Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Đảng ta khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [14, tr. 108-109]. Ở đây những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục đại học là xây dựng một đội ngũ trí thức có nhân cách đạo đức trong sáng, làm chủ về chuyên môn nghi

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1430 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ tạo ra hệ điều chỉnh bên trong, tự giác, tự nguyện; làm cho sự quan tâm của con người đối với người khác cũng như đối với lợi ích của xã hội trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích cực trong mỗi con người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát triển con người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và cơ chế thị trường hiện nay. Việt Nam, sau hơn 15 năm đổi mới, chuyển sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng tự hào. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường lại là mảnh đất màu mỡ nảy sinh nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu đạo đức, những giá trị đạo đức đích thực. Mặt khác, các thế lực thù địch đang tiến công chúng ta trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống, nhất là đối với thanh niên, sinh viên. Và thực tế ngày nay, đáng lo ngại là một bộ phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và tiền đồ đất nước. Như vậy, đổi mới, mở cửa, thuận lợi, khó khăn, thời cơ, nguy cơ đan xen nhau. Trong đó, nhân tố đạo đức, giá trị của đời sống tinh thần của sinh viên đang trở thành điểm nóng trong sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc nghiên cứu vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết. 2. Tình hình nghiên cứu Về vấn đề xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay nói chung đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau: - Nhóm các tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức đã làm rõ tính chất hai mặt của kinh tế thị trường và tác động của nó đối với đời sống đạo đức: GS.TS Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 1-2, 1987; TS Nguyễn Thế Kiệt: "Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Tạp chí Triết học 6/1996; PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 2/1997; - Một số tác giả quan tâm nghiên cứu sự biến đổi của đạo đức và thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta: PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999; Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998. - Nhân cách sinh viên và giáo dục nhân cách sinh viên là vấn đề được nhiều tác giả đặc biệt quan tâm: "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể các nhà khoa học Liên Xô (cũ), nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin phát hành năm 1983; "Nhân cách của người sinh viên" của tập thể các nhà khoa học trường đại học Lêningrát, Tủ sách Đại học Kinh tế kế hoạch năm 1981; Lê Diệp Đĩnh: "Thực trạng tâm lý xã hội của sinh viên và vấn đề giáo dục nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học bảo vệ năm 1995; Trần Sỹ Phán: "Giáo dục đạo đức với việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ triết học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1999... Về xây dựng nhân cách đạo đức có tác giả quan tâm nghiên cứu ở phương diện chung: Trần Thị Tuyết Sương: "Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, bảo vệ tại Viện Triết học 1998... Nhìn chung, các công trình kể trên đã có nhiều đóng góp trong việc làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức với việc xây dựng và giáo dục nhân cách cho sinh viên, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3.1. Mục đích: Qua khảo sát nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay tại một số trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam, luận văn đưa ra các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam. 3.2. Nhiệm vụ của luận văn Để đạt được mục đích nói trên, luận văn đã thực hiện những nhiệm vụ cơ bản như sau: - Góp phần làm rõ khái niệm nhân cách đạo đức và những nhân tố cơ bản quy định sự phát triển nhân cách đạo đức của sinh viên. - Phân tích tầm quan trọng của việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. - Tìm hiểu thực trạng của nhân cách đạo đức sinh viên các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam. - Đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh viên trong một số trường đại học tiêu biểu được chọn làm khảo sát, làm rõ sự biến đổi nhân cách đạo đức trong sinh viên từ sau đổi mới đất nước đến nay. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; các phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê... cũng được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài. 6. Cái mới của luận văn - Luận văn góp phần làm rõ thực trạng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam. - Đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng nhân cách đạo đức mới cho sinh viên hiện nay. 7. Ý nghĩa của luận văn Luận văn góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề bức thiết của môn Đạo đức học và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xã hội: nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh viên trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Trên bình diện nghiên cứu và những kết quả đã đạt được, chúng tôi hy vọng luận văn sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên dạy và học môn Đạo đức học. Luận văn có ý nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục và xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY 1.1. NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN QUI ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN 1.1.1. Nhân cách Tư tưởng về nhân cách xuất hiện từ Arixtôt (384 - 322 TCN) - nhà Triết học cổ đại Hy Lạp - khi ông cho rằng, con người là "sinh vật chính trị" (Joon poltikon). Ở đây, bước đầu Arixtôt đã thấy được vai trò của tác động xã hội, của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển con người như là một nhân cách. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên, hai nhà tâm lý học người Đức Dilthey và Spranger mới đưa ra khái niệm nhân cách. Theo hai ông, nhân cách là cái "mặt nạ" có tính chất xã hội của cái tôi bên trong; khi nào cái "mặt nạ" đó trùng với cái tôi thì nhân cách phát triển chín muồi [24, tr. 42]. Đến nay, nhân cách được nghiên cứu, định nghĩa dưới nhiều góc độ khác nhau, những đại biểu nổi tiếng như: S.Freud với thuyết "Phân tâm học" coi bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay sinh vật hóa bản chất nhân cách, coi nó là bản năng tình dục; J.H.eysenck coi nhân cách là một dạng nào đó của ý thức trí tuệ và ý thức đạo đức thực hiện sự tự chủ trong bối cảnh tương tác; A.A.dler với thuyết "Siêu đẳng bù trừ", G.Allport với thuyết "đặc trưng" và năm 1949 ông đã đưa ra trên 50 định nghĩa khác nhau về nhân cách... Đại biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa Nhân bản triết học tư sản thế kỷ XX là M.Sêlơ - một nhà triết học Đức - cho rằng: "Bản chất vốn có của con người không gắn với tồn tại của nó về mặt sinh vật và xã hội mà nằm trong tinh thần của nó, trong khả năng của con người trở thành nhân cách" [7, tr. 23]. Theo quan niệm của ông con người không tồn tại thực mà con người chỉ là một bộ phận của thực tại tinh thần. Nhìn chung, các học thuyết trên hoặc xem nhân cách như là sự đáp ứng nhu cầu sinh học thuần túy, hoặc xem nhân cách chỉ có tính chất thuần túy của cá nhân con người mà không thấy được tính quyết định của vai trò xã hội trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Triết học Mác ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tư tưởng của nhân loại. Theo đánh giá của V.I. Lênin, triết học Mác đã khắc phục được những thiếu sót lớn nhất của lịch sử triết học: Chủ nghĩa duy tâm "không thấy được" điểm xuất phát là từ hiện thực khách quan, chủ nghĩa duy vật siêu hình "không thấy được" vai trò tích cực của chủ thể con người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, con người là thực thể sinh học xã hội. Mặt sinh học và mặt xã hội có mối quan hệ bao chứa lẫn nhau, chế ước lẫn nhau. Mặt sinh học không thuần túy là sinh học mà là sinh học - xã hội. Mặt xã hội không trừu tượng, trống rỗng, hư vô mà nó là sự phản ánh hiện thực của tồn tại sinh học - xã hội. Như vậy, con người không chỉ xuất hiện và tuân theo nhờ những qui luật tiến hóa hữu cơ mà nó còn chịu sự tác động của những qui luật xã hội. Sự hoàn thiện bản chất xã hội trong con người cũng đồng thời là quá trình hoàn thiện về nhân cách, trong quá trình này, cái sinh học ngày càng được xã hội hóa, nhân tính hóa nhiều hơn. Nhân cách được hình thành và phát triển trong quá trình sống, lao động, quan hệ giao tiếp... Tuy nhiên, trên lập trường triết học mác xít, giữa các nhà khoa học cũng có nhiều định nghĩa khác nhau về nhân cách: Chẳng hạn "Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội của cá nhân thể hiện trong cá nhân, ngoài cá nhân, thông qua hoạt động giao tiếp của cá nhân ấy" [4, tr. 74]; "Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý của cá nhân đã hình thành và phát triển từ trong các quan hệ xã hội" [53, tr. 80] hoặc "Khái niệm nhân cách được thể hiện là toàn bộ đời sống" tinh thần và xã hội của con người bao gồm "tầng" xã hội và "tầng" tâm lý trong con người. Khái niệm này cho phép hiểu bản chất Người ở mỗi cá nhân, cái tư cách làm Người của nó, cái phân biệt nó với giống loài động vật. Tuy nhiên, nhân cách là một khái niệm phức tạp, cần được tiếp cận từ nhiều phía..." [49, tr. 28] và có hàng trăm định nghĩa khác nhau về nhân cách và mỗi ngành khoa học lại tiếp cận nhân cách từ góc độ nghiên cứu đặc thù của mình, đi sâu vào mặt này, hoặc mặt khác của nhân cách, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của ngành đó. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các quan điểm đó tập hợp thành hai khuynh hướng cơ bản: - Một là: Coi nhân cách như là đặc trưng, chức năng, vai trò, vị trí của con người trong xã hội. - Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [48, tr. 11]. Chúng tôi thống nhất với khuynh hướng thứ hai coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người. Khi bàn về vấn đề con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt chú ý tới bản chất xã hội của con người, lý giải các quan hệ xã hội tham gia vào sự hình thành bản chất ấy cũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động thực tiễn đối với sự bộc lộ những sức mạnh bản chất Người, tới sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách Người. Mác đưa ra nhận xét bản chất con người đặc thù không phải là râu của nó, không phải là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà chính là phẩm chất xã hội của nó. "Mỗi quan hệ của anh ta đối với con người và đối với giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực" [34, tr. 136]. Như vậy, con người là một thực thể sinh học - xã hội mang bản chất xã hội, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội, phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người. Nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữa yếu tố xã hội và cá nhân trong mỗi con người. Sự thống nhất này tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển nhân cách. Triết học Mác - Lênin xem nhân cách như là một chỉnh thể cá nhân, có tính lịch sử - cụ thể. Nó tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể của nhận thức và của sự phát triển xã hội [7, tr. 33] Nói đến nhân cách, trước hết là nói tới nhân cách của con người hiện thực, gắn liền với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của những hoàn cảnh xã hội, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Nó là kết quả của hoạt động người trong quá trình họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự giáo dục của bản thân. Quá trình này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự phát triển nhân cách mà còn là phương diện chủ yếu để tạo ra diện mạo nhân cách đạo đức con người. Ở đây, các nhân tố sinh vật di truyền, tâm sinh lý và xã hội xoắn xuýt với nhau. Đối với sự phát triển nhân cách, cải tạo sinh vật di truyền và tâm sinh lý là cơ sở sinh vật, là những điều kiện tự nhiên, mà trên cơ sở đó hình thành nên những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người. Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, cụ thể có mối quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên, xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân mang nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá những hành vi của bản thân mình, vừa có khả năng đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác. Quá trình tự đánh giá và được đánh giá đó là quá trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình và cho người khác theo yêu cầu chung của nhân cách xã hội. Nói cách khác, nhân cách là những phẩm chất bên trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của xã hội và của bản thân cá nhân để cá nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm của mình với bản thân, với xã hội. Do đó, nhân cách cá nhân bị chi phối bởi nhân cách xã hội, phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy mình qua những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá nhân. 1.1.2. Nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên Nhân cách đạo đức: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức của nhân cách (nhu cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức ...) được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, được thể hiện, thực hiện trong toàn bộ hoạt động sống của mình như một cá nhân. Nếu nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa đức và tài, của những thuộc tính, phẩm chất, xu hướng... bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, dùng để phân biệt cá nhân này và cá nhân khác thì nhân cách đạo đức lại thể hiện năng lực đạo đức cá nhân, là ý thức, tình cảm, lý tưởng đạo đức cá nhân. Nhân cách là một khái niệm rộng bao hàm trong nó phương diện đạo đức, phương diện thẩm mỹ, phương diện nhận thức... hoặc nói cách khác nhân cách bao gồm những phẩm chất đạo đức, phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức... tức là những phẩm chất xã hội của con người. Những phẩm chất xã hội ấy được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của con người chứ không phải do thiên phú hay là những phẩm chất bẩm sinh. Vì vậy, tất yếu trong cấu trúc của nhân cách phải bao gồm phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức và phẩm chất đạo đức của cá nhân. Tuy nhiên, sự tham gia của nhân cách đạo đức trong cấu trúc của nhân cách không chỉ được hiểu đơn giản chỉ là yếu tố cấu thành lên nhân cách, dù là yếu tố nền tảng. Sự tham gia đó biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa nhân cách và nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức phát triển sẽ là "chất men" kích thích sự phát triển của trí tuệ, của tư duy sáng tạo và năng lực thực tiễn của nhân cách. Nói đến nhân cách đạo đức là có ý thức nhấn mạnh phẩm chất đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái gốc" làm nên nhân cách con người. Nhân cách đạo đức có sự tương đồng và khác biệt so với đạo đức. Theo quan điểm triết học mác xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Xét theo góc độ về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất thì đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân (nhân cách đạo đức). Trong đó, nhân cách đạo đức được xem là yếu tố quan trọng nhất, đóng vai trò trung tâm chỉ đạo, thể hiện năng lực thực hiện những hành vi đạo đức trong thực tiễn, cũng như việc lựa chọn, tiếp thu những lý tưởng, chuẩn mực, đánh giá đạo đức truyền thống, biến kinh nghiệm xã hội thành kinh nghiệm bản thân... Hiện nay, xoay quanh những nội dung của phẩm chất đạo đức cá nhân (nhân cách đạo đức) cũng còn có nhiều ý kiến, nhiều xu hướng khác nhau: - Xu hướng thứ nhất, đồng nhất những phẩm chất đạo đức cá nhân với những nguyên tắc của đạo đức cộng sản, được biểu hiện bởi tình yêu đối với lao động, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa quốc tế... Xu hướng này có yếu tố hợp lý vì nguyên tắc đạo đức cộng sản chính là cơ sở nhân sinh quan mới, chỉ đạo mọi hoạt động của con người. Tuy nhiên, xu hướng này có yếu tố không hợp lý vì các nguyên tắc đạo đức cộng sản chỉ là cơ sở lý luận, có tính chất định hướng về mặt tư tưởng, những tiêu chuẩn bên ngoài mà mỗi người cần hướng tới. Nó chưa phải là những tính cách với ý nghĩa là một bộ phận cấu thành nhân cách cá nhân. - Xu hướng thứ hai, đồng nhất đạo đức cá nhân với những qui tắc, chuẩn mực cụ thể trong từng lĩnh vực hoạt động nhất định. Dù cụ thể hơn, nhưng những nguyên tắc, những qui tắc và chuẩn mực vẫn chỉ được coi là những yêu cầu chung cho tất cả các cá nhân trong từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Trước những yêu cầu chung ấy, mỗi cá nhân hành động theo nhận thức của mình. Vì vậy, nếu đồng nhất đạo đức cá nhân với những qui tắc, những chuẩn mực đạo đức sẽ tạo ra mô hình phát triển rập khuôn, hạn chế sự phát triển độc lập của mỗi cá nhân. Đây là điều hoàn toàn không có trong hiện thực! - Xu hướng thứ ba, quan niệm: phẩm chất đạo đức cá nhân không thể chỉ là những yêu cầu chung của đạo đức xã hội mà nó còn phải là những nét tính cách mang ý nghĩa tâm lý đạo đức của con người cấu thành nên nhân cách cá nhân. Đó là sự thống nhất giữa giữa lý tưởng và hiện thực cuộc sống, giữa trí tuệ, tình cảm và hoạt động thực tiễn của các cá nhân. Thống nhất với xu hướng thứ ba, chúng tôi đi vào phân tích một số đặc trưng của nhân cách đạo đức. Nhu cầu đạo đức: Nhân cách con người chỉ thực sự hình thành và phát triển thông qua sự phát triển của hoạt động của con người. "Nền tảng của nhân cách là những quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người mà vốn do tiến trình phát triển của những hoạt động ấy tạo ra" [31, tr. 128], mà yếu tố có liên quan chặt chẽ tới hoạt động và giữ vai trò động lực của hoạt động là nhu cầu. Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm xu hướng của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và trách nhiệm của bản thân. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới lối sống và hoạt động của cá nhân [24, tr. 51]. Nhu cầu của con người hết sức đa dạng. Trong tổng hệ nhu cầu có nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Trong nhu cầu tinh thần có nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu đạo đức... Nhu cầu đạo đức là nhu cầu con người hướng tới cái thiện, là động lực của những hành động thiện. Đó cụ thể là nhu cầu tương trợ giúp đỡ người khác, nhu cầu phục vụ tự nguyện tự giác lợi ích của người khác, lợi ích của toàn xã hội... Trong nhu cầu nói chung, nhu cầu đạo đức nói riêng có sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan. Trước hết, nhu cầu đạo đức là những đòi hỏi khách quan về những chuẩn mực đạo đức xã hội còn thiếu hụt trong mỗi con người trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định, bảo đảm cho nhân cách đạo đức phát triển hài hòa. Sau đó, nhu cầu đạo đức khi đã thỏa mãn sẽ trở thành trạng thái chủ quan, thái độ của cá nhân và có hướng điều chỉnh hành vi, hoạt động, xác định hướng suy nghĩ, tình cảm và ý chí của bản thân con người. Chính ở phương diện chủ quan, nhu cầu đạo đức trở thành động lực bên trong của hoạt động. Những yêu cầu về chuẩn mực đạo đức mà xã hội đề ra cho mỗi người nếu được cá nhân tiếp nhận sẽ thì dần dần chuyển hóa thành nhu cầu, và khi đó, các yêu cầu của xã hội được từng cá nhân thực hiện một cách tự giác. Sự thỏa mãn nhu cầu đạo đức sẽ góp phần khẳng định tư cách là một chủ thể đạo đức của con người. Nhờ vậy, nhu cầu tinh thần ngày càng cao, thúc đẩy hoạt động đạo đức phát triển, tăng cường mối quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động làm nền tảng cho sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức. Tình cảm đạo đức là một đặc trưng hết sức bản chất của con người nói chung và nhân cách đạo đức nói riêng để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa con người với loài vật. Nó là một bộ phận của hệ thống tình cảm chung của con người, là phản ứng chủ quan của cá nhân đối với thế giới khách quan. Tình cảm đạo đức biểu hiện ra như là những phản ứng có điều kiện của tình cảm của con người đối với những hiện tượng đạo đức. Người ta đồng tình, ngưỡng mộ trước hành động thiện, tức giận, căm phẫn trước những hành vi ác.... đó vừa là sự biểu hiện khả năng nhận thức, khả năng đánh giá những hành vi đạo đức, vừa là sự biểu hiện xu thế phát triển của nhân cách đạo đức theo hướng tích cực của mỗi chủ thể đạo đức. Hêghen đã viết thực chất của tình cảm đạo đức là sự quên mình ở một cái tôi khác nhưng chính trong sự biến mất này, trong sự quên đi này lần đầu tiên này, ta tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân ta. "Quên mình ở một cái tôi khác" theo ông có nghĩa là hành động xả thân vì lợi ích người khác (lợi ích của tập thể, lợi ích của xã hội) [22, tr. 27]. Hêghen đã đưa ra một vấn đề tưởng như là nghịch lý: Quá trình tự quên bản thân mình lại chính là quá trình tự làm chủ bản thân mình, sâu xa hơn nữa chính lúc quên mình đi ấy, lần đầu tiên ta tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân mình. Tình cảm đạo đức chẳng những là sự biểu hiện của đặc trưng "Người" mà nó còn là hình thức thông qua đó cá nhân ý thức được về mình, phát hiện bản thân mình và làm chủ bản thân mình. Với tình cảm đạo đức - con người "trở lại" với chính mình trong những hành vi đạo đức không vì mình. Như vậy, tình cảm đạo đức không chỉ là biểu hiện của nhân cách đạo đức, mà đây còn là một nét quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng nhân cách đạo đức, xây dựng con người mới. "Nói rèn luyện con người, trước hết nói giáo dục lòng nhân ái cho con người, vì lòng thương người là đạo lý cuộc sống, là đạo lý làm người" [22, tr. 29]. Niềm tin là cơ sở để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp. Niềm tin là yếu tố quan trọng trong toàn bộ đời sống tinh thần của con người. Mác và Ăngghen coi niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy hoạt động của con người. Niềm tin là cơ sở vững chắc để chúng ta xây dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và đấu tranh chống lại mọi thế lực thù địch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là cái riêng có của con người, niềm tin được thể hiện qua quan niệm sống, lý tưởng, tình cảm... của mỗi cá nhân. Con người làm nên lịch sử của mình chính nhờ năng lực hiểu biết thế giới và quá trình không ngừng cải tạo thế giới. Đó là quá trình điều chỉnh, hoàn thiện dần mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với những người xung quanh mình. Niềm tin được tạo lên từ con tim và khối óc, từ sự kết hợp hài hòa, thẩm thấu lẫn nhau giữa tình cảm và trí tuệ. Niềm tin là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và qui định mức độ khám phá, hiểu biết và do đó, nó qui định hành động của mỗi người. Trong hành vi đạo đức, niềm tin là cơ sở đem đến cho chúng ta một nhận thức, một tâm trạng tốt - xấu, thiện - ác... trước khi hành động. Khi có niềm tin trong sáng con người hoạt động tích cực hơn, hướng thiện hơn, tạo cho con người một sự tin tưởng vào chính khả năng nhận thức của mình, vào sự quyết định đúng đắn cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm tin là điều mà nhân cách đạo đức cần và trước hết phải có để thực hiện một hành vi đạo đức. Tri thức đạo đức: Tri thức đạo đức là kết quả của quá trình nhận thức đạo đức, là sự phản ánh hiện thực đời sống đạo đức của xã hội con người. Giống như tri thức khoa học, tri thức đạo đức cũng được phân thành hai cấp độ: tri thức đạo đức ở trình độ thông thường và tri thức đạo đức ở trình độ lý luận. Tri thức đạo đức ở trình độ thông thường là những nhận thức, hiểu biết về các nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức... tối thiểu trong cuộc sống hàng ngày như thiện, ác, lương tâm, trách nhiệm... Để trở thành một con người có nhân cách đạo đức, họ trước hết phải nắm được những tri thức đạo đức tối thiểu ấy. Bởi vì, những tri thức đạo đức này là cơ sở nền tảng để họ đánh giá, nhận thức và thực hiện hành vi đạo đức, cao hơn nữa nó là những đảm bảo cần thiết cho sự phát triển nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, nếu tri thức đạo đức chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm thì nó không đủ sức giải quyết những mâu thuẫn đang nảy sinh trong hiện thực đời sống mà cần thiết phải có trình độ phát triển cao hơn của tri thức đạo đức đó là tri thức lý luận. Tri thức đạo đức ở trình độ lý luận là những tư tưởng, quan điểm, những phạm trù, những nguyên lý đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự hình thành nhân cách đạo đức. Nhà đạo đức học Bandzeladze đã ví tình cảm và tình cảm đạo đức như động cơ của một chiếc xe, còn tri thức và tri thức đạo đức như chiếc đèn pha. Nếu thiếu động cơ thì xe không thể hoạt động, vì vậy sẽ không thể có hoạt động đạo đức, nhưng nếu thiếu tri thức, tri thức đạo đức tức là thiếu đèn pha thì người ta sẽ hoạt động không có định hướng, không có mục đích, hoạt động tùy tiện [52, tr. 44]. Lý tưởng đạo đức vừa là tiền đề, vừa là cơ sở căn bản quyết định sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức. Không thể xác định được phạm trù lý tưởng đạo đức nếu không dựa trên nền tảng chung của nó là lý tưởng, vì cùng với lý tưởng chính trị - xã hội, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng thẩm mỹ... lý tưởng đạo đức là một bộ phận hợp thành lý tưởng chung của một nhóm người, của một giai cấp, của một dân tộc. Lý tưởng nói chung là trạng thái cao nhất, hoàn hảo nhất mà con người muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thỏa mãn các nhu cầu lợi ích [17, tr. 42]. Trong đời sống mọi giai tầng xã hội, lý tưởng có một ý nghĩa rất quan trọng. Lý tưởng đạo đức cao đẹp, trong sáng là tiền đề để hình thành một nhân cách đạo đức cao đẹp. Không thể xây dựng một nhân cách đạo đức cao đẹp trong một con người sống không có lý tưởng, không nhận thức được điều nên làm hay không nên làm, dễ bị du nhập, lôi kéo... Lý tưởng chung của thời đại chúng ta đã được Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc ta lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đạo đức phải gắn với lý tưởng xã hội - chính trị thì mới có một nội dung cụ thể, xác định. Lý tưởng đạo đức trong thời đại chúng ta đó là đấu tranh để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra để bảo vệ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Là bộ phận hợp thành lý tưởng, lý tưởng đạo đức là cơ sở lựa chọn những giá trị đạo đức của thời đại; là mục tiêu cao nhất cho mọi hành vi đạo đức của các cá nhân; là tiêu chuẩn cao nhất của các đánh giá đạo đức. Thế giới mà chúng ta đang sống là tổng thể của những chân lý và sai lầm, của các điều thiện và ác, của những hành vi đẹp và xấu... được diễn ra trong mối quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên và giữa những con người với nhau. Xuất phát từ mục đích thực hiện lợi ích của mình, của dân tộc mình, của quốc gia mình, mỗi cá nhân, mỗi dân tộc phải biết chọn lựa những giá trị phù hợp làm định hướng cho hành động của mình. Lý tưởng đạo đức có vai trò quan trọng trong việc định hướng giá trị, định hướng mục tiêu cho mọi hành động, tạo ra sự khát vọng, say mê, tạo ra động cơ thúc đẩy chủ thể trong các hoạt động sáng tạo những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của mình, của dân tộc mình. Lý tưởng đạo đức không chỉ phản ánh những giá trị đạo đức căn bản trong thực tiễn xã hội mà còn phản ánh khả năng thực tế của sự phát triển xã hội tiến tới những giá trị đạo đức cần có, những giá trị đạo đức cao nhất và hoàn thiện những giá trị đạo đức ấy đáp ứng yêu cầu trong tương lai con người mong muốn. Trên bình diện nhân cách đạo đức, lý tưởng đạo đức phản ánh những khát vọng của con người về giá trị đạo đức với tư cách là mục đích của hành vi, là lợi ích của họ. Ở đây, nhu cầu và lợi ích của chủ thể đạo đức là hai yếu tố căn bản xác định nội dung sự định hướng giá trị đạo đức. Sự thống nhất biện chứng giữa lý tưởng đạo đức của cá nhân và lý tưởng đạo đức của xã hội là điều kiện cho chủ thể đạo đức tham gia tích cực vào hoạt động đạo đức xã hội. Đồng thời nó cũng là một chỉ báo về sự phát triển ý thức đạo đức của con người như một nhân cách. Tuy nhiên, "đạo đức là lý trí thực hành" nên lý tưởng đạo đức "trừu tượng" hay "không trừu tượng", có giữ vai trò định hướng cho mọi hành vi đạo đức hay không chính là thể hiện ở sự vận dụng, sự thực hành của mỗi cá nhân. Như vậy, tình cảm, niềm tin, tri thức và lý tưởng đạo đức chỉ được thể hiện trong hiện thực cuộc sống khi nó được vận dụng, thực hành, tức là được thể hiện thông qua năng lực thực tiễn, qua đó thể hiện năng lực đạo đức của mỗi chủ thể đạo đức. "Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của mỗi cá nhân con người, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt độn._.g có hiệu quả cao" [6, tr. 90]. Trong mỗi con người tiềm ẩn nhiều năng lực, nhưng năng lực ấy có được bộc lộ ra hay không phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện chủ quan và khách quan. Năng lực đạo đức là một tập hợp những thuộc tính về tâm sinh lý, cùng với những phẩm chất tinh thần đặc biệt giúp cho mỗi cá nhân có khả năng nhận thức, khả năng đánh giá, khả năng thực hiện những hành vi đạo đức trong hiện thực. Năng lực đạo đức trong mỗi nhân cách phát triển ở mức độ khác nhau, tùy thuộc vào năng khiếu bẩm sinh nhưng yếu tố giữ vai trò quyết định hơn cả đó là quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học tập trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân. Nhân cách đạo đức chân chính nhất thiết phải được thể hiện bằng hành động và hành động đó nhất thiết phải hướng vào cải tạo thế giới trong đó con người sống và làm việc. Hành vi đạo đức không chỉ tạo lên những giá trị đạo đức mà còn là đặc trưng bản chất để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa con người và con vật. Hoạt động của con vật chỉ là hoạt động "thích nghi bị động". Hoạt động của con người, về bản chất vẫn là hoạt động thích nghi, nhưng đồng thời cùng với sự phát triển và hoàn thiện của văn hóa, nhân cách mà hoạt động đó trở thành hoạt động cải tạo thế giới con người đang sống và cải tạo chính bản thân con người. Quá trình con người thể hiện năng lực đạo đức của mình trong hiện thực mang một ý nghĩa tích cực là tác động cải tạo môi trường sống; cải tạo và phát triển chính bản thân mình; phân biệt hoạt động của con người với con vật. Với ý nghĩa ấy, năng lực đạo đức là một đặc trưng hết sức cốt yếu trong nhân cách đạo đức. Nói một cách tổng quát thì nhân cách đạo đức có cấu trúc từ ý thức đạo đức và năng lực đạo đức. Ý thức đạo đức là sự thống nhất biện chứng của tình cảm đạo đức, niềm tin đạo đức, tri thức đạo đức và lý tưởng đạo đức. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Năng lực đạo đức bao gồm năng lực nhận thức, năng lực đánh giá, năng lực thực hiện hành vi đạo đức trong thực tế của mỗi chủ thể đạo đức. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang một ý nghĩa tương đối, bởi ý thức đạo đức khi thực hiện chức năng điều tiết các hành vi đạo đức của con người thì nó hiện ra như là một yếu tố của năng lực đạo đức. Sự phát triển của nó chính là sự kích thích nhu cầu và là điều kiện cho quá trình nhận thức, đánh giá, quá trình thực hiện những hành vi đạo đức. Ngược lại, quá trình thực hiện hành vi đạo đức, quá trình nhận thức và đánh giá đúng các hiện tượng đạo đức không chỉ là sự biểu hiện năng lực đạo đức mà còn là thước đo sự phát triển của ý thức đạo đức. Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đạo đức đặc trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình: Nhân cách đạo đức cán bộ lãnh đạo, nhân cách đạo đức giáo viên... Sinh viên, một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương diện thể hiện tính đặc thù trong nhân cách đạo đức của mình. Nhân cách đạo đức sinh viên là trường hợp cụ thể của nhân cách đạo đức, là hình thức biểu hiện của tính Người ở một tầng lớp xã hội đặc biệt. Nhân cách đạo đức của sinh viên: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức (nhu cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức...) của người sinh viên. Nhân cách đạo đức sinh viên được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, trong hoạt động ứng xử thông qua các quan hệ chủ đạo: quan hệ thày - trò, bạn bè, tình yêu..., trong hoạt động xã hội mà tập trung trong các hoạt động văn thể của cá nhân mỗi sinh viên. Xuất phát từ bộ phận xã hội đặc thù nên nhân cách đạo đức của sinh viên, bên cạnh những biểu hiện chung của nhân cách đạo đức, thì có những biểu hiện đặc thù của nhân cách đạo đức sinh viên. Ví dụ: Lý tưởng đạo đức cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là lý tưởng đạo đức cộng sản. Ở tầm cao nhất, lý tưởng đạo đức cộng sản là sự thống nhất giữa quan niệm và biểu tượng về các chuẩn mực, các quan hệ đạo đức và các nhân cách đạo đức xã hội chủ nghĩa. Họ hiểu rằng sống có lý tưởng, lý tưởng đạo đức là phải thiết tha với độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ cha ông đánh bại mọi kẻ thù xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngày nay đang thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Họ hiểu rằng muốn củng cố và bảo vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc thì chỉ có con đường duy nhất là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng, lý tưởng đạo đức của sinh viên còn được biểu hiện trong khát vọng học tập, nghiên cứu; biểu hiện ở ý thức trách nhiệm trong học tập, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nắm vững những tri thức được học tập trong trường, vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh chóng hội nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi trong nền kinh tế tri thức, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ, dân tộc đó sẽ chiến thắng. Tình cảm đạo đức với tư cách là phản ứng của con người với các hiện tượng đạo đức. Nó có những biểu hiện sâu sắc, nhạt nhòa khác nhau cùng như sự biểu hiện đa dạng, phong phú khác nhau ở những giai đoạn phát triển khác nhau của nhân cách đạo đức. Tình cảm đạo đức của sinh viên được biểu hiện căn bản trong tình cảm với gia đình, thầy cô và bè bạn, đặc biệt nổi trội là tình cảm đối với thầy cô, tình cảm với bạn bè và tình yêu. Ở mỗi sinh viên, bên cạnh sự kính yêu cha mẹ, là lòng kính trọng các thầy cô, tình cảm này bắt nguồn từ chính vị trí lớn lao của thầy cô giáo đối với việc hình thành nhân cách của mỗi sinh viên. Tình cảm đạo đức được biểu hiện trước hết là sự trung thực trong học tập, rèn luyện, lòng dũng cảm, tình đoàn kết, sự yêu thương, kính trọng và giúp đỡ bạn bè trong học tập, công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn học sinh, sinh viên nói chung: "Phải khiêm tốn, thật thà", "kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số một của học tập". "Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cách mạng phải hoàn thành cho được". Do đó, "không lùi bước trước bất kỳ khó khăn nào trong học tập". "Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa". "Phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập" [44, tr. 256]. Tình yêu ở đây, không chỉ được hiểu đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà nó bao hàm cả tình yêu đối với tri thức khoa học. Đó là những đặc trưng cơ bản nhất của tình cảm đạo đức trong sinh viên. 1.1.3. Những nhân tố cơ bản qui định sự hình thành nhân cách đạo đức của sinh viên Sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức bị qui định trước hết bởi điều kiện kinh tế - xã hội. Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội... đều thể hiện mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung quanh, với xã hội. Mác khẳng định lịch sử không phải là cái gì khác mà là hoạt động của con người theo đuổi những mục đích của mình, nhưng mục đích của con người bao giờ cũng xuất phát và gắn liền với tính chế định của các điều kiện lịch sử - xã hội, các quan hệ kinh tế trong một thời đại nhất định. Tính qui định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội là tạo ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi hoạt động của con người. Sự phát triển của nhân cách đạo đức, với tư cách là đạo đức của một cá nhân trong cộng đồng xã hội cũng không nằm ngoài những qui định đó. Vì "con người ta, dù tự giác hay không tự giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ thực tiễn đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó người ta sản xuất và trao đổi" [39, tr. 136]. Bị qui định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp qui định bản chất và đặc trưng của nhân cách đạo đức lại không phải là tất cả các quan hệ kinh tế, mà nhân tố qui định nhân cách đạo đức ở tầng sâu nhất đó là quan hệ lợi ích. Bởi cái lõi vật chất của đạo đức là vấn đề lợi ích, không xuất phát từ lợi ích thì tư tưởng đạo đức không có cơ sở và càng không thể hiểu được hành động trong thực tiễn lịch sử của con người. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt đạo đức của nhân cách. Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng là tập hợp của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được" [38, tr. 21]. Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân lại có nhu cầu, lợi ích riêng, khác nhau, thậm chí nhiều khi lợi ích cá nhân lại đối lập với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Sự phát triển của con người nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng chỉ có thể phát triển đúng qui luật khi mỗi cá nhân tự giác nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa về mối quan hệ cá nhân - xã hội xét trên phương diện lợi ích. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ: Chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và lợi ích chung... chừng đó bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống trị [36, tr. 47]. Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con người. Con người, ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước hết vì lợi ích của bản thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, cơ sở cho mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá nhân cũng là nhân tố quyết định trước hết, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội. Lợi ích xã hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu chung của nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích xã hội là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lợi ích cá nhân nào cũng chính đáng, có những lợi ích cá nhân khi thực hiện nó ảnh hưởng đến lợi ích của người khác, lợi ích của xã hội. Việc thực hiện những lợi ích cá nhân này làm cho con người xa rời những chuẩn mực đạo đức, xa rời những yêu cầu chung mà xã hội đặt ra, thiếu ý thức trách nhiệm... đó là cội nguồn để niềm tin, tình cảm, lý tưởng, năng lực đạo đức... tức là nhân cách đạo đức bị suy thoái. Vì vậy, nhân cách đạo đức chỉ được hoàn thiện và phát triển khi giải quyết hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đó là quá trình mà việc thực hiện lợi ích cá nhân này không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân khác, không xâm phạm đến lợi ích chung của toàn xã hội. Và lợi ích xã hội thể hiện vai trò động lực của mình thông qua lợi ích của mỗi cá nhân. Điều này đã được các nhà kinh điển mác xít căn dặn: "Nếu lợi ích đúng đắn là nguyên tắc của toàn bộ đạo đức thì do đó cần ra sức làm cho lợi ích riêng của con người cá biệt phù hợp với toàn thể loài người" [35, tr. 199-200]. Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân là động lực của sự phát triển nhân cách đạo đức được minh chứng rõ ràng qua quá trình xây dựng đất nước ta. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lợi ích tập thể được đề cao, lấn át lợi ích cá nhân, dẫn tới có sự đối lập tách rời giữa việc thực hiện hành vi đạo đức với việc thực hiện lợi ích cá nhân. Con người đứng trước hai lựa chọn: thực hiện hành vi đạo đức phải từ bỏ lợi ích của cá nhân; ngược lại hoạt động vì lợi ích cá nhân không thể có động cơ để thực hiện hành vi đạo đức, điều này khiến cho hoạt động đạo đức của nhân cách bị hạn chế. Vì vậy, nhân cách nói chung và nhân cách đạo đức nói riêng không có điều kiện phát triển một cách hoàn thiện. Từ khi đất nước đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường với tính đặc thù của mình là thừa nhận tính hợp lý và thỏa mãn tối đa lợi ích cá nhân. Trên mặt tích cực của mình, lợi ích cá nhân là "chất kích thích" thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực hoạt động. Quá trình tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách đạo đức. Bởi nhân cách đạo đức nói riêng và đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích. Sự phát triển nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền thống đạo đức. Đồng thời nó cũng bị qui định bởi nhân tố văn hóa tinh thần xã hội và gắn liền với sự phát triển của văn hóa tinh thần trong mỗi cá nhân. Đạo đức truyền thống có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi đạo đức, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo đức. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là một nhân tố phát triển nhân cách đạo đức phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền thống trong hoàn cảnh mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân. Văn hóa tinh thần xã hội là tổng hòa của văn hóa tinh thần cá nhân, tuy nhiên đây không phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa tinh thần cá nhân mà nó là sự kết tinh những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa tinh thần xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ... Chúng ta không thể nói đến nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh. Nhân cách, nhân cách đạo đức của con người dần được hình thành và phát triển trong môi trường họ sống một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục. Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới quan, những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức... có vị trí quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức. Thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Nó được cấu thành từ những yếu tố cơ bản là tri thức, niềm tin, lý tưởng. Nó là hạt nhân của nhân cách, là cơ sở để hình thành các quan điểm, tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Từ đó, con người tự nhận thức về mình, tự rút ra những nhận định cần thiết trong mối quan hệ với các thành viên khác và xã hội. Vì vậy, một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng một nhân cách, nhân cách đạo đức toàn diện. Nói cách khác, thế giới quan giữ vai trò định hướng chung cho con người trong mọi hoạt động hiện thực của họ. Trong xã hội có phân chia giai cấp, thế giới quan bao giờ cũng mang tính giai cấp và phản ánh lợi ích của một giai cấp nhất định. Do vậy, khi được tiếp nhận trong ý thức đạo đức cá nhân, nó khẳng định về mặt đạo đức lợi ích của giai cấp mà nó phản ánh. Hiện nay, chủ nghĩa Mác - Lênin là thế giới quan khoa học và tiến bộ nhất. Bởi vì ngoài sự phản ánh lợi ích của giai cấp vô sản, nó đồng thời phản ánh xu thế vận động tất yếu của xã hội loài người. Giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay không chỉ làm cho những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh được quán triệt sâu rộng trong nhân dân mà cần làm cho những nguyên tắc ấy trở thành niềm tin, động lực cho mọi hoạt động của nhân dân. Với ý nghĩa ấy, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở tư tưởng, là động lực cho sự phát triển nhân cách đạo đức. Cùng phản ánh lợi ích của xã hội dưới hình thức những yêu cầu, những mệnh lệnh ngăn cấm, bắt buộc hay khuyến khích nhưng những chuẩn mực pháp lý thì mang tính cưỡng bức, còn những chuẩn mực đạo đức mang tính khuyến khích, định hướng. Chuẩn mực pháp lý tạo ra một giới hạn tối thiểu mà con người không được vi phạm để tạo lên sự ổn định ở mức độ tối thiểu trong xã hội. Vì vậy, khi con người vi phạm những chuẩn mực pháp lý cũng đồng thời là quá trình họ thực hiện một hành vi vô đạo đức. Ngược lại khi họ thực hiện tự nguyện, tự giác những chuẩn mực pháp lý cũng là việc thực hiện những hành vi đạo đức. Việc giáo dục cho mọi người nắm vững những chuẩn mực pháp lý, để tự giác thực hiện nghĩa vụ pháp lý là tạo ra cơ sở cho họ thực hiện những nghĩa vụ đạo đức tối thiểu. Điều này khẳng định vai trò của công tác giáo dục ý thức pháp luật đối với sự phát triển của ý thức đạo đức, hành vi đạo đức của nhân cách. Bàn tới tính qui định của tồn tại xã hội đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức như ở trên chỉ là điều kiện cần mà chưa phải là điều kiện đủ. Nếu chúng ta chỉ thấy vai trò của điều kiện kinh tế - xã hội trong việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức thì việc xây dựng một xã hội có một nền đạo đức tốt đẹp là một việc làm đơn giản. Chúng ta chỉ cần xây dựng đầy đủ điều kiện kinh tế, điều kiện môi trường xã hội... thì sẽ xây dựng được nhân cách đạo đức nói riêng, nền đạo đức xã hội nói chung theo hướng xã hội cần đạt đến. Đây là điều không thể làm trong hiện thực cuộc sống! Trong hiện thực cuộc sống, sự hình thành và phát triển của đạo đức với tư cách là hình thái ý thức xã hội và nhân cách đạo đức của con người không diễn ra đơn giản như vậy. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, của môi trường xã hội đối với nhân cách đạo đức không phải là quá trình thuận một chiều.Với sức sáng tạo của tư duy trí tuệ và thông qua hàng loạt các hoạt động trong thực tiễn, nhân cách, nhân cách đạo đức của con người tự biểu hiện, tự khẳng định chính mình. Là sản phẩm của tự nhiên, của lịch sử - xã hội, đến lượt mình con người lại tác động vào tự nhiên nhằm khai thác mọi tiềm năng tự nhiên phục vụ mục đích và nhu cầu của mình, tái tạo "tự nhiên thứ hai" cho đời sống con người. Là chủ thể sáng tạo, tự ý thức, tự giác hành động, bằng năng lực tuyệt đối và riêng có là hoạt động thực tiễn, con người ngày càng nắm bắt được qui luật tự nhiên, qui luật xã hội, ngày càng có khả năng sáng tạo to lớn để chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội làm nên lịch sử nhân loại. Đồng thời với quá trình này, con người không ngừng cải tạo bản thân mình. Những hoạt động thực tiễn ấy có ảnh hưởng không nhỏ tới phương hướng và hiệu quả tác động của môi trường xã hội đối với sự phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức. Mỗi cá nhân phản ứng trước sự tác động của môi trường một cách khác nhau, thể hiện trong bản thân mình nét này hoặc nét khác của môi trường tạo nên sự phong phú, đa dạng của nhân cách con người. Ngoài những nhân tố chung qui định sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức, sự hình thành nhân cách đạo đức của sinh viên còn chịu sự qui định của những nhân tố sau: Thứ nhất, về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi. Sinh viên là một bộ phận thanh niên đã được tuyển chọn qua các kỳ thi quốc gia và được đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng, là tầng lớp người đang trưởng thành, đang chuẩn bị những hành trang nghề nghiệp cần thiết, chín muồi về nhân cách, nhân cách đạo đức. Tuy ngành học và học vấn có thể khác nhau, nhưng họ là bộ phận dân cư còn rất trẻ, đại đa số từ 18 đến 23 tuổi, được xã hội đào tạo theo hệ thống, cơ bản để trở thành những nhà quản lý xã hội, thành lực lượng sản xuất quan trọng trong tương lai. Ở lứa tuổi này, con người đang trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức. Sự phát triển, hoàn thiện đó được biểu hiện cả trên hai mặt: mặt sinh học và mặt xã hội. Mặt sinh học, cơ thể chưa có sự phát triển hoàn toàn đầy đủ, đòi hỏi nhu cầu cao về chất dinh dưỡng và đi liền với nhu cầu vật chất ấy là nhu cầu hoạt động như một nhu cầu tất yếu cần thiết cho quá trình lượng hóa vật chất đã tiếp nhận. Vì vậy dễ dàng thấy, sinh viên tham gia vào tất cả các hoạt động tập thể rất nhiệt tình, thậm chí cả những hoạt động không phù hợp với bản thân họ. Điều này dẫn đến tình trạng có một số ít sinh viên hoạt động thiếu ý thức, hoạt động quậy phá không rõ nguyên nhân, có những biểu hiện lệch lạc trong định hướng cuộc sống... Chúng ta, dù hiểu đặc điểm, nguồn gốc của những hành động vô thức đó, nhưng không thể mặc nhiên phủ nhận hoặc coi nhẹ tác hại của những hiện tượng chưa tốt, chưa văn hóa ấy của một bộ phận sinh viên. Rõ ràng đó là những biểu hiện chưa hoàn chỉnh trong nhân cách đạo đức sinh viên. Chúng ta cần hiểu đúng nguyên nhân chủ quan và khách quan của những biểu hiện lệch lạc đó trong sinh viên. Điều đáng bàn là trong những nguyên nhân chủ quan từ sinh viên có nguyên nhân do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi của họ.Với đặc điểm trẻ trung, nhiệt tình, nhạy cảm nhưng còn chưa chín chắn trong nhận thức, chưa có nhiều kinh nghiệm thực tế nên sinh viên chưa ý thức được đầy đủ trước khi hành động. Với cơ thể đang phát triển, tâm sinh lý chưa ổn định, sinh viên cũng dễ hành động sai, dẫn đến những kết quả mà chính họ cũng không mong muốn. Do nhu cầu hoạt động thường xuyên và tâm lý không ổn định nên sinh viên dễ bị những cảm xúc nhất thời chi phối. Khi có tác nhân đạo đức tích cực, đặc biệt là những tấm gương sáng về đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên sẽ phát triển theo hướng thuận lợi, ngược lại họ dễ bị suy thoái, lôi kéo trước những tác nhân tiêu cực.Trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta, sinh viên dễ bị những hiện tượng tiêu cực ngoài xã hội tác động làm mất định hướng giá trị, làm giảm lòng tin vào chế độ xã hội, vào vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào con đường phát triển đất nước. Mặt trái của kinh tế thị trường đã làm một bộ phận không nhỏ sinh viên suy thoái về nhân cách đạo đức, chạy theo thị hiếu tầm thường, lối sống buông thả, thực dụng của phương Tây, quay lưng lại với những giá trị đạo đức truyền thống mà dân tộc ta trân trọng và dày công vun đắp. Hơn lúc nào hết, chúng ta (gia đình - nhà trường - xã hội) cần tạo một điều kiện thuận lợi để giáo dục, định hướng cho sự phát triển nhân cách đạo đức sinh viên theo những giá trị, những chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của xã hội. Nếu có sự quan tâm thường xuyên, đầy đủ đối với họ, kịp thời phát hiện và giải quyết những nhu cầu chính đáng của họ một cách thỏa đáng, đồng thời phát hiện kịp thời những nhân tố xấu đã và đang tác động đến sinh viên, từ đó đưa ra những giải pháp hữu hiệu thì chúng ta hoàn toàn có thể giúp họ tránh được những ảnh hưởng xấu của những điều kiện khách quan. Đây cũng là biện pháp quan trọng có vai trò định hướng cho sự hình thành và phát triển nhân cách đạo đức của sinh viên. Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi có vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức sinh viên. Trên cơ sở những tố chất đạo đức đã hình thành ở tuổi vị thành niên, nhân cách đạo đức sinh viên phát triển nên những nét mới, những tố chất đạo đức mới khác biệt so với trước, thậm chí khác biệt dẫn đến sự trái ngược giữa yếu tố cũ và yếu tố mới. Đây chính là quá trình phủ định biện chứng, cái mới ra đời trên cơ sở của cái cũ và cái mới ấy cũng là kết quả tác động của hoàn cảnh mới, phủ định cái cũ. Nhân cách đạo đức của sinh viên đang trong quá trình hình thành, biến đổi và phát triển có thể có những biến đổi lớn theo xu hướng tích cực, hoặc biến đổi lớn theo xu hướng tiêu cực. Sự định hướng giá trị trong mỗi sinh viên không phải là một hằng số bất biến, mà nó biến đổi theo từng thời gian khi những điều kiện sống, điều kiện môi trường xã hội thay đổi. Căn cứ vào đặc điểm này, chúng ta hoàn toàn có thể thông qua giáo dục và bằng giáo dục đạo đức để xây dựng lên một nhân cách đạo đức tốt đẹp trong mỗi sinh viên. Đó chính là quá trình chuyển văn hóa đạo đức xã hội thành văn hóa đạo đức cá nhân. Thứ hai, hệ thống nhu cầu, lợi ích của sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu và hoạt động xã hội là nhân tố tác động tích cực trong việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức ở sinh viên. Nhu cầu là những đòi hỏi của con người muốn có những điều kiện nhất định để tồn tại và phát triển. Nhu cầu nảy sinh do tác động của điều kiện, hoàn cảnh khách quan và những trạng thái riêng của chủ thế. Lợi ích là cái thỏa mãn nhu cầu, đáp ứng lại nhu cầu. Nói cách khác, nhu cầu chính là sự đòi hỏi những yếu tố cần thiết bên trong của cá nhân về một cái gì tồn tại ngoài nó. Nó có thể là một sự vật hiện tượng, một vấn đề... Cá nhân nhận thức được tính cần thiết của tất cả những cái đó (vấn đề, sự vật hiện tượng...) đối với sự tồn tại và phát triển của mình. Đạt đến điểm này, nhu cầu trở thành động lực to lớn thúc đẩy cá nhân hoạt động đạt tới lợi ích nhằm thỏa mãn nhu cầu. Ở sinh viên hệ thống nhu cầu, lợi ích rất đa dạng. Nó mang tính kém ổn định, sự di chuyển năng động hơn so với hệ thống nhu cầu, lợi ích của các giai cấp, tầng lớp xã hội khác. Sinh viên đặc biệt đề cao nhu cầu, lợi ích tinh thần, nhu cầu ham hiểu biết, tiếp thu những kiến thức mới, nhu cầu về tình bạn, tình yêu, hôn nhân và gia đình thường chiếm ưu thế cao và cấp bách hơn những tầng lớp xã hội khác. Chính vì vậy, sinh viên tham gia nhiệt tình, sôi nổi những hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động xã hội... dù kinh phí cho những hoạt động này rất khiêm tốn, không nói là rất ít. Có thể nói, ở sinh viên nhu cầu về lợi ích tinh thần chiếm ưu thế nổi trội hơn so với những nhu cầu về vật chất. Trong thế giới tinh thần, nhu cầu về tình bạn đối với sinh viên là rất quan trọng. Tình bạn giúp bản thân mỗi sinh viên luôn hướng tới tập thể, quan tâm, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau, hình thành một tình cảm đạo đức tốt đẹp trong cá nhân sinh viên. Khi gặp những điều khó khăn trong cuộc sống, bạn bè là người đầu tiên họ cần để tâm sự, để sẻ chia những vướng mắc đó. Trả lời câu hỏi: Khi có những vướng mắc hoặc nguyện vọng gì đó đối với trường lớp, bạn thường giải quyết như thế nào? [57]. Chúng ta nhận được câu trả lời của sinh viên Hà nội như sau: 1. Đề đạt với trường, khoa, phòng, ban 15,4 % 2. Đề đạt với lớp 26,3% 3. Đề đạt với Hội sinh viên 3,7 % 4. Đề đạt với Đoàn thanh niên 2,8 % 5. Tâm sự với bạn bè 54,8% 6. Chịu đựng một mình cho qua 15,3 % Như vậy, tình bạn rất quan trọng trong hệ thống nhu cầu tinh thần của sinh viên. Tình bạn là chiếc cầu nối giữa họ với cộng đồng, với tập thể, tạo lên sự giao thoa tinh thần, góp phần hình thành và phát triển nhân cách đạo đức sinh viên. Môi trường bạn bè là điều kiện quan trọng đối với việc hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức sinh viên. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, do ảnh hưởng của quá trình hội nhập văn hóa, có những nhóm bạn bị tác động bởi những luồng phi văn hóa, những hoạt động không lành mạnh như nghiện hút, tiêm chích, đua xe máy... Nhà trường và xã hội cần có các giải pháp để ngăn chặn, đồng thời định hướng và thu hút sinh viên tới các hoạt động xã hội lành mạnh. Mà giải pháp hữu hiệu nhất là tạo ra một môi trường đại học phong phú, đa dạng các hoạt động văn hóa, tinh thần cho sinh viên. Do có trình độ học vấn cao, sinh viên không tiếp thu văn hóa tinh thần một cách ồ ạt, mà sự tiếp thu của họ có sự chọn lọc. Điều này giúp họ không những trân trọng và giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc mình, mà còn dễ tiếp cận với những tinh hoa của văn hóa nhân loại, làm phong phú tâm hồn, tình cảm của họ. Một nhân cách đạo đức tốt đẹp chỉ có thể được xây dựng trên một tâm hồn phong phú về tình cảm. Nhu cầu học tập và nghiên cứu của sinh viên có tác động tích cực đến quá trình phát triển nhân cách đạo đức sinh viên. Hoạt động học tập và nghiên cứu hình thành lao động tự giác và sáng tạo trong mỗi sinh viên, đây là hai yếu tố cội nguồn của việc xây dựng đạo đức mới, là động lực thúc đẩy họ nâng cao năng lực chuyên môn, tích lũy tri thức về chính trị, về xã hội, về nghề nghiệp. Tuy nhiên, từ khi nước ta bước vào cơ chế thị trường, nhu cầu học tập của sinh viên có những chuyển biến rõ rệt, họ không còn ỷ lại vào nhà trường, xã hội trong quá trình tìm việc, phân công công tác sau khi tốt nghiệp. Họ đã chủ động, tự lập trong việc chọn ngành học, chọn việc làm cho mình. Sinh viên hiện nay có lối sống rất thực tế. Rất hiếm sinh viên có ước mơ tìm kiếm, nghiên cứu những điều mới lạ trong khoa học về vũ trụ, về thiên nhiên. Họ chỉ tận dụng mọi phương tiện, thời gian có thể được để trang bị một hành trang vào đời với đủ bằng cấp, học vị đáp ứng những đòi hỏi của xã hội. Tình trạng chọn nghề theo đòi hỏi của xã hội là phổ biến, vì vậy có những trường sinh viên đua chen vào, có những trường phải hạ điểm chuẩn một, hai lần mới đủ sinh viên theo chỉ tiêu được tuyển. Nhiều sinh viên, vì mong muốn làm giàu nhanh, sẵn sàng từ bỏ cả ước mơ đã theo đuổi để nhận một công việc hoàn toàn trái với khả năng và nguyện vọng của mình. Một bộ phận không nhỏ sinh viên, chỉ quan tâm đến trau dồi tri thức, nâng cao năng lực chuyên môn mà quên đi việc rèn luyện những phẩm chất đạo đức, chính trị, pháp luật... dễ bị du nhập, sa ngã vào guồng quay tiêu cực của xã hội, suy thoái về nhân cách đạo đức. Do đặc điểm riêng biệt của lứa tuổi, sự phát triển nhân cách, đặc biệt là nhân cách đạo đức sinh viên luôn chịu ảnh hưởng, tác động, bị chi phối và lệ thuộc nhiều vào hoàn cảnh kinh tế - xã hội, chế độ chính trị - xã hội của đất nước. Họ là trái ngọt của sự giáo dục kết hợp giữa gia đình - nhà trường - xã hội và sự tác động của các mối quan hệ bạn bè, tình yêu... xung quanh họ. Họ tiếp thu nhanh những giá trị đạo đức truyền thống và những giá trị đạo đức xã hội mới. Khả năng thụ cảm, khát vọng vươn tới lý tưởng, luôn khao khát hiểu biết, khám phá... là những đặc điểm chủ yếu của sinh viên thanh niên. Tuy nhiên, là thế hệ trẻ còn bồng bột và thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống, họ nhiều khi hay lẫn lộn lý tưởng với ảo tưởng, tính lãng mạn với sự kỳ dị...Những va chạm trong cuộc sống, nhiều khi họ không đủ nghị lực để phấn đấu dũng cảm, kiên trì cho việc thực hiện lý tưởng của mình. Để giải quyết sự mâu thuẫn, lấp đầy hố ngăn cách tồn tại thực tế giữa nguyện vọng, lý tưởng của bản thân với sự phức tạp của cuộc sống hàng ngày, họ dễ rơi vào chủ nghĩa hoài nghi bi quan hoặc chủ nghĩa hoài nghi lãnh đạm. Trong những trường hợp này, sự định hướng, giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội là hết sức quan trọng và cần thiết. 1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY Vấn đề con người luôn giữ vị trí trung tâm trong hoạt động thực tiễn nhằm cải biến giới tự nhiên, sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân mình. Con người là giá trị sản sinh ra mọi giá trị và đồng thời là thước đo của mọi giá trị. Đã qua nhiều thời đại lịch sử, nhiều chế độ xã hội, nhiều giai cấp._.nh viên xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, khắc phục những quan điểm đạo đức lạc hậu, chủ nghĩa cá nhân vị kỷ nảy sinh trong sinh viên. Điều này không chỉ mang ý nghĩa ngăn cản sự suy thoái đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên mà quan trọng hơn là góp phần củng cố niềm tin của họ đối với Đảng trong công cuộc đổi mới hiện nay. Thực hiện được các nhiệm vụ trên, trước hết phải xuất phát từ những nguyên lý cơ bản của Đạo đức học Mác - Lênin, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, định hướng các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên cho phù hợp với hiện thực cuộc sống hôm nay, làm cơ sở quan trọng trong quá trình xây dựng nhân cách đạo đức mới cho đội ngũ tri thức tương lai. Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp giáo dục đạo đức là trách nhiệm của mọi người, mọi tổ chức xã hội và của toàn xã hội. Nó phản ánh quá trình tổ chức giáo dục xã hội và tự giáo dục rèn luyện, trong đó mỗi cá nhân vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình giáo dục đạo đức nói riêng và quá trình hoàn thiện nhân cách đạo đức nói chung. Không nên coi việc giáo dục đạo đức chỉ nằm trong khuôn khổ giáo dục của nhà trường, của các thầy, cô giáo. Song cần phải khẳng định rằng, giáo dục đạo đức trong nhà trường để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp cho sinh viên chiếm một vị trí cực kỳ quan trọng. Đáp ứng những yêu cầu về đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên theo chúng tôi cần giải quyết các vấn đề sau: Thứ nhất, Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức giáo dục đạo đức cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng phải chú trọng cả đức và tài, phẩm chất và năng lực, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức, kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. Việc giáo dục đạo đức sau năm 2000 cần được tiến hành theo các phương hướng sau: + Thông qua con đường dạy môn Đạo đức học trong các trường đại học. + Xây dựng một chương trình "tổ chức giáo dục ngoài giờ lên lớp" với các yêu cầu và nội dung nhất định, nhằm củng cố nhận thức, hình thành niềm tin, rèn luyện hành vi, kỹ năng, thói quen ứng xử có văn hóa phù hợp với các chuẩn đạo đức xã hội. + Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên được coi là một biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và chất lượng giáo dục đạo đức trong trường học [20, tr. 172]. Nếu trước đây, chúng ta xây dựng một mẫu người lý tưởng tất cả vì tập thể, vì xã hội thì hiện nay, do đòi hỏi của kinh tế thị trường, cần giáo dục để hình thành và khẳng định nhân cách cá nhân trên cơ sở nhận thức đúng đắn và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội. Giáo dục đạo đức không thể phiến diện, một chiều mà phải là quá trình giáo dục toàn diện cả những chuẩn mực chung của đạo đức xã hội và những phẩm chất đạo đức cá nhân, đạo đức cá nhân và đạo đức nghề nghiệp, lý tưởng đạo đức và lý tưởng chính trị... Những giá trị đạo đức truyền thống phải được đánh giá lại, đổi mới và bổ sung cho phù hợp với điều kiện hiện nay, như lòng yêu nước, tính trung thực, lòng vị tha,tinh thần kỷ luật...Đồng thời, khẳng định tính phổ biến của những chân giá trị mới, góp phần làm nên sự phát triển của dân tộc, thành công của công cuộc đổi mới đất nước hôm nay như: học vấn, sáng tạo, sức khỏe, tự lập, lòng tự trọng... Và sự chuyển đổi giá trị đạo đức phải xử lý làm sao để chủ thể giá trị phát huy được tính tích cực cao nhất, vừa làm cho sản xuất phát triển, kinh tế ngày càng tăng, vừa phải nâng cao trình độ tư tưởng, đạo đức, văn hóa cho con người, chống thái độ bảo thủ, đề cao quá mức truyền thống mà coi nhẹ, phủ nhận đổi mới. Mặt khác, phải chống thái độ "hư vô", đi vào kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước mà xa rời những giá trị đạo đức truyền thống sẽ làm mất đi bản sắc dân tộc, đánh mất bản thân mình, trở thành cái bóng của người khác, dân tộc khác. - Thứ hai, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức với giáo dục luật pháp và thực hiện nghiêm minh luật pháp trong xã hội. Ý thức đạo đức và ý thức pháp luật có mối liên hệ biện chứng và đều có chức năng chung là điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm bảo toàn và phát triển xã hội. Trong một xã hội cụ thể, đạo đức và pháp luật về cơ bản thống nhất ở mục đích, ở định hướng tinh thần nhưng lại có nhiều điểm khác nhau về hình thức biểu hiện [30, tr. 70-71]. Những chuẩn mực đạo đức và những chuẩn mực pháp lý là sự phản ánh lợi ích của xã hội bằng những yêu cầu, những mệnh lệnh ngăn cấm, bắt buộc hoặc khuyến khích. Chuẩn mực pháp lý tạo ra một hành lang tối thiểu để con người không được vượt ra ngoài hành lang đó, nhằm ổn định xã hội ở mức độ tối thiểu. Nó mang tính chất cưỡng bức. Vì vậy, những chuẩn mực pháp lý còn được coi là những chuẩn mực đạo đức tối thiểu. Vi phạm chuẩn mực pháp lý cũng đồng nghĩa với vi phạm đạo đức và thực hiện những chuẩn mực pháp lý một cách tự giác cũng chính là thực hiện những hành vi đạo đức. Giáo dục pháp luật có một vai trò quan trọng trong việc đổi mới công tác giáo dục đạo đức.Về bản chất, giáo dục pháp luật là một hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, nhằm tác động lên đối tượng giáo dục hình thành trong họ những tri thức pháp luật, tình cảm, hành vi phù hợp với đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành. Đồng thời, giáo dục pháp luật tạo ra những khả năng thiết lập những nguyên tắc đạo đức, củng cố tình cảm, nghĩa vụ đạo đức cho mỗi người, cho mỗi sinh viên. Nó trang bị cho sinh viên nắm vững những chuẩn mực pháp lý. Đây không chỉ là cơ sở cho sinh viên thực hiện nghĩa vụ pháp lý mà còn là cơ sở để họ thực hiện những nghĩa vụ đạo đức tối thiểu của con người. Khi con người luôn có ý thức đầy đủ và do đó tự thực hiện những nghĩa vụ pháp lý thì tới một thời điểm nhất định, một giới hạn nhất định, sự tự giác đó sẽ chuyển thành tự nguyện. Khi đó con người có nhu cầu ham muốn thực hiện nghĩa vụ pháp lý và chính tại thời điểm này, việc thực hiện nghĩa vụ pháp lý đã chuyển thành việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức. Sự chuyển hóa này khẳng định vai trò của việc kết hợp giáo dục đạo đức và giáo dục pháp luật đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức sinh viên. 2.2.3. Nâng cao vai trò của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh với tư cách là tổ chức chính trị xã hội, tổ chức cộng sản, là đại biểu cho lợi ích của sinh viên. Đoàn không những có nhiệm vụ giúp Đảng tổ chức, chăm lo và giáo dục thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng theo mục tiêu đào tạo con người mới của Đảng và Nhà nước. Đoàn và Hội sinh viên Việt Nam còn có nhiệm vụ chủ yếu là tham gia vào việc giáo dục lý tưởng, niềm tin cách mạng, tuyên truyền tư tưởng chính trị, định hướng và uốn nắn họ thực hiện lối sống lành mạnh, văn minh, có ý thức đạo đức trong sáng... tức là góp phần tạo lên một thế hệ sinh viên có đủ đức, đủ tài. Đoàn chính là nơi sinh viên có thể bộc lộ những quan điểm, ước mơ, bầy tỏ tình cảm cũng như những hiểu biết của mình về các vấn đề khác nhau trong xã hội. Thông qua các hình thức sinh hoạt Đoàn chúng ta có thể nắm bắt chính xác tình trạng, xu hướng tâm lý, trình độ nhận thức các vấn đề chính trị - xã hội, tâm tư, nguyện vọng của họ.Thông qua những hình thức sinh hoạt đó, người làm công tác Đoàn, công tác giáo dục sinh viên có thể tìm ra những biện pháp, nội dung thích hợp để tác động đến quá trình hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức của sinh viên theo hướng tích cực. Có thể nói, Đoàn là trường học giáo dục nhân cách, nhân cách đạo đức có hiệu quả nhất đối với sinh viên trong các trường đại học. Vì vậy, nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên có một ý nghĩa quan trọng và bức thiết trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên. Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, ngay từ khi ra đời đã lấy lý tưởng phấn đấu hết mình vì độc lập tự do của dân tộc, vì chủ nghĩa xã hội làm tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đoàn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại Đoàn đã trưởng thành về mọi mặt. Đoàn là nơi tổ chức, tập hợp, lôi kéo đông đảo thanh niên, sinh viên tham gia đi đầu trong các phong trào, các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc và trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay. Đã có biết bao đoàn viên ngã xuống và các thế hệ sau lại tiếp bước thế hệ trước viết lên những trang sử vẻ vang của Đoàn. Tổ chức Đoàn tạo ra một môi trường phấn đấu, rèn luyện lý tưởng nhất cho phong trào thanh niên, sinh viên vươn lên lập nghiệp, làm giàu cho bản thân, làm giàu cho tổ quốc. Lúc sinh thời, Bác Hồ rất quan tâm và đòi hỏi Đoàn phải làm tròn nhiệm vụ là nơi đoàn kết, tập hợp thanh niên, sinh viên để giúp Đảng giáo dục họ thành những chủ nhân tương lai của đất nước. Bác khẳng định muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên, phải biết tổ chức các phong trào thi đua, tạo môi trường tốt nhất cho thanh niên, sinh viên cống hiến và hưởng thụ. Bác đòi hỏi Đoàn khi đề xuất một phong trào thi đua phải có định hướng đúng, có kế hoạch thực hiện cụ thể, có nội dung thi đua thiết thực, rõ ràng, có sự lãnh đạo, chỉ đạo theo dõi thường xuyên. Có làm như vậy phong trào Đoàn mới thực sự phát triển, thực sự là cánh tay phải, đội hậu bị tin cậy của Đảng trong giáo dục và rèn luyện để hình thành nhân cách, nhân cách đạo đức trong sáng cho thanh niên, sinh viên. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của mình, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên Việt Nam trong những năm qua đã có nhiều hoạt động sáng tạo thúc đẩy các phong trào "Thanh niên lập nghiệp", "Tuổi trẻ giữ nước" và đặc biệt từ năm 2000, năm thanh niên Việt Nam phong trào "Thanh niên tình nguyện" đã thu hút đông đảo sự tham gia của sinh viên các trường trong cả nước. Nhìn chung, tất cả các đoàn viên, sinh viên đều có ý thức chính trị đúng đắn, gương mẫu và cố gắng trong học tập, rèn luyện, luôn có ý thức phấn đấu trở thành đoàn viên Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam. Những thành tựu đã đạt được, trước hết là kết quả của đường lối lãnh đạo và chính sách đúng đắn của Đảng, sự quản lý của Nhà nước (thông qua Bộ giáo dục và đào tạo, sự kết hợp liên ngành). Đồng thời đó chính là kết quả của những phương thức hoạt động phong phú, đa dạng, có hiệu quả từ Trung ương Đoàn, Hội sinh viên Việt Nam và các Đoàn trường đại học, đoàn cơ sở. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, công tác chỉ đạo Đoàn thanh niên và Hội sinh viên các cấp nhìn chung còn có nhiều bất cập, như: thiếu cụ thể hóa các chương trình, kế hoạch nhằm đáp ứng những vấn đề bức xúc trong sinh viên; chưa thực sự đi sâu đi sát sinh viên; việc kiểm tra, đôn đốc và tổng kết các mô hình hoạt động chưa kịp thời. Một số cán bộ Đoàn, Hội viên nòng cốt còn ỷ lại, trông chờ vào sự chỉ đạo của cấp trên nên thiếu sự năng động, sáng tạo. Hoạt động của Đoàn, Hội phần lớn mới chỉ thiên về bề nổi mà thiếu đi chiều sâu, chỉ thu hút được một bộ phận sinh viên tích cực hoạt động (xem bảng phần thực trạng). Để phát huy hơn nữa vai trò của Đoàn, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách, nhân cách đạo đức cho sinh viên, Đại hội đại biểu Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VI đã đề ra những mục tiêu, phương hướng và nhiệm vụ cơ bản của công tác Hội và phong trào sinh viên Việt Nam nhiệm kỳ 1998 - 2003: là tổ chức rộng rãi, đa dạng các hoạt động hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho sinh viên học tập, nghiên cứu khoa học...quan tâm chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp, chính đáng của sinh viên, nhất là những bạn sinh viên gặp khó khăn...Hướng dẫn tổ chức và cổ vũ cho sinh viên tích cực tham gia các hoạt động xã hội và phòng chống tệ nạn xã hội góp phần xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh trong nhà trường. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ đã đề ra cần chú ý thực hiện những vấn đề sau: - Trước hết, người cán bộ Đoàn, Hội cần nâng cao phẩm chất, năng lực hoạt động của mình. Họ cần có những phẩm chất, năng lực nhất định, có thể nắm bắt thực chất, diễn biến tư tưởng, tình cảm của đoàn viên của mình một cách chính xác. Đồng thời, họ phải có khả năng tìm ra những giải pháp khả thi để giáo dục, rèn luyện, định hướng sự phát triển nhân cách sinh viên theo những xu hướng tích cực trong sự tác động hai mặt của nền kinh tế thị trường hiện nay. Thứ hai, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên cần có nội dung và hình thức giáo dục sinh động, phong phú. Cụ thể là: + Giáo dục cho sinh viên có động cơ học tập đúng đắn, tạo tính trung thực, tự giác, sáng tạo trong học tập thông qua các phong trào: "Học vì ngày mai lập nghiệp", "Tuần khoa học", " Triển lãm sáng tạo"...Tổ chức các hoạt động khuyến học, khuyến tài, xây dựng Quỹ tài năng cho sinh viên thúc đẩy động cơ học tập, tạo bầu không khí thi đua học tập, nghiên cứu khoa học trong sinh viên. Đồng thời tăng cường hơn nữa hoạt động tình nguyện trong sinh viên, thành lập các đội công tác có tính tổng hợp. Trong một đội có nhiều thành viên ở các trường hợp lại cùng giải quyết các vấn đề khó khăn tại cơ sở đến làm tình nguyện. Như vậy, tăng cường sự giao lưu giữa các trường và đạt hiệu quả cao trong công tác này. + Mặt khác, cần đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể thao như diễn đàn, giao lưu văn hóa văn nghệ, thể thao, thi tìm hiểu những vấn đề chính trị, văn hóa... đáp ứng các nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao trong sinh viên khi ngành giáo dục đa số áp dụng chế độ làm việc 40 giờ/ một tuần. - Thứ ba, khắc phục khó khăn cho sinh viên khi ra trường kiếm việc làm, Đoàn, Hội nên tổ chức những buổi nói chuyện, những trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm cho sinh viên, tạo điều kiện cho sinh viên có thông tin nghề nghiệp, việc làm và chọn nơi dự tuyển. Việc thực hiện cầu nối giữa đào tạo và sử dụng mà ở một số Đoàn trường đã làm được sự ủng hộ của đông đảo sinh viên và xã hội. Nó đã góp phần giúp sinh viên hoàn thiện những yếu tố đòi hỏi của thị trường sức lao động và giúp học có việc làm, tránh bị xô đẩy, bị ảnh hưởng bởi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. - Thứ tư, trong quá trình triển khai các hoạt động, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy cùng cấp, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần có sự kết hợp đồng bộ liên hệ chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và với Công đoàn phòng Công tác chính trị ...để có những hoạt động phối hợp trong toàn trường, tăng hiệu quả công tác vận động, giáo dục cho sinh viên. Đoàn thanh niên, Hội sinh viên góp phần quan trọng trong việc xây dựng môi trường đại học trong sạch, kiểu mẫu của những người thanh niên có học vấn cao. Ở đấy, mọi người sống văn minh, lịch sự, giúp nhau định hướng cuộc sống, say mê lý tưởng, hoài bão, vượt qua mọi khó khăn trong học tập, thiếu thốn trong cuộc sống. Đây chính là nơi đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, những biểu hiện thiếu văn minh. 2.2.4. Phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên, góp phần xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 1992, trang 964 viết: "Tích cực là sự tỏ ra chủ động, có những hoạt động nhằm tạo những biến đổi, thay đổi; Hoặc: hăng hái, tỏ ra nhiệt tình đối với nhiệm vụ, với công việc". Ví dụ: tính tích cực học tập, tính tích cực hoạt động thể thao... Ẩn sâu trong tính tích cực hoạt động là động cơ hoạt động. Động cơ hoạt động trong xã hội chính là những nhu cầu được nhận thức, được trở thành ý thức của con người. Xem xét dưới góc độ là một hiện tượng xã hội, tính tích cực xã hội (tính tích cực xã hội) của sinh viên bao gồm hai mặt thống nhất biện chứng với nhau: Tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần và tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn. Trong đó, tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần có nguồn gốc từ Tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn, định hướng cho tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn và đồng thời lại được thể hiện qua tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn. Nó bao gồm toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, tri thức của sinh viên về xã hội và con người, thể hiện thái độ tích cực của chủ thể sinh viên trong quan hệ đối với xã hội. Nếu tính tích cực xã hội hoạt động tinh thần của sinh viên là sự phản ánh tồn tại xã hội, điều kiện xã hội mà sinh viên sống và học tập, thì tính tích cực xã hội hoạt động thực tiễn của sinh viên là toàn bộ những biểu hiện cụ thể của hoạt động thực tiễn của sinh viên tác động vào điều kiện, hoàn cảnh xã hội. Những hoạt động này cải tạo điều kiện, hoàn cảnh xã hội hiện thực nhằm thực hiện lợi ích, thỏa mãn nhu cầu của chủ thể hoạt động [58, tr. 29]. Khi bàn đến việc phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên phải tính đến việc giáo dục nhu cầu, giáo dục mục đích, động cơ học tập. Sinh viên muốn có một nhân cách đạo đức trong sáng, trước hết mọi động cơ học tập và rèn luyện của họ phải được xác định đúng đắn. Khi công tác giáo dục, giáo dục đạo đức không đạt đến giới hạn ấy thì tính tích cực xã hội của họ sẽ không đáp ứng được những gì mà chúng ta mong muốn. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục cho thanh niên, C. Mác đã khẳng định tương lai của cả loài người phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ thanh niên đang lớn lên và nhiệm vụ chủ yếu của họ là nhiệm vụ học tập. Lê nin còn chỉ rõ: "chúng ta chỉ có thể xây dựng chủ nghĩa cộng sản từ tổng số những kiến thức, các tổ chức và thiết chế bằng các số dự trữ nhân lực và vật lực mà xã hội cũ để lại cho chúng ta thì chúng ta mới có thể bằng những cố gắng của thế hệ trẻ đạt được kết quả là xây dựng lên... Chúng ta phải dạy dỗ những gì và thanh niên phải học như thế nào. Chúng ta phải chuẩn bị cho thanh niên như thế nào để cho họ biết xây dựng đến cũng và hoàn thành triệt để cái sự nghiệp mà chúng ta bắt đầu" [32, tr. 230]. Trong hệ thống các biện pháp tác động vào tính tích cực xã hội của con người nói chung, sinh viên nói riêng, Hồ Chí Minh chú trọng đầu tiên đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng chủ nghĩa xã hội và đạo đức cách mạng. Người nói: "Một năm khởi đầu từ mùa xuân; Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ; Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội" [13, tr. 22], nên việc giáo dục thanh niên, sinh viên trước hết là phải sống có lý tưởng, có ý chí quyết tâm cao, kiên trì, khổ luyện, vượt qua mọi khó khăn gian khổ để đạt được mục tiêu lý tưởng là một việc làm có ý nghĩa quan trọng. Người căn dặn thanh niên, sinh viên: "Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên" [42, tr. 95] và điều gì phải thì cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái thì hết sức tránh dù là điều trái nhỏ. Nhiệm vụ của người thanh niên trí thức là học, học để phụng sự Tổ quốc, học để phục sự nhân dân, làm ho dân giàu, nước mạnh. Đối với thanh niên trí thức cần phải đặt câu hỏi: học để làm gì ? học để phụng sự ai ? Học phải đi đôi với hành, chỉ biết lao động trí óc mà không lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì trí thức ấy mới chỉ đạt được một nửa.Người nhấn mạnh phải giáo dục đạo đức cho thanh niên sinh viên để họ vừa "hồng", vừa "chuyên" vừa có đức, vừa có tài, đức là gốc cách mạng. Khi đã xác định được động cơ, mục tiêu lý tưởng đúng đắn là yếu tố dẫn đến tích tích cực xã hội của chủ thể hoạt động. Như chúng ta đã biết nhân cách, nhân cách đạo đức chỉ được hình thành và phát triển thông qua hoạt động của con người. Bởi bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là tổng hòa của các quan hệ xã hội, mà những quan hệ xã hội lại chỉ có thể được bộc lộ thông qua hoạt động của con người. Vì vậy, giáo dục để phát huy tính tích cực xã hội của con người nói chung, sinh viên nói riêng góp phần quyết định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, TTCXH chỉ có vai trò thúc đẩy sự phát triển nhân cách đạo đức khi hoạt động của nó có giá trị đối với con người, không những ở kết quả mà còn ở nội dung và ý nghĩa xã hội của nó. TTCXH với nghĩa là năng động, chủ động, hành động. Vì vậy, trong thực tế có TTCXH tiến bộ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, của nhân cách và ngược lại cũng có cái chủ động, hoạt động lạc hậu, phản động, kìm hãm sự phát triển xã hội. Nói tới TTCXH sinh viên, ở đây chúng tôi chỉ đề cập đến tính chủ động, năng động, hành động tiến bộ trong sinh viên. Theo nghĩa này, thì không phải mọi hoạt động mà xuất phát từ nhu cầu của sinh viên đều là cơ sở của TTCXH của họ. Chỉ có những hoạt động xuất phát từ những nhu cầu hợp lý, tức là những nhu cầu vừa hợp với những trạng thái hiện có của nền kinh tế - xã hội, vừa hướng tới nền văn minh nhân loại, mới là cơ sở của TTCXH của sinh viên. Trong thực tế có một bộ phận sinh viên có nhu cầu mặc đẹp, ăn ngon nhưng không lao động, thích cuộc sống tự do, buông thả, coi thường những qui định chung của xã hội...Để đạt được những ham thích này, họ chủ động, năng động, thậm chí làm bằng mọi cách thỏa mãn nhu cầu của mình. Đây không thể là cơ sở nảy sinh TTCXH và càng không thể là tác nhân xây dựng nhân cách đạo đức trong sáng cho mỗi sinh viên. KẾT LUẬN Nhân cách đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái gốc" làm nên nhân cách con người. Vì vậy, việc xây dựng con người mới nói chung và xây dựng các thế hệ sinh viên mới nói riêng đáp ứng các yêu cầu, đòi hỏi của công cuộc xây dựng đất nước hiện nay gắn liền với việc xây dựng nhân cách đạo đức của họ. Việc phân tích cấu trúc của nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên cho chúng ta hiểu rõ thêm vai trò của nhân cách đạo đức trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhân cách của người sinh viên, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam. Nhân cách đạo đức của sinh viên được hình thành và phát triển bị qui định bởi các yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần của xã hội và cũng bị qui định bởi chính những đặc điểm nội tại của bản thân mỗi sinh viên. Đó là, đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi, đặc điểm của hệ thống nhu cầu, lợi ích của sinh viên trong hoạt động học tập, nghiên cứu và hoạt động xã hội. Nhân cách đạo đức chỉ được hoàn thiện và phát triển khi giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Sự qui định lẫn nhau và tác động lẫn nhau của lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội tạo cơ sở cho việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức. Đồng thời sự phát triển của nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền thống đạo đức, chịu sự qui định của nhân tố văn hoá tinh thần xã hội. Nhìn chung, thực trạng sinh viên hiện nay đang biến đổi theo xu hướng tích cực trên nhiều mặt của nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, còn một bộ phận sinh viên có nhân cách đạo đức suy thoái biểu hiện ở sự xa rời những giá trị đạo đức tốt đẹp trong truyền thống của dân tộc thiếu quan tâm tìm hiểu đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, tiếp nhận ồ ạt những sản phẩm văn hóa không lành mạnh, du nhập lối sống thực dụng của Tâu Âu... Vì vậy, để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh là giải pháp đầu tiên tạo cơ sở cho quá trình xây dựng nhân cách đạo đức của sinh viên. Đó chính là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, tạo lập môi trường văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc và trực tiếp hơn là xây dựng môi trường đại học lành mạnh. Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên, trong đó đặc biệt quan tâm đến việc đổi mới nội dung, hình thức giáo dục, phải chú trọng cả đức và tài. Nâng cao vai trò của Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên Việt Nam trong việc phát huy tính tích cực xã hội của sinh viên để góp phần xây dựng nhân cách đạo đức cho họ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban Tư tưởng - Văn hóa trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo (2001), "Nhân cách và giáo dục văn hóa nhân cách", Triết học, (1), tr. 29. Báo Nhân Dân, ngày 6.3.1997. Nguyễn Ngọc Bích (1995), Hồ Chí Minh những vấn đề về tâm lý học, Viện Tâm lý học, Hà Nội. Phạm Xuân Cảnh (1996), Tìm hiểu lối sống của sinh viên Hà nội trong thời kỳ đổi mới, Luận văn tốt nghiệp đại học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. A. G. Côvaliôp (1971), Tâm lý học cá nhân, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Chủ nghĩa xã hội và nhân cách (1993), Nxb Giáo khoa Mác - Lênin, Hà Nội. Thành Duy (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban chấp hành trung ương khóa VII. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp hành trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam với công tác vận động thanh niên trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh (1999), Tổng quan tình hình thanh niên, công tác Đoàn và phong trào thiếu nhi, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Số liệu thống kê sinh viên kết nạp Đảng năm 2000. Trần Minh Đoàn (2001), Giáo dục đạo đức cho thanh niên, học sinh theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Nguyễn Tĩnh Gia (1997), "Sự tác động hai mặt của cơ chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Nghiên cứu lý luận, (2). Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khắc Hùng, Phạm Hồng Quang (2001), "Thực trạng lối sống sinh viên đại học Thái Nguyên", Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. Hoàng Ngọc Hiếu (1976), Luận cương đạo đức học, Trường Lý luận nghiệp vụ, Bộ Văn hóa, Hà Nội. Phan Văn Khải (17.10.2001), "Tạo bước phát triển rõ rệt giáo dục đại học những năm đầu thế kỷ XXI", Báo Giáo dục thời đại. Lương Quỳnh Khuê (1995), Văn hóa thẩm mỹ và nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (1996), "Quan hệ giữa đạo đức và kinh tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay", Triết học, (6). Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (chủ biên) (1974), Đạo đức mới, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội. Trần Hậu Khiêm, Bùi Công Trang (1997), Đạo đức học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Nguyễn Ngọc Long (1987), "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức trong việc đổi mới tư duy", Nghiên cứu lý luận, tháng 1-2. Nguyễn Ngọc Long (chủ biên) (2000), Đạo đức học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. A.N. Lêônchiép (1989), Hoạt động - ý thức - nhân cách, Nxb Giáo dục, Hà Nội. V.I. Lênin (1970), Bàn về giáo dục, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trường Lưu (chủ biên) (1998), Văn hóa đạo đức và tiến bộ xã hội, Nxb Thông tin. C. Mác - Ph. Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1972), Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1987), Những sự kiện, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên) (1999), Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nhân cách sinh viên (1981), Tủ sách Trường Đại học Kinh tế kế hoạch. Trọng Nghĩa (5.7.1993), "Thiên tài hay bệnh hoạn", Báo Giáo dục thời đại, (27). Hà Văn Phan (2000), Tìm hiểu thực trạng, phương hướng và những giải pháp giáo dục nhân cách sinh viên ở các trường đại học và cao đẳng trong điều kiện hiện nay, Đề tài cấp bộ, Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Phân viện thành phố Hồ Chí Minh (1996), Đề cương bài giảng Tâm lý học lãnh đạo. Nguyễn Văn Phúc (1999), "Về một số giải pháp xây dựng nhân cách đạo đức hiện nay", Triết học, (4), tr. 5. Nguyễn Văn Phúc (1996), "Vai trò của giáo dục đạo đức đối với sự phát triển nhân cách trong cơ chế thị trường", Triết học, (5), tr. 15 Nguyễn Thị Sáu (1996), Vai trò của đạo đức Mác - Lênin trong giáo dục đạo đức, Luận văn thạc sĩ Triết học, Viện Triết học. Sổ tay Tâm lý học (1990), Nxb Khoa học xã hội. Tạ Ngọc Tấn (1998), Tác động của báo chí đối với việc xây dựng lối sống tích cực của thanh niên, sinh viên hiện nay, Đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Đỗ Công Tuấn (1997), Nhu cầu tiêu dùng ấn phẩm văn hóa của thanh niên ngoại thành trong điều kiện kinh tế thị trường, thực trạng và giải pháp tác động, Đề tài cấp bộ, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền. Lưu Thu Thủy (12.2000), "Thực trạng tư tưởng - chính trị, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên qua kết quả khảo cứu tư liệu", Kỷ yếu hội thảo quốc gia "thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng tưởng chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên Việt Nam". Thực trạng tư tưởng và một số dự báo bước đầu về diễn biến tư tưởng của thanh niên sinh viên Hà Nội (1990), Viện NCPT Giáo dục,. Trịnh Trí Thức, Một số nhân tố khách quan tác động đến tính tích cực xã hội của sinh viên Việt Nam trong thời kỳ mới. Lê Thi (1997), Vai trò của gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. V.I. Va nốp và B.lixin (1985), Đào tạo và giáo dục cán bộ Đoàn, Nxb Thanh niên, Hà Nội. Văn hóa vì con người (1993), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khắc Vinh (1999), "Xây dựng đạo đức lối sống và chuẩn giá trị xã hội để phát triển toàn diện con người", Thông tin lý luận, (3). Lê Xuân Vũ (1994), "Mấy ý kiến về giáo dục, rèn luyện đạo đức Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (4). ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2657.DOC
Tài liệu liên quan