Vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của Bảo hiểm xã hội Việt Nam

Lời nói đầu Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước. Thì bảo hiểm xã hội ngày một phát triển và trưởng thành nhanh chóng. Bảo hiểm xã hội là một trong những bộ phận cấu thành và đóng vai trò quan trọng trong các chính sách xã hội. Quan điểm này thể hiện tính thống nhất cao cả của các nước về tính xã hội của bảo hiểm xã hội. Nó là một bộ phận không thể thiếu và có tính ổn định trong hệ thống chính sách bảo đảm xã hội. Mục tiêu của

doc33 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của Bảo hiểm xã hội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập mất việc làm. Nhưng trong thực tế, tại đất nước ta số lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội còn rất hạn chế. Sự hạn chế này do những nguyên nhân nào? và làm sao để nghành bảo hiểm xã hội mở rộng được đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội . Do vậy việc nghiên cứu đề tài “vấn đề mở rộng đối tượng tham gia của bảo hiểm xã hội Việt Nam”.Sẽ giúp chúng ta phần nào biết được nguyên nhân từ đó đưa ra một số nhận xét về khó khăn và thuận lợi của việc mở rộng và những kiến nghị giúp cơ quan bảo hiểm xã hội mở rộng được đối tượng tham gia. Từ đó giúp nghành bảo hiểm xã hội phát triển ngày càng vững mạnh. Đáp ứng được yêu cầu xã hội đặt ra. Do có sự hạn chế về khả năng và thời gian nên bài viết chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót và còn nặng về lý luận, em rất mong được sự đóng góp chỉ bảo của các thầy, cô để bài viết được hoàn thiện hơn. Để hoàn thành đề án này được sự giúp đỡ nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn Thạc sỹ Phạm Thị Định, em xin chân thành cảm ơn! Chương I Bảo hiểm xã hội và sự cần thiết mở rộng đối tượng tham gia. I.Thực trạng bảo hiểm xã hội trong thời gian vừa qua. 1.sự phát triển của bảo hiểm xã hội nước ta trong những năm vừa qua. Sau cách mạng tháng 8 thành công, trên cơ sở hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, chính phủ đã ban hành một loạt các sắc lệnh quy định về các chế độ, trợ cấp ốm đau, tai nạn, hưu trí cho công nhân viên chức nhà nước (có sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 ; sắc lệnh 76/SL ngày 20/5/1950 và sắc lệnh ngày 22/5/1950). Cơ sở pháp lý tiếp theo của bảo hiểm xã hội được thể hiện trong hiến pháp năm 1959. Hiến pháp năm 1959 của nước ta đã thừa nhận công nhân viên chức có quyền được trợ cấp bảo hiểm xã hội. Quyền này được cụ thể hoá trong điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước, ban hành kèm theo nghị định 218/CP ngày 27/12/1961 và điều lệ tạm thời về bảo hiểm xã hội đối với công nhân viên chức nhà nước ban hành kèm theo nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 của chính phủ. Suốt trong những năm tháng kháng chiến chống xâm lược, chính sách bảo hiểm xã hội nước ta đã đóng góp phần ổn định về mặt thu nhập, ổn định cuộc sống cho công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ, góp phần rất lớn về động viên sức người sức của cho thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống xâm lược thống nhất đất nước. Đặc điểm của thời kỳ này là: Nguồn kinh phí hoàn toàn do ngân sách nhà nước cấp. áp dụng bắt buộc cho công nhân viên chức nhà nước. Quỹ tài chính Bảo Hiểm Xã Hội nằm trong ngân sách nhà nước. Bảo hiểm xã hội được thực hiện bởi tổng liên đoàn lao động và bộ lao động thương binh và xã hội. Bảo hiểm xã hội thực hiện dưới năm chế độ. Từ năm 1986, Việt Nam tiến hành cải cách kinh tế và tiến hành chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường. Sự thay đổi mới về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách bảo hiểm xã hội nói riêng. Hiến pháp năm 1992 đã nêu rõ: “Nhà nước thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội đối công nhân viên chức nhà nước và người làm công ăn lương, khuyến khích phát triển các hình thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động”. Trong văn kiện Đại hội VII của Đảng Cộng Sản Việt Nam cũng đã chỉ rõ, cần đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội theo hướng mọi người lao động và các đơn vị kinh tế thuộc các thành phần kinh tế đều có nghĩa vụ đóng bảo hiểm xã hội, thống nhất tách quỹ bảo hiểm xã hội ra khỏi ngân sách. Tiếp đến văn kiện Đại Hội Đảng lần thứ VIII cũng đã nêu lên “mở rộng đối tượng bảo hiểm xã hội đối với người lao động thuộc các thành phần kinh tế.” Như vậy, các văn kiện trên của đảng và nhà nước là những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đổi mới chính sách bảo hiểm xã hội nước ta theo cơ chế thị trường. Ngay sau khi bộ luật lao động có hiệu lực ngày 26/1/1995. chính phủ đã ban hành nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 về điều lệ bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các thành phần kinh tế. Nội dung của bản điều lệ góp phần thực hiện mục tiêu của đảng và nhà nước đề ra, góp phần công bằng và sự tiến bộ xã hội, góp phần lành mạnh hoá thị trường lao động và đồng thời đáp ứng được sự mong mỏi của đông đảo người lao động trong các thành phần kinh tế của cả nước. 2.Bản chất của bảo hiểm xã hội đối với người lao động. 2.1 Khái quát về các chính sách bảo đảm xã hội. ở nước ta ngoài bảo hiểm xã hội chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước và xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã hội, trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các quỹ dự phòng của nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm. ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay một số bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với đất nước, liệt sĩ và thân nhân liệt sĩ, thương binh, bệnh binh v v...đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của nhà nước, của xã hội. ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố trí ban ơn mà nó là chính sách có mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội, góp phần củng cố thể chế chính trị của nhà nước trước mắt và lâu dài đảm bảo sự công bằng của xã hội. Mặc dù có nhiều điểm khác nhau về đối tượng và phạm vi song bảo hiểm xã hội, cứu trợ xã hội, ưu đãi xã hội đều là những chính sách xã hội không thể thiếu được của một quốc gia. Những chính sách này luôn bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau và tất cả đều góp phần bảo đảm an toàn xã hội. 2.2 Bản chất của bảo hiểm xã hội Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn ở mặc và đi lại để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều thì cuộc sống con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn.như vậy việc thoả mãn các nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc vào chính khả năng của họ. nhưng trong thực tế, không phải lúc nào con người cũng chỉ gặp thuân lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sống bình thường. Trái lại có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. chẳng hạn bất ngờ bị ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả năng lao dộng và khả năng tự phục vụ bị suy giảm ....khi rơi vào những trường hợp này các nhu cầu trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái lại còn tăng lên, thậm trí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới như cần được điều trị và chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc và nuôi dưỡng v.v... bởi vậy muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như: san sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng;đi vay, đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của nhà nước v.v...rõ ràng, những cách đó là hoàn toàn thụ động và không chắc chắn. Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến. Lúc đầu, người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam kết bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn, thai sản v.v...trong thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi một đồng nào. nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ một lúc phải bỏ ra một khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn và có tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế xã hội .Do vậy nhà nước phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt tăng cường được vai trò của Nhà Nước mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ đóng góp một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất xảy ra đối với người làm thuê. Với cách hiểu như trên, bản chất của bảo hiểm xã hội được thể hiện ở một số nội dung chủ yếu sau đây: - Bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng đa dạng và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm xã hội không vượt qúa tình trạng kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên bảo hiểm xã hội, và bên được bảo hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên bảo hiểm xã hội (bên nhận nhiệm vụ bảo hiểm xã hội) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà Nước lập ra và bảo trợ. Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động và gia đình họ có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong bảo hiểm xã hội có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp...hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già thai sản v.v...đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc bị mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của nhà nước. - Mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc mất việc làm. II. Tình hình tham gia bảo hiểm xã hội Việt Nam hiện nay. 1.Số người lao động tham gia bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay. Theo bộ luật lao động về bảo hiểm xã hội, trong đó quy định các đối tượng sau đây phải áp dụng các chế độ bảo hiểm xã hội : - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhà nước. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên. - Người lao dộng việt nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại việt nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. - Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể. - Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang. - Người giữ chức vụ dân cử , bầu cử làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp; người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung ương đến cấp huyện. Các đối tượng trên đi học, thực tập, công tác điều dưỡng ở ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện bảo hiểm xã hội bắt buộc. Tuy nhiên, số người được tham gia vào bảo hiểm xã hội ở nước ta vẫn rất thấp. Theo số liệu thống kê năm 2001 cho chúng ta thấy: tổng số người được tham gia vào bảo hiểm xã hội là:4.403.870 người, tăng 161.140 người so với năm 2000 có nghĩa là số người chỉ tăng 3.8% so với năm 2000. Căn cứ vào những con số trên có thể cho ta thấy một cách rõ nét rằng tốc độ tăng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội vẫn còn rất hạn chế. Có thể khẳng định gần hoàn toàn số đối tượng tham gia này là thuộc loại đối tượng phải tham gia bắt buộc.Trong đó phần lớn là người lao động làm việc trong các khu vực nhà nước. Chúng ta cũng có thể rễ ràng lý giải được tình trạng trên bởi vì những đối tượng này làm công ăn lương, hưởng lương từ ngân sách nhà nước. ở đây người sử dụng lao dộng chính là nhà nước (đóng 15% so với tổng quỹ lương). Còn lại một tỷ lệ tương đối nhỏ trong tổng số tham gia là người lao động làm việc trong khu vực ngoài quốc doanh có sử dụng 10 lao động trở lên, các doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... đây cũng là một thực trạng ở việt nam chúng ta. Có thể đưa ra một số lý do cơ bản chủ yếu sau: Trình độ nhận thức của người lao động về bảo hiểm xã hội chưa cao. Họ chỉ xuy nghĩ trước mắt là không muốn mất đi 5% từ tiền lương của mình. Đây là thu nhập có thể giúp họ chi tiêu cho cuộc sống đặc biệt đối với những gia đình có mức sống thấp, ít có tích luỹ. - Các doanh nghiệp là phía người sử dụng lao động họ phải đóng góp một phần tương đối lớn cho người lao động mà họ sử dụng(15% tổng quỹ lương). Do vậy họ tìm cách né tránh chốn đóng. Điều này dẫn đến số lượng lao động tham gia vào bảo hiểm xã hội chưa cao. - Quy chế quản lý công tác thu của cơ quan bảo hiểm xã hội chưa cao làm cho các chủ sử dụng lao động có thể chốn tránh được. 2.Tổng số lực lượng lao động của nước ta hiện nay. 2.1.Khái niệm lực lượng lao động. Lực lượng lao động là bộ phận của nguồn lao động bao gồm những người trong độ tuổi lao động, đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song có nhu cầu tìm việc. Như vậy lực lượng lao động là bộ phận tạo ra sản phẩm cho xã hội góp phần phát triển nền kinh tế của đất nước. 2.2.Lực lượng lao động ở nước ta hiện nay. Với đặc thù của nước ta là một đất nước đang phát triển. Nước ta có một cơ cấu dân số trẻ, quy mô của lao động chiếm 59.3% dân số. Với đặc điểm cơ cấu trên cho ta thấy một số lợi thế và hạn chế của nguồn lao động sau: - Thuận lợi: với đặc điểm của dân số nước ta là dân số trẻ. Do đó, đây là lực lượng rồi rào cho việc sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ phục vụ quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước; lực lượng lao động trẻ có sức khoẻ, năng động ,sáng tạo trong lao động. Đặc biệt có một lực lượng lao động được đào tạo qua trường lớp. Họ có thể làm việc trong những nghành nghề nặng nhọc, những nghành nghề đòi hỏi kỹ thuật cao. - Khó khăn: Đây là lực lượng lao động trẻ mặc dù được qua đào tạo nhưng còn nặng về lý thuyết, thiếu kinh nghiệm thực tiễn do vậy đòi hỏi phải qua rèn luyện trong thực tế. Ngoài ra,tính ổn định trong công việc chưa cao. Lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tập trung ở nông thôn. Theo số liệu thống kê cho thấy 73% lực lượng lao động tập trung ở nông thôn. Đây là khu vực có đặc thù là lao động theo mùa vụ thu nhập thấp chỉ khoảng 255.000(đồng)/1 người/1 tháng.Thu nhập trong gia đình phần lớn là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu tối thiểu. Số lao động còn lại (27% ) là lao động làm việc trong lĩnh vực nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài... Số lao động làm việc trong lĩnh vực này có thu nhập ổn định được sự quản lý của nhà nước trong việc thực hiện các chế độ chính sách đối với người lao động. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay tình hình đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hiện tượng trốn tránh và nợ đọng nhiều. Hầu hết các doanh nghiệp có sử dụng lao động mà không thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc thì tham gia còn hạn chế. Trong đề tài này, chúng ta sẽ tập trung vào việc nghiên cứu để có thể đưa ra những biện pháp tăng cường công tác thu quỹ đối với các doanh nghiệp còn nợ đọng và chốn tránh. Đây là những doanh nghiệp thuộc diện bắt buộc phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mở rộng cho những người lao động trong các doanh nghiệp không thuộc diện bắt buộc có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội. Đặc biệt là tạo điều kiện cho người lao động làm việc trong khu vực nông thôn có thể tham gia vào bảo hiểm xã hội. Đảm bảo quyền lợi công bằng đối với mọi người lao động trong xã hội( không phân biệt ngành nghề, giàu nghèo... ). III. Sự cần thiết mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội việt nam. 1.Vai trò của bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội ở việt nam. Việt nam là một nước đông dân (77 triệu người, đứng hàng thứ 12 trên thế giới), nhưng lại là một trong những nước nghèo nhất thế giới (với thu nhập bình quân đầu người chưa đến 400USD/năm). Vì vậy, an sinh xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội nói riêng có ý nghĩa rất to lớn đối với người dân và người lao động. Qua gần 40 năm thực hiện, chính sách bảo hiểm xã hội đã phát huy dần từng bước, từ chỗ đối tượng bảo hiểm xã hội chỉ là công nhân viên chức nhà nước, đến nay đã mở rộng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Tính đến nay đã có khoảng 4 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội và gần 2 triệu người đang hưởng các trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên. Chính sách bảo hiểm xã hội đã góp phần to lớn vào việc ổn định đời sống cho người lao động thụ hưởng bảo hiểm xã hội; góp phần ổn định chính trị xã hội đất nước. Tuy nhiên, so với tỷ lệ lao động cả nước thì tỷ lệ lao động tham gia bảo hiểm xã hội còn thấp. Những người lao động trong khu vực phi kết cấu, lao động trong khu vực nông nghiệp và lao động trong các doanh nghiệp có sử dụng dưới 10 lao động chưa được tham gia vào bảo hiểm xã hội, chưa được sự bảo vệ của hệ thống. Điều này đã làm tăng nguy cơ gánh nặng của hệ thống an sinh xã hội. Nghĩa là tăng nguy cơ cho các chi phí công cộng để trợ giúp cho các đối tượng này. Theo một số dự báo, dân số nước ta tiếp tục tăng trong 20 năm tới, mặc dù tốc độ tăng đã giảm. có thể thấy điều này qua các số liều sau: Đơn vị tính: 1000 (người) năm Dân số Dân số từ 15 – 49 tuổi 2000 77.700 21.066 2005 82.500 23.663 2010 87.400 25.501 2015 92.300 25.958 2020 97.100 26.237 (Nguồn: chương trình mục tiêu phát triển dân số – uỷ ban dân số và kế hoạch hoá gia đình). Đến những năm 30 của thế kỷ này, dân số nước ta sẽ đạt 100 triệu người và lực lượng lao động khoảng 49 triệu người. Đây là lực lượng lao động đông đảo có thể tham gia bảo hiểm xã hội nếu như chính sách bảo hiểm xã hội được mở rộng và như vậy sẽ có khoảng 50% dân cư đã được bảo vệ bởi hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Hay nói cách khác, nguy cơ rủi ro trong lao động của gần 50% dân cư đã được bảo vệ bởi các chế độ bảo hiểm xã hội. Điều này đã giảm chi phí công cộng để để thực hiện các trợ giúp xã hội tối thiểu. Xét dưới khía cạnh kinh tế, khi các chi phí công cộng cho trợ giúp xã hội giảm đi thì số tiền từ ngân sách và xã hội sẽ được đầu tư vào các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, làm cho đời sống của người dân được “an sinh” hơn. Đây là ý nghĩa rất lớn lao của sự mở rộng và phát triển bảo hiểm xã hội trong hệ thống an sinh xã hội quốc gia. Hệ thống bảo hiểm xã hội được mở rộng góp phần giảm bớt những đối tượng cần trợ giúp xã hội. Hiện nay ở việt nam, những đối tượng cần trợ giúp rất nhiều như những người già cô đơn không nơi nương tựa ( khoảng 300.000 người), người tàn tật (khoảng 4 triệu), trẻ em mồ côi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn (khoảng 200 ngàn người),người nghèo (chiếm 11% số hộ cả nước)... những đối tượng này ( không phải tất cả) nếu được tham gia vào các hệ thống bảo hiểm xã hội ( hoặc bắt buộc hoặc tự nguyện ), đặc biệt là lao động nông thôn và nông dân, nơi chiếm 80% dân số và trên 70% lực lượng lao động cả nước, thì họ phần nào được sự bảo vệ của hệ thống, được sự san sẻ của những người cùng tham gia bảo hiểm như vậy gánh nặng của ngân sách, của các quỹ công cộng và của cộng đồng sẽ nhẹ bớt. Điều này cũng có nghĩa là hệ thống an sinh xã hội quốc gia càng đảm bảo và phát triển.Tất nhiên, để đạt được sự an sinh xã hội nói chung, không chỉ là tự thân của hệ thống mà còn phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội chung của đất nước. 2. Tỷ lệ tham gia của số người lao động thấp. Tính đến năm 2000 số người tham gia bảo hiểm xã hội tăng 69% so với năm 1995. cũng trong năm 2000 số người hưởng bảo hiểm xã hội trên số người nộp bảo hiểm xã hội là 45,9%. Tuy nhiên, theo số liệu năm 2001 số người tham gia bảo hiểm xã hội còn rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10,5% tổng số lực lượng lao động và chiếm 68,3% tổng số lao động phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc và đại đa số người tham gia bảo hiểm xã hội là lao động trong khu vực nhà nước (87,4%). Số người tham gia bảo hiểm xã hội của khu vực ngoài nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn (12,6%) Nguyên nhân chính là do đại đa số người lao động không hiểu ý nghĩa của bảo hiểm xã hội mà coi đó như là một trong những hoạt động bảo hiểm thương mại. Người sử dụng lao động thường có xu hướng né tránh nộp bảo hiểm xã hội cho người lao động hay chỉ ký kết hợp đồng ngắn hạn dưới 3 tháng. Do những quy định bắt buộc của pháp luật về bảo hiểm xã hội nên một số lớn người lao động và người sử dụng lao động khi tham gia bảo hiểm xã hội. Mặt khác, các biện pháp kiểm tra thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ít hiệu quả nên nhiều người sử dụng lao động sẵn sàng nộp phạt để không phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động. Từ năm 1962, nhà nước đã có chính sách bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với công nhân viên chức trong biên chế nhà nước. Cho đến năm 1995 chính sách bảo hiểm xã hội được mở rộng đến người lao động làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, ở những doanh nghiệp có sử dụng 10 lao động trở lên. Song, trong tổng số khoảng 40 triệu người trong độ tuổi lao động của cả nước thì mới chỉ có 10,5% tham gia vào bảo hiểm xã hội bắt buộc và cũng chủ yếu cho lao động ở khu vực nhà nước. Như vậy, còn khoảng 89,5% lực lượng lao động chưa tham gia bảo hiểm xã hội. Trong đó, 62,27% lao động ở nông thôn (bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ). Do vậy việc thể chế hoá chính sách bảo hiểm xã hội để mọi người lao động đều được quyền tham gia và hưởng bảo hiểm xã hội là cần thiết và có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đặc biệt đối với nông dân, việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội tao được môi trường pháp lý để người nông dân tiết kiệm một phần thu nhập và tích luỹ những năm tháng lao động của mình. Nhằm đảm bảo cuộc sống ổn định khi tuổi già và không phải lo dựa vào con cháu cũng như sự cứu tế của xã hội. Đây cũng là giải pháp quan trọng để ổn định chính trị xã hội ở nông thôn trong tình hình hiện nay, đáp ứng mong muốn chính đáng của người nông dân. 3.Bảo hiểm xã hội góp phần thực hiện công bằng xã hội. Bảo hiểm xã hội tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa người tham gia vào bảo hiểm xã hội.Tham gia vào bảo hiểm xã hội bao gồm những người có mức thu nhập khác nhau, lao động trong những nghành nghề khu vực kinh tế khác nhau. hay nói một cách tổng quát, tham gia vào bảo hiểm xã hội bao gồm cả người lao động và người sử dụng lao động. Các bên tham gia vào bảo hiểm xã hội đều phải đóng một tỷ lệ nhất định của tiền lương. Từ đó hình thành nên quỹ bảo hiểm xã hội. Quỹ này được quản lý bởi cơ quan nhà nước. Khi người lao động tham gia không may gặp phải các rủi ro dẫn đến bị giảm hoặc mất thu nhập. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống của họ mà còn ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình họ. Nhờ có quỹ bảo hiểm xã hội mà những người này được trợ cấp một phần nào đó đủ để giúp họ vượt qua những khó khăn ổn định cuộc sống. Nhưng số lượng người gặp rủi ro này thường chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, bảo hiểm xã hội thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, bằng hình thức trợ cấp. Bảo hiểm xã hội phân phối lại thu nhập giữa những người lao động có thu nhập thấp và thu nhập cao, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu nghỉ việc thông qua hình thức đóng góp tạo nên quỹ chung... Như vậy, bảo hiểm xã hội góp phần tạo ra sự công bằng giữa các thành viên trong xã hội. Tạo điều kiện cho các thành viên trong xã hội có thể gián tiếp giúp đỡ hỗ trợ nhau. Khi một số ít các thành viên không may gặp rủi ro. Từ đó, phát huy truyền thống lá lành đùm lá rách của dân tộc ta. 4. Bảo hiểm xã hội góp phần ổn định cuộc sống cho người lao động khi gặp khó khăn. Khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm thì phần thu nhập này sẽ được thay thế hoặc bù đắp một phần. Theo quy luật sinh học thì con người suy cho cùng cũng là một sinh vật sống cũng trải qua các giai đoạn phát triển sinh học. Khi còn trẻ có đầy đủ sức khoẻ thì có thể lao động tạo ra của cải vật chất để nuôi sống mình và gia đình. Nhưng khi về già sức khoẻ bị giảm sút không còn khả năng lao động đây là một tất yếu không một ai có thể tránh khỏi. Như vậy ,sự đảm bảo bù đắp thay thế này chắc chắn sẽ xảy ra. Còn khi người lao động bị mất việc làm hoặc mất khả năng lao động tạm thời (ốm đau, tai nạn....)dẫn đến giảm hoặc mất thu nhập thì thông qua bảo hiểm xã hội sẽ được trợ cấp một phần thu nhập để họ có thể vượt qua những khó khăn. Việc bù đắp phần thu nhập khi người lao động hết tuổi lao động thì phải theo điều kiện quy định cụ thể. Còn mức hưởng trợ cấp tạm thời phải phụ thuộc vào các điều kiện cần thiết,thời điểm và thời hạn hưởng phải đúng quy định. 5. Bảo hiểm xã hội góp phần kích thích người lao động hăng hái lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. Khi người lao động bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, hoặc khi về già thì lúc này người lao động gặp rất nhiều khó khăn đồng thời trở thành ghánh nặng cho xã hội nhờ có bảo hiểm xã hội mà họ được trợ cấp, thay thế phần thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn được đảm bảo ổn định và có chỗ dựa. Do đó, người lao động luôn yên tâm gắn bó với công việc, nơi làm việc. Khi người lao động còn khoẻ mạnh tham gia lao động sản xuất, người lao động được chủ sử dụng lao động trả lương hoặc tiền công. Bởi vì, do có sự đảm bảo cho cuộc sống của họ cũng như gia đình họ từ đó họ rất tích cực hăng say trong lao động sản xuất, không ngừng tìm tòi đưa ra những sáng tạo trong lao động sản xuất tiết kiệm được nguyên vật liệu. Từ đó nâng cao năng xuất lao động, giảm được chi phí sản xuất dẫn đến tăng lợi nhuận. Tác dụng này biểu hiện như một đòn bẩy kinh tế kích thích người lao động nâng cao năng xuất lao dộng cá nhân và kéo theo là năng suất lao động xã hội. Điều này làm tăng tổng sản phẩm quốc dân góp phần phát triển nền kinh tế đất nước trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hoá đất nước hiện nay. 6. Bảo hiểm xã hội gắn bó lợi ích người lao động và người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. Trong thực tế lao động sản xuất, người lao động và người sử dụng lao động vốn có những mâu thuẫn nội tại, khách quan về tiền lương (người sử dụng lao động thì muốn trả một mức tiền công nhỏ để tối đa hoá lợi nhuận còn người lao động lại muốn có tiền công lao động cao để chi tiêu cho cuộc sống), tiền công thời gian lao động v.v...thông qua việc cùng nhau đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội mà những mâu thuẫn này được giải quyết. Đặc biệt, cả hai giới này đều thấy nhờ bảo hiểm xã hội mà mình có lợi và được bảo vệ từ đó làm họ hiểu nhau hơn và gắn bó được lợi ích được lại với nhau. 7.Một số tác dụng khác của bảo hiểm xã hội. Trong trường hợp người lao động bị ốm đau, bệnh tật, mất việc...nếu không có sự trợ cấp của bảo hiểm xã hội hoặc không có một nguồn nào khác để giúp họ chi tiêu cho nhu cầu tối thiểu thì núc đó sẽ dẫn đến chính bản thân người lao động cùng với người phụ thuộc trong gia đình họ lâm vào tình trạng khó khăn (thiếu ăn con cái không có tiền ăn học ...). Điều này có thể dẫn đến các tệ nạn xã hội (trộm cắp, cướp giật) nếu xảy ra trong một phạm vi nhỏ thì làm mất trật tự an ninh ở một khu vực. Nếu xảy ta ở diện rộng thì sẽ ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước. Nhờ có bảo hiểm xã hội mà đảm bảo cuộc sống của họ thông qua hình thức trợ cấp từ đó bảo hiểm xã hội đã gián tiếp giúp ổn định an ninh, chính trị của đất nước. Xét trên cấp độ của một xã hội thì thông qua hình thức bảo hiểm nói chung, bảo hiểm xã hội nay riêng đã góp phần làm giảm tổng rủi ro cho xã hội hay nay cách khác nó đã làm giảm tính không chắc chắn.Thông qua việc thu phí bảo hiểm. Dựa trên quy luật số lớn để hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm dự trữ để bồi thường những thiệt hại do những rủi ro gây ra. Như vậy, để đảm bảo quy luật số đông bù số ít thì bảo hiểm xã hội phải mở rộng đối tượng tham gia một cách rộng rãi. Thông qua hình thức bảo hiểm xã hội đã giúp các doanh nghiệp giảm được các khó khăn về tài chính, nhân sự khi người lao động của mình không may gặp rủi ro. Đặc biệt đối với những người lao động có vị trí quan trọng trong doanh nghiệp. Qua đó đảm bảo cho nhà sản xuất ổn định được quá trình sản xuất trong mọi điều kiện xảy ra. Như vậy bảo hiểm xã hội đã tạo điều kiện gần như tốt nhất cho sản xuất về mức độ giá, cấu trúc giá. Đặc biệt nó giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vững vị trí cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn. Do đó, với việc mở rộng đối tượng tham gia ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ (ví dụ ở các doanh nghệp có sử dụng dưới 10 lao động. Sẽ phát huy được các tác dụng trên của bảo hiểm xã hội. ở nước ta hiện nay, chế độ bảo hiểm xã hội mới chỉ do nhà nước thực hiện. Bảo hiểm xã hội đã có 61 chi nhánh ở 61 tỉnh thành trên đất nước ta.Số lượng này phản ánh được chủ trương chính sách của nhà nước ta trong việc thực hiện các chính sách xã hội. Hệ thống bảo hiểm xã hội của đất nước ta là rất lớn nó thu hút một số lượng lớn lao động làm việc trong nghành này. Nếu mở rộng đối tượng tham gia vào bảo hiểm xã hội thì nghành bảo hiểm xã hội phải mở rộng công tác thu phí bảo hiểm, công tác quản lý và đầu tư quỹ, công tác chi trả chế độ. Sẽ cần thêm một số lượng lao động đáng kể làm việc trong nghành này như vậy ta thấy với việc mở rộng thì nó đã góp một phần nào đó trong việc giải quyết vấn đề thất nghiệp hiện nay. Đặc biệt nó đã tạo ra cơ hội việc làm cho các sinh viên chuyên nghành bảo hiểm khi ra trường. Để bảo tồn và phát triển quỹ đảm bảo chi trả thì các công ty bảo hiểm nói chung và cơ quan bảo hiểm xã hội nay riêng phải đem đầu tư quỹ. Hiện nay, trên thế giới nghành bảo hiểm đóng góp từ 10% đến 15% tổng thị trường._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docD0149.doc
Tài liệu liên quan