Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt

Lời nói đầu Hoạt động sản xuất kinh doanh là hoạt động kinh tế phức tạp và mang tính đặc thù. Nó có liên quan và tác động đến nhiều ngành nghề kinh tế kỹ thuật. Đồng thời nó cũng chịu sự tác động và ảnh hưởng của nhiều ngành, nhiều yếu tố thuộc môi trường kinh doanh. Nhìn chung, một doanh nghiệp dù thuộc loại hình nào, dù lớn hay nhỏ, dù kinh doanh loại mặt hàng nào đi nữa thì đều đòi hỏi phải đạt hiệu quả và có lãi thì mới có thể tồn tại được. Trong nhiều năm trước đây, khi nền kinh tế đất n

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1513 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước còn nằm trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì vấn đề hiệu quả chưa trở thành mối quan tâm lớn nhất đối với các doanh nghiệp. Bởi lẽ ở thời đó, các doanh nghiệp chỉ hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sở các chỉ tiêu pháp lệnh của Nhà nước và cho dù kết quả cuối cùng có là lãi hay lỗ thì doanh nghiệp vẫn được Nhà nước bảo trợ về mọi mặt. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN thì nền kinh tế nước ta mới thực sự khởi sắc. Giờ đây, các doanh nghiệp đã được Nhà nước giao quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh nên đã thực sự trở thành các chủ thể kinh tế một cách độc lập. Để có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh có sự cạnh tranh gay gắt thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải mang lại hiệu quả. Mục tiêu “Tối đa hóa lợi nhuận” luôn là thước đo cũng như mục đích cuối cùng của mọi biện pháp sản xuất kinh doanh hiệu quả đó. Vì vậy, vấn đề lợi nhuận và hiệu quả đã trở thành mối quan tâm hàng đầu đối với các doanh nghiệp hơn bao giờ hết. Để hoạt động sản xuất kinh doanh thu được lợi nhuận cao trên cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư, vốn và lao động sẵn có. Phải nắm được các nguyên nhân ảnh hưởng đến mức độ và xu hướng ảnh hưởng của từng nguyên nhân đến lợi nhuận. Do đó, phân tích lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh là một việc làm hết sức cần thiết đối với các nhà kinh doanh, các doanh nghiệp. Sau khi học môn Lý thuyết thống kê đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của công tác nghiên cứu phân tích lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp em đã chọn đề tài “Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt”. Đề tài chủ yếu tập trung đi sâu vào phân tích, đánh giá tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty dựa trên phương pháp chỉ số thống kê. Dựa trên cơ sở đó để đưa ra những giải pháp tài chính hữu hiệu cho việc gia tăng lợi nhuận trong những năm tới của Công ty. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu luận văn gồm 3 chương: Chương I: Một số vấn đề lý luận về phương pháp chỉ số thống kê. Chương II: Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê để phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt năm 2000 – 2005. Chương III: Một số kiến nghị và giải pháp. Qua thời gian làm đề án được sự hướng dẫn của thầy giáo, PGS.TS: Nguyễn Công Nhự em đã hoàn thành đề án môn học Lý thuyết thống kê. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu và phân tích nhưng do hạn chế về trình độ nhận thức nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô để đề án của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Nguyễn Công Nhự đã chỉ bảo cho em trong thời gian qua. Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2007 Sinh viên thực hiện Vũ Thị Thanh Thuý Chương I Một số vấn đề lý luận về phương pháp chỉ số thống kê Và lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp A. Chỉ số thống kê I. Khái niệm, phân loại, đặc điểm và tác dụng của chỉ số 1. Khái niệm và phân loại chỉ số Chỉ số trong thống kê là số tương đối biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng trong nghiên cứu. Chỉ số trong thống kê được xác định bằng cách thiết lập quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian hoặc không gian khác nhau nhằm nêu lên sự biến động qua thời gian hoặc sự khác biệt về không gian đối với hiện tượng nghiên cứu. Ví dụ: Lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt năm 2005 so với năm 2004 bằng 119,61% (hay 1,1961 lần) là chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh giữa lợi nhuận của Công ty qua hai năm. Chỉ số thống kê được biểu hiện bằng số tương đối, nhưng cũng cần phân biệt giữa chỉ số và số tương đối trong thống kê. Chỉ số biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của một hiện tượng, còn số tương đối nói chung có thể biểu hiện quan hệ so ssanh giữa hai mức độ của cùng hiện tượng hoặc của hai hiện tượng khác nhau. Do vậy, có thể nhận thấy số tương đối động thái, số tương đối không gian, số tương đối kế hoạch là chỉ số. Số tương đối cường độ (ví dụ: hiệu suất vốn kinh doanh biểu hiện quan hệ so sánh giữa tổng lợi nhuận và quy mô vốn kinh doanh) không phải là chỉ số. Các chỉ số thống kê được chia thành nhiều loại tuỳ theo những góc độ khác nhau. Một số cách phân loại cơ bản bao gồm: - Căn cứ vào đặc điểm thiết lập quan hệ so sánh, phân biệt: Chỉ số phát triển: biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ của hiện tượng ở hai thời gian khác nhau. Chỉ số kế hoạch: biểu hiện quan hệ so sánh giữa các mức độ thực tế và kế hoạch của chỉ tiêu nghiên cứu bao gồm chỉ số nhiệm vụ kế hoạch và chỉ số thực hiện kế hoạch. Chỉ số không gian: biểu hiện quan hệ so sánh giữa hai mức độ củă hiện tượng ở hai điều kiện không gian khác nhau. - Căn cứ vào phạm vi tính toán, chia thành các loại: Chỉ số đơn (cá thể): là chỉ số phản ánh biến động của từng phần tử, từng đơn vị trong một tổng thể. Chỉ số tổng hợp: là chỉ số phản ánh biến động chung của một nhóm đơn vị hoặc toàn bộ tổng thể nghiên cứu. - Căn cứ vào tính chất của chỉ tiêu nghiên cứu, phân biệt hai loại chỉ số: Chỉ số chỉ tiêu khối lượng: được thiết lập đối với chỉ tiêu khối lượng, là những chỉ tiêu biểu hiện quy mô, khối lượng chung của hiện tượng nghiên cứu. Chỉ số chỉ tiêu chất lượng: được thiết lập đối với các chỉ tiêu chất lượng như chỉ số giá, chỉ số giá thành, chỉ số năng suất lao động... 2. Đặc điểm của phương pháp chỉ số Các chỉ số thống kê sử dụng phổ biến trong kinh tế và kinh doanh lại là những chỉ số tổng hợp phản ánh cho các hiện tượng phức tạp như chỉ số giá tiêu dùng CPI, chỉ số giá xuất nhập khẩu, chỉ số chứng khoán, chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp... Khi tính các chỉ số này cần tổng hợp theo chỉ tiêu nghiên cứu cho một nhóm đơn vị được lựa chọn hoặc toàn bộ tổng thể và trên cơ sở đó thiết lập quan hẹ so sánh. Chỉ số là phương pháp phân tích thống kê, nghiên cứu sự biến động của những hiện tượng kinh tế phức tạp, bao gồm nhiều phần tử mà các đại lượng biểu hiện không thể trực tiếp cộng được với nhau. Xuất phát từ yêu cầu so sánh các mức độ của hiện tượng phức tạp khi thiết lập chỉ số, phương pháp chỉ số có hai đặc điểm cơ bản sau: - Xây dựng chỉ số đối với hiện tượng kinh tế phức tạp thì biểu hiện về lượng của các phần tử được chuyển về dạng chung để có thể trực tiếp cộng được với nhau, dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa nhân tố nghiên cứu với các nhân tố khác. - Khi có nhiều nhân tố tham gia trong công thức chỉ số, việc phân tích biến động của một nhân tố được đặt trong điều kiện giả định các nhân tố khác không thay đổi. 3. Tác dụng của chỉ số trong thống kê Biểu hiện biến động của hiện tượng nghiên cứu qua thời gian. Đây là ý nghĩa khi vận dụng chỉ số phát triển. Biểu hiện biến động của hiện tượng qua những điều kiện không gian khác nhau. Tác dụng này được thể hiện qua việc vận dụng các chỉ số không gian. Biểu hiện nhiệm vụ kế hoạch và phân tích tình hình thực hiện kế hoạch đối với các chỉ tiêu nghiên cứu. Phân tích vai trò và ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với sự biến động của hiện tượng kinh tế phức tạp được cấu thành từ nhiều nhân tố. Thực chất đây cũng là phương pháp phân tích mối liên hệ, nhằm nêu lên các nguyên nhân quyết định sự biến động của hiện tượng phức tạp và tính toán cụ thẻ mức độ ảnh hưởng của mỗi nguyên nhân này. Chỉ số là phương pháp không những có khả năng nêu lên biến động tổng hợp của hiện tượng phức tạp mà còn có thể phân tích sự biến động này. II. Các loại chỉ số 1. Chỉ số phát triển 1.1. Chỉ số đơn (cá thể) Chỉ số đơn giá: biểu hiện quan hệ so sánh giữa mức giá của từng mặt hàng ở hai thời gian. Công thức: Trong đó: ip: Chỉ số đơn giá p1: Giá bán lẻ của mặt hàng kỳ nghiên cứu p0: Giá bán lẻ của mặt hàng kỳ gốc. Chỉ số đơn lượng hàng tiêu thụ: biểu hiện quan hệ so sánh giữa khối lượng tiêu thụ của từng mặt hàng ở hai thời gian. Công thức: Trong đó: Iq: Chỉ số đơn lượng hàng tiêu thụ q1: Khối lượng tiêu thụ của mặt hàng kỳ nghiên cứu q0: Khối lượng tiêu thụ của mặt hàng kỳ gốc. 1.2. Chỉ số tổng hợp Chỉ số tổng hợp giá: biểu hiện quan hệ so sánh giữa giá bán của một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng ở kỳ nghiên cứu với kỳ gốc và qua đó phản ánh biến động chung giá bán của các mặt hàng. Công thức: Trong đó: Ip: Chỉ số tổng hợp giá cả p1 và p0 : giá bán mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc q: lượng tiêu thụ của mỗi mặt hàng Trong công thức nêu trên, lượng tiêu thụ mỗi mặt hàng (q) đã tham gia vào công thức tính chỉ số giá và giữ vai trò là quyền số phản ánh tầm quan trọng của từng mặt hàng trong sự biến động chung của giá. Mặt khác, muốn nghiên cứu biến động chỉ số của nhân tố giá thì giá bán của mặt hàng ở hai kỳ phải được tổng hợp theo cùng một lượng hàng hoá tiêu thụ, nghĩa là cố định ở một kỳ nào đó trong cả tử và mẫu số của công thức. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu và điều kiện tài liệu tổng hợp được thực tế, chỉ số tổng hợp giá cả có thể được xác định theo các công thức như sau: Chỉ số tổng hợp giá cả Laspeyres: là chỉ số tổng hợp giá cả với quyền số là khối lượng tiêu thụ của mỗi mặt hàng ở kỳ gốc (q0). Công thức: Với quyền số kỳ gốc, chỉ số tổng hợp giá Laspeyres phản ánh biến động của giá bán các mặt hàng ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc và ảnh hưởng biến động riêng của giá cả đối với mức tiêu thụ (doanh thu) các mặt hàng. Chênh lệch giữa tử số và mẫu số phản ánh lượng tăng hay giảm mức tiêu thụ doanh thu do ảnh hưởng biến động của giá bán các mặt hàng với giả định lượng tiêu thụ ở kỳ nghiên cứu cũng như kỳ gốc. Chỉ số tổng hợp giá cả Passche: là chỉ số tổng hợp giá cả với quyền số là khối lượng tiêu thụ của mỗi mặt hàng ở kỳ nghiên cứu (q1) Công thức: Chỉ số tổng hợp giá Passche sử dụng quyền số là lượng tiêu thụ các mặt hàng kỳ nghiên cứu, do đó trong trường hợp có sự thay đổi lớn về khối lượng và cơ cấu tiêu thụ các mặt hàng thì sẽ không phản ánh được ảnh hưởng biến động riêng của giá đối với mức tiêu thụ (doanh thu) các mặt hàng. Tuy nhiên, với quyền số q1 chênh lệch giữa tỷ số với mẫu số của chỉ số giá Passche phản ánh lượng tăng hay giảm thực tế của mức tiêu thụ (doanh thu) do ảnh hưởng biến động giá bán các mặt hàng. Chỉ số tổng hợp giá cả Fisher: phản ánh biến động chung giá bán của các mặt hàng dựa trên cơ sở san bằng chênh lệch giữa chỉ số Laspeyres và Passche theo công thức bình quân nhân như sau: Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ: biểu hiện quan hệ so sánh giữa khối lượng tiêu thụ của một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng thuộc phạm vi nghiên cứu giữa hai thời gian và qua đó phản ánh biến động chung về khối lượng tiêu thụ của các mặt hàng. Trong công thức tính chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ, giá bán của các mặt hàng giữ vai trò là nhân tố thông ước chung chuyển các mặt hàng có khối lượng tiêu thụ tính theo đơn vị khác nhau vè cùng dạng đơn vị giá trị để tổng hợp và thiết lập quan hẹ so sánh. Đồng thời để phản ánh biến động của khối lượng tiêu thụ các mặt hàng thì nhân tố giá được giữ cố định làm quyền số trong công thức chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ như sau: Công thức: Trong đó: Iq: Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ q1 và q0 : lượng tiêu thụ mỗi mặt hàng kỳ nghiên cứu và kỳ gốc p: giá bán của mỗi mặt hàng Như vậy, khối lượng tiêu thụ chung của một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng thuộc phạm vi nghiên cứu ở mỗi kỳ đều không tổng hợp được theo đơn vị hiện vật mà theo đơn vị giá trị. Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Laspeyres: phản ánh biến động chung của lượng tiêu thụ và ảnh hưởng biến động đó đối với mức tiêu thụ (doanh thu) của mặt hàng. Với quyền số là giá bán các mặt hàng kỳ gốc, chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Laspeyres thể hiện theo công thức: Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Passche: với quyền số là giá bán các mặt hàng kỳ nghiên cứu theo công thức sau: Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ Fisher: sử dụng kết hợp quyền số là giá các mặt hàng kỳ gốc và kỳ nghiên cứu thông qua công thức sau: 2. Chỉ số không gian 2.1. Chỉ số đơn Khi so sánh theo không gian, chỉ số đơn phản ánh quan hệ so sánh về giá bán hay lượng tiêu thụ của từng mặt hàng ở hai thị trường, khu vực... - Chỉ số đơn giá so sánh giữa thị trường A và thị trường B là: - Chỉ số đơn lượng tiêu thụ so sánh giữa thị trường A và thị trường B là: 2.2. Chỉ số tổng hợp Chỉ số tổng hợp giá: so sánh không gian sử dụng để so sánh giá bán một nhóm hay toàn bộ các mặt hàng ở hai điều kiện không gian khác nhau. Trong đó: Q = qA+qB: Tổng lượng tiêu thụ của từng mặt hàng ở hai thị trường Chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ: quyền số của chỉ số tổng hợp lượng hàng tiêu thụ so sánh giữa hai thị trường có thể là giá cố định do Nhà nước ban hành hoặc giá trung bình của từng mặt hàng ở hai thị trường. Trong đó: pn là giá cố định của các mặt hàng 3. Chỉ số kế hoạch Chỉ số kế hoạch biểu hiện nhiệm vụ kế hoạch hoặc tình hình thực hiện kế hoạch đối với từng chỉ tiêu. - Nếu căn cứ vào dữ liệu về sản lượng thực tế của doanh nghiệp ở các kỳ, có thể thiết lập các chỉ số sau: Chỉ số kế hoạch giá thành: Chỉ số thực hiện kế hoạch: - Nếu căn cứ vào sản lượng kế hoạch của doanh nghiệp, có thể thiết lập các chỉ số sau: Chỉ số kế hoạch giá thành: Chỉ số thực hiện kế hoạch: III. Hệ thống chỉ số 1. Khái niệm và cấu thành của hệ thống chỉ số Hệ thống chỉ số là một dãy các chỉ số có liên hệ với nhau hợp thành một phương trình cân bằng. Hệ thống chỉ số thông thường được vận dụng để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu trong quá trình biến động. Trong nghiên cứu kinh tế, nhiều chỉ tiêu tổng hợp có thể được cấu thành từ những nhân tố liên quan thể hiện dưới dạng các phương trình kinh tế và chính mối quan hệ đó là cơ sở để thiết lập các hệ thống chỉ số. Một hệ thống chỉ số bao gồm một chỉ số toàn bộ phản ánh sự biến động của hiện tượng phức tạp và các chỉ số nhân tố phản ánh ảnh hưởng biến động của từng nhân tố đối với hiện tượng phức tạp. Thực hiện phân tích nhân tố theo phương pháp này phải tuân thủ hai điều kiện mang tính giả định như sau: Một là, phải xác định được phương trình kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa chỉ tiêu phân tích với các nhân tố ảnh hưởng. Trong đó, thứ tự sắp xếp các nhân tố phải theo trình tự: từ nhân tố chất lượng đến nhân tố số lượng, hoặc ngược lại. Hai là, khi xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố nào đó đến sự biến động (tương đối và tuyệt đối) của chỉ tiêu phân tích thì ta cho nhân tố cần nghiên cứu biến động và cố định các nhân tố còn lại: nhân tố số lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ báo cáo (theo cách của Paasche), còn nhân tố chất lượng đối với nhân tố đang nghiên cứu được cố định ở kỳ gốc (theo cách của Laspeyres). Có hai phương pháp xây dựng hệ thống chỉ số là phương pháp liên hoàn và phương pháp biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng biệt. Mỗi phương pháp có những ưu điểm và hạn chế riêng và tuỳ theo điều kiện thực tế có thể vận dụng một cách thích hợp. Theo phương pháp liên hoàn, hiện tượng nghiên cứu được phân tích thành bao nhiêu nhân tố thì trong hệ thống chỉ số có bấy nhiêu chỉ số nhân tố và mẫu số của chỉ số nhân tố đứng trước là tử số của chỉ số nhân tố đứng sau. Theo phương pháp biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng biệt, tất cả các chỉ số nhân tố đều được xây dựng theo cùng một nguyên tắc là thời kỳ quyền số được lựa chọn là kỳ gốc để biểu hiện ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố. Trong hệ thống chỉ số còn bao gồm chỉ số liên hệ biểu hiện ảnh hưởng chung của các nhân tố cùng biến động và cùng tác động lẫn nhau. Ví dụ, ta có phương trình mà các nhân tố ảnh hưởng được sắp xếp theo thứ tự từ nhân tố chất lượng đến nhân tố số lượng. Z = X x Y Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z ta có: 2. Phương pháp xây dựng hệ thống chỉ số 2.1. Phương pháp liên hoàn: Sử dụng phương pháp này cũng cần tuân thủ hai điều kiện như của phương pháp trên. Nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z ta có: - Do tác động của nhân tố X: - Do tác động của nhân tố Y: - Tổng hợp ảnh hưởng của hai nhân tố: 2.2. Phương pháp biến động riêng: Khi xác định ảnh hưởng biến động riêng (biến động tuyệt đối) của nhân tố nào đó (DY(xi)) đến mức tăng (giảm) tuyệt đối của chỉ tiêu phân tích (DY) thì các nhân tố khác đều cố định ở kỳ gốc. Mức tăng (giảm) của chỉ tiêu phân tích luôn lớn hơn tổng mức tăng (giảm) do ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố ồDY(xi) với i = 1, 2, 3... Sở dĩ như vậy, vì ngoài phần ảnh hưởng biến động riêng của từng nhân tố, còn có phần ảnh hưởng biến động đồng thời của chúng (DY(c)) đến chỉ tiêu phân tích. Do vậy, muốn cho bất phương trình trên thì phải cộng (DY(c)) vào vế phải của nó. Theo phương trình này, nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến Z có: + Do tác động của nhân tố X: + Do tác động của nhân tố Y: + Do tác động đồng thời của hai nhân tố: + Do tác động tổng hợp của cả hai nhân tố đến Z: B. lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp I. Những vấn đề cơ bản 1. Khái niệm Doanh nghiệp (DN) là một tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh (HĐKD). Khái niệm trên đã nhấn mạnh DN phải là một tổ chức kinh tế chứ không phải là một tổ chức chính trị hay tổ chức xã hội. Mục đích của DN là tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh nên muốn tồn tại và phát triển DN phải thu được lợi nhuận. Từ góc độ của DN, có thể thấy rằng lợi nhuận của DN là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí mà DN bỏ ra để đạt được lợi nhuận từ các hoạt động của DN đưa lại. 2. Cách xác định Lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm 3 bộ phận: a. Lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là khoản chênh lệch giữa doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi chi phí bao gồm giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá. dịch vụ đã tiêu thụ. Lợi nhuận thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh thường chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng mức lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây cũng là điều kiện tiền đề để doanh nghiệp thực hiện tích luỹ cho tái sản xuất kinh doanh mở rộng. Đồng thời cũng là điều kiện tiền đề để lập ra các quỹ của doanh nghiệp : quỹ dự phòng mất việc làm, quỹ khen thưởng , quỹ phúc lợi…là điều kiện để không ngừng nâng cao điều kiện làm việc và đời sống tinh thần cho người lao động. Lợi nhuận từ HĐSXKD = DT thuần - Giá thành toàn bộ SP tiêu thụ trong kỳ Doanh thu thuần = Doanh thu từ HĐSXKD – Các khoản giảm trừ( nếu có) Giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ = Giá vốn hàng bán + Chi phí bán hàng Trong đó: - Các khoản giảm trừ bao gồm: giảm giá hàng bán, trị giá hàng bán bị trả lại và thuế gián thu. - Giá vốn hàng bán (GVHB) là trị giá vốn của hàng xuất bán , bao gồm: chi phí nguyên vật liệu (NVL) trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. - Chi phí bán hàng là những chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ. -Chi phí quản lý doanh nghiệp (QLDN) là chi phí có liên quan đến hoạt động quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và quản lý điều hành chung của toàn DN. b. Lợi nhuận thu từ hoạt động tài chính(HĐTC). Là chênh lệch giữa doanh thu HĐTC và chi phí HĐTC. Lợi nhuận HĐTC = Doanh thu HĐTC - Chi phí HĐTC Nó bao gồm các khoản sau: lợi nhuận thu từ góp vốn liên doanh, từ các hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán, từ các hoạt động cho thuê tài sản, từ kinh doanh bất động sản, hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn và dài hạn... c. Lợi nhuận khác Lợi nhuận khác là các khoản chênh lệch khác và chi phí khác. Các khoản thu nhập khác và chi phí khác là những khoản thu nhập hay chi phí mà DN không dự tính trước được hoặc dự tính nhưng ít có khả năng thực hiện, hoặc đó là những khoản thu, chi không mang tính chất thường xuyên. Thu nhập khác gồm: thu từ hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ, thu từ các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu tiền phạt do khách hàng vi phạm hợp đồng,... Còn chi phí khác gồm: chi phí thanh lý, nhượng bán TSCĐ và giá trị còn lại của TSCĐ, tiền phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế, chi do bị phạt thuế, truy nộp thuế, các khoản chi do kế toán nhầm hoặc bỏ sót khi ghi sổ kế toán và các khoản chi khác. Lợi nhuận khác = Thu nhập khác - Chi phí khác 3. Vai trò của lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh Lợi nhuận của doanh nghiệp là một chỉ tiêu kinh tế phản ánh giá trị hàng hoá, thành phẩm hoặc dịch vụ đã được xác định là tiêu thụ trong kỳ. Tăng lợi nhuận thực chất là tăng lượng tiền về cho doanh nghiệp, đồng nghĩa với việc tăng lượng hàng hóa bán ra trên thị trường. Do vậy, tăng lợi nhuận vừa có ý nghĩa xã hội vừa có ý nghĩa đối với doanh nghiệp. * Đối với doanh nghiệp: Tăng lợi nhuận để doanh nghiệp thực hiện tốt chức năng kinh doanh thu hồi vốn nhanh, bù đắp các khoản chi phí sản xuất kinh doanh, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với nhà nước. Lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên sẽ khuyến khích doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, tích cực phát triển sản xuất kinh doanh theo chiều sâu, đồng thời lợi nhuận tăng sẽ tạo ra một môi trường làm việc cho người lao động được tốt hơn, nâng cao đời sống cả về vật chất lẫn tinh thần cho người lao động. * Đối với xã hội: Tăng lợi nhuận góp phần thoả mãn tốt hơn các nhu cầu tiêu dùng hàng hóa cho xã hội. Đảm bảo cân đối cung cầu ổn định giá cả thị trường và mở rộng giao lưu kinh tế giữa các vùng, các nước. Các chỉ tiêu về lợi nhuận còn là cơ sở để phân tích và tính các chỉ tiêu kinh tế như: Phân tích tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh , phân tích chi phí hay kết quả kinh doanh…Ngoài ra nó còn là căn cứ, cở sở để xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho kỳ sau. 4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp Xác định và phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp là nhiệm vụ của các nhà quản lý trong doanh nghiệp. Việc phân tích và nghiên cứu lợi nhuận sẽ cho ta biết xu hướng phát triển của hiện tượng trong hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời cũng cho ta biết được tác động của các nhân tố (nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan) đến kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó có thể giúp cho doanh nghiệp đưa ra những biện pháp ra tăng lợi nhuận hợp lý và hiệu quả hơn. 4.1. Nhóm nhân tố chủ quan. - Nhân tố số lượng sản phẩm tiêu thụ. Về nguyên tắc, việc tăng số lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ làm tổng doanh thu và lợi nhuận tăng lên (các nhân tố khác không thay đổi). Việc tăng số lượng sản phẩm phụ thuộc vào năng lực sản xuất và công tác lập kế hoạch về khối lượng sản phẩm sản xuất và tiêu thụ trong kỳ. Tuy nhiên, nhân tố số lượng cũng chịu sự chi phối của một số yếu tố khách quan đó là nhu cầu của thị trường. Nếu khối lượng sản xuất quá lớn dẫn đến cung vượt cầu, sẽ gây ra tình trạng ứ đọng hàng tồn kho, vòng quay vốn chậm dẫn đến bất lợi cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu số lượng sản phẩm không đáp ứng được nhu cầu khách hàng thì doanh nghiệp đã bỏ lỡ cơ hội tăng doanh thu. Do đó, doanh nghiệp cần nắm vững nhu cầu thị trường, đầu tư thoả đáng cho năng lực sản xuất để có thể đưa ra một khối lượng sản phẩm hợp lý. Đây là vấn đề phụ thuộc chủ yếu vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp. - Nhân tố chất lượng sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường, chất lượng sản phẩm là vũ khí cạnh tranh hữu hiệu và mang tính chiến lược lâu dài. Một sản phẩm có chất lượng tốt, giá trị sử dụng cao, đáp ứng được thị hiếu và có giá bán hợp lý sẽ được người tiêu dùng chấp nhận, đó chính là con đường gia tăng lợi nhuận hiệu quả và bền vững. Tất nhiên, chất lượng sản phẩm còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhu trình độ tổ chức quản lý sản xuất và lao động, kỹ thuật công nghệ, đặc điểm thu nhập và tiêu dùng của mỗi vùng thị trường. Cũng có thể thấy, việc hoàn toàn chỉ chú trọng vào chất lượng sản phẩm chưa chắc đã đem lại hiệu quả như mong muốn, nó có thể đẩy giá bán lên quá cao và sẽ làm thị trường tiêu thụ bị thu hẹp. Rõ ràng, nâng cao chất lượng vừa là yêu cầu, vừa là mục tiêu và nó phụ thuộc rất nhiều vào tính toán chủ quan của doanh nghiệp. - Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất, tiêu thụ và tài chính. Đây là nhân tố thể hiện rất rõ tính chủ quan của doanh nghiệp. Tổ chức tốt việc quản lý sản xuất kinh doanh là cách thức tốt nhất nhằm hạ giá thành, tăng lợi nhuận. Điều này thể hiện từ khâu thu mua nguyên vật liệu, tổ chức sản xuất phải đảm bảo tiết kiệm chi phí đầu vào, tồn kho vật tư hợp lý, giảm tỷ lệ sản phẩm hỏng, đáp ứng đầy đủ kịp thời, sản xuất phải liên tục, nhịp nhàng về thời gian. Bên cạnh đó, các khoản chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng cũng cần tính toán hợp lý, tránh lãng phí không cần thiết. Có thể nói, đây là nhân tố chủ quan thể hiện chất lượng quản lý kinh doanh trong doanh nghiệp. Quản lý tài chính là quản lý việc tổ chức sử dụng vốn. Vốn đầu tư cho từng khâu phải hợp lý, từ khâu dự trữ vật tư, tồn kho sản phẩm đến việc quản lý các khoản phải thu, phải trả, khoản vay nợ ngân hàng, các khoản đầu tư ngoài doanh nghiệp... Thông qua đó, kiểm tra tình hình luân chuyển vốn ở từng khâu, phát hiện những mất mát, hao hụt, ứ đọng vốn và có những biện pháp xử lý. Thực hiện tốt các vấn đề này sẽ nâng cao được hiệu quả sử dụng vốn cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Ngược lại, Nếu các nhân tố này bị xem nhẹ thì hậu quả trước mắt và lâu dài sẽ rất lớn, có thể dẫn tới tình trạng phá sản của doanh nghiệp. - Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng con người. Đây là nhân tố hết sức quan trọng ảnh hưởng trực tiếp tới năng suất, chất lượng và hạ giá thành, tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tổ chức lao động khoa học tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý. Đó là cơ sở để loại trừ tình trạng lãng phí lao động, lãng phí giờ máy. Muốn tạo ra một đội ngũ lao động có chất lượng cần chú ý từ khâu tuyển dụng đến bố trí công việc, sắp xếp thời gian. Bên cạnh đó, cần quan tâm đến việc học tập nâng cao trình độ cũng như các chế độ thưởng, phạt nhằm khuyến khích tinh thần, tâm lý cho người lao động, khiến họ yên tâm và gắn bó với công việc. 4.2. Nhóm nhân tố khách quan. - Nhân tố giá bán. Giá bán được xác định bởi quy luật cung cầu trên thị trường và mang tính khách quan. Nếu các nhân tố khác không đổi thì việc nâng cao được giá bán sản phẩm là cơ hội để tăng doanh thu và lợi nhuận. Do vậy việc xác định một chính sách giá cả hợp lý là rất quan trọng. - Vòng đời sản phẩm. Mỗi sản phẩm đều có một vòng đời tồn tại trải qua 4 giai đoạn từ khi xuất hiện, tăng trưởng, bão hoà và suy thoái. Mỗi giai đoạn khác nhau sẽ cho doanh thu và lợi nhuận khác nhau, nếu như DN tổ chức quản lý, khai thác và kéo dài giai đoạn tăng trưởng và bão hoà, rút ngắn thời gian suy thoái và hình thành ban đầu, sẽ giúp DN thu được nhiều lợi nhuận hơn. Do vậy, DN cần nắm vững, có kế hoạch cho cụ thể cho từng giai đoạn để có thể sản xuất sản phẩm hợp lý nhất. - Nhân tố khoa học công nghệ. Là nhân tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của DN. áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật là phương thức tốt nhất để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí hạ giá thành nâng cao lợi nhuận cho DN. Ngược lại, nếu không áp dụng thì sản phẩm của DN không bắt kịp được thị trường, chất lượng không được như ý, sẽ bị đào thải và làm cho DN hoạt động kém hiệu quả, lợi nhuận thu được thấp thậm chí thua lỗ. Với những nhân tố tác động tới lợi nhuận như vậy, DN cần chó những giải pháp để phát huy yếu tố tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực để nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. II. Hệ thống chỉ tiêu về lợi nhuận của doanh nghiệp Tổ chức hạch toán doanh nghiệp công nghiệp tính chỉ tiêu lợi nhuận thu từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh công nghiệp của doanh nghiệp như sau: - Tổng lợi nhuận gộp (MG): là chỉ tiêu lợi nhuận chưa trừ đi các khoản chi phí tiêu thụ. Nếu ký hiệu z là giá vốn một đơn vị sản phẩm bán (hay giá thành công xưởng một đơn vị sản phẩm bán) thì MG còn được xác định theo các công thức: MG = ồ(p – t – z)q’  Hoặc: MG = ồ(p’ – t)q’  - Tổng lợi nhuận thuần trước thuế (MT): là chỉ tiêu lợi nhuận sau khi đã trừ tiếp đi các khoản chi phí tiêu thụ. Nếu ký hiệu c là chi phí tiêu thụ tính trên một đơn vị sản phẩm thì MT còn được xác định theo các công thức: MT = ồ(p – t – z - c)q’  Hoặc: MT = ồ(p’ – t - c)q’  - Tổng lợi nhuận thuần sau thuế hay tổng lãi ròng (MR): là chỉ tiêu lợi nhuận sau khi đã trừ tiếp đi thuế thu nhập doanh nghiệp nộp ngân sách Nhà nước. Lợi nhuận ròng là cơ sở để chia lãi cho các chủ sở hữu vốn (chia liên doanh, trả lãi vay ngân hàng và trích lập các quỹ của doanh nghiệp (gồm quỹ phát triển sản xuất kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính (quỹ dự trữ), quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm, quỹ khen thưởng và phúc lợi...) Chương II Vận dụng phương pháp chỉ số thống kê phân tích lợi nhuận của Công ty cổ phần công trình đường sắt giai đoạn 2000 – 2005 I. lợi nhuận của Công ty Cổ phần công trình đường sắt giai đoạn 2000-2005 1. Tổng quan về Công ty cổ phần công trình đường sắt Công ty công trình đường sắt là đơn vị trực thuộc Tổng công ty đường sắt Việt Nam, trước đây là xí nghiệp liên hợp công trình thuộc liên hợp công trình đường sắt Việt Nam, là một doanh nghiệp Nhà nước, hạch toán kinh tế độc lập, có đầy đủ tư cách pháp nhân. Từ khi thành lập tới nay Công ty có những bước phát triển không ngừng, Công ty đã trở thành một doanh nghiệp trực tiếp tham gia xây dựng các công trình lớn vừa thực hiện hoàn thành kế hoạch của Tổng công ty giao phó vừa khai thác, đấu thầu các công trình mới. Tiền thân với tên gọi là đội cầu, đường, kiến trúc, thông tin, tín hiệu, trụ sở đóng tại số 131 đường Thạch Hãn - TP Huế - Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đến ngày 20/03/2003 được đổi tên thành Công ty Công trình đường sắt theo quyết định số 734/2003/QĐ - GTVT của Bộ Giao thông vận tải. Đến tháng 6/2003 do yêu cầu và nhiệm vụ mới công ty chuyển trụ sở ra đóng tại số 09 Láng Hạ, Hà Nội. Đến tháng 5/2005 công ty chuyển thành Công ty cổ phần công trình đường sắt, trong đó nhà nước chiếm 67% vốn, số vốn còn lại được đóng góp từ các cổ đông trong công ty và cổ đông bên ngoài. Trong những năm vừa qua Công ty đã thực hiện một số công trình, hạng mục công trình như: cầu Thịnh Kỷ (Hà Nội), cầu chui Lạng Sơn, ga Giáp Bát, cầu Long Biên, cầu Diễn Hồng… Các công trình đều được xây dựng với chất lượng tốt, thi công và bàn giao công trình đúng tiến độ, đã và đang ngày càng tạo uy tín, khẳng định vị trí của m._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36102.doc
Tài liệu liên quan