế mới phát triển ở các châu lục trên thế giới, và ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn vốn để phát triển kinh tế. Một số quốc gia vừa mới thoát khỏi chính sách thuộc địa, và hoàn thành cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước cũng đã thành lập các sở giao dịch chứng khoán và bước đầu đã phát huy được vai trò trong việc huy động các nguồn vốn trong nước và nước ngoài, nhằm thực hiện công cuộc phát triển kinh tế của đất nước. Như vậy, thị trường chứng khoán là một phạm trù có tính lịch sử, ra đời và tồn tại một cách khách quan theo sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, là một hiện tượng kinh tế cần thiết khi phát triển kinh tế theo nền kinh tế thị trường. Các quốc gia phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường đều phải tuân theo các quy luật khắt khe của thị trường: Quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh và các quy luật của quan hệ cung cầu. Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất là hàng hoá và do đó đòi hỏi khách quan phải có các thị trường giành cho từng loại hàng hoá đặc biệt đó: Vì thế, trong cơ cấu thị trường của các nước kinh tế thị trường bên cạnh thị trường hàng hoá cho tiêu dùng, còn có thị trường tư liệu sản xuất, thị trường sức lao động, thị trường dịch vụ, thông tin, thị trường chứng khoán …Điều đó chứng tỏ thị trường chứng khoán là một yếu tố cấu thành đặc biệt quan trọng của nền kinh tế thị trường và nó cũng có đầy đủ những đặc trưng của một thị trường, nó tồn tại là khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế thị trường. Nhìn chung thị trường chứng khoán hình thành do một loạt các yếu tố khách quan: Sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá, sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hoá ngày càng cao theo ngành, nghề trong cơ cấu sản xuất của nền kinh tế làm cho hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, con người có nhu cầu trao đổi, mua bán hàng hoá, sự trao đổi mua bán hàng hoá khi đạt đến mức cao thì trở thành các dòng lưu chuyển tài chính, mà biểu hiện là hoạt động giao dịch giá khoán động sản giữa các cá nhân, giữa cá nhân với các tổ chức, giữa các tổ chức kinh tế. Thị trường chứng khoán hình thành một cách khách quan như thế và nó hình thành là do nhu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Thị trường chứng khoán ra đời một cách khách quan và sự phát triển của thị trường chứng khoán gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. 2. Khái niệm về thị trường chứng khoán. Để hiểu được khái niệm về thị trường chứng khoán ta hãy phân tích vị trí của thị trường chứng khoán trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất là hàng hoá và mổi loại hàng hoá đều có một thị trường để giao dịch, thị trường hàng tiêu dùng giao dịch mua bán các sản phẩm dành cho tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất giao dịch hàng hoá tư liệu sản xuất, ngoài ra còn có các thị trường khác như thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường tài chính. Thị trường tài chính là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại giấy tờ có giá trị hay những phiếu nợ ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, là chiếc cầu nối giữa cung cầu về vốn trong nền kinh tế. Trên thị trường tài chính các nguồn cung và cầu về vốn sẽ gặp nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các tổ chức tài chính trung gian như: Ngân hàng thương mại, công ty tài chính, quỹ tín dụng, công ty bảo hiểm…. Cũng như hàng tiêu dùng là đối tượng của thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất là đối tượng của thị trường tư liệu sản xuất…, đối tượng của thị trường tài chính là những nguồn cung cầu về vốn trong xã hội của các chủ thể kinh tế như cá nhân, doanh nghiệp, nhà nước … Cơ cấu của thị trường tài chính gồm thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Thị trường vốn còn gọi là thị trường chứng khoán. Thị trương tiền tệ hoạt động chủ yếu là giao dịch các chứng khoán ngắn hạn, còn thị trường chứng khoán chuyên giao dịch chứng khoán trung và dài hạn. Như vậy, thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch, mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Thị trường chứng khoán là nơi mà các nguồn cung và cầu về vốn dài hạn gặp nhau. Thị trường chứng khoán là nơi giúp những người có tiền tiết kiệm để đầu tư, với hy vọng có thể kiếm thêm tiền lời. Thị trường chứng khoán giúp cho những nhà doanh nghiệp cần vốn để thực hiện các dự án kinh doanh, là phương tiện để gọi người hùn vốn hoặc để vay tiền. Thị trường chứng khoán chuyển tiền từ khu vực phi sản xuất sang khu vực sản xuất, khiến đồng tiền không sinh lời thành đồng tiền kinh doanh sinh lời. Tóm lại, thị trường chứng khoán tạo môi trường thuận lợi cho quá trình huy động vốn và sử dụng vốn, đồng thời phá thế độc quyền của hệ thống ngân hàng trong việc cung cấp tín dụng. Có thể nói, trong tất cả các lĩnh vực đầu tư có trên thế giới hiện nay, thu hút được đông đảo người tham gia nhất, có khả năng huy động vốn lớn nhất, thời gian nhanh nhất, tạo ra những cơ hội thuận lợi và khả năng rộng rải cho những nhà đầu tư chọn cách đầu tư có hiệu quả nhất… đó là đầu tư vào chứng khoán. Thị trường chứng khoán ra đời và tồn tại là một thực thể khách quan theo sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Thị trường được hiểu là nơi mua bán, trao đổi, chuyển nhượng các loại sản phẩm hàng hoá, thị trường là một cơ chế độc lập, tự hoạt động, tự điều tiết. Chứng khoán là thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá. Thị trường chứng khoán là thị trường mua bán giao dịch hàng hoá chứng khoán. Hoạt động của thị trường chứng khoán diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, không bị giới hạn về thời gian và không gian, các hình thức giao dịch, thanh toán cũng muôn hình muôn vẻ. Hoạt động của thị trường chứng khoán không giống như các thị trường khác, nó là thị trường được tổ chức tốt nhất, nó có những chuẩn mực, nguyên tắc hoạt động riêng bắt buộc mọi thành viên phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt nếu không bị loại khỏi cuộc chơi. 3. Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 3. 1. Nguyên tắc trung gian mua bán chứng khoán. Hoạt động mua bán chứng khoán không phải trực tiếp diễn ra giữa những người muốn mua và bán, chứng khoán thực hiện mà do các nhà trung gian môi giới thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian căn bản cho tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán. Nguyên tắc trung gian nhằm đảm bảo cho các loại chứng khoán là chứng khoán thực và thị trường hoạt động lành mạnh, đều đặn hợp pháp và phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Vì những nhà đầu tư không thể xét đoán một cách nhanh chóng và chính xác giá trị thực sự của từng loại chứng khoán và cũng không dự đoán được chính xác xu hướng biến động của nó. Vì vậy nếu người môi giới có thái độ không khách quan trong hoạt động trung gian sẽ gây thiệt haị cho các nhà đầu tư. Xét về tính chất kinh doanh, môi giới chứng khoán có 2 loại: Môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán. Môi giới chứng khoán chỉ thương lượng mua bán chứng khoán theo lệnh của khách hàng và ăn hoa hồng. Thương gia chứng khoán còn gọi là người kinh doanh chứng khoán. Nói chung các công ty môi giới chứng khoán tại các thị trường chứng khoán đều đồng thời thực hiện 2 nghiệp vụ là người môi giới vừa là người kinh doanh nhưng tại thị trường chứng khoán New York, London từ lâu người ta đã phân biệt 2 loại môi giới này và có luật lệ không chỉ hoạt động của thương gia chứng khoán. 3. 2. Nguyên tắc đấu giá của mua bán chứng khoán. Giá chứng khoán trên thị trường chứng khoán do các nhà môi giới đưa ra. Mỗi nhà môi giới định giá mỗi loại chứng khoán tại từng thời điểm tuỳ theo sự xét đoán, kinh nghiệm và kỹ thuật dựa trên lượng cung cầu loại chứng khoán đó trên thị trường. 3. 4. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán. Tất cả các hoạt động trên thị trường chứng khoán đều được công khai hoá. Thông tin về các loại chứng khoán được đưa ra mua bán trên thị trường, tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của các công ty phát hành, số lượng chứng khoán và giá cả của từng loại chứng khoán đều được thông báo công khai trên thị trường. Khi kết thúc một cuộc giao dịch, số lượng mua bán và giá cả thống nhất lập tức được thông báo ngay. Nguyên tắc công khai của thị trường chứng khoán nhằm đảm bảo quyền lợi cho người mua bán chứng khoán không bị "hớ" trong mua bán chứng khoán. Tất cả các nguyên tắc trên đều được thể hiện bằng văn bản pháp quy từ luật đến qui chế, điều lệ của mỗi thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền lợi của người mua chứng khoán và của các thành viên trên thị trường chứng khoán. 4. Cơ cấu của thị trường chứng khoán. 4. 1. Xét về phương diện pháp lý thị trường chứng khoán được chia làm hai loại gồm có: * Thị trường chứng khoán chính thức, hay còn gọi là thị trường chứng khoán tập trung: Là thị trường hoạt động theo đúng các quy luật pháp định, là nơi mua bán các loại chứng khoán đã được đăng biểu hay được biệt lệ. Việc giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị trường này được thực hiện thông qua sở giao dịch chứng khoán, tại sàn giao dịch. Chứng khoán đăng biểu là loại chứng khoán đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép bảo đảm, phân phối và mua bán qua trung gian các kinh kỷ và công ty kinh kỷ, tức là đã hội đủ các tiêu chuẩn đã định. Chứng khoán biệt lệ là loại chứng khoán được miễn giấy phép của cơ quan có thẩm quyền, do chính phủ trong các cơ quan công quyền, thành phố, tỉnh quận, huyện, thị phát hành và bảo đảm. Thị trường chứng khoán chính thức có địa điểm và thời biểu mua bán rõ rệt và giá cả được tính theo thể thức đấu giá công khai, có sự kiểm soát của hội động chứng khoán. Thị trường chứng khoán chính thức chủ yếu được thể hiện bằng các sở giao dịch chứng khoán. * Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC): Là thị trường mua bán chứng khoán bên ngoài sở giao dịch chứng khoán, không có địa điểm tập trung những người môi giới, những người kinh doanh chứng khoán như ở sở giao dịch chứng khoán. ở đây không có sự kiểm soát từ bên ngoài, không có ngày giờ hay thủ tục nhất định mà do sự thoả thuận của người mua và người bán. Thị trường OTC không phải là thị trường hiện hữu, nó không nằm ở một vị trí trung tâm nào cả, nó bao gồm các công ty môi giới chứng khoán thành viên trong cả nước. Các giao dịch chứng khoán được thực hiện qua hệ thống điện thoại và hệ thống máy tính đã được nối mạng giữa các thành viên khắp cả nước. Thành viên của thị trường OTC là các công ty chứng khoán không phải là thành viên của một thị trường chứng khoán tập trung nào cả. Các thành viên thị trường OTC chủ yếu là những người kinh doanh chứng khoán, họ thực hiện các giao dịch chứng khoán cho chính mình, bằng nguồn vốn của mình. Tuy nhiên, họ vẫn có thực hiện các giao dịch với tư cách là người môi giới ăn hoa hồng, nhưng những giao dịch này không lớn. Các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC khác với các loại chứng khoán giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán. Các loại chứng khoán muốn được yết giá trên một sở giao dịch chứng khoán phải đạt được một số điều kiện tối thiểu về vốn của công ty phát hành, tổng số chứng khoán do công chúng nắm giữ, lợi nhuận hàng năm của công ty phải đạt được một mức nhất định. Các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC không đòi hỏi các tiêu chuẩn đó. Ddiều kiện duy nhất là loại chứng khoán đó được phép phát hành và chưa đăng ký yết giá tại một sở giao dịch chứng khoán nào cả. Hầu hết các loại chứng khoán mới phát hành lần đầu đều giao dịch qua thị trường OTC, sau đó mới xin đăng ký tại sở giao dịch chứng khoán. Thị trường OTC do Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán quốc gia quản trị. * Thị trường chứng khoán phi tập trung: Thị trường chứng khoán phi tập trung là các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán ở bất cứ đâu và bất cú lúc nào. Có thể thông qua các nhà môi giới hoặc do chính người chủ sở hữu chứng khoán thực hiện. Thị trường chứng khoán phi tập trung là cơ sở để hình thành thị trường tập trung, rồi tiến lên hiện đại hoá thành thị trường bán tập trung. Như vậy, khi chưa có thị trường chứng khoán tập trung và bán tập trung thì đã có thị trường chứng khoán phi tập trung. Tất cả các loại chứng khoán được phép phát hành đều có thể được giao dịch trên thị trường phi tập trung. 4. 2. Xét về quá trình luân chuyển của chứng khoán, thị trường chứng khoán bao gồm 2 bộ phận cấu thành: * Thị trường sơ cấp: Là thị trường cấp một hay thị trường phát hành, hàm ý chỉ nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán những chứng khoán mới phát hành lần đầu, kéo theo sự tăng thêm qui mô đầu tư vốn. Nguồn cung ứng vốn chủ yếu tại thị trường này là nguồn tiết kiệm của dân chúng như của một số tổ chức phi tài chính. Thị trường sơ cấp là thị trường tạo vốn cho đơn vị phát hành. * Thị trường thứ cấp. Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường lưu thông, là nói đến nơi diễn ra hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán đến tay thứ hai, tức là việc mua bán tiếp thu sau lần bán đầu tiên. Nói cách khác, thị trường thứ cấp là thị trường mua đi bán lại các loại chứng khoán đã được phát hành qua thị trường sơ cấp. Điểm khác nhau căn bản giữa thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp không phải là sự khác nhau về hình thức mà là sự khác nhau về nội dung, về mục đích của từng loại thị trường. Bởi lẽ, việc phát hành cổ phiếu hay trái phiếu ở thị trường sơ cấp là nhằm thu hút mọi nguồn vốn đầu tư và tiết kiệm vào công cuộc phát triển kinh tế. Còn ở thị trường thứ cấp, dù việc giao dịch rất nhộn nhịp có hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng ngàn tỉ đô la chứng khoán được mua đi bán lại, nhưng không làm tăng thêm qui mô đầu tư vốn, không thu hút thêm được các nguồn tài chính mới. Nó chỉ có tác dụng phân phối lại quyền sở hữu chứng khoán từ chủ thể này sang chủ thể khác, đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán. Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp gộp lại được gọi là thị trường chứng khoán. Hai thị trường này tồn tại quan hệ mật thiết với nhau được ví dụ như hai bánh xe của một chiếc xe, trong đó thị trường sơ cấp là cơ sở, là tiền đề, thị trường thứ cấp là động lực. Nếu không có thị trường sơ cấp thì sẽ chẳng có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp và ngược lại, nếu không có thị trường thứ cấp thì việc hoán chuyển các chứng khoán thành tiền sẽ bị khó khăn, khiến cho người đầu tư sẽ bị thu nhỏ lại, hạn chế khả năng huy động vốn trong nền kinh tế. Việc phân biệt thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết. Trong thực tế tổ chức thị trường chứng khoán không có sự phân biệt đâu là thị trường sơ cấp và đâu là thị trường thứ cấp. Nghĩa là, trong một thị trường chứng khoán vừa có giao dịch của thị trường sơ cấp vừa có giao dịch của thị trường thứ cấp. Vừa có việc mua bán chứng khoán theo tính chất mua đi bán lại. Tuy nhiên, điểm cần chú ý là phải coi trọng thị trường sơ cấp, vì đây là thị trường phát hành là hoạt động tạo vốn cho đơn vị phát hành đồng thời phải giám sát chặt chẽ thị trường thứ cấp, không để tình trạng đầu cơ lũng đoạn thị trường để đảm bảo thị trường chứng khoán trở thành công cụ hữu dụng của nền kinh tế. 4. 3. Nếu căn cứ vào phương thức giao dịch, thị trường chứng khoán được chia làm hai loại. * Thị trường giao ngay. Còn gọi là thị trường thời điểm, tức là thị trường mua bán chứng khoán theo giá của ngày giao dịch nhưng việc thanh toán và giao hàng sẽ diễn ra tiếp theo sau đó vài ngày theo quy định * Thị trường tương lai. Là thị trường mua bán chứng khoán theo một loại hợp đông định sẵn, giá cả được thoả thuận trong ngày giao dịch, nhưng việc thanh toán và giao hàng sẽ diễn ra trong một kỳ hạn nhất định trong tương lai. 5- Sở giao dịch chứng khoán. 5. 1. Khái niệm về sở giao dịch chứng khoán : Thị trường chứng khoán chính thức, tập trung được tổ chức theo hình thức Sở giao dịch chứng khoán. Sở giao dịch chứng khoán là nơi gặp gỡ của các nhà môi giới chứng khoán để thương lượng, mua bán, đấu giá chứng khoán, và là cơ quan phục vụ cho hoạt động mua bán chứng khoán 5. 2. Các hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán. Hiện nay trên thế giới có 3 hình thức tổ chức sở giao dịch chứng khoán. Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức theo hình thức "Câu lạc bộ" tự nguyện của các thành viên. Trong hình thức này, các thành viên của sở giao dịch (hội viên) tự tổ chức và tự quản lý sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các hội viên của Sở giao dịch bầu ra Hội đồng quản trị và Hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành. Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một công ty cổ phần có các cổ đông là các công ty thành viên. Đây là hình thức phổ biến nhất hiện nay. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức này được hoạt động theo luật công ty cổ phần, phải nộp thuế cho nhà nước và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn do chính phủ lập ra. Cơ quan chuyên môn này là cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán là Hội đồng quản trị do các công ty chứng khoán thành viên bầu ra và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán do Hội đồng quản trị đề cử. Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của nhà nước. Đây là hình thức phổ biến ở hầu hết các nước Châu á. Cơ cấu tổ chức và quản lý điều hành cũng tương tự như hình thức trên nhưng trong thành phần Hội đồng quản trị có một số thành viên do uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám sát điều hành. Sở giao dịch chứng khoán quốc gia bổ nhiệm. 5. 3. Quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán Uỷ ban chứng khoán quốc gia là cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán do chính phủ thành lập. Uỷ ban chứng khoán quốc gia có nhiệm vụ xác định loại doanh nghiệp nào được phép phát hành chứng khoán và loại chứng khoán nào được mua bán. Uỷ ban này cấp giấy phép và kiểm tra hoạt động của các công ty môi giới và thực hiện các công việc quản lý nhà nước khác. Hội đồng quản trị và ban điều hành sở giao dịch chứng khoán quản lý và điều hành sở giao dịch chứng khoán. Tất cả các quyết định đều được Hội đồng quản trị đưa ra. Hội đồng này bao gồm các công ty chứng khoán thành viên của sở giao dịch chứng khoán, các thành viên liên doanh thậm chí có một số không phải là thành viên của sở giao dịch chứng khoán do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào. Hội đồng quản trị có quyền quyết định nhưng thành viên nào được phép buôn bán tại sở giao dịch, những loại chứng khoán nào đủ tiêu chuẩn được phép niêm yết tại phòng giao dịch. Hội đồng này có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ việc niêm yết một chứng khoán nào đó. Hội đồng quản trị có quyền kiểm tra quá trình kinh doanh của các thành viên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch. Nếu phát hiện vi phạm, Hội đồng quản trị có quyền phạt hoặc đình chỉ việc kinh doanh của thành viên trong một thời gian nhất định hoặc trục xuất không cho phép mua bán trên sở giao dịch chứng khoán nữa. 5. 4. Thành viên sở giao dịch chứng khoán. Thành viên sở giao dịch chứng khoán có thể là các cá nhân hoặc các công ty chứng khoán. Để trở thành thành viên của sở giao dịch chứng khoán trước hết công ty phải được công ty có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Phải có số vốn tối thiểu theo quy định, có chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán. Ngoài ra công ty còn phải thoả mãn các yêu cầu của từng sở giao dịch chứng khoán cụ thể. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của nhiều sở giao dịch chứng khoán khác nhau nhưng không được là thành viên của thị trường chứng khoán phi tập trung và ngược lại công ty chứng khoán có thể thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ khác nhau trên thị trường chứng khoán. 5. 5. Giám sát thị trường chứng khoán. Để đảm bảo cho các giao dịch được công bằng đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, sở giao dịch chứng khoán có một bộ phận chuyên theo dõi giám sát các giao dịch chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch chứng khoán. Nhiệm vụ chủ yếu của các bộ phận giám sát là kiểm tra theo dõi và ngăn chặn kịp thời các hoạt động tiêu cực như gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch lòng vòng, giao dịch có dàn xếp trước. 5. 6. Giao dịch trên thị trường chứng khoán. Các chứng khoán được giao dịch trên thị trường theo lô chẵn hoặc lô lẻ. Trên sàn giao dịch, có nhiều loại lệnh khác nhau được nhà đầu tư sử dụng tùy theo mục đích của từng người. Để mua hay bán chứng khoán, các nhà đầu tư sẽ đưa ra các lệnh thuê các công ty môi giới chứng khoán thực hiện hộ. Lệnh thị trường: Đây là loại lệnh thông dụng nhất. Các công ty môi giới căn cứ vào giá thị trường hiện tại của loại chứng khoán mà nhà đầu tư yêu cầu thực hiện để tiến hành giao dịch, xong họ cũng phải xem xét để mua hoặc bán sao cho có lợi nhất cho khách hàng của họ, các khách hàng biết chắc lệnh sẽ được thực hiện nhưng không biết chắc giá cả là bao nhiêu. Lệnh giới hạn: Lệnh này thường được đưa ra bởi các nhà đầu tư có hiểu biết chút ít về thị trường chứng khoán và kinh tế. Trong lệnh có giới hạn về giá bán thấp nhất và giá mua ._.cao nhất mà công ty môi giới trên sàn giao dịch được phép thực hiện. Đối với lệnh mua thì giá mua thường thấp hơn giá thị trường hiện đại còn lệnh bán có giá thường cao hơn giá thị trường. Do vậy lệnh giới hạn thường không được thực hiện ngay mà được thực hiện trong một thời gian nhất định cho đến khi hết thời hạn và huỷ bỏ. Trong khi chưa bị huỷ bỏ mà lệnh chưa được thực hiện thì nhà đầu tư vẫn có thể tăng giảm giá giơí hạn (giá mua, giá bán). Lệnh ngừng: Đây là lệnh đặc biệt mà các nhà đầu tư dùng để bảo vệ thu nhập của họ tránh thua lỗ khi có sự tăng giảm giá cả. Lệnh ngừng bán có giá đặt ra cao hơn giá thị trường hiện tại còn lệnh ngừng mua có giá đặt ra thấp hơn thị trường hiện tại. Các lệnh trên khi đấu giá sẽ được ưu tiên theo thứ tự. - Ưu tiên về giá: Giá đặt mua cao nhất và giá đặt bán thấp nhất được ưu tiên. - Ưu tiên về thời gian: Trong cùng một mức giá lệnh nào được đưa ra trước sẽ được ưu tiên. - Ưu tiên về số lượng: Khi có nhiều lệnh cùng thoả mãn hai điều kiện trên, lệnh nào có số lượng chứng khoán nhiều hơn sẽ được ưu tiên. Trên thị trường chứng khoán phi tập trung, hoạt động mua bán chứng khoán cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh cho công ty chứng khoán đang quản lý tài sản của anh ta yêu cầu giao dịch hộ. Thông qua hệ thống viễn thông công ty môi giới sẽ liên lạc với tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá chào bán thấp nhất của loại chứng khoán này sau đó công ty này thông báo lại cho khách hàng biết và nếu khách hàng chấp nhận, công ty sẽ thực hiện lệnh và giao dịch của khách hàng được thực hiện. II- Khái niệm về chứng khoán. Cũng như thị trường thương mại, thị trường lao động, thị trường tiền tệ, thị trường hối đoái…mỗi loại thị trường có một loại đối tượng giao dịch riêng. Đối tượng giao dịch của Thị trường chứng khoán là chứng khoán. Chứng khoán là giá khoán động sản, là một thuật ngữ dùng để chỉ các giấy tờ có giá, tức là giấy tờ ghi nhận khoản tiền tệ mà người sở hữu chúng bỏ ra sẽ được quyền hưởng những khoản lợi tức nhất định theo kì hạn, là các loại công cụ vốn dài hạn, bao gồm cổ phiếu và trái phiếu. Ngoài ra trên Thị trường chứng khoán còn giao dịch các loại giấy tờ có giá liên quan đến chứng khoán hay còn goi là các loại chứng khoán phát sinh, đó là chứng quyền, chứng khế, phiếu cầm cố, giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu và hợp đồng về quyền lựa chọn. Chứng khoán có hai loại : - Chứng khoán vô danh : Là loại chứng khoán không ghi rõ họ tên sở hữu chủ. Việc chuyển nhượng loại này rất đơn giản, dễ dàng, không cần phải có thủ tục pháp lý rườm rà. - Chứng khoán ký danh : Loại chứng khoán này có ghi rõ họ tên và chủ sở hữu. Việc chuyển nhượng chứng khoán này được thực hiện bằng thủ tục đăng ký tại cơ quan phát hành, đôi khi đòi hỏi có sự chấp nhận trước. 1. Cổ phiếu: Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia thành nhiều phần nhỏ bằng nhau, gọi là cổ phần, người mua cổ phần gọi là cổ đông. cổ đông được cấp một giấy chứng nhận quyền sở hữu cổ phần-gọi là cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu được khai sinh từ công ty cổ phần và chỉ các công ty cổ phần mới có cổ phiếu. Vậy, cổ phiếu là một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với công ty cổ phần. Cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Cổ đông có các quyền hạn và trách nhiệm đối với công ty: Được chia cổ tức theo kết quả kinh doanh, được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm soát công ty, và phải chịu trách nhiệm về sự thua lổ hoặc phá sản của công ty trong phạm vi số vốn cổ phần của mình. Cổ phiếu được phát hành lúc thành lập công ty và lúc công ty cần gọi thêm vốn. Cổ phiếu có giá trị ban đầu, được ghi trên cổ phiếu, gọi là mệnh giá. Mệnh giá của cổ phiếu chỉ là giá trị danh nghĩa. Quá trình kinh doanh tuỳ theo số lợi nhuận thu được và cách phân phối lợi nhuận, mệnh giá sẽ được tăng lên và ngày càng bỏ xa gia trị ban đầu. Cổ phiếu được chia làm hai loại: Cổ phiếu thường : là loại cổ phiếu có đặc điểm là lợi tức của nó phụ thuộc vào mức lợi nhuận của công ty, tức là công ty không cố định mức số lãi sẽ chia vào cuối kỳ quyết toán. Cổ phiếu ưu đãi: là loại cổ phiếu được hưỡng những quyền ưu tiên : + Được hưỡng một mức lãi cố định hàng năm, không phụ thuộc vào lợi nhuận năm của công ty. + Được ưu tiên chia lã cổ phần trước cổ phiếu thường. + Được ưu tiên chia tài sản còn lại khi công ty bị phá sản trước loại cổ phiếu thường. Tuy nhiên, người mua cổ phiếu ưu đãi không được phổ thông đầu phiếu. 2. Trái phiếu. Khác với cổ phiếu, là một chứng khoán vốn, cổ đông là người góp vốn vào công ty, trở thành người chủ sở hữu công ty thì trái phiếu là một chứng khoán nợ, người nắm giữ trái phiếu là chủ nợ của đơn vị phát hành cổ phiếu. Đơn vị phát hành trái phiếu là các công ty thuộc các thành phần kinh tế, và chính phủ, chính quyền địa phương. Các cổ đông nắm giử cổ phiếu thông thường được hưởng quyền lợi về tài chính thông qua kết quả kinh doanh có lãi của công ty, và qua việc bán lại các cổ phiếu trên thị trường khi giá của cổ phiếu cao hơn mệnh giá. Nhìn chung người mua trái phiếu, hàng năm hoặc hàng quý họ sẽ được trả một số tiền lời theo mức lãi suất đã định và khi đáo hạn họ sẽ nhận được tiền vốn gốc(mệnh giá). Khác với các cổ đông, là người được nhận số cổ tức một cách không xác định, hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty, thậm chí có thể mất luôn phần vốn cổ phần nếu công ty làm ăn thua lổ hoặc phá sản. Người nắm giữ trái phiếu được hưởng số tiền lãi đã được xác định. Nhưng lạm phát, sự thay đổi lãi suất tín dụng(tăng) cũng làm giảm giá trái phiếu trên thị trường. Một số loại trái phiếu chủ yếu là : Trái phiếu công ty, trái phiếu dài hạn kho bạc, trái phiếu đô thị, công trái nhà nước, trái phiếu cầm cố. 3. Giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu : Một công ty cổ phần kinh doanh có hiệu quả, có nhu cầu và khả năng phát triển, công ty quyết định tăng vốn bằng cách phát hành cổ phiếu bổ sung. việc phát hành cổ phiếu mới có thể dẫn đến tình trạng một số cổ đông ban đầu có thể mất quyền kiểm soát công ty, trong khi họ là những người có công cần được ưu đãi. Để đảm bảo quyền kiểm soát công ty của các cổ đông ban đầu, trước những năm 1950, các công ty cổ phần trên thế giới thường thực hiện phương thức chia cổ phần thông thường làm hai loại: A, B. Cổ phần loại A là những cổ phần nguyên thuỷ, được hưởng các quyền của cổ phần thông thường. Cổ phần loại B là loại cổ phần mới được phát hành bổ sung, được hưởng lãi cổ phần theo nguyên tắc cổ phần thông thường nhưng không được phổ thông đầu phiếu. Tức là quyền kiểm soát công ty vẩn dành cho số cổ phần nguyên thuỷ. Ngày nay, khi phát hành một lượng cổ phiếu mới, người ta thường áp dụng phương thức phát hành trích ra theo một tỷ lệ nhất định tương xứng với số cổ phiếu các cổ đông ban đầu, cho phép các cổ đông ban đầu được mua với giá ưu đãi thấp hơn giá thị trường, đảm bảo quyền lợi cho các cổ đông có công sáng lập và lãnh đạo công ty. Số lượng cổ phiếu mà mỗi cổ đông ban đầu được quyền mua theo tỷ lệ với số cổ phiếu họ nắm giử. Trái lại, cổ đông hiện hữu không thực hiện quyền mua thì họ có thể chuyển nhượng quyền mua đó cho người khác để hưỡng một phần chênh lệch giá. Như vậy, ”giấy bảo đảm quyền mua cổ phiếu “cũng là một loại chứng khoán và nó được giao dịch sôi động trên Thị trường chứng khoán như cổ phiếu của công ty đó. 4. Hợp đồng về quyền lựa chọn. Hợp đồng về quyền lựa chọn có hai loại: ”quyền chọn mua”và “quyền chọn bán”. Đó là một bản hợp đồng được soạn giữa hai người. Hợp đồng này xác định cho: người mua quyền mua (người mua quyền bán) được mua (bán) một loại chứng khoán, với số lượng và giá cả được ấn định trong một khoảng thời gian nhất định. Cần lưu ý, hợp đồng về quyền lựa chọn xác định quyền mua hoặc quyền bán mà không kèm theo nghĩa vụ. Nghĩa là người mua quyền mua hoặc mua quyền bán có quyền mua hoặc có quyền bán mà không kèm theo nghĩa vụ phải mua hoặc phải bán. Trong khi đó, người bán quyền mua hoặc bán quyền bán có nghĩa vụ phải thực hiện hợp đồng việc bán hay mua loại chứng khoán theo số lượng, giá cả, thời gian đã xác định trong hợp đồng theo yêu cầu của người mua quyền. Quan hệ mua bán này cũng là một loại quan hệ thương mại, nghĩa là người mua quyền phải trả cho người bán quyền một khoản tiền cho quyền mua đó. Giao dịch mua bán “quyền lựa chọn”trên Thị trường chứng khoán của các nước phát triển cũng tấp nập như chính loại chứng khoán đó. Người mua quyền mua là người theo quan điểm giá lên, nhờ đó hưỡng lời nhờ chênh lệch giá chứng khoán đó giữa thời điểm ký hợp đồng và trong tương lai, còn người bán theo quan điểm giá không lên, nếu điều đó đúng thì anh ta được hưỡng số tiền đã bán quyền mua. Tuy nhiên, số tiền này không lớn. Quyền chọn bán: là hình thức ngược lại của quyền chọn mua. Người mua quyền bán xem xét chứng khoán theo quan điểm giá hạ. Anh ta mua quyền bán để bán chứng khoán cho người bán quyền về một loại chứng khoán với số lượng, giá cả và thời gian đã định. Người mua quyền bán chứng khoán nhận định giá loại cổ phiếu đó sẽ hạ xuống thấp hơn giá đã định để anh ta thực hiện quyền bán chứng khoán cho người bán quyền bán theo giá đã định. Người bán quyền bán nhận định giá loại cổ phiếu đó sẽ tăng và như vậy anh ta được hưởng số tiền bán quyền bán do người mua quyền trả. Nếu như người mua quyền bán nhận định đúng và anh ta thực hiện quyền bán của mình thì anh ta ở vào địa vị của người bán khống. 5- Chứng quyền (rights) và chứng khế (warrants). Một công ty cổ phần có thể tăng thêm vốn bằng việc phát hành các chứng quyền và chứng khế cho các cổ đông hiện hữu. Chứng quyền và chứng khế giống nhau ở chỗ cả hai đều cho phép người sở hữu chúng được đặt mua các cổ phiếu mới. Còn điểm khác nhau cơ bản giữa chúng là các chứng quyền thường ngắn hạn, nhưng các chứng khế có kỳ hạn lâu hơn nhiều. Do vậy, một công ty có thể phát hành nhiều loại chứng khế cùng một thời điểm, nhưng mỗi thời điểm chỉ phát hành một loại chứng quyền. Sau đây chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu hai loại này. Chứng quyền (rights) Chứng quyền (rights) hay còn gọi là quyền tiên mãi hoặc quyền đặt mua (quyền dự tính ) là một quyền ưu đãi mà công ty cổ phần cho các cổ đông được hưởng để mua cổ phiếu mà họ đang sở hữu. Thông thường, các cổ đông có chứng quyền, được quyền "mua" hoặc "đặt mua" (subscription), với giá thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Cácchứng thường có kỳ hạn ngắn. Thông thường, khi một công ty cổ phần muốn tăng thêm vốn bằng cách phát hành thêm một số cổ phiếu mới. Công ty sẽ trao cho những người đang sở hữu cổ phiếu của công ty một số đặc quyền hay cơ hội mua những coỏ phiếu mới phát hành thêm tỷ lệ với số cổ phiếu mà họ đang nắm giữ. Ví dụ ; một công ty cổ phần A cho các cổ đong của nó quyền mua thêm một cổ phiếu mới ứng với 10 cổ phiếu cũ mà họ đang nắm giữ. Mỗi cỏ đông được hưởng ưu đãi này sẽ được nhận một tờ chứng quyền. thể hiện chính xác số lượng các trái quyền mà nó được hưởng. Các trái quyền sẽ được thực hiện (đôỉ lấy cổ phiếu ) trong một thời hạn xác định theo một giá ấn định. Nếu một cổ đông muốn thực hiện trái quyền của mình, anh ta điền vàotờ giấy chứng quyền và gửi đến công ty. Anh ta cũng có thể gửi séc hoặc ngân phiếu theo giá trị của những cổ phiếu mà anh ta muốn mua thêm. Ngược lại, nếu anh ta không muốn thực hiện trái quyền của mình, trên thị trường chứng khoán theo giá thị trường hiện hành. Nói chung, dù theo cách nào thì cổ đông cũng phải thực hiện theo thời hạn được ghi trên chứng quyền. Sau ngày đó, chứng quyền không còn giá trị, tức là nó không thể được thực hiện hoặc đem bán. Chứng khế (Warrants) Chứng khế còn gọi là quyền dự tính ưu tiên mua cổ phiéu mới hay bảo chứng phiếu. Một chứng khế thườngđược phát hành gắn liền với một loại chứng khoán khác, cho phép người sở hữu nó đựoc quyền mua cổ phiếu thường (hoặc chuyển đổi chứngkhoán đó sang cổ phiếu thường) theo một giá định ccược gọi là giá đặt mua (subscription price) trong một thời hạn nhất định. Giáđịnh trước trên chứng khế cao hơn giá thị trường hiện hành của cổ phiếu thường và chứng khế có kỳ hạn dài hơn chứng quyền (rights), khoảng một vài năm. Các chứng khế thường được phát hành cùng với các trái phiếu hoặc các cổ phiếu ưu đãi để giúp cho việc chào bán lần đầu với những chứng khoán này tại sở giao dịch chứng khoán trở nên hấp dẫn hơn. Do các trái phiếu được hưởng lãi cố định và các cổ phiếu ưu đãi được hưởng các tỉ lệ cổ tức theo qui định, cả hai khoản này được thanh toán trước khi các cổ đông thường được nhận cổ tức của họ, nên việc phát hành các chứng khế có thể cho phép các công ty phát hành cổ phiếu ưu đãivà trái phiếu với tỷ lệ thanh toán giảm, nhờ đó tiết kiệm chi phí cho công ty. Do các chứng khế có kỳ hạn dài nên một công ty có thể có một vài loại chứng khế lưu hành vào cùng một thời điểm. Các chứng khế và các cổ phiếu ưu đãi, hay trái phiếu thường được kết hợp tung ra thị trường như là thành phần của một đơn vị chứng khoán (Unit), đơn vị này gồm từ hai loại phát hành trở lên. Chẳng hạn, một công ty có thể phát hành kết hợp giữa các trái phiếu và chứng khế. Giả sử công ty phát hành một đơn vị gồm một trái phiếu một nghìn đô la cùng với một chứng khế được mua 10 cổ phiếu. Các trái phiếu được phát hành dưới hình thức thông thường, còn chứng khế được sử dụng nhằm giúp cho việc chào bán hấp dẫn hơn. Nếu công ty phát hành có chiều hướng phát triển tốt thì chứng khế sẽ càng gây hấp dẫn các nhà đầu tư. Chứng khế thường có tính chất tách rời được, nghĩa là chứng khế có thể được mua hoặc bán tách rời khỏi chứng khoán mà nó phát hành kèm theo. Nếu giá trị trừng của cổ phiếu thường cao hơn giá đặt mua của chứng khế thì chứng khế sẽ có giá trị, ngược lại chứng khế sẽ không có giá trị. Nói chung, các công cụ có nguồn gốc chứng khoán đã trình bày trên đều bắt nguồn từ một vài chứng khoán cơ bản. Vì vậy, phụ thuộc vào bản chất thực sự giữa công cụ có nguồn gốc chứng khoán và chứng khoán cơ bản của nó, đúng theo lô rích ta thấy, giá cả của hai loại phải dịch chuyển cùng gần nhau. Thông thưòng giá của công cụ có nguồn gốc chứng khoán được xác định trực tiếp từ chứng khoán khởi đầu. Với các quyền chọn và chứng khế người ta đã mua quyền để thực hiện với chứng khoán nguồn gốc, theo giá cả và số lượng đã được định trước, tại một thời điểm nào đó hoặc trong một thời hạn đã được định trước. Như vậy các nhân tố ảnh hưởng đến giá của công cụ có nguồn gốc chứng khoán, đó là: -Mệnh giá của chứng khoán. -Giá thực hiện. -Sự giao động của công cụ có nguồn gốc chứng khoán. -Thời gian còn lại cho đến khi đáo hạn. -Sự sẵn có của công cụ và kỹ thuật thay thế tương tự. - Các lãi suất tương đối và các chi phí để giữ công cụ có nguồn gốc chứng khoán. III- Vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế thị trường . 3. Tính tích cực của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một thể chế tài chính bậc cao, hoạt động của nó thông qua các công cụ là cổ phiếu, trái phiếu, và với nhiều loại hình khác nhau phù hợp với tâm lý muôn vẻ của người dân, qua đó cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính và chính phủ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rổi để đầu tư phát triển kinh tế. Bài học kinh nghiệm của các tập đoàn kinh tế mạnh trên thế giới cho thấy: không thể triễn khai các dự án tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất, nếu không tập hợp được những nguồn vốn nhàn rỗi, phân tán trong dân chúng thành một nguồn vốn khổng lồ, mà người tập hợp có toàn quyền sử dụng vào những mục tiêu trung và dài hạn. Có thể nói, cùng với hệ thống huyết mạch của hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán đóng vai trò là “bà đỡ” thứ hai cho các dự án kinh doanh tiến bộ đi vào cuộc sống, là biện pháp chủ yếu của việc giải phóng mọi năng lực sản xuất. Điều này đã được thử nghiệm và khẳng định ở hầu hết các doanh nghiệp thành đạt trên thể giới trong nhiều thập niên kỷ qua. Vai trò tích cực của thị trường chứng khoán thể hiện ở một số điểm sau: * Thị trường chứng khoán là một thể chế tài chính hữu hiệu, nhằm tạo ra các công cụ để khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút các nguồn vốn nhàn rổi cho đầu tư phát triển kinh tế. Chúng ta biết rằng, bất cứ một loại hình doanh nghiệp nào cho dù là sở hữu nhà nước hay sở hữu tư nhân khi cần vốn đầu tư cũng đều phải thực hiện thông qua hai giải pháp: -Giải pháp nội lực, tức là bản thân doanh nghiệp tự tích luỹ từ nội bộ thông qua lợi nhuận có được do làm ăn có hiệu quả. -Giải pháp ngoại lực, tức là huy động các nguồn vốn từ bên ngoài, thông qua các hình thức tín dụng tài trợ từ bên ngoài. Trước đây các doanh nghiệp thường phải vay vốn gián tiếp từ các tổ chức tín dụng, như là các ngân hàng, các quỹ đầu tư hoặc từ ngân sách nhà nước. Nguồn vốn này thường rất khó đáp ứng được nhu cầu về số lượng và thời gian, nhất là đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ. Sau khi thị trường chứng khoán được hình thành sẽ mở ra một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp, lúc này các doanh nghiệp có thể trực tiếp huy động vốn từ dân chúng để tài trợ cho các dự án của mình, thông qua các hình thức phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Hình thức huy động vốn này đáp ứng được yêu cầu cả về khối lượng và thời hạn, giúp cho doanh nghiệp có được một nguồn vốn không bị giới hạn để thực hiện dự án của mình. Các hình thức huy động vốn ngoại lực muốn có hiệu quả phải dựa trên cơ sở phát huy nguồn vốn tiết kiệm dồi dào trong dân chúng(đầu tư gián tiếp qua ngân hàng)và việc mua cổ phiếu, trái phiếu của dân chúng (đầu tư trực tiếp). Hình thức đầu tư qua tiết kiệm qua ngân hàng là loại hình tiết kiệm mang tính truyền thống ở các quốc gia, đặc tính của loại hình này là lãi suất ổn định, ít ruỷ ro và nói chung khả năng rủi ro mất vốn là rất ít. Tuy nhiên, trước sức ép của lạm phát, việc mất giá của tiền tệ cũng như lãi suất thấp của các ngân hàng làm cho loại hình đầu tư này trở nên đơn điệu và không đủ sức hấp dẫn đối với công chúng và các nhà đầu tư thích lợi nhuận cao. Thị trường chứng khoán ra đời, đã tạo ra những công cụ mới, tinh tế và đa dạng trong các phong cách đầu tư của đông đảo công chúng có tâm lý và suy nghĩ khác nhau. Với một hệ thống đa dạng các loại chứng khoán, bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng về quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai, chứng quyền…có thể đáp ứng yêu cầu lựa chọn của những người đầu tư trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức tài chính trung gian để lựa chọn những nơi đầu tư có hiệu quả. Việc đầu tư vào cổ phiếu trên thị trường không những đem lại lợi nhuận thông qua cổ tức, trên thực tế đó là phần tăng thêm của thị giá cổ phiếu so với mệnh giá ban đầu, mà còn tham gia quyền kiểm soát đối với các tổ chức phát hành cổ phiếu, khi các nhà đầu tư nắm một số lượng lớn cổ phiếu có quyền biểu quyết. Đây chính là những tác nhân kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư của công chúng. Ngoài ra trong quá trình vận hành của nền kinh tế luôn xuất hiện một số quỹ có vốn tạm thời nhàn rổi, như quỹ bão hiểm, quỹ phúc lợi, quỹ tương hỗ…Sự tách biệt về mặt thời gian giữa các khoản thu và chi của các quỹ này dẫn đến kết dư vốn nhàn rỗi. Để tránh hiện tượng vốn chết trong quá trình vận hành, các nhà quản lý quỹ sẽ gửi vào ngân hàng dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm để lấy lãi, hoặc dùng để đầu tư vào thị trường chứng khoán, nơi luôn tạo ra khả năng sinh lợi và tính thanh khoản cho các khoản đầu tư, đáp ứng kịp thời các khoản chi cần thiết của các quỹ đầu tư. Trên thực tế, từng cá nhân riêng lẻ sẽ không tạo ra được vốn lớn, bản thân họ cũng không am hiễu hết các khía cạnh của đầu tư, nên kết quả đầu tư dễ bị phân tán và ít hiệu quả. Nhưng, nếu thông qua một quỹ đầu tư, các nhà đầu tư đơn lẻ có thể tập hợp được một số vốn khá lớn vào trong tay những người biết cách quản lý, để đầu tư vào thị trường chứng khoán thì sẽ cho một hiệu quả cao gấp bội. Mỗi người trong xã hội chỉ có một số tiền nhỏ, nhưng tập hợp lại sẽ có một số vốn khổng lồ. Số tiết kiệm khổng lồ này sẽ được tập trung thông qua thị trường chứng khoán để đầu tư vào phát triển sản xuất. Như vậy, thị trường chứng khoán đóng vai trò như là một ‘cây cầu’ tập trung vốn và dẫn vốn tù nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất. * Thị trường chứng khoán là công cụ để huy động vốn cho các chương trình phát triển kinh tế. Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triễn kinh tế. Nền kinh tế tăng trưỡng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và các biện pháp can thiệp của nhà nước. Ngân sách nhà nước càng lớn mạnh thì khả năng thực hiện thành công các chiến lược kinh tế-xã hội càng dễ dàng. Nguồn vốn cho chi tiêu ngân sách phụ thuộc phần lớn vào chính sách thuế của mỗi quốc gia và các khoản thu nhập từ khai thác tài nguyên. Tuy nhiên, chính sách thuế không phải lúc nào cũng thuận chiều với chính sách kinh tế. Nếu chúng ta quá lạm dụng vào nó thì sẽ gây ra những tai hại. Thuế thu thấp có thể kích thích được kinh tế phát triển. nhưng sẽ không đảm bảo được nguồn thu cho ngân sách. Ngược lại, nếu thu thuế quá cao thì sẽ làm tăng thu ngân sách, nhưng hậu quả dẫn đến có thể hạn chế và triệt tiêu sản xuất. Trong thực tế, các khoản thu ngân sách thường không đáp ứng được đầy đủ và kịp thời các khoản chi, lúc đó ngân sách nhà nước thường sử dụng các giải pháp vay tạm thời từ dân chúng thông qua việc phát hành các trái phiếu trung và dài hạn. Đây là giải pháp tín dụng ngân sách tương đối lành mạnh, bởi nếu không thì chính phủ sẽ yêu cầu ngân hàng trung ương phát hành thêm tiền để chi tiêu, và lúc đó áp lực lạm phát đối với nền kinh tế sẽ là điều không tránh khỏi. Ngày nay ở hầu hết các quốc gia, việc nhà nước vay tiền của dân chúng thông qua phát hành trái phiếu trên thị trường chứng khoán là biện pháp thường xuyên và mang tính tiên tiến. Nếu là trái phiếu kho bạc, thì đó là nguồn thu bổ sung vào quỹ ngân sách, vốn được huy động nhằm đáp ứng các khoản chi tạm thời, và nguồn thu ngân sách vào cuối năm tài khoá sẻ đáp ứng nhu cầu hoàn trả các khoản thu này. Đối với trái phiếu công trình, đây là khoản vay nợ của chính phủ để sử dụng vào việc đầu tư phát triển ngành nghề hay cơ sở hạ tầng, như nhà máy, công trình công ích, đường sá, sân bay, nhà ga…Việc hoàn trả các khoản vay này cũng sẽ được chi từ các nguồn thu do hiệu quả sử dụng các công trình này mang lại. Đây là giải pháp tốt nhất cho việc đầu tư xây dựng các công trình có số vốn lớn, khả năng thu hồi vốn chậm mà tư nhân không thể đáp ứng được. * Thị trường chứng khoán là công cụ để nhà nước huy động và kiểm soát các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Vốn đầu tư nước ngoài có vị trí quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển. Chúng ta biết rằng, nguồn vốn đầu tư trong nước dù có huy động tới mức tối đa cũng không thể đáp ứng đủ nhu cầu cho đầu tư phát triển kinh tế trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, phải có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế, các khoản vốn đầu tư nước ngoài thường được thu hút dưới hai hình thức, đó là đầu tư trực tiếp thông qua các dự án sản xuất kinh doanh, và đầu tư gián tiếp thông qua các định chế tài chính trung gian. Cả hai hình thức đầu tư này nếu như không có thị trường chứng khoán thì không phát huy được tính hiệu quả cao của nó. Bản thân các nhà đầu tư nước ngoài, khi xem xét các khía cạnh môi trường đầu tư, họ thường tính đến khả năng sinh lợi, khả năng hoàn vốn, cũng như khả năng chuyển đổi sở hữu khi thấy cần thiết, mà điều này chỉ có thể thực hiện được khi có thị trường chứng khoán, nơi luôn tạo ra sự chuyển dịch các luồng vốn đầu tư, và cung cấp các thông tin một cách chính xác để tìm hiểu các đối tác đầu tư. Khi tham gia thị trường vốn trong nước, các nhà đầu tư nước ngoài góp vốn thông qua tỷ nắm giữ các chứng khoán đối với các tổ chức phát hành. Vì vậy, việc kiểm soát tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài voà các lĩnh vực đầu tư trong nước qua các giai đoạn phát triển khác nhau là việc hoàn toàn có thể thực hiện được trên thị trường chứng khoán. Khi mua bán, chuyển nhượng chứng khoán, các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện việc đăng ký, lưu ký chứng khoán thông qua các tổ chức lưu ký chứng khoán. Điều này cho phép nhà nước có thể kiểm soát được các tổ chức, cá nhân nước ngoài góp vốn và các tỷ lệ nắm giữ trong từng doanh nghiệp, cũng như trong tổng thể nền kinh tế. * Thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi để đảm bảo tính thanh khoản và di chuyển vốn đầu tư dễ dàng. Việc mua bán cổ phiếu hay chứng khoán trên thị trường thứ cấp không tạo thêm nguồn vốn mới cho đơn vị kinh tế hay chính phủ mà chỉ đơn giản thay đổi quyền sở hữu đối với cổ phiếu hay chứng khoán. Thị trương thứ cấp có vai trò kinh tế quan trọng là bảo đảm tính thanh khoản của các loại công cụ tài chính, có nghĩa là cổ phiếu và chứng khoán có thể thông qua các trung gian, các nhà môi giới bán ra để thu tiền mặt đáp ứng nhu cầu cần thiết đói với cá nhân hay đơn vị. Chính sự đẩm bảo này mà các cá nhân hay đơn vị mua chứng khoán trên thị trường thư cấp. Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn đầu tư được mua đi bán lại trên thị trường chứng khoán nư một thứ hành hoá. Người nắm giữ chứng khoán không sợ vốn của mình bị bất động bởi một lĩnh vực đầu tư mà mình không vừa ý, hoặc khi có nhu cầu chuyển hướng kinh doanh họ có thể bán các chứng khoán đó trên thị trường chứng khoán để mua lại một chứng khoán khác mà họ thích đầu tư-điều này thể hiện tính kinh hoạt của chứng khoán. Với một thị trường chứng khoán hoạt động tốt, các nhà doanh nghiệp sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào lĩnh vực công nghệ mới. Vì thông thường, một doanh nghiệp mới thành lập, giá bán cổ phiếu thường thấp và ít người mạnh dạn dám mua. Chính vì vậy, đối với các nhà đầu tư tiềm năng, họp có khả năng phân tích, phán đoán được hiểu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau này, để tiến hành đầu tư, và sau này họ có thể bán lại các chứng khoán của mình để đổi lấy một hình đầu tư khác hoàn toàn mới hơn. Điều này làm cho vốn của các nhà đầu tư luôn được luân chuyển để tài trợ cho các dư án. Đây là phương thức mà các nhà đầu tư quốc tế thường sử dụng để lưu động hoá vốn tư bản. * Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp tuân thủ theo luật pháp và quan tâm tới hiệu quả. Các tổ chức phát hành chứng khoán muốn niêm yết, giao dịch chứng khoán của mình tại sở giao dịch phải tuân thủ các điều kiện nghiêm ngặt của tiêu chuẩn niêm yết. Các tiêu chuẩn niêm yết này được xem xét trên hai khía cạnh khác nhau, đó là tiêu chuẩn về mạt định tính và tiêu chuẩn về mặt định lượng. Mỗi một thị trường đều có những tiêu chuẩn định tính và tiêu chuẩn định lượng khác nhau, nhưng nhìn chung đều xem xét trên các khía cạnh: tổng tài sản có của tổ chức niêm yết; tỷ lệ nợ trên vốn khả dụng; số năm làm ăn có lãi và tỷ lệ cổ tức trên mệnh giá. Ngoài ra, các tiêu chuẩn về hệ số sử dụng vốn, cơ cấu phân bổ vốn, cơ cấu hội đồng quản trị, ban giám đốc điều hành, nghĩa vụ công bố thông tin công khai, minh bạch cũng được xem xét trong quá trình chấp thuận cho việc cho phép niêm yết tại sở giao dịch. Chính điều này đã tạo cho các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả và tuân thủ luật pháp, bởi lẻ các chứng khoán của họ mới được thị trường chấp nhận và các nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua các chứng khoán. Để tạo khả năng hấp dẫn của chứng khoán đối với công chúng, không cá cách nào khác là doanh nghiệp phải tính toán để quản lý một các có hiệu quả, trên cơ sở đó không ngừng phát huy tính sáng tạo của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp khi tham gia thị trường chứng khoán phải chịu sự kiểm tra, giám sát của sở giao dịch, uỷ ban chứng khoán, ngoài ra còn chịu sự chi phối của các công ty kiểm toán độc lập và công ty đánh giá xếp hạng. Cơ chế hoạt động cử công ty cổ phần cho phép chủ sở hữu chứng khoán có quyền điều hành và quản lý công ty. Thông qua việc nắm chứng khoán có quyền biểu quyết, các chủ sở hữu chứng khoán sẽ tham gia hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành công ty, và sẽ chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, cũng như xu hướng phát triển của công ty. Chính điều này cho phép cơ cấu điều hành của công ty luôn thay đổi, nhằm tìm ra giải pháp làm ăn có hiệu quả và phát huy tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp. * Thị trường chứng khoán tạo thói quen về đầu tư. Chúng ta biết rằng, nguồn tiết kiệm tiềm tàng trong công chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm năng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa phân biệt rõ thế nào là hùn vốn. Chúng ta đã thấy nhiều công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem nguồn vốn của mình như là một loại ký thác và đòi hỏi đơn vị phải bảo đảm một lãi suất tương đương cho phần hùn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao. Thị trường chứng khoán, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu, và các loại chứng khoán cũng như mọi loại nghiệp vụ ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rải người dân sẽ sữ dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên là các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để cho các nhà đầu tư riêng lẻ được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này nếu không có thị trường chứng khoán sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất giử không sinh lợi cho bản thân người tiết kiệm cũng như cho quá trình phát triển của nền kinh tế. Thị trường chứng khoán chẳng những là nơi khuyến khích đầu tư mà tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào thị trường. * Thị trường chứng khoán là công cụ giảm áp lực lạm phát. Ngân hàng trung ương với vai trò điều hành lưu thông tiền tệ, khi xuất hiện hiện tượng lạm phát, ngân hàng trung ương sẽ đem bán các loại kỳ phiếu trên thị trường chứng khoán với lãi suất cao để thu hút bớt số tiền đang lưu thông về. Với chính sách khuyến khích bằng lãi suất và bảo đảm chi trả, dân chúng sẽ sẵn sàng mua kỳ phiếu ngân hàng và từ đó sẽ làm giảm áp lực lạm phát. Nghiệp vụ này của ngân hàng trung ương với mục đích can thiệp vào nền kinh tế gọi là nghiệp vụ thị trường mở(._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35151.doc
Tài liệu liên quan