Xây dựng một số quan điểm chính trong chiến lược đấu thầu của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1

Mở đầu Trong giai đoạn hiện nay nền kinh tế nước ta đang chuyển mình biến đổi trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp khi phải tự hạch toán kinh doanh thì đấu thầu trở thành phương thức duy nhất để các doanh nghiệp xây dựng cơ bản có cơ hội giành được các hợp đồng xây lắp, duy trì và phát triển doanh nghiệp. Theo xu thế phát triển đi lên của thời đại, hình thức đấu thầu được chủ đầu tư ưu tiên lựa chọn nhiều vì tính kinh tế và hiệu quả nổi trội so với các hình thức khác. Tuy nhiên vì mới chỉ

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1393 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Xây dựng một số quan điểm chính trong chiến lược đấu thầu của Tổng Công ty xây dựng công trình giao thông 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển thực sự trong những năm vừa qua nên ngoài những ưu điểm mà phương thức đấu thầu mang lại, thực tế công tác đấu thầu tại các doanh nghiệp nói chung và Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I nói riêng còn tỏ ra có những hạn chế và bất cập. Nguyên nhân chính một phần do năng lực nội tại của các doanh nghiệp và một phần không nhỏ là sự tác động khách quan của môi trường đầu tư chưa thông thoáng, sự thiếu đồng bộ của hành lang pháp lý… Đối với Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I, xây dựng công tác đấu thầu luôn được quan tâm hàng đầu trong chiến lược phát triển của Tổng công ty. Thực tế những dự án thắng thầu đã đem lại sản lượng xây lắp chính tăng lợi nhuận, tăng thị phần và uy tín của Tổng công ty trên thị trường xây dựng công trình giao thông. Trong năm vừa qua, do tính chất cạnh tranh ngày một quyết liệt với sự xuất hiện ngày càng nhiều các công ty xây dựng nước ngoài có tiềm lực tài chính, thiết bị mạnh, thì các dự án thắng thầu của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I giảm đi đáng kể. Để có thể đứng vững trong điều kiện mới, Tổng công ty cần phải có những quan điểm cụ thể để nâng cao khả năng cạnh tranh trong công tác đấu thầu. Xuất phát từ thực trạng đó tôi mạnh dạn chọn đề tài : “Xây Dựng một số quan điểm chính trong chiến lược đấu thầu của Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I Giai đoạn 2001- 2010 ” Kết cấu đề tài gồm 3 chương: Chương I: Cơ sở lý luận của đấu thầu và khả năng cạnh tranh trong các doanh nghiệp xây dựng. Chương II: Tình hình tham gia công tác đấu thầu tại Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I Chương III: Một số quan điểm trong chiến lược đấu thầu của tổng công ty xây dựng công trình giao thông I giai đoạn 2001- 2010 Do thời gian tìm hiểu và khả năng nhận thức còn hạn chế, trong khi đó vấn đề đấu thầu là một vấn đề phức tạp, khó khăn nên đề tài không thể tránh được các thiếu sót nhất định. Vì vậy tôi mong muốn nhận được ý kiến đóng góp của người đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn và có ý nghĩa thực tiễn cao. Tôi xin chân thành cảm ơn các cô chú bác tại phòng Kế hoạch – Thống kê- Tổng công ty xây dựng công trình giao thông I, Bác Nguyễn Thị Lanh, Anh Cường và đặc biệt Thầy giáo- Thạc sỹ Vũ Cương đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành được đề tài này. Chương I : Cơ sở lý luận về đấu thầu và khả năng cạnh tranh trong các doanh nghiệp xây dựng. I - Lý luận chung về đấu thầu : Khái niệm và phạm vi áp dụng quy chế đấu thầu : Khái niệm : Đấu thầu là một phương pháp quản lý, một phạm trù kinh tế gắn liền với sự ra đời của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Trong xây dựng phương thức đấu thầu là một bước phát triển cao hơn của phương thức giao thầu xây dựng . Đồng thời chính đấu thầu lại là điều kiện ban đầu của giao thầu xây lắp. Giao nhận thầu được thực hiện trên cơ sở kết quả của đấu thầu. Có những cách hiểu khác nhau về đấu thầu trong xây dựng : Trên phương diện của chủ đầu tư : đấu thầu là một phương thức cạnh tranh trong xây dựng nhằm lựa chọn người nhận thầu(khảo sát, thiết kế, xây lắp, mua sắm máy móc thiết bị…) đáp ứng được yêu cầu kinh tế - kỹ thuật đặt ra cho việc xây dựng công trình. Trên phương diện của Nhà thầu : Đấu thầu là một hình thức kinh doanh mà thông qua đó Nhà thầu giành cơ hội được nhận thầu khảo sát, thiết kế, mua sắm máy móc thiết bị và xây lắp công trình. Trên phương diện quản lý Nhà nước : Đấu thầu là một phương thức quản lý thực hiện dự án đầu tư mà thông qua đó lựa chọn được Nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu. Từ những góc độ trên có thể thấy thực chất của đấu thầu thể hiện ở các khía cạnh sau : Thứ nhất, đấu thầu là việc tổ chức hoạt động cạnh tranh trên hai góc độ : + Cạnh tranh giữa bên mời thầu(Chủ đầu tư) và Nhà thầu(các đơn vị xây lắp). + Cạnh tranh giữa các Nhà thầu. Các quan hệ cạnh tranh này xuất phát từ quan hệ mua bán(cung - cầu) bởi vì đấu thầu thực chất là một hoạt động mua bán và ở đây người mua là chủ đầu tư và người bán là các Nhà thầu. Tuy nhiên, hoạt động mua bán này khác với hoạt động mua bán thông thường ở chỗ: Tính chất hàng hoá của sản phẩm xây dựng thể hiện không rõ do việc tiêu thụ diễn ra trước khi có sản phẩm và thực hiện theo dự toán (chứ không phải giá thực tế). Theo lý thuyết hành vi thì trong một vụ mua bán, bao giờ người mua cũng cố gắng để mua được hàng hoá với mức giá thấp nhất ở chất lượng nhất định, còn người bán lại cố gắng bán được mặt hàng đó ở mức giá cao nhất có thể. Do đó nảy sinh sự cạnh tranh giữa người mua(chủ đầu tư)và người bán (các nhà thầu). Mặt khác, do hoạt động mua bán này lại diễn ra với chỉ một người mua và nhiều người bán, nên giữa người bán (các Nhà thầu) phải cạnh tranh để bán được những sản phẩm của mình. Kết quả là thông qua việc tổ chức cạnh tranh sẽ hình thành giá thầu hay giá dự toán công trình. Thứ hai, đấu thầu còn là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu quả kinh tế trong việc lựa chọn đơn vị thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi việc so sánh, đánh giá giữa các Nhà thầu phải diễn ra theo một quá trình và căn cứ vào một hệ thống các tiêu chuẩn nhất định. Kết quả cuối cùng sẽ tìm ra được một Nhà thầu đáp ứng tốt các yêu cầu về công trình của Chủ đầu tư. -Theo tính chất công việc, đấu thầu có thể áp dụng cho các công việc sau : Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là qúa trình đấu thầu nhằm tuyển chọn một công ty hoặc một cá nhân tư vấn có kinh nghiệm chuyên môn để thực hiện các công việc có liên quan trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư. Đấu thầu mua sắm vật tư thiết bị (hàng hoá ) là qúa trình lựa chọn nhà thầu cung cấp những loại vật tư thiết bị phù hợp đáp ứng các yêu cầu của dự án đầu tư. Đấu thầu xây lắp : là quá trình lựa chọn nhà thầu phù hợp thực hiện các công việc xây dựng và lắp đặt các công trình đáp ứng các yêu cầu của dự án đầu tư. Đấu thầu lựa chọn đối tác thực hiện dự án :là quá trình lựa chọn các đối tác phù hợp, có khả năng tổ chức thực hiện toàn bộ những công việc có liên quan đến dự án từ chuẩn bị đầu tư và xây dựng, cung ứng vật tư thiết bị, xây dựng và lắp đặt, thu xếp các nguồn vốn. 1.2. Phạm vi và đối tượng áp dụng quy chế đấu thầu : Theo Nghị định số 88/1999/NĐ - CP ngày 01- 09 - 1999 của Chính phủ quy định: Quy chế đấu thầu áp dụng để lựa chọn Nhà thầu cho các dự án đầu tư tại Việt nam và phải được tổ chức đấu thầu tại Việt nam, bao gồm : a, Các dự án đầu tư thực hiện theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng có quy định phải thực hiện quy chế đấu thầu. b, Các dự án đầu tư liên doanh (hoặc các hợp tác kinh doanh ) hoặc cổ phần có sự tham gia của các tổ chức kinh tế Nhà nước từ 30% trở lên vào vốn pháp định, vốn kinh doanh hoặc vốn cổ phần. c, Các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc nước ngoài được thực hiện trên cơ sở nội dung điêù ước được các bên ký kết. Trường hợp có những nội dung trong dự thảo Điều ước khác với quy chế đấu thầu thì cơ quan được giao trách nhiệm đàm phán ký kết điều ước phải trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trước khi ký kết. d, Các dự án cần lựa chọn đối tác đầu tư để thực hiện khi có từ hai nhà đầu tư trở lên cùng muốn tham gia một dự án. e, Đầu tư mua sắm đồ dùng, vật tư trang thiết bị, phương tiện làm việc của cơ quan Nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp Nhà nước, đồ dùng và phương tiện làm việc thông thường của lực lượng vũ trang. Các nguyên tắc và điều kiện thực hiện đấu thầu : Các nguyên tắc: Theo Quy chế đấu thầu, khi thực hiện đấu thầu phải tuân thủ các nguyên tắc sau: Thứ nhất, nguyên tắc hiệu quả : Một cuộc đấu thầu được tổ chức với sự tham gia của nhiều Nhà thầu có năng lực sẽ tạo thành một cuộc cạnh tranh mạnh mẽ. Đối với bên mời thầu sẽ chọn được Nhà thầu có đủ năng lực đáp ứng các yêu cầu của mình về kỹ thuật, trình độ thi công, đảm bảo kế hoạch tiến độ, tiết kiệm được vốn đầu tư và chống được tình trạng độc quyền về giá cả của Nhà thầu. Đối với Nhà thầu, do phải cạnh tranh nên họ đều phải cố gắng tìm tòi những kỹ thuật, công nghệ, biện pháp và giải pháp tốt nhất để thắng thầu. Điều này có tác dụng tích cực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Thứa hai, nguyên tắc công bằng : Các hồ sơ dự thầu phải được đánh giá một cách không thiên vị theo cùng một chuẩn mực và được đánh giá bởi một hội đồng xét thầu có năng lực và phẩm chất. Lý do được chọn hay bị loại phải được giải thích đầy đủ để tránh sự ngờ vực của Nhà thầu. Nguyên tắc này mang tính tương đối vì trong những trường hợp cụ thể, nhà thầu địa phương thường được hưởng một số điều kiện ưu đãi nhất định. Thứ ba, nguyên tắc minh bạch : Các Nhà thầu phải nhận được đầy đủ tài liệu đấu thầu với các thông tin chi tiết rõ ràng, có hệ thống về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng của công trình hay hàng hoá, dịch vụ cần xây lắp hay mua sắm, về tiến độ và điều kiện thực hiện. Bên mời thầu phải nghiên cứu, tính toán, cân nhắc thấu đáo để tiên liệu về mọi yếu tố liên quan, tránh tình trạng chuẩn bị hồ sơ mời thầu sơ sài. Nhà thầu phải hiểu rõ lĩnh vực cần thực hiện theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Nguyên tắc này mang tính tương đối vì các Nhà thầu trong lĩnh vực chuyên môn mới có thể hiểu đươc. Thứ tư, nguyên tắc 3 chủ thể : Thực hiện dự án luôn có sự hiện diện của 3 chủ thể : Chủ công trình, Nhà thầu và kỹ sư tư vấn. Kỹ sư tư vấn có trách nhiệm đảm bảo cho hợp đồng được thực hiện nghiêm túc, những bất cập về tiến độ thi công được phát hiện kịp thời, đưa ra những biện pháp khắc phục và hạn chế tối đa đối với những mưu toan thông đồng hay thoả hiệp có thể gây thiệt hại cho Chủ công trình. Thứ năm, nguyên tắc trách nhiệm phân minh : Nghĩa vụ, quyền lợi của các bên liên quan được đề cập trong hợp đồng xây dựng để cho không có một sai sót nào mà không có người chịu trách nhiệm. Mỗi bên liên quan đều biết rõ mình sẽ phải gánh chịu hậu quả gì khi có sơ suất xảy ra nên mỗi bên đều phải nỗ lực tối đa để kiểm soát bất trắc và phòng ngừa rủi ro. Thứ sáu, nguyên tắc bảo mật : Hồ sơ, tài liệu, thông tin có liên quan đến gói thầu trong suốt quá trình đấu thầu được xem là những bí mật thương mại. Cá nhân, tập thể của bên mời thầu, tư vấn lập hồ sơ mời thầu, cơ quan thẩm định và phê duyệt hồ sơ mời thầu không được tiết lộ nội dung hồ sơ mời thầu với bất cứ đối tượng nào trước ngày phát hành hồ sơ mời thầu. Không được tiết lộ các thông tin có liên quan đến quá trình xét thầu như nội dung các hồ sơ dự thầu, các sổ tay ghi chép và các biên bản cuộc họp về xét thầu, các ý kiến nhận xét, đánh giá của chuyên gia hoặc tư vấn đối với từng nhà thầu và các tài liệu có liên quan khác. Hồ sơ dự thầu của nhà thầu được niêm phong, giữ kín trước khi mở thầu. Bên mời thầu có trách nhiệm bảo mật hồ sơ dự thầu đã nộp. Đối với hồ sơ dự thầu chào hàng cạnh tranh được gửi qua fax cũng phải được bảo mật như đối với các hồ sơ dự thầu khác. b) Điều kiện thực hiện đấu thầu : Nghị định 88/1999/NĐ - CP của Chính phủ quy định : Để có thể bắt đầu triển khai công tác đấu thầu, bên mời thầu và nhà thầu phải đảm bảo các điều kiện sau đây : Thứ nhất, bên mời thầu : Là Chủ đầu tư hoặc đại diện hợp pháp của Chủ đầu tư có dự án cần đấu thầu phải chuẩn bị đủ các hồ sơ sau : - Văn bản quyết định đầu tư hoặc giấy phép đầu tư của cấp có thẩm quyền. Trường hợp cần đấu thầu tuyển chọn tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi, phải có văn bản chấp thuận của người có thẩm quyền quyết định đầu tư. - Kế hoạch đấu thầu được phê duyệt. - Hồ sơ mời thầu ( trường hợp sơ tuyển phải có hồ sơ sơ tuyển ) được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên mời thầu không được tham gia với tư cách là nhà thầu đối với các gói thầu do mình tổ chức. Thứ hai, phía Nhà thầu: Là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và đủ tư cách pháp nhân để tham gia đấu thầu, nhà thầu có thể là cá nhân trong trường hợp đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Để tham gia đấu thầu, Nhà thầu phải có các điều kiện sau : + Có giấy phép kinh doanh hoặc đăng ký hành nghề. + Đủ năng lực về kỹ thuật và tài chính đáp ứng yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu. + Hồ sơ dự thầu hợp lệ và chỉ được tham gia một đơn dự thầu trong một gói thầu, dù là đơn phương hay liên danh dự thầu. 3.Các hình thức lựa chọn Nhà thầu và phương thức đấu thầu : 3.1. Chủ đầu tư có thể lựa chọn nhà thầu thông qua các hình thức sau : a, Đấu thầu rộng rãi : Theo hình thức này, việc gọi thầu được phổ biến rộng rãi qua các phương tiện truyền thông và không hạn chế số lượng Nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu. b, Đấu thầu hạn chế : Là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu(tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách thầu tham dự phải được người có hoặc cấp có thẩm quyền chấp nhận. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau : -Chỉ có một số Nhà thầu có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu. -Các nguồn vốn sử dụng yêu cầu phải đấu thầu hạn chế. -Do tình hình cụ thể của gói thầu mà việc đấu thầu hạn chế có lợi thế. c) Chỉ định thầu : Đây là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Hình thức này chỉ được áp dụng trong các trường hợp đặc biệt sau : Trường hợp bất khả kháng do thiên tai, địch họa được phép chỉ định ngay một đơn vị có đủ năng lực để thực hiện công việc kịp thời. Gói thầu có tính chất nghiên cứu thử nghiệm, bí mật quốc gia, bí mật an ninh quốc phòng do Thủ tướng Chính phủ quyết định. Gói thầu đặc biệt do Thủ tướng Chính phủ quyết định, trên cơ sở báo cáo thẩm định của Bộ kế hoạch đầu tư, ý kiến bằng văn bản của cơ quan tài trợ vốn và cơ quan có liên quan. d) Chào hàng cạnh tranh : Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hoá trị giá dưới 2 tỷ đồng. Mỗi gói thầu phải có ít nhất 3 chào hàng của 3 Nhà thầu khác nhau trên yêu cầu chào hàng của bên mời thầu. Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc các phương tiện khác. e) Mua sắm trực tiếp : Hình thức mua sắm trực tiếp được áp dụng trong trường hợp bổ sung hợp đồng cũ đã thực hiện xong (dưới một năm ) hoặc hợp đồng đang thực hiện với điều kiện chủ đầu tư có nhu cầu tăng thêm số lượng hàng hoá hoặc số lượng công việc mà trước đó đã được tiến hành, nhưng phải đảm bảo không được vượt mức giá hoặc đơn giá trong hợp đồng đã ký trước đó. Trước khi ký kết hợp đồng, Nhà thầu phải chứng minh có đủ năng lực về kỹ thuật và tài chính để thực hiện gói thầu. f) Tự thực hiện : Hình thức này chỉ được áp dụng với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực thực hiện. g) Mua sắm đặc biệt : Đây là hình thức được áp dụng đối với các ngành hết sức đặc biệt mà nếu không có quy định riêng thì không thể đấu thầu được. 3.2. Phương thức đấu thầu : Đấu thầu một túi hồ sơ : Là phương thức mà nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu trong một túi hồ sơ. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp. Đấu thầu hai túi hồ sơ : Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất kỹ thuật và đề xuất giá trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Túi hồ sơ đề xuất kỹ thuật được xem xét trước để đánh giá. Phương thức này chỉ được áp dụng với đấu thầu tuyển chọn tư vấn. Đấu thầu hai giai đoạn : Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau : Các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắpcó giá trị từ 5 tỷ đồng trở lên. Các gói thầu mua sắm hàng hoá có tính chất lựa chọn công nghệ thiết bị toàn bộ, phức tạp về công nghệ và kỹ thuật hoặc gói thầu xây lắp đặc biệt phức tạp. Dự án được thực hiện theo hợp đồng chìa khoá trao tay. Quá trình thực hiện phương thức này như sau : Giai đoạn thứ nhất : Các nhà thầu nộp hồ sơ dự thầu sơ bộ gồm đề xuất về kỹ thuật và phương án tài chính(chưa có gía) để bên mời thầu xem xét và thảo luận cụ thể với từng nhà thầu nhằm thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật để nhà thầu chuẩn bị và nộp hồ sơ dự thầu chính thức của mình. Giai đoạn thứ hai : Bên mời thầu mời các nhà thầu tham gia trong giai đoạn thứ nhất nộp hồ sơ dự thầu chính thức với đề xuất kỹ thuật và đề xuất chi tiết về tài chính với đầy đủ nội dung và tiến độ thực hiện. Sự cần thiết khách quan và vai trò của công tác đấu thầu : 4.1. Sự cần thiết khách quan. Đấu thầu trong xây dựng xuất hiện và phát triển ở nước ta trong những năm gần đây là một tất yếu khách quan. Khi sản xuất xây dựng bắt đầu phát triển thì cạnh tranh trong xây dựng cũng ngày càng gay gắt, cạnh tranh diễn ra giữa các chủ đầu tư, giữa các đơn vị xây dựng với nhau. Trong bối cảnh đó đấu thầu xuất hiện và trở thành một hình thức cạnh tranh lành mạnh nhất, có hiệu quả nhất. Trước đây trong sản xuất xây dựng người ta thường áp dụng phương thức tự làm hoặc giao thầu nhưng hai phương thức này tỏ ra chưa thực sự hiệu quả. Với phương thức tự làm, chủ đầu tư - người xây dựng sẽ gặp nhiều hạn chế về năng lực của đội ngũ lao động, cơ sở vật chất kỹ thuật và chỉ giới hạn ở những công trình nhỏ, đơn giản. Còn phương thức giao thầu thì bên nhận thầu có khả năng thực hiện tốt các yêu cầu của chủ đầu tư với công trình xây dựng. Tuy nhiên, khả năng ấy chỉ trở thành hiện thực khi các bên thực sự có tinh thần trách nhiệm với công trình. Chính từ sự hạn chế của hai phương thức này đã cho thấy đấu thầu là một phương thức có thể thực hiện tối ưu nhiệm vụ xây dựng bởi : - Đấu thầu sẽ giúp cho chủ đầu tư lựa chọn nhà thầu có đủ năng lực cũng như kinh nghiệm để thực hiện dự án của mình. Trên cơ sở đó tạo tiền đề vững chắc cho sự thành công của chủ đầu tư khi dự án đưa vào vận hành. - Đấu thầu là sự cạnh tranh lành mạnh, cạnh tranh trong đấu thầu sẽ tạo ra giá cả, chất lượng tốt nhất cho chủ đầu tư và nó cũng tạo ra hiệu quả, chất lượng ở phía các nhà thầu. Hơn nữa trong bối cảnh chung, khi ở các nước phát triển trên thế giới đấu thầu đã trở thành một phương thức được áp dụng rộng rãi nhất trong nhiều lĩnh vực đặc biệt là ở lĩnh vực xây dựng, đấu thầu đã khẳng định được vai trò quan trọng của nó, một phương thức không thể thiếu trong nền sản xuất xây dựng phát triển. Chính vì vậy với nước ta nếu hoà nhập vào xu thế phát triển sản xuất xây dựng của khu vực và quốc tế thì tất yếu đấu thầu sẽ phát triển. Đấu thầu sẽ trở thành một phương thức cạnh tranh lành mạnh, tối ưu trong sản xuất giữa các doanh nghiệp, các nước trong lĩnh vực xây dựng. 4.2. Vai trò của đấu thầu trong xây dựng: Đấu thầu xây lắp nói riêng cũng như đấu thầu nói chung là một phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến trong xây dựng cơ bản, có hiệu quả cao, có những ưu điểm nổi trội mang lại những lợi ích to lớn không chỉ với các chủ thể tham gia đấu thầu xây dựng mà còn đối với nền kinh tế quốc dân. Thứ nhất : Đối với chủ đầu tư : Đấu thầu giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm đuợc vốn đầu tư đảm bảo đúng tiến độ và chất lượng công trình. Vì trong đấu thầu diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà thầu và chủ đầu tư chỉ lựa chọn nhà thầu đáp ứng được ba yêu cầu về: Giá thành hợp lý, đảm bảo đúng tiến độ thi công, chất lượng công trình tốt. Do đó sẽ tiết kiệm được tối đa vốn bỏ ra. Thông qua đấu thầu, chủ đầu tư nắm được quyền chủ động hoàn toàn, bởi vì khi đã có sự chuẩn bị đầy đủ, kỹ lưỡng về tất cả mọi mặt trước khi đầu tư thì chủ đầu tư mới tiến hành mời thầu và tổ chức đấu thầu để lựa chọn nhà thầu. Tuy nhiên, Để đánh giá được đúng các hồ sơ dự thầu, đảm bảo tính công bằng trong đấu thầu, đòi hỏi cán bộ của chủ đầu tư phải có trình độ nhất định. Việc quản lý một dự án đầu tư với bên B cũng đòi hỏi cán bộ phải tự nâng cao trình độ của mình để đáp ứng được yêu cầu thực tế. Kết quả là thúc đẩy việc nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ kinh tế kỹ thuật của bên chủ đầu tư. Thứ hai : Đối với Nhà thầu : - Đấu thầu sẽ nâng cao tính cạnh tranh giữa các nhà thầu, giúp họ phát huy tính chủ động trong việc tìm kiếm các cơ hội tham dự thầu và đấu thầu. Các nhà thầu phải tích cực tìm kiếm các thông tin đại chúng trên thị trường, gây dựng các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước, tự tìm cách tăng cường uy tín và khẳng định vị trí của mình trên thị trường để có thể nắm bắt được các cơ hội dự thầu và thắng thầu. - Việc tham gia đấu thầu, trúng thầu và tiến hành thi công theo hợp đồng làm cho nhà thầu phải tập trung nguồn vốn của mình vào đầu tư trọng điểm. Do cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt, nên để nâng cao khả năng thắng thầu đòi hỏi nhà thầu không ngừng phải nâng cao trình độ về mọi mặt như: Tổ chức quản lý, đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao năng lực máy móc thiết bị…Có như vậy các doanh nghiệp xây dựng mới ngày càng phát triển, tạo ra nhiều lợi nhuận, công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao mức sống cho các cán bộ công nhân viên. Thứ ba : Đối với Nhà nước : - Hoạt động đấu thầu nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tập trung(vốn ngân sách nhà nước). Đầu thầu dựa trên cơ sở cạnh tranh giữa các nhà thầu trên mọi mặt(tài chính, kỹ thuật) nên nó thúc đẩy các đơn vị đấu thầu tìm cách nâng cao trình độ và hiệu quả về mọi mặt. Qua đấu thầu, chất lượng công trình, thiết bị và dịch vụ được đảm bảo, tiến độ thực hiện phù hợp với yêu cầu, giá trúng thầu thường bằng hoặc thấp hơn giá gói thầu được duyệt. - Hoạt động đấu thầu góp phần đổi mới cơ chế quản lý hành chính Nhà nước trong hoạt động đầu tư xây dựng. Trước đây trong ngành giao thông cũng như trong các ngành kinh tế khác, Nhà nuớc quản lý toàn bộ trong việc quyết định xây dựng công trình nào, vốn, đề xuất giải pháp kỹ thuật, thời gian và do đơn vị nào thi công. Trong cơ chế thị trường hiện nay, với Quy chế đấu thầu thì Nhà nước chỉ còn quản lý sản phẩm cuối cùng, tức là công trình hoàn thành đảm bảo chất lượng. Việc thi công, mua vật tư, thời gian thi công từng hạng mục công trình, đặc biệt là giá công trình tuỳ thuộc vào khả năng của từng Nhà thầu khác nhau. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng bây giờ chủ yếu là nghiên cứu, ban hành các chính sách, quy chế về xây dựng để điều tiết lĩnh vực này cho phù hợp với cơ chế thị trường. Trong cơ chế thị trường hiện nay, phương thức đấu thầu càng thể hiện rõ tính ưu việt của nó đối với các chủ đầu tư, nhà thầu và Nhà nước, do đó việc áp dụng phương thức này vào hoạt động khi xây dựng công trình giao thông là rất cần thiết nhằm mang lại lợi ích chính đáng cho người lao động, các doanh nghiệp và Nhà nước. II. Trình tự Công tác đấu thầu trong các doanh nghiệp xây dựng: Để việc đấu thầu được diễn ra thì cả chủ đầu tư và các nhà thầu đều phải tổ chức công tác đấu thầu. Nhưng đứng trên góc độ mỗi chủ thể tham gia đấu thầu thì quy trình và cách thức tổ chức đấu thầu hoàn toàn khác nhau bởi nó xuất phát từ những mục đích khác nhau. Với chủ đầu tư thì tổ chức công tác đấu thầu thành công là tạo được môi trường cạnh tranh công bằng để nhà thâù tốt nhất được lựa chọn. Với nhà thầu thì việc tổ chức công tác đấu thầu chính là quy trình tham dự đấu thầu bắt đầu từ việc nhận được thông tin về công trình cần đấu thầu cho đến công tác lập hồ sơ đấu thầu để tham gia vào một số khâu của công tác tổ chức đấu thầu do chủ đầu tư tổ chức. Sơ đồ quá trình đấu thầu : Đấu thầu có thể được tiến hành cho toàn bộ dự án hoặc cho từng phần dự án, từng gói thầu, theo giai đoạn đầu tư. Đấu thầu cũng có thể được thực hiện riêng cho công việc tuyển chọn tư vấn, cho mua sắm vật tư thiết bị, cho xây lắp, cho lựa chọn đối tác thực hiện dự án. Trong giới hạn đề tài nghiên cứu tôi đi sâu vào trình tự tổ chức đấu thầu xây lắp các công trình giao thông, bao gồm các khâu sau: Sơđồ 1: Sơ đồ quy trình đấu thầu xây lắp các công trình giao thông: Chuẩn bị đấu thầu Trình duyệt nội dung hợp đồng và ký hợp đồng Công bố trúng thầu, thương thảo và thực hiện hợp đồng Trình duyệt kết quả đấu thầu Đánh giá xếp hạng nhà thầu Mở thầu Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu Lập hồ sơ mời thầu Sơ tuyển nhà thầu ( nếu có ) 2. Trình tự và nội dung tổ chức đấu thầu xây lắp công trình giao thông: 2.1. Chuẩn bị đấu thầu: Lập và trình duyệt kế hoạch đấu thầu của dự án : Kế hoạch đấu thầu của dự án do bên mời thầu lập và phải được người có thẩm quyền phê duyệt. Trường hợp chưa đủ điều kiện lập kế hoạch đấu thầu của toàn bộ dự án, bên mời thầu có thể kế hoạch đấu thầu cho từng phần của dự án theo giai đoạn thực hiện nhưng phải được người có thẩm quyền cho phép. Nội dung kế hoạch đấu thầu của dự án bao gồm: Phân chia dự án thành các gói thầu, Giá gói thầu và nguồn tài chính; Hình thức lựa chọn nhà thầu và phương thức đấu thầu áp dụng với từng gói thầu, Thời gian tổ chức đấu thầu cho từng gói thầu; Loại hợp đồng cho từng gói thầu; Thời gian thực hiện hợp đồng ; Như vậy, những vấn đề cơ bản đều đã được xác định trong kế hoạch đấu thầu. Việc đầu tiên là phân chia dự án thành các gói thầu.Gói thầu là căn cứ để tổ chức đấu thầu và xét thầu được phân chia theo tính chất hoặc trình tự của dự án phù hợp với công nghệ, đảm bảo tính đồng bộ của dự án. Giá gói thầu được xác định trên cơ sở tổng mức đầu tư hoặc tổng dự án, dự toán được duyệt. Các vấn đề khác( lựa chọn phương thức đấu thầu, thời gian thực hiện…)được xác định cụ thể cho từng gói thầu tuỳ theo tính chất, quy mô của từng gói thầu. Chuẩn bị nhân sự : Bên mời thầu thành lập tổ chuyên gia hoặc thuê tư vấn giúp việc đấu thầu trên cơ sở chấp thuận của ngươì ( hoặc cấp) có thẩm quyền. Tuỳ theo tính chất và mức độ phức tạp của từng gói thầu, thành phần tổ chuyên gia bao gồm các chuyên gia về : + Kỹ thuật công nghệ +Kinh tế tài chính + Pháp lý và các vấn đề khác (nếu cần) Tổ chuyên gia có trách nhiệm : Chuẩn bị tài liệu pháp lý, soạn thảo hồ sơ mời thầu Tiếp nhận và quản lý hồ sơ dự thầu Phân tích, đánh giá, so sánh, xếp hạng các hồ sơ dự thầu theo tiêu chuẩn đánh giá được nêu trong hồ sơ mời thầu và tiêu chuẩn đánh giá chi tiết được phê duyệt trước khi mời thầu. Tổng hợp tài liệu về quá trình đánh giá xét chọn nhà thầu và lập báo cáo xét thầu. Có trách nhiệm phát biểu trung thực, khách quan ý kiến của mình bằng văn bản với bên mời thầu trong quá trình phân tích đánh giá xếp hạng các hồ sơ dự thầu và chịu trách nhiệm bảo mật thông tin, không được công tác với nhà thầu dưới bất kỳ hình thức nào và không được tham gia thẩm định kết quả đấu thầu. Tổ trưởng tổ chuyên gia do bên mời thầu quyết định và được người (hoặc cấp) có thẩm quyền chấp thuận, có trách nhiệm điều hành công việc, tổng hợp và chuẩn bị báo cáo đánh giá các tài liệu liên quan khác. 2.2. Sơ tuyển nhà thầu: Việc sơ tuyển nhà thầu phải được tiến hành đối với các gói thầu xây lắp có giá trị từ 200 tỷ đồng trở lên nhằm lựa chọn các nhà thầu có đủ năng lực và khả năng thực hiện, đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Sơ tuyển nhà thầu được tiến hành theo các bước : Bước 1: Lập hồ sơ sơ tuyển bao gồm : Thư mời sơ tuyển, chỉ dẫn sơ tuyển, tiêu chuẩn đánh giá và phụ lục kèm theo. Bước 2: Thông báo mời sơ tuyển; Bước 3: Nhận và quản lý hồ sơ dự sơ tuyển; Bước 4: Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển, Bước 5: Trình duyệt kết quả dự sơ tuyển; Bước 6: Thông báo kết quả sơ tuyển; 2.3. Lập hồ sơ mời thầu: Hồ sơ mời thầu bao gồm : Thư mời thầu, Mẫu đơn dự thầu, Chỉ dẫn đối với nhà thầu, Điều kiện ưu đãi (nếu có) Các loại thuế (quy định của pháp luật), Hồ sơ thiết kế kỹ thuật, bản tiên lượng và chỉ dẫn kỹ thuật, Tiến độ thi công, Tiêu chuẩn đánh giá, Điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng, Mẫu bảo lãnh dự thầu, Mẫu thoả thuận hợp đồng, Mẫu bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu : Thư mời thầu hoặc thông báo mời thầu bao gồm các nội dung chủ yếu sau: Tên và địa chỉ bên mời thầu, Khái quát địa điểm dự án, thời gian xây dựng, tóm tắt dự án, nguồn vốn và các nội dung khác. Chỉ dẫn việc tìm hiểu hồ sơ mời thầu, Các điều kiện tham gia dự thầu, Thời gian, địa điểm nhận hồ sơ dự thầu và mở thầu. 2.4. Nhận và quản lý hồ sơ dự thầu : Khi nhận được thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu, các tổ chức xây dựng nếu đủ điều kiện và muốn tham gia đấu thầu thì tham khảo hồ sơ mời thầu, chuẩn bị hoàn tất hồ sơ dự thầu gửi đến cho bên mời thầu theo thời gian và địa chỉ ghi trong thông báo mời thầu hay thư mời thầu, hồ sơ dự thầu gửi đi phải được niêm phong. Bên mời thầu có trách nhiệm bảo quản các hồ sơ dự thầu và không được mở trước giờ quy định. 2.5. Mở thầu : Những hồ sơ dự thầu nộp đúng hạn sẽ được bên mời thầu tiếp nhận và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ mật. Việc mở thầu được tiến hành công khai theo ngày giờ và địa điểm ghi trong hồ sơ mời thầu và không được quá 48 giờ kể từ thời điểm đóng thầu. Đại diện của bên mời thầu và các nhà thầu được mời tham dự phải ký vào biên bản mở thầu. Biên bản mở thầu ghi rõ tên gói thầu, ngày giờ, địa điểm mở thầu, tên và địa chỉ các nhà thầu, giá dự thầu, bảo lãnh dự thầu, tiến độ thực hiện và các nội dung liên quan khác. Bản gốc hồ sơ dự thầu sau khi mở thầu phải được bên mời thầu ký xác nhận từng trang trước khi tiến hành đánh giá và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ mật để làm cơ sở pháp lý cho việc đánh giá và xem xét. 2.6. Đánh giá, xếp hạng nhà thầu : Bên mời thầu tiến hành nghiên cứu đánh giá chi tiết và xếp hạng hồ sơ dự thầu đã được mở căn cứ theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu và các tiêu chuẩn đánh giá được người (hoặc cấp) có thẩm quyền phê duyệt trước khi mở thầu. Việc đánh giá các hồ sơ dự thầu được thực hiện theo trình tự sau : Bước 1: Đánh giá sơ bộ hồ sơ dự thầu : Bước này nhằm loại bỏ hồ sơ dự thầu không đáp ứng được yêu cầu, bao gồm : Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ dự thầu. Xem xét sự đáp ứng cơ bản của hồ sơ dự thầu đối với hồ sơ mời thâu. Làm rõ hồ sơ dự thầu (nếu cần ). Bước 2 : Đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu : Việc đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu được thực hiện theo phương pháp giá đánh giá : Trước hết hồ sơ dự thầu được đánh giá về mặt kỹ thuật để chọn danh sách ngắn. Việc đánh giá được tiến hành dựa trên cơ sở các yêu cầu và tiêu chuẩn đánh giá chỉ tiêu được người (hoặc cấp) có thẩm quyền phê duyệt trước thời điểm mở thầu, các nhà thầu đạt số điểm tối thiểu từ 70% tổng số điểm về kỹ thuật trở lên sẽ được chọn vào danh sách ngắn. Đánh giá về mặt tài chính, thương mại được tiến hành trên cùng một mặt bằng theo tiêu chuẩn đánh giá được phê duyệt nhằm xác định giá đánh giá, bao._. gồm việc bên mời thầu thực hiện các nội dung công việc sau : Sửa lỗi : Sửa chữa những sai sót nhằm chuẩn xác hồ sơ dự thầu bao gồm lỗi số học, lỗi đánh máy, lỗi chính tả, lỗi nhầm đơn vị. Hiệu chỉnh sai lệch : Bên mời thầu điều chỉnh những nội dung còn thiếu hoặc thừa trong hồ sơ dự thầu so với các yêu cầu của hồ sơ mời thầu cũng nhưbổ sung hoặc đièu chỉnh những khác biệt giữa các phần của hồ sơ mời thầu. Chuyển đổi giá dự thầu sang một đồng tiền chung. Đưa về một mặt bằng so sánh. Xác định giá đánh giá của các hồ sơ dự thầu. Bước 3 : Xếp hạng hồ sơ dự thầu : Hồ sơ dự thầu được xếp hạng theo giá đánh giá. Nhà thầu có hồ sơ dự thầu hợp lệ, đáp ứng cơ bản yêu cầu của hồ sơ mời thầu, có giá đánh giá thấp nhất và giá đề nghị trúng thầu không vượt giá gói thầu hoặc tổng dự toán được duyệt thì sẽ được xem xét trúng thầu. 2.7. Trình duyệt kết quả đấu thầu : Kết quả đấu thầu phải được người hoặc cấp có thẩm quyền xem xét phê duyệt. 2.8. Công bố trúng thầu và thương thảo hoàn thiện hợp đồng : Bên mời thầu chỉ được phép công bố kết quả đấu thầu sau khi đã được người hoặc cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bên mời thầu sẽ mời nhà thầu trúng thầu đến thương thảo hoàn thiện hợp đồng. Nếu không thành công, bên mời thầu sẽ mời nhà thầu xếp hạng tiếp theo đến thương thảo hợp đồng nhưng phải được người hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. 2.9. Trình duyệt nội dung hợp đồng và ký hợp đồng : Nhà thầu trúng thầu trong thời gian quy định phải nộp bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Giá trị bảo lãnh thực hiện hợp đồng không quá 10% giá trị hợp đồng, tuỳ theo loại hình quy mô của hợp đồng, bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu phải ký kết bằng văn bản sau khi nội dung hợp đồng đã được trình duyệt. Hợp đồng xây dựng công trình giao thông có thể tiến hành cho toàn bộ công trình, cho từng hạng mục công trình hay cho một loại công việc xây dựng. Hợp đồng xây dựng công trình giao thông có thể được ký kết giữa chủ đầu tư với chủ dự án, với tổng thầu, thầu chính hay ký kết giữa tổng thầu (thầu chính với các thầu phụ). Căn cứ thời hạn và tính chất gói thầu được quy định trong kế hoạch đấu thầu, hợp đồng có thể được thực hiện theo một trong các loại sau : a) Hợp đồng trọn gói : Là hợp đồng theo giá khoán gọn được áp dụng cho những nội dung gói thầu đựoc xác định rõ về khối lượng, yêu cầu về chất lượng, thời gian. Trường hợp có những phát sinh ngoài hợp đồng nhưng không do nhà thầu gây ra thì sẽ được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền xem xét quyết định. b) Hợp đồng chìa khóa trao tay: Là hợp đồng bao gồm toàn bộ các công việc thiết kế, cung cấp thiết bị và xây lắp của một gói thầu thực hiện thông qua một nhà thầu. Chủ đầu tư có trách nhiệm tham gia giám sát quá trình thực hiện, nghiệm thu và nhận bàn giao khi nhà thầu hoàn thành toàn bộ công trình theo hợp đồng đã ký. c) Hợp đồng có điều chỉnh giá: Hợp đồng điều chỉnh giá áp dụng cho những gói thầu mà tại thời điểm ký kết hợp đồng nhưng không đủ điều kiện xác định chính xác về số lượng và khối lượng hoặc có biến động lớn giá cả do chính sách của Nhà nước thay đổi và hợp đồng có thời gian thực hiện trên 12 tháng. Riêng đối với những gói thầu nhỏ (trị giá dưới 2 tỷ đồng) việc lập hồ sơ mời thầu được thực hiện đơn giản dựa trên những quy định đấu thầu đối với những gói thầu quy mô nhỏ. Tuy nhiên hồ sơ mời thầu vẫn phải đảm bảo đầy đủ các yêu cầu đối với nhà thầu, bao gồm các nội dung sau : Thư mời thầu và mẫu đơn dự thầu. Yêu cầu đối với gói thầu xây lắp công trình giao thông: Hồ sơ thiết kế kỹ thuật kèm theo bản tiên lượng được duyệt, chỉ dẫn kỹ thuật và tiến độ thực hiện. Tiêu chuẩn đánh giá (đạt hoặc không đạt ) về mặt kỹ thuật. Mẫu bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh dự thầu trong trường hợp này bằng 1% giá dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng bằng 3% giá trị hợp đồng. Sau khi đã ký xong hợp đồng, Nhà thầu có trách nhiệm thực hiện đúng những điều khoản đã ghi trong hợp đồng, triển khai thi công và Ban điều hành dự án có trách nhiệm báo cáo thường xuyên với Chủ đầu tư, cùng giải quyết những vướng mắc phát sinh. III. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình đấu thầu xây dựng : 1. Khái niệm cạnh tranh và khả năng cạnh tranh : Theo Mark " Cạnh tranh tư bản là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi nhuận siêu nghạch ". Cạnh tranh (competition) về mặt thuật ngữ, được hiểu là sự cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động có mục tiêu và lợi ích giống nhau. Trong kinh doanh cạnh tranh được định nghĩa là sự đua tranh giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm giành ưu thế trên cùng một loại tài nguyên, sản phẩm hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình. Cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của cơ chế thị trường. Không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân thủ theo những quy luật khách quan riêng của mình, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này, các doanh nghiệp phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm để giành ưu thế so với đối thủ của mình. Kết quả là kẻ mạnh về khả năng vật chất và trình độ kinh doanh sẽ là người chiến thắng. Tác động tích cực của cạnh tranh : Sử dụng tài nguyên một cách tối ưu, Khuyến khích áp dụng các tiến bộ kỹ thuật, Thúc đẩy sản xuất phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có tác động tiêu cực đối với nền sản xuất. Đó là việc giữ bí mật không muốn chuyển giao công nghệ tiên tiến, là tình trạng ganh đua quyết liệt " cá lớn nuốt cá bé ". 1.1. Các hình thức cạnh tranh trong đấu thầu : Hiện nay, người ta nói tới hai hình thức cạnh tranh chủ yếu là cạnh tranh theo chiều rộng và cạnh tranh theo chiều sâu. Trong đấu thầu xây lắp cũng vậy, việc các doanh nghiệp xây lắp đưa ra các biện pháp cạnh tranh chung quy lại đều nằm trong hai hình thức cạnh tranh theo chiều rộng và cạnh tranh theo chiều sâu hoặc cả hai hình thức này . Cạnh tranh theo chiều rộng trong đấu thầu của doanh nghiệp xây lắp bao gồm : Đa dạng hoá sản phẩm (công trình xây dựng) mà doanh nghiệp sản xuất như công trình giao thông, công trình dân dụng, công trình công nghiệp, công trình thuỷ lợi, … Hoàn thiện công tác lập hồ sơ dự thầu, đặc biệt là phần giới thiệu năng lực của doanh nghiệp. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo, tiếp thị và tăng cường tìm kiếm thông tin về công trình sẽ được xây dựng . Cạnh tranh theo chiều sâu bằng hàm lượng chất xám trong sản phẩm. Nội dung hình thức này bao gồm : Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ quá trình thi công công trình. Bồi dưỡng nâng cao trình độ của người lao động bao gồm cả cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và công nhân sản xuất . Tăng cường hoạt động nghiên cứu cải tiến sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm tức là đổi mới và hoàn thiện các tiêu chuẩn kỹ thuật và tính an toàn của công trình xây dựng. Về lâu dài, các doanh nghiệp theo đuổi hình thức này để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng công trình của chủ đầu tư và nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp. 1.2. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng cạnh tranh : Chỉ tiêu số lượng công trình trúng thầu và giá trị trúng thầu hàng năm : Giá trị trúng thầu hàng năm là tổng giá trị của tất cả các công trình mà doanh nghiệp xây dựng đã tham gia đấu thầu và trúng thầu trong năm (kể cả gói thầu của hạng mục công trình). Chỉ tiêu giá trị trúng thầu và số công trình trúng thầu qua các năm cho ta biết một cách khái quát nhất tình hình kết quả dự thầu của các doanh nghiệp xây dựng. Thông qua đó để đánh giá chất lượng thực hiện công tác đấu thầu trong năm, (Biểu 1): Biểu 1: Mẫu biểu Tổng hợp và so sánh kết quả dự thầu qua các năm: Thị trường Công trình trúng thầu Mức tăng trưởng Giá trị thiết bị một công trình trúng thầu Số lượng Gía trị Số lượng Gía trị 5 1 2 3 4 Về việc xem xét theo từng cột: Cột 1 và cột 2 cho biết quy mô trúng thầu hàng năm; cột 3 và cột 4 cho biết mức tăng trưởng qua từng năm, được tính toán bằng việc so sánh quy mô của năm sau với năm trước. Cột 5 cho biết quy mô giá trị bình quân một công trình trúng thầu biểu hiện khả năng của doanh nghiệp có thể tham gia đấu thầu và trúng thầu các công trình có quy mô lớn hay nhỏ. Chỉ tiêu xác suất trúng thầu : Chỉ tiêu này được xác định theo 2 mặt biểu hiện là : Tổng số công trình trúng thầu + Xác suất trúng thầu theo số công trình= Tổng số công trình đã dự thầu Tổng giá trị trúng thầu + Xác suất trúng thầu theo giá trị = Tổng giá trị các công trình đã dự thầu Các chỉ tiêu này cũng được đánh giá theo từng năm. Trên thế giới hai chỉ tiêu này không bằng nhau do giá trị các công trình đấu thầu khác nhau. Việc đánh giá cần căn cứ vào từng kết quả cụ thể. Chỉ tiêu thị phần và uy tín của doanh nghiệp xây dựng trên thị trường xây dựng công trình giao thông : Do đấu thầu là một hình thức cạnh tranh đặc thù của các doanh nghiệp xây dựng nên chất lượng của công tác dự thầu xét đến cùng cũng là một trong các biểu hiện chủ yếu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. Mặt khác, khả năng cạnh tranh lại được đánh giá thông qua hai chỉ tiêu tổng quát là thị phần và uy tín của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thị phần cũng được đo bằng hai mặt biểu hiện, đó là phần thị trường tuyệt đối và thị trường tương đối. Giá trị sản lượng xây lắp do DN thực hiện Phần thị trường tuyệt đối = --------------------------------------------------- Tổng giá trị SLXL thực hiện của toàn ngành Phần thị trường tương đối của doanh nghiệp được xác định trên cơ sở so sánh phần thị trường tuyệt đối của một hoặc một số đối thủ cạnh tranh mạnh nhất. Sự thay đổi của chỉ tiêu thị phần qua các năm cũng sẽ cho phép đánh giá chất lượng của công tác dự thầu trong doanh nghiệp. Đối với chỉ tiêu uy tín doanh nghiệp, đây là chỉ tiêu định tính mang tính chất bao trùm. Nó liên quan tới tất cả các chỉ tiêu nêu trên và nhiều yếu tố khác như: Chất lượng xây lắp, hoạt động marketing, quan hệ của doanh nghiệp với các tổ chức khác. 1.3. Phương thức cạnh tranh chủ yếu của đấu thầu : Để nâng cao khả năng thắng thầu, các doanh nghiệp xây dựng thường lựa chọn sử dụng một trong số các phương thức cạnh tranh phù hợp với năng lực của mình như sau : Cạnh tranh bằng chất lượng công trình : - Trong sản xuất kinh doanh xây dựng , chất lượng sản phẩm của các công trình thể hiện ở tính năng, tuổi thọ, độ an toàn, tính kinh tế, kỹ thuật, …các doanh nghiệp có thể cạnh tranh bằng chất lượng của chính sản phẩm đang được tổ chức đấu thầu xây lắp. Đây chính là nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vốn có của doanh nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện đúng thiết kế kỹ thuật và đưa ra các đề xuất, giải pháp kỹ thuật hợp lý nhất. Điều này được doanh nghiệp trình bày ở phần tiêu chuẩn kỹ thuật và chất lượng trong hồ sơ dự thầu. - Khi đánh giá về tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng của công trình mà doanh nghiệp đang tham gia đấu thầu xây lắp, chủ đầu tư không chỉ căn cứ vào sự phù hợp của các tiêu chuẩn kỹ thuật mà còn xem xét đến chất lượng các công trình mà doanh nghiệp đã thi công trước đó. Vì vậy trong hồ sơ dự thầu có phần trình bày về kinh nghiệm của doanh nghiệp trong việc thi công những công trình tương tự. Do vậy, trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, không ngừng nâng cao chất lượng công trình là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường xây dựng (các công trình giao thông). Cạnh tranh bằng giá dự thầu : Khi cạnh tranh bằng chất lượng công trình, thường doanh nghiệp sẽ phải tốn một khoản chi phí lớn để dự toán cho việc đảm bảo chất lượng công trình đang đấu thầu xây lắp, như thế - giá cạnh tranh sẽ cao và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều tiêu chuẩn khác nữa như: tiến độ thi công, khả năng ứng vốn, năng lực kinh nghiệm của mình,… Vì vậy khi tham gia đấu thầu, các nhà thầu đều cố gắng đưa ra mức giá thấp nhất hấp dẫn các chủ đầu tư nhằm chiếm ưu thế so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó làm cho cuộc cạnh tranh về giá ngày càng trở nên gay gắt. Khác với các sản phẩm khác, giá cả của sản phẩm xây dựng được xác định trước khi sản xuất sản phẩm, giá cả này được đặt trong hồ sơ dự thầu của các nhà thầu. Đó là giá dự thầu của các nhà thầu. Phương thức cạnh tranh về giá được nhà thầu thực hiện thông qua giá dự thầu. Nó thể hiện qua chính sách đặt giá dự thầu của doanh nghiệp : + Chính sách đặt giá dự thầu cao. + Chính sách đặt giá dự thầu thấp. + Chính sách đặt giá linh hoạt theo thị trường. Tuỳ từng công trình mà đơn vị tham dự thầu, từng giai đoạn và từng địa điểm xây dựng mà các doanh nghiệp lựa chọn cho mình một chính sách giá phù hợp đảm bảo khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp khi tham dự đấu thầu. Cạnh tranh bằng tiến độ thi công : Chỉ tiêu này được chủ đầu tư đánh giá cao khi xét thầu. Trong hồ sơ dự thầu, tiêu chuẩn tiến độ thi công do nhà thầu đưa ra được chủ đầu tư đánh giá ở nội dung chủ yếu sau : Xem xét mức độ bảo đảm tổng tiến độ thi công quy định trong hồ sơ dự thầu. Đây là điều mà chủ đầu tư rất quan tâm. Nếu nhà thầu nào mà đưa ra được biện pháp tổ chức thi công càng rút ngắn thời gian xây dựng công trình thì khả năng thắng thầu sẽ cao hơn (nếu các chỉ tiêu khác tương đương). Xem xét tiến độ hoàn thành các hạng mục công trình vì liên quan tới việc có thể sử dụng ngay công trình trong tổng công trình. Vì vậy nhà thầu nào đảm bảo được tổng tiến độ thi công mà lại đưa ra được giải pháp thi công hợp lý hơn chắc chắn sẽ chiếm lợi thế trong đấu thầu. Trước sự cạnh tranh gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải lựa chọn công nghệ thi công và biện pháp thi công đảm bảo rút ngắn thời gian thi công công trình, nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp. Tiến độ thi công trở thành một công cụ cạnh tranh cần thiết và hữu hiệu của các đơn vị xây dựng trong tranh thầu. Trên đây là một số phương thức cạnh tranh mà các doanh nghiệp xây dựng thường sử dụng trong tranh thầu. Các phương thức này có thể sử dụng độc lập, tuy nhiên để nâng cao khả năng cạnh tranh về mọi mặt, nâng cao khả năng thắng thầu của doanh nghiệp thì các phương thức này phải được xây dựng đồng bộ. Những yếu tố tác động đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng : Những ảnh hưởng từ môi trường bên ngoài: a) Chiến lược và mục tiêu phát triển ngành xây dựng cơ sở hạ tầng: Việt Nam ngày càng đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, vì vậy Nhà nước đang rất chú trọng vào xây dựng cơ sở hạ tầng. Đặc biệt trong lĩnh vực giao thông - mạch máu của đất nước - Cùng với mục tiêu đó là ngân sách quốc gia và vốn vay cho phát triển hạ tầng ngày một tăng đã mở ra cơ hội lớn cho các nhà thầu Việt nam trong việc đấu thầu xây dựng các công trình, góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người lao động, tăng năng lực tài chính, kinh nghiệm…cho các Tổng công ty trong ngành xây dựng công trình cơ sở hạ tầng để giúp cho các Tổng công ty có thể tham gia đấu thầu các dự án quốc tế. Cùng với mục tiêu trên, Bộ xây dựng và Bộ giao thông vận tải đã chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp thành viên của các Tổng công ty , chủ trương này góp phần làm tăng lượng vốn sản xuất kinh doanh từ các cổ phần phát hành đã tạo ra thuận lợi mới nâng cao năng lực tài chính và thiết bị của các doanh nghiệp xây dựng . ảnh hưởng từ thị trường tài chính : Nhìn chung, các doanh nghiệp xây dựng của Việt nam đang thiếu vốn trầm trọng, đặc biệt là thiếu vốn đầu tư dài hạn.Thị trường chứng khoán ra đời sẽ tạo ra một bước ngoặt căn bản đối với các doanh nghiệp xây dựng. Chính phủ đã cho phép các doanh nghiệp xây dựng phát hành trái phiếu công trình để thu hút thêm vốn xây dựng các đường giao thông. Đây có thể là một trong những phương thức huy động vốn đem lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp xây dựng, góp phần tài trợ cho nhu cầu vốn lưu động thi công công trình, gối đầu cho việc đấu thầu các dự án khác. ảnh hưởng của việc gia nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) việc gia nhập APEC của Chính phủ Việt Nam: Việc Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA và quan trọng là Hiệp định ưu đãi thuế quan (CEPT) đã đem lại cho các doanh nghiệp xây dựng trong nước nhiều cơ hội cũng như rủi ro lớn. Doanh nghiệp xây dựngViệt Nam phải đối đầu với các doanh nghiệp xây dựng trong khu vực với tiềm lực tài chính, kỹ thuật và công nghệ hiện đại. Việc cắt giảm thuế khi tham gia thị trường chung đã đẩy các doanh nghiệp nhỏ bé vào tình trạng đã khó lại càng thêm khó. Bên cạnh đó, chỉ có một số ít doanh nghiệp xây dựngViệt Nam có kinh nghiệm trong đấu thầu quốc tế nhưng tiềm lực của các doanh nghiệp này còn nhỏ bé, chưa đủ khả năng cạnh tranh trực tiếp với các nước trong khu vực có vốn lớn, thiết bị hiện đại, khấu hao thấp…Liệu các doanh nghiệp Việt Nam có cam chịu làm thầu phụ cho các doanh nghiệp nước ngoài? Đây là một khó khăn lớn đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải chuẩn bị ngay các chiến lược phát triển nếu không muốn bị tụt hậu về mọi mặt. Nhưng mặt khác, đây cũng là cơ hội cho các nhà thầu có chiến lược và tiềm lực mạnh để vươn ra các nước trong khu vực và nước ngoài, có cơ hội tham gia vào thị trường ngoài nước và giành phần thắng về mình. 2.2.Những ảnh hưởng từ phía chủ đầu tư : Chủ đầu tư có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp bởi hồ sơ đấu thầu được chính chủ đầu tư lựa chọn, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi Quy chế đấu thầu còn nhiều vướng mắc. các dự án đấu thầu trong nước còn bị ảnh hưởng bởi nhiều tiêu cực do hiện tượng móc ngoặc,…Các dự án có vốn đầu tư của nước ngoài (ODA, FDI…) thì hầu hết đều do phía nước ngoài đứng ra đấu thầu hoặc chọn nhà thầu từ tư vấn đến thi công xây lắp. Nhà nước đã có quy định các dự án đầu tư có vốn nước ngoài phải thực hiện việc đấu thầu tại Việt Nam và phải cam kết liên doanh với nhà thầu Việt Nam hoặc sử dụng thầu phụ tại Việt Nam, thậm chí đã có những quy định ưu đãi cho các nhà thầu Việt Nam nhằm nâng cao khả năng thắng thầu nhưng do nguồn gốc của các loại vốn đầu tư phụ thuộc nhiều vào nước ngoài nên nhiều khi việc đấu thầu bị chi phôí hoàn toàn từ bên cho vay vốn. Trong trường hợp này các nhà thầu Việt Nam đã phải chịu những ảnh hưởng hoàn toàn chủ quan từ phía chủ đầu tư. Những công trình 100% vốn nước ngoài thì chủ đầu tư thường chọn nhà thầu của chính nước mình. Công trình liên doanh đa số đều tổ chức đấu thầu hạn chế và các nhà thầu Việt Nam nhiều khi chỉ vì không nắm bắt được thông tin nhanh làm tuột mất cơ hội tranh thầu. Điều này thường xảy ra với các doanh nghiệp có trụ sở xa với các ban quản lý dự án khi chi phí đi lại và tìm kiếm thông tin tốn kém. ảnh hưởng của chủ đầu tư cũng có lúc xuất phát do chính sự tác động ngược lại từ chính các nhà thầu. Nhất là các nhà thầu có kinh nghiệm và uy tín trên thị trường và đã khẳng định được thế mạnh của mình về mặt nào đó. Uy tín này được chủ đầu tư đánh giá cao đặc biệt là thế mạnh đó trong công trình đấu thầu được yêu cầu cao hoặc có hạng mục công việc lớn. Lúc này ảnh hưởng từ sự tín nhiệm của chủ đầu tư hoàn toàn có lợi cho nhà thầu. Việc lựa chọn tư vấn của chủ đầu tư cũng có ảnh hưởng lớn đến khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp xây dựng. Các kỹ sư tư vấn là người đánh giá hồ sơ dự thầu của các doanh nghiệp, do vậy trình độ và kinh nghiệm của họ ảnh hưởng rất lớn tới việc cho điểm của hồ sơ thầu. Bên cạnh đó, mối quan hệ thân tín với các kỹ sư tư vấn cũng là một trong những lợi thế cho các nhà thầu có uy tín lớn trên thị trường xây dựng . 2.3. Những ảnh hưởng từ khả năng, nguồn lực và các chính sách của doanh nghiệp : Có thể nói rằng môi trường bên ngoài và chủ đầu tư có tác động không nhỏ nhưng phải thừa nhận rằng nhân tố tác động chủ yếu nhất ảnh hưởng tới công tác đấu thầu là khả năng và nguồn lực của chính doanh nghiệp đó. Nguồn nội lực của các doanh nghiệp mới đánh giá thực tế sự trưởng thành của các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam qua từng dự án. Thời gian đầu khi xuất hiện đấu thầu quốc tế và có sự xuất hiện của các nhà thầu nước ngoài làm cho thị trường đấu thầu Việt Nam trở nên căng thẳng vì sự cạnh tranh quyết liệt đã làm cho các nhà thầuViệt Nam lúng túng, yếu kém. Nhằm có đủ tài chính, thiết bị, kinh nghiệm đáp ứng những tiêu chuẩn hồ sơ và thi công nên các nhà thầu Việt Nam phải tìm kiếm các nhà thầu nước ngoài làm đối tác và chịu sự thiệt thòi về nhiều mặt do mất quyền chi phối. Đến nay, đặc biệt là sau các dự án ADB1, ADB2, WB1, WB2 từ cuối năm 1998 đến nay các nhà thầu Việt Nam đã trưởng thành, có kinh nghiệm thi công thầu quốc tế, có thiết bị tốt hơn đủ liên doanh với nhau, lại tận dụng được lợi thế nước chủ nhà nên đã dành lại được các hợp đồng thi công quan trọng và buộc các nhà thầu nước ngoài phải nhìn nhận các nhà thầu Việt Nam như một đối tác thực sự nếu muốn thắng thầu. Điều này nói lên ảnh hưởng từ chính các nguồn lực, khả năng của nhà thầu quyết định tới hơn 90% khả năng thắng thầu. Nguồn lực và khả năng đó bao gồm : Khả năng tài chính; Năng lực thiết bị; Trình độ, kinh nghiệm tổ chức quản lý các dự án tương tự; Chất lượng nguồn nhân lực và chính sách quản lý và phát triển nguồn nhân lực. Khả năng về tài chính: Quy mô tài chính, thể hiện ở quy mô tài sản cố định, tài sản lưu động của doanh nghiệp đó. Quy mô tài chính có lớn thì mới đảm bảo cho doanh nghiệp cạnh tranh mạnh và có thế hơn so với đối thủ cạnh tranh. Sự hợp lý và linh hoạt của cơ cấu vốn, cụ thể là mối quan hệ giữa vốn vay và vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có cơ cấu vốn hợp lý và linh hoạt sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp an toàn trong kinh doanh và đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn. Để thấy được mối quan hệ của hiệu quả kinh doanh trên vốn chủ sở hữu doanh nghiệp ta xác định hệ số nợ : Vốn vay Hệ số nợ = Vốn chủ sở hữu Nếu như hoạt động kinh doanh tốt thì một hệ số nợ cao sẽ mang lại lợi nhuận lớn cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, hệ số nợ cao cũng mang lại nhiều rủi ro khi doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả. Hơn nữa hệ số nợ cao cũng ảnh hưởng xấu đến khả năng huy động vốn của doanh nghiệp vì các ngân hàng sẽ đánh giá mức độ an toàn trong kinh doanh thông qua hệ số nợ để quyết định có cho vay vốn hay không. Do đó nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến việc tìm kiếm các nguồn tài trợ phục vụ cho quá trình đấu thầu của doanh nghiệp. - Kế tiếp là khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Trong ngành xây dựng đây là vấn đề đặc biệt cần quan tâm vì nhu cầu vốn cho đầu tư xây dựng rất lớn nên chủ yêú phải đi vay. Bởi vậy khả năng huy động vốn dễ hay khó đều ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Doanh nghiệp khi tham gia đấu thầu phải trình bày năng lực trong hồ sơ dự thầu. Vì vậy, làm rõ nguồn vốn huy động để thực hiện hợp đồng cũng được bên mời thầu đánh giá cao. Nếu doanh nghiệp khẳng địnhđược độ tin cậy và tính ổn định của các nguồn vốn vay sẽ góp phần đảm bảo khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Mức sinh lời của vốn đầu tư của doanh nghiệp qua các năm. Nó thể hiện tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tức trong 1 đồng vốn bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận = Vốn chủ sở hữu Nếu tỷ suất lợi nhuận cao chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả tạo uy tín với khách hàng, nhà đầu tư…Đây là một trong những chỉ tiêu vô hình cực kỳ quan trọng đảm bảo cho khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Ngoài ra, hiệu quả của công tác quản trị chi phí, kiểm soát giá thành sản phẩm và khả năng giảm giá xây lắp cũng giúp doanh nghiệp đưa ra mức giá bỏ thầu thấp có sức cạnh tranh lớn. Vì vậy năng lực tài chính mạnh hay yếu cũng quyết định đến khả năng thắng thầu của doanh nghiệp bởi năng lực tài chính thể hiện "bộ mặt" của doanh nghiệp. Năng lực thiết bị, ưu thế kỹ thuật và công nghệ: Năng lực máy móc, thiết bị và xe máy thi công của doanh nghiệp thể hiện ở số chủng loại và công suất của các loại máy móc, thiết bị doanh nghiệp sẽ giới thiệu trong hồ sơ dự thầu. Với máy móc, thiết bị, xe máy thi công càng tiên tiến thì đảm bảo được tiến độ thi công, tiết kiệm nhân công…cho phép doanh nghiệp xây dựng những công trình có chất lượng, độ thẩm mỹ caovà đáp ứng yêu cầu ngày càng khắt khe của chủ đầu tư. - Tính đồng bộ trong sử dụng máy móc, thiết bị và công nghệ, sự phù hợp giữa giá cả và chất lượng của sản phẩm do công nghệ đó chế tạo ra. Ngoài ra còn rất nhiều nội dung mà chúng ta không thể kể hết. Vấn đề là ở chỗ doanh nghiệp phải căn cứ vào từng điều kiện và công trình cụ thể mà phát huy lợi thế về công nghệ của mình đảm bảo phần thắng trong đấu thầu. Ngày nay vấn đề kỹ thuật và chất lượng công trình được đặt lên hàng đầu trong xét thầu thì điều kiện ưu thế kỹ thuật và công nghệ càng đóng vai trò quan trọng và nó ảnh hưởng rất lớn đến thắng lợi của doanh nghiệp trong tham dự thầu. Trình độ, kinh nghiệm tổ chức quản lý trong doanh nghiệp: Một cơ cấu tổ chức quản lý phù hợp và linh hoạt sẽ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả của mọi hoạt động trong doanh nghiệp. Với một cơ cấu tổ chức linh hoạt cho phép doanh nghiệp ứng phó kịp thời trước những thay đổi của môi trường, xử lý các sự cố nhanh, chính xác. Sự linh hoạt của cơ cấu tổ chức quản lý có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung cũng như công tác đấu thầu của doanh nghiệp xây dựng nói riêng. Như ta đã biết, đặc điểm của dơn vị xây dựng thường không ổn định, luôn thay đổi theo từng công trình. Vì vậy, với một cơ cấu tổ chức quản lý linh hoạt sẽ có vai trò to lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự đầy đủ của các phòng ban chức năng và bố trí hợp lý những cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm vào bộ máy tổ chức. Khi tham gia đấu thầu, các nhà thầu phải thể hiện được mình là người có năng lực tổ chức hợp lý. Nó thể hiện ở việc tổ chức quá trình xây dựng, lao động bảo đảm đúng tiến độ và chất lượng công trình. Đây là yếu tố quan trọng thuyết phục bên mời thầu khi các nhà thầu bỏ giá thầu tương đương. Sự đoàn kết, gắn bó giữa các cán bộ quản lý và người lao động, sự phối hợp giữa các bộ phận trong tranh thầu và thực hiện hợp đồng khi thắng thầu. Tóm lại, tổ chức quản lý là một điều kiện không thể thiếu khi tham gia đấu thầu và nó có ảnh hưởng lớn đến khả năng thắng thầu của một doanh nghiệp xây dựng. Lợi thế về chất lượng nguồn nhân lực: Trước hết đó là số lượng cán bộ quản lý, công nhân và lực lượng tham gia sản xuất trực tiếp có trong doanh nghiệp. Trình độ, năng lực của cán bộ quản lý thể hiện ở số người tốt nghiệp đại học, cao đẳng…, kinh nghiệm trong tham gia đấu thầu và thi công các công trình. Trình độ kỹ thuật và cấp độ lành nghề của đội ngũ công nhân trong doanh nghiệp. Nó thể hiện qua trình độ đào tạo, ngành nghề, bậc thợ của người công nhân. Đội ngũ cán bộ quản lý trẻ được đào tạo, năng động có khả năng nắm bắt được sự thay đổi của thị trường, khách hàng và dự đoán được các đối thủ cạnh tranh,…sẽ giúp các doanh nghiệp có cách nhìn, hướng đi khác từ đó tạo điều kiện thuận lợi giành cơ hội thắng thầu. Tóm lại, điều kiện nhân lực là không thể thiếu để đảm bảo thắng lợi trong tham gia đấu thầu. Nó đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải không ngừng bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ công nhân trong toàn doanh nghiệp. Tuỳ từng doanh nghiệp mà các khả năng này mạnh hay yếu nhưng nhìn chung với các Tổng công ty trong ngành giao thông vạan tải và một số doanh nghiệp lớn ngoài ngành hiện nay thì khả năng tài chính, thiết bị và kinh nghiệm không chênh nhau nhiều nhưng đấu thầu có hiệu quả hay không lại do yếu tố nhân lực quyết định lớn bởi trình độ của cán bộ kỹ thuật và cán bộ làm thầu ảnh hưởng trực tiếp tới việc lập hồ sơ có chất lượng cao, nghĩa là đáp ứng cao nhất yêu cầu của chủ đầu tư về : + Giải pháp thiết kế kỹ thuật thi công công trình; + Tiến độ thi công công trình; + Giá dự thầu : Trong các dự án đấu thầu, giá luôn đóng một vai trò quan trọng quyết định tới việc thắng thầu của doanh nghiệp (nó được đánh giá từ 50- 55 điểm trong thang điểm 100 của chủ đầu tư). Đây là ba nhân tố cơ bản nhất của hồ sơ đấu thầu mà muốn đáp ứng được phải sử dụng tổng lực tất cả các khả năng và nguồn lực ở trên mà doanh nghiệp nào có được những cán bộ giỏi thì doanh nghiệp đó biến được các khả năng và nguồn lực của mình thành một tập hồ sơ đấu thầu mà mọi thế mạnh được phát huy và mọi nhược điểm được khắc phục tối đa. Trong điều kiện thị trường Việt Nam hiện nay khi thoát khỏi cơ chế cũ chưa được bao lâu, sự "viện trợ" của Ngân sách nhà nước chưa hoàn toàn chấm dứt theo nhiều nghĩa thì tìm được sự nhảy vọt của một Tổng công ty là không thể có, hơn bao giờ hết để có được hiệu quả đấu thầu trong tình trạng hiện nay thì các Tổng công ty phải chú trọng hơn nữa về chính sách phát triển về nhân lực. Ngoài ra khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp còn đánh giá qua trình độ tổ chức quản lý đấu thầu và triển khai các công trình thắng thầu từ khởi công đến quá trình thi công theo thiết kế và kiểm tra đánh giá chất lượng, bàn giao công trình, hiệu quả công tác đấu thầu thể hiện rất rõ trong hoạt động này, một dự án dù thắng thầu mà không được quản lý tốt, để lãng phí vật liệu, tiến độ không hoàn thành, chất lượng công trình không đảm bảo thì không thể nói là có hiệu quả. Mặt khác quản lý và triển khai tốt còn góp phần tăng uy tín của doanh nghiệp trên thị trường xây dựng. Một số yếu tố khác: Ngoài các yếu tố trên, còn có một số yếu tố khác ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp xây dựng trong đấu thầu xây dựng như sau : Lợi thế về công tác tiếp thị(marketing): Marketing giúp doanh nghiệp nắm bắt được các vấn đề về thị trường (các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, thông tin giá nguyên vật liệu, pháp luật,…) " Biết người - biết ta " cho phép doanh nghiệp xây dựng được chiến lược kinh doanh đúng đắn, đặc biệt trong đấu thầu. Khả năng liên doanh, liên kết trong tham gia đấu thầu: Sự liên kết làm tăng khả năng cạnh tranh của nhà thầu khi tham dự những gói thầu lớn. Bởi vì, những gói thầu lớn thường đòi hỏi nhà thầu phải có năng lực lớn, nếu một mình doanh nghiệp đứng ra tham dự thì không đủ năng lực để cạnh tranh với những nhóm doanh nghiệp khác liên doanh, liên kết với nhau. Khi liên doanh, liên kết các doanh nghiệp vừa tận dụng đ._.c ở các dự án đấu thầu quốc tế, uy tín của Tổng công ty ngày càng được nâng cao trên thị trường xây dựng cả ở trong nước và khu vực. Thứ hai, việc Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch tự do ASEAN đã tạo cơ hội cho các doanh nghiệp xây dựng Việt Nam có cơ hội làm thuê cho nước ngoài dưới hình thức nhà thầu phụ. Bởi vì các dự án có vốn vay hoặc từ nguồn ODA thì hầu hết các nhà thầu chính là nhà thầu nước ngoài do có lợi thế về quy chế của tổ chức tín dụng, giải pháp bí quyết công nghệ, tiềm lực tài chính, kinh nghiệm lâu năm, uy tín trên trường quốc tế. Vì vậy, sau khi thắng thầu, nhà thầu chính nước ngoài thực hiện công trình thường kết hợp với một số nhà thầu phụ trong nước. Nhờ có năng lực mạnh về tài chính, nhân công và trang thiết bị nên Tổng công ty sẽ tham gia đấu thầu để nhận công trình cho các công ty thành viên thi công. c)Chính sách của Nhà nước : Chính sách của Nhà nước về việc bắt buộc các Nhà thầu nước ngoài hoạt động tại Việt Nam khi tham gia đấu thầu xây lắp đều phải ký hợp đồng với một nhà thầu trong nước làm thầu phụ và chính sách ưu đãi các nhà thầu trong nước khi tham gia đấu thầu các công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này tạo điều kiện cho Tổng công ty cũng như các đơn vị thành viên có thể tiếp xúc học hỏi được kinh nghiệm, đặc biệt là kinh nghiệm quản lý, để tự hoàn thiện và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình khi tham gia đấu thầu. Nguy cơ: Hiện nay, Tổng công ty đang phải đối đầu với những nguy cơ thách thức sau: Thứ nhất, cuộc khủng hoảng kinh tế Châu á năm 1997 làm giảm các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam, nhiều dự án có vốn đầu tư nước ngoài bị trì hoãn làm mất đi nhiều cơ hội tham gia đấu thầu tại Tổng công ty. Đặc biệt, việc Việt Nam gia nhập khu vực mậu dịch tự do (AFTA) làm cho các nhà thầu trong nước gặp phải khó khăn đó là các nhà thầu nước ngoài vào Việt Nam với một sức mạnh nổi trội về năng lực tài chính, về năng lực quản lý, trang thiết bị…Họ có kinh nghiệm thị trường dày dạn, có lợi thế trong việc xây dựng dự toán công trình ở Việt nam bằng cách nhờ bất kỳ một nhà thầu trong nước với lời hứa hẹn sẽ nhận làm thầu phụ, với tiềm lực tài chính họ có thể mua được thông tin từ các công ty tư vấn và các văn phòng đại diện của công ty vốn nước ngoài tại Việt Nam. Tóm lại, họ có đủ các điều kiện tiên quyết để thắng trong đấu thầu các công trình xây dựng lớn ở nước ta. Trong tương quan này rõ ràng các nhà thầu Việt Nam trong đó có Tổng công ty XDCTGT I mất đi lợi thế nước chủ nhà. Thứ hai, hoạt động trong cơ chế thị trường, nền kinh tế mở cửa nên Tổng công ty phải cạnh tranh gay gắt với nhiều doanh nghiệp xây dựng và liên doanh lớn mạnh trong nước và nước ngoài. Thứ ba, giá cả nguyên vật liệu trên thị trường không ổn định mà thường hay thay đổi (lên xuống thất thường) làm cho quá trình lập giá dự thầu gặp nhiều khó khăn, không sát thực tế dễ bị đánh trượt thầu. Từ sự kết hợp phân tích bốn mặt mạnh, yếu (trong phần đánh giá năng lực hoạt động), cơ hội, nguy cơ ở trên, ta tiến hành xây dựng ma trận SWOT trong đấu thầu của Tổng công ty để có thể lựa chọn được chiến lược đấu thầu phù hợp nhằm tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của Tổng công ty như sau: Biểu10: Ma trận SWOT áp dụng cho Tổng công ty XDCTGT 1: Ma trận SWOT Cơ hội (O) -Thị trường xây dựng công trình giao thông phát triển. -Việt Nam gia nhập khối mậu dịch tự do(AFTA) -Chính sách ưu đãi của Nhà nước. -Vốn đầu tư vào lĩnh vực xây dựng giao thông lớn. Nguy cơ (T) Các doanh nghiệp xây dựng trong ngành ngày một lớn mạnh. Việc Việt Nam gia nhập khối mậu dịch tự do ASEAN(AFTA). -Giá nguyên vật liêu không ổn định. Điểm mạnh (S): -Năng lực tài chính ổn định và khả năng huy động vốn lớn. -Cán bộ điều hành các dự án đều có kinh nghiệm điều hành các dự án. -Máy móc thi công nhiều chủng loại. -Chất lượng công trình tốt. Chiến lược S/O 1, Tận dụng thế mạnh về vốn, nhân công, máy móc thiết bị, uy tínvà sự ưu đãi để thắng thầu một số công trình lớn của Nhà nước. 2, Chiến lược tăng trưởng: -Đa dạng hoá sản phẩm -Mở rộng sản xuất kinhdoanh. 3, Chiến lược liên doanh khai thác cơ hội. Chiến lược S/T 1, Có thể liên kết với các công ty thành viên để thắng đối thủ cạnh tranh. 2, Tận dụng thế mạnh về vốn để chống lại sức ép từ chủ đầu tư. Mặt yếu (W) - Thiết bị thi công không đồng bộ. - Công nghệ thi công cầu hầu như không có. - Đội ngũ cán bộ phòng dự án còn thiếu nhiều. - Chưa linh hoạt trong việc tính giá dự thầu. - Cán bộ làm hồ sơ dự thầu còn yếu. Chiến lược W/O 1, Trình độ marketing chưa mạnh có thể tận dụng các dự án lớn Chính phủ sắp đầu tư. 2, Chiến lược phân đoạn thị trường. 3, Chiến lược liên doanh, liên kết. Chiến lược W/T 1,Chiến lược liên doanh: Khắc phục điểm yếu vượt nguy cơ. 2, Chiến lược đào tạo nhân lực, nâng cấp máy móc đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ để cạch tranh với các liên doanh. Qua phân tích bảng trên, đối với sản phẩm xây lắp công trình giao thông hiện nay, Tổng công ty nên tập trung chủ yếu vào chiến lược S/O, để tận dụng triệt để thế mạnh của mình và khai thác cơ hội, qua đó khắc phục được điểm yếu. Để thực hiện chiến lược S/O, nếu Tổng công ty theo quan điểm đấu thầu trong giai đoạn vừa qua sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, trong giai đoạn mới này, Tổng công ty nên tận dụng cơ hội thuận lợi và điểm mạnh của mình để dành thắng lợi nhiều hơn nữa trong đấu thầu xây dựng các công trình giao thông. Muốn vậy, trong chiến lược đấu thầu của Tổng công ty giai đoạn 2001- 2010 cần chuyển hướng một số quan điểm chính cho phù hợp với giai đoạn mới. Qua thời gian thực tập và nghiên cứu tình hình sản xuất kinh doanh, thực trạng công tác đấu thầu của Tổng công ty XDCTGT I, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số quan điểm chính trong chiến lược đấu thầu của Tổng công ty trong giai đoạn 2001- 2010 nhằm đạt mục tiêu chiến lược kinh doanh đề ra của Tổng công ty như sau: a) Quan điểm lựa chọn thị trường: Tổng công ty nên tập trung tham gia đấu thầu các dự án có quy mô lớn, còn các dự án nhỏ và lẻ có tính chất thời vụ, Tổng công ty nên để các công ty thành viên đấu thầu hoặc Tổng công ty làm khi khối lượng công việc ít. Bởi vì, dựa vào năng lực lớn mạnh của mình, Tổng công ty có thể tự đứng ra tham gia đầu thầu hoặc liên doanh với các doanh nghiệp xây dựng mạnh khác trong ngành, có như vậy Tổng công ty mới thực sự tập trung được nguồn năng lực về tài chính, thiết bị máy móc và nguồn nhân lực để lập hồ sơ dự thầu với chất lượng cao, đạt tiêu chuẩn mà chủ đầu tư yêu cầu. Do đó xác xuất trúng thầu các công trình lớn- phù hợp với năng lực của Tổng công ty - sẽ cao hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho Tổng công ty. Còn đối với các dự án nhỏ, lẻ có tính chất thời vụ dĩ nhiên Tổng công ty không bỏ qua, nhưng sẽ giao cho các đơn vị thành viên tham gia dự thầu và hỗ trợ về điều kiện năng lực cần thiết. Hoặc Tổng công ty sẽ tự đứng ra thực hiện khi khối lượng công việc ít. Có như vậy, Tổng công ty mới liên tục kiếm được việc làm cho cán bộ công nhân viên, tăng lợi nhuận- bổ sung vào nguồn vốn của Tổng công ty, từ đó làm cho năng lực tài chính của Tổng công ty ngày càng tăng. b) Quan điểm về chiến lược giá: Như đã trình bày ở phần thực trạng công tác đấu thầu, chúng ta thấy trong những năm gần đây, xác suất trúng thầu của Tổng công ty giảm sút, lý do là Tổng công ty đã đưa ra mức giá dự thầu chưa linh hoạt nên có những công trình giá bỏ thầu còn cao so với Chủ đầu tư và các đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, đòi hỏi Tổng công ty phải xây dựng được các mức giá sao cho phù hợp với từng công trình và tình hình đối thủ cạnh tranh, Chủ đầu tư, tận dụng lợi thế quy mô về các máy móc thiết bị, nguồn tài chính và nhân công để đưa ra mức giá dự thầu thấp hơn. Khi Tổng công ty bỏ thầu với giá thấp hơn các đối thủ để thắng thầu thì có thể xảy ra 2 trường hợp sau: Trường hợp 1: Tổng công ty thu được mức lợi nhuận thấp hơn đối với từng công trình song số lượng công trình thắng thầu tăng, tổng lợi nhuận thu được từ các công trình thắng thầu cũng tăng. Trường hợp 2: Tổng công ty vẫn thu được mức lợi nhuận như các nhà thầu đối thủ, dựa vào: -Tận dụng lợi thế quy mô với nguồn năng lực thiết bị dồi dào, có thể cân đối được kế hoạch bố trí xe, máy thi công, tổ chức thi công hợp lý giảm được chi phí quản lý. -Năng suất lao động tăng do kinh nghiệm thi công các công trình tương tự nên chi phí nhân công trực tiếp giảm. -Định mức vật tư, kinh nghiệm quản lý tiết kiệm, giảm được chi phí nguyên vật liệu. -Tính toán từ mức hiệu quả đồng vốn bỏ ra nên chi phí sử dụng máy đưa vào dự toán có thể giảm được 10% vẫn bảo đảm máy hoạt động tốt trong những năm kế tiếp. Có người cho rằng, do đấu thầu cạnh tranh quyết liệt như hiện nay, các nhà thầu sử dụng giá thấp cốt để trúng thầu nhưng chất lượng công trình kém theo kiểu: "tiền nào của ấy". Nhưng thực tế không hẳn như vậy. Nếu chủ đầu tư chấp nhận mức giá bỏ thầu cao hoặc mức giá bỏ thầu trung bình nhưng khâu giám sát, quản lý kỹ thuật không tốt thì chất lượng công trình cũng không đảm bảo. Nếu chủ đầu tư chấp nhận giá thấp với điều kiện nhà thầu có khả năng về trang thiết bị thi công, lực lượng lao động, vốn sản xuất,… để đảm bảo thi công gói thầu và được sự giám sát chặt chẽ ở tất cả các khâu như yêu cầu trong hồ sơ mời thầu và các cam kết của nhà thầu nêu trong hồ sơ dự thầu thì chất lượng công trình vẫn đảm bảo. Nhà thầu sẽ phải chấp nhận lãi ít hơn dự kiến hoặc lỗ để hoàn thành gói thầu giữ uy tín cho nhà thầu hoặc bỏ cuộc, chịu mất tiền bảo lãnh dự thầu và mất uy tín trên thương trường. c) Quan điểm về chiến lược đào tạo nguồn nhân lực: Lao động là một bộ phận của nguồn lực phát triển, là yếu tố đầu vào không thể thiếu được của quá trình sản xuất. Máy móc do con người sáng tạo ra song nó chỉ phát huy tác dụng thông qua kinh nghiệm, kiểm nghiệm và hiện thực hoá của hoạt động sản xuất trực tiếp của con người. Nếu đẩy mạnh giáo dục và đào tạo sẽ nâng cao trình độ, tích luỹ kiến thức, hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo cho người lao động, tạo điều kiện cho người lao động có thể phát huy tối đa công suất máy móc, cải tiến đổi mới công nghệ, năng suất lao động được tăng lên, chất lượng sản phẩm tốt hơn, giá bán thấp hơn. Điều này sẽ tạo sự tín nhiệm đối với sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, doanh nghiệp sẽ dần dần chiếm lĩnh thị trường và có lợi nhuận. Vì thế, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự chưa hoàn thiện trong xây dựng chiến lược đấu thầu của Tổng công ty là do trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên còn thấp chưa hiểu biết nhiều về chiến lược đấu thầu. Qua phân tích ở chương II, chúng ta thấy, mặc dù Tổng công ty có đội ngũ cán bộ kỹ thuật rất mạnh mẽ, có nhiều kinh nghiệm, song Tổng công ty lại rất thiếu cán bộ có khả năng lập chiến lược đấu thầu tốt cho Tổng công ty. Chính vì vậy, một quan điểm đặt ra cho Tổng công ty trong chiến lược đấu thầu giai đoạn 2001-2010 là cần tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ trong việc lập chiến lược đấu thầu của Tổng công ty cũng như đào tạo, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho toàn bộ cán bộ tổng công ty để Tổng công ty có tiềm lực mạnh về nguồn nhân lực- là điều kiện đảm bảo cho việc tăng khả năng cạnh tranh trong đấu thầu. d) Quan điểm về chiến lược liên kết trong đấu thầu: Trong tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để tồn tại và có khả năng thắng thầu được nhiều công trình giao thông, đòi hỏi Tổng công ty cần phải tích cực liên doanh, liên kết với các đối tác không những các doanh nghiệp xây dựng trong nước để tận dụng nguồn năng lực thiết bị, vốn, nhân lực,… của các đơn vị bạn mà còn cần phải liên doanh hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước để chiếm lĩnh thị trường xây dựng không chỉ ở Việt nam mà còn mở rộng phạm vi ra khu vực ASEAN cũng như trên thế giới. III. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu theo các quan điểm định hướng chiến lược đã đề ra. Trong một vài năm gần đây, hoạt động đấu thầu xây lắp (nhất là đối với các dự án có vốn đầu tư nước ngoài, các công trình trọng điểm của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng công trình giao thông) trở nên sôi động. Các doanh nghiệp xây dựng đã có thể tiếp cận với các hình thức, kinh nghiệm mới, với thực tiễn về kỹ thuật kinh doanh quốc tế và nhiều vấn đề có liên quan đến các dự án lớn. Nhưng do vị trí xuất phát thấp, năng lực hạn chế nhiều về mọi mặt nên hầu như phải liên doanh với một số nhà thầu quốc tế khi đấu thầu. Mỗi gói thầu xây dựng thường có hàng chục liên doanh cạnh tranh nhau quyết liệt. Để đấu thầu và thắng thầu có hiệu quả, các doanh nghiệp xây dựng phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp. Trong giới hạn bài viết, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng thắng thầu theo các quan điểm, mục tiêu chiến lược của Tổng công ty XDCTGT I như sau: Giải pháp về năng lực thiết bị: a) Đầu tư thiết bị máy móc, đổi mới công nghệ trong thi công : Là một Tổng công ty lớn của Bộ giao thông vận tải với nhiều công trình thi công trong một năm, do đó nhu cầu thiết bị phục vụ thi công là rất lớn. Mặc dù thời gian qua Tổng công ty đã đầu tư đổi mới nhiều máy móc thiết bị thi công – nhờ vậy mà Tổng công ty đã trúng thầu xây dựng nhiều công trình lớn, nhưng trên thực tế, máy móc thiết bị thi công của Tổng công ty vẫn còn thua kém so với một số đối thủ cạnh trạnh và khó có thể cạnh tranh trong các gói thầu có mức độ phức tạp khá cao đặc biệt là đấu thầu quốc tế. Mặt khác, để đáp ứng mục tiêu - quan điểm đặt ra là tập trung vào các dự án lớn, Tổng công ty cần phải đầu tư thêm một số hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ trong thi công. Tổng công ty hiện đang tập trung vào việc nhập khẩu máy móc thiết bị của các nước như: Nhật Bản, Thụy sỹ, Hàn Quốc, Nga,…với đặc điểm máy móc của các nước này sản xuất có chất lượng tốt, tuổi thọ cao, nhưng giá đắt. Tuy nhiên để lấy uy tín từ các công trình giao thông chất lượng cao mà Tổng công ty thi công thì việc tập trung đầu tư vào máy móc thiết bị của Tổng công ty không phải là không nên. Đây là ưu thế của Tổng công ty về năng lực thiết bị khi lập hồ sơ dự thầu để tham gia cạnh tranh trong đấu thầu. Mặc dù vậy, Tổng công ty cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng máy móc thi công hiện có bằng cách: Lựa chọn phương án cơ giới hoá xây dựng tối ưu, phân phối máy hợp lý theo tiến độ thi công, phân bố máy theo các địa điểm xây dựng và mặt bằng thi công hợp lý, điều phối máy giữa các công trường. Có kế hoạch cải tiến sử dụng máy móc nhằm nâng cao hệ số sử dụng máy theo công suất, theo thời gian và đầu máy đưa vào hoạt động. Liên kết với các doanh nghiệp bạn nhằm sử dụng năng lực sản xuất thừa của nhau. Đặc biệt Tổng công ty nên có kế hoạch tận dụng máy móc trong thời gian tạm nhàn rỗi do chưa kiếm được hợp đồng xây dựng bằng cách cho thuê hay đi làm thầu phụ. Lựa chọn phương pháp khấu hao phù hợp với kế hoạch sao cho có thể vừa bảo toàn vốn lại vừa bảo đảm tính cạnh tranh của giá thành sản phẩm cũng như tạo điều kiện để đổi mới kỹ thuật của Tổng công ty. b) ứng dụng tiến bộ KHKT trong quản lý và thi công: Để đáp ứng yêu cầu chuẩn bị hồ sơ dự thầu, Tổng công ty cần phải trang bị thêm cũng như nâng cấp hệ thống máy tính đủ mạnh để có thể chạy được nhiều chương trình tính toán, thiết kế kỹ thuật như AUTOCAT, COREL, trang bị thêm một số máy photocoppy, máy vẽ kỹ thuật. Đồng thời để đáp ứng yêu cầu về chất lượng công trình, Tổng công ty cần phải trang bị thêm các thiết bị kiểm định (cọc, kết cấu công trình,…) bằng Laze và tĩnh điện. Tiến bộ khoa học kỹ đã góp phần làm giảm giá thành công trình đồng thời tăng chất lượng công trình rút ngắn tiến độ thi công. Để tăng cường áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, Tổng công ty cần tổ chức tập huấn các tiến bộ kỹ thuật mới trong công nghệ xây dựng công trình giao thông cho các cán bộ kỹ thuật, tổ chức thông tin khoa học kỹ thuật. Giải pháp về giá: Trước hết cần tăng cường công tác thu thập thông tin, xử lý giá cả, hoàn thiện phương pháp tính giá phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Mọi hồ sơ khi tham dự thầu phải được chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt như năng lực, máy móc thiết bị, tài chính, kỹ thuật. Nhưng tiêu chuẩn quan trọng để thắng thầu là giá dự thầu. Nếu giá dự thầu lập quá thấp thì nhà thầu không thể thi công được mà nếu quá cao thì sẽ không trúng thầu. Do đó việc lập giá dự toán, dự thầu hợp lý có vai trò rất quan trọng. Phương pháp chung xác định được giá dự thầu công trình, xác định được đơn giá dự thầu trên cơ sở kết hợp với khối lượng công tác xây lắp do bên mời thầu cung cấp, dựa trên bảng tiên lượng được bóc tách chính xác từ thiết kế kỹ thuật thi công, nhà thầu sẽ xác định được giá trị xây lắp công trình. Đơn giá dự thầu = Chi phí trực tiếp ( vật liệu thi công, máy thi công )+ chi phí chung + lãi dự kiến và thúê. Đơn giá dự thầu = T + C + L Để theo đuổi chiến lược giá với quan điểm đặt giá dự thầu thấp khi tham gia đấu thầu, Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1cần thực hiện các biện pháp sau: Về chi phí vật liệu ( thường chiếm 60-70% đơn giá ) Tổng công ty nên duy trì các nguồn cung cấp cũ đồng thời tích cực tìm kiếm các nguồn cung cấp mới để đảm bảo giá vật liệu mà Tổng công ty sử dụng là thấp nhất, sử dụng và khai thác triệt để có hiệu quả nguồn vật liệu xây dựng mà Tổng công ty tự sản xuất. Tăng cường công tác thu thập thông tin về giá cả nhất là các nguyên vật liệu nhập từ nước ngoài, tăng cường tiếp cận và nắm bắt kịp thời thông tin về vật liệu, đơn giá xây dựng của một số quốc gia trong khu vực tạo điều kiện thuận lợi xử lý giá cả tham dự thầu các công trình có vốn đầu tư nước ngoài. Về chi phí máy thi công : ( Trong đơn giá dự thầu, chi phí máy thi công cũng chiếm tỷ trọng đáng kể). Đối với máy thi công đã có định mức của Bộ giao thông vận tải, để làm giảm chi phí máy thi công trong chi phí trực tiếp, ta có thế giảm giá ca máy trong khi lập dự toán dự thầu bằng cách giảm khấu hao máy thi công, tiết kiệm nhiên liệu, năng lượng, sử dụng máy tiết kiệm phù hợp với điều kiện đặc điểm của từng công trình. Đối với máy móc chưa có định mức thì Tổng công ty tự xây dựng định mức của mình dựa trên : -Khấu hao cơ bản thiết bị đó -Chi phí động lực và nhiên liệu -Chi phí nhân công và quản lý máy Về chi phí nhân công : Tổng công ty nên giảm mức nhân công sử dụng vào việc xây lắp công trình bằng các biện pháp như: Sử dụng nguồn nhân công trong biên chế mà chưa huy động vào công trình nào (có thể đang nhàn rỗi, hay số công nhân vừa mới hoàn thành công trình trước đó chưa được phân công vào công việc khác,…). Sử dụng nguồn nhân công theo thời vụ ở ngay địa phương có công trình đang thi công vào các công việc không đòi hỏi phải có kỹ thuật cao như các công việc thủ công (đào đất, nạo vét, bốc dỡ,…) Tăng năng suất lao động, tích cực nâng cao trình độ cơ giới hoá và tự động hoá trong quá trình thi công. Từ đó giảm được chi phí nhân công. Chi phí nhân công được áp dụng theo những quy định của Nhà nước. Nhưng thay vào đó là sau khi thắng thầu bước vào thi công, Tổng công ty nên bố trí và sử dụng hợp lý đội ngũ các cán bộ công nhân lành nghề để đảm bảo được tiến độ thi công yêu cầu kỹ thuật của Chủ đầu tư. Lợi nhuận, chi phí dự phòng : Chi phí dự phòng được phân bổ vào chi phí trực tiếp theo tỷ lệ tùy thuộc vào đặc điểm của từng công trình. Lợi nhuận do nhà thầu xác định tùy theo đặc điểm của công trình, để tăng khả năng trúng thầu, Tổng công ty có thể hạ thấp tỷ lệ lợi nhuận. Ngoài ra để tạo khả năng trúng thầu lớn hơn, khi tham gia đấu thầu, bên cạnh việc đưa ra một mức giá dự thầu hợp lý, Tổng công ty có thể đưa ra một số chính sách giảm giá (Giảm một số % so với giá trị hợp đồng ). Giải pháp về công tác tổ chức lao động : “Con người vừa là động lực vừa là mục tiêu“ (Nghị quyết TW Đảng lần thứ VIII) “Con người đứng ở trung tâm sự phát triển, là tác nhân và là mục đích của sự phát triển“ ( UNESCO). Do đó hình thành một cơ cấu hợp lý, đúng người đúng việc là một yếu tố cơ bản tạo nên sự thành công trong kinh doanh. Để hoàn thiện công tác tổ chức lao động, Tổng công ty cần tiến hành : Thứ nhất, đào tạo và đào tạo lại, tăng cường thêm một số cán bộ đầu ngành để có thể điều hành dự án vững vàng, có chuyên môn và năng lực, am hiểu cách quản lý và điều hành dự án trên thế giới. Muốn vậy, yêu cầu đối với các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật trong tổ chức đấu thầu của Tổng công ty cần phải: Được đào tạo chính quy và đào tạo lại cho phù hợp với thực tiễn. Đấu thầu xây dựng là tổng hòa các lĩnh vực quản lý kinh tế và kinh doanh của doanh nghiệp, chịu sự cạnh tranh gay gắt của các nhà thầu và những quy trình chặt chẽ của tư vấn giám sát, mặt khác, công nghệ xây dựng ngày nay thay đổi về cơ bản. Trong khi đó, các chuyên gia có kinh nghiệm nhất chủ yếu được đào tạo trước những năm 90 theo các quy trình cũ, do đó cần phải được đào tạo lại. Số kỹ sư, chuyên gia mới ra trường tuy được đào tạo chính quy nhưng lại chưa có thực tiễn, đồng thời việc tiếp thu kiến thức từ thực tiễn của các nhà trường đào tạo chưa theo kịp diễn biến thực tế của quá trình cạch tranh gay gắt trong thị trường xây dựng, do đó cũng cần tiếp tục phải được đào tạo lại . Năng động, chính xác phù hợp với thị trường. Quá trình đấu thầu như một cỗ máy hoàn chỉnh chạy hết công suất, vừa phải đảm bảo chính xác, nhưng đồng thời vừa phải rất linh hoạt, tuỳ theo mục tiêu của Tổng công ty và tuỳ thuộc vào diễn biến của quá trình lựa chọn phải đảm bảo yêu cầu này. Chuyên sâu một công việc và hiểu biết tổng thể nhiều lĩnh vực trong hoạt động xây dựng, hoạt động đấu thầu, triển khai các dự án. Hoạt động đấu thầu là một dây chuyền, các nội dung của hồ sơ đấu thầu có liên quan mật thiết với nhau, đồng thời từng nội dung có những yêu cầu chuyên sâu riêng. Do đó việc bố trí các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của Tổng công ty phải đáp ứng yêu cầu chuyên sâu một lĩnh vực và biết nhiều lĩnh vực nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng công việc. Thông thạo ngoại ngữ, luật pháp. Đây là một yêu cầu đặc biệt quan trọng của các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật của Tổng công ty khi tham gia đấu thầu, đặc biệt là đấu thầu quốc tế vì cùng một lúc phải giải quyết nhiều mâu thuẫn: Cán bộ lâu năm, có kinh nghiệm thì trình độ ngoại ngữ thấp; Cán bộ mới, có trình độ ngoại ngữ thì lại thiếu kinh nghiệm; các nội dung của hồ sơ đấu thầu bằng tiếng Anh, bao hàm nhiều lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật phức tạp. Do vậy, Tổng công ty phải vận dụng bằng cách: Vừa làm, vừa đào tạo ngoại ngữ cho các cán bộ kỹ thuật (thông qua học và giao dịch thực tiễn; sử dụng phiên dịc; tuyển chọn các chuyên gia, kỹ sư mới có trình độ ngoại ngữ cho tham gia vào các dự án trước khi tham gia vào tổ chức đấu thầu. Thứ hai, Tổng công ty nên tiến hành chế độ khoán từ Tổng công ty đến các công ty thành viên, đến các đội sản xuất nhằm khuyến khích sự năng động sáng tạo của người lao động, có chế độ thưởng phạt rõ ràng, kỷ luật lao động cao nhằm đảm bảo an toàn lao động trong thi công. Đồng thời Tổng công ty nên ban hành quy chế sử dụng hợp lý lao động để đảm bảo quyền lợi cũng như trách nhiệm của người lao động. Giải pháp về tài chính: Tổng công ty XDCTGT I là một Doanh nghiệp nhà nước, việc chấp hành các chỉ tiêu về giá trị sản lượng và thuế hàng năm của Bộ giao thông vân tải và Nhà nước giao là các chỉ tiêu pháp lệnh, trong khi đó nguồn vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh đặc biệt là vốn lưu động của Tổng công ty còn rất hạn hẹp. Để đảm bảo việc chấp hành các quy định về bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, ứng vốn thi công, bảo hành công trình theo quy định của Điều lệ quản lý đầu tư và xây dựng Tổng công ty cần có những giải pháp hữu hiệu nhằm huy động vốn. Một là, tạo vốn bằng cách mở rộng sản xuất, tăng cường trách nhiệm công trình để từ đó nâng cao tổng doanh thu, lợi nhuận và có tỷ lệ trích lập quỹ phát triển sản xuất. Hai là, đẩy mạnh khả năng tạo vốn bằng cách tham gia liên doanh liên kết tạo điều kiện hỗ trợ về vốn lưu động, tăng năng lực cạnh tranh. Ba là, cổ phần hoá một số công ty thành viên để có thể huy động vốn của các cán bộ công nhân viên, huy động các nguồn ưu đãi, nhà đầu tư. Bốn là, phát hành trái phiếu, giải ngân cho các dự án trong và ngoài nước. Năm là, tạo và mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính ngân hàng nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức này trong việc vay mượn bảo lãnh dự thầu khai thác tối đa vốn tín dụng. Sáu là, Nghiêm túc thực hiện quy chế quản lý tài chính do Nhà nước ban hành, duy trì thường xuyên chế độ kiểm tra tài chính đối với các công ty thành viên, các đội trực thuộc. Mọi chứng từ phải hợp lệ, tránh tình trạng lập chứng từ khống gây thiệt hại vốn cho Tổng công ty. Các chi phí chứng từ phát sinh trong kỳ phải được kiểm tra chặt chẽ. Thường xuyên lập báo cáo thống kê từng tháng, từng quý nhằm đảm bảo cho Tổng công ty đánh giá đúng thực trạng về vốn để có biện pháp giải quyết. Cơ chế giao việc giữa Tổng công ty với các đơn vị thành viên, đội trực thuộc luôn được điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế. III. Một số kiến nghị với nhà nước : Thứ nhất, Nhà nước cần có chế độ thanh quyết toán công trình nhanh chóng, giúp Tổng công ty thu hồi vốn sớm đảm bảo công bằng trong sản xuất kinh doanh: Thực tế cho thấy hiện nay các chủ đầu tư (thường là Nhà nước) còn nợ Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1 một lượng vốn đáng kể. Nếu như năm 1999, Nhà nước nợ 71.268 triệu đồng thì đến năm 2001 đã tăng lên đến 92.314triệu đồng. Trong lúc Tổng công ty phải tìm các nguồn vốn khác để tài trợ cho các nhu cầu về vốn thì lượng vốn do chủ đầu tư nợ đọng quá lớn, gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Tổng công ty . Nếu tính lãi suất vay vốn bình quân hiện nay của Tổng công ty là 12% /năm thì để bù đắp lượng vốn bị Nhà nước chiếm dụng năm 2001, Tổng công ty phải trả một khoản lãi là 102.316 triệu đồng ( gấp 2 lần vốn chủ sở hữu của một công ty thành viên trực thuộc Tổng công ty ). Từ thực tế đó, Nhà nước cần ban hành các chính sách tài chính hợp lý, thanh toán nhanh các công trình đã nghiệm thu và đồng thời ưu tiên thanh toán nợ cho Tổng công ty, đầu tư nhiều hơn nữa vào việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông để tạo điều kiện cho Tổng công ty kinh doanh có hiệu quả, góp phần thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho. Thứ hai, về đấu thầu quốc tế và vai trò của Nhà thầu trong nước. Việc giao thầu tại các công trình có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, các công trình từ nguồn vốn ODA thường thông qua đấu thầu quốc tế, trong đó phần lớn đơn vị trúng thầu là các nhà thầu nước ngoài hoặc tổ hợp các công ty nước ngoài, rất ít trường hợp đơn vị thắng thầu là doanh nghiệp nhà nước. Mặc dù những năm qua các nhà thầu Việt Nam đã tỏ rõ năng lực và tiến bộ của mình, đủ khả năng để tự xây dựng những công trình lớn như thuỷ điện Yaly, các đường quốc lộ, các cầu cảng lớn,…Nhưng tại sao trong đấu thầu quốc tế Nhà thầu Việt Nam không dành được lợi thế ngay trên đất nước mình. Điều đó là do chính sách đấu thầu của Việt Nam. Có thể nói hầu hết các hồ sơ mời thầu đều do các công ty tư vấn nước ngoài chuẩn bị và đối với công trình vốn vay quốc tế thì chủ đầu tư Việt Nam lại ít kinh nghiệm. Tư vấn nước ngoài đã lợi dụng các sơ hở trong quy chế đấu thầu để tự chia dự án thành các gói thầu quá lớn, đòi hỏi các điều kiện dự thầu cao, gây khó khăn và làm cho các nhà thầu nước ngoài dự thầu đếu trúng vai trò thầu chính. Còn Nhà thầu Việt Nam chỉ được cam kết làm thầu phụ cho các nhà thầu nước ngoài. Khi trúng thầu, nhà thầu chính nước ngoài không thực hiện đúng cam kết đó thì cũng không có cơ chế xử lý. Nếu có thực hiện cam kết thì Nhà thầu nước ngoài cũng phân chia lại công việc theo ý muốn của họ. Thực tế là tất cả các nhà thầu nước ngoài sau khi thắng thầu tự ý lựa chọn nhà thầu khác có giá thấp hơn giá khi hai bên cam kết vào đấu thầu. Hướng giải quyết: -Quy định rõ việc liên kết với nhà thầu Việt Nam là bắt buộc trong đấu thầu quốc tế, các điều kiện liên kết phải được xác định trước khi dự thầu và các điều kiện ràng buộc này phải được thực hiện sau khi thắng thầu, trong văn bản công bố kết quả đấu thầu phải ghi rõ các nhà thầu phụ tham gia liên kết đấu thầu. -Việc phân chia gói thầu cho một dự án cần hợp lý để khai thác được tiềm năng trong nước, tạo điều kiện cho các nhà thầu trong nước có thể dự thầu độc lập. tránh việc tổ chức đấu thầu hợp đồng chìa khoá trao tay vì nó yêu cầu điều kiện dự thầu cao mà nhà thầu trong nước khó có khả năng đáp ứng. -Có chính sách ưu đãi đối với nhà thầu trong nước. Điều này đã được các nước và các tổ chức quốc tế áp dụng. Thứ ba, Nhà nước cần có những biện pháp thích hợp để xoá bỏ triệt để hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động đấu thầu đang rất phổ biến và nó làm phá vỡ nguyên tắc bình đẳng, công khai trong đấu thầu gây nhiều bất lợi cho những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Kết luận Hiện nay đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng vẫn còn là hoạt động mới mẻ ở nước ta. Việc áp dụng phương thức này trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản cần phải có thời gian để thích ứng và hoàn thiện mới có thể đem lại những lợi ích to lớn đối với cả Nhà nước, Chủ đầu tư và các doanh nghiệp xây dựng. Tuy nhiên do vai trò to lớn của hoạt động đấu thầu xây dựng đối với các quá trình sản xuất kinh doanh cũng như tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nên việc nâng cao khả năng thắng thầu của các doanh nghiệp xây dựng có một ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Sau khi đã đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản nhất có liên quan đến hoạt động đấu thầu và một số xem xét, đánh giá tình hình thực hiện hoạt động đấu thầu của Tổng công ty XDCTGT I, bài viết này đã nêu được một số quan điểm chính và giải pháp đối với Tổng công ty trong chiến lược đấu thầu giai đoạn 2001- 2010 và kiến nghị với Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của Tổng công ty. Đây là kết quả nghiên cứu gắn liền với thực tiễn đầu tiên của tôi và mặc dù đã cố gắng nhưng với kiến thức và kinh nghiệm có hạn nên Luận văn chưa bao quát hết được mọi vấn đề của đấu thầu xây dựng cũng như khó tránh khỏi những thiếu sót, một lần nữa tôi mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp bổ sung để đề tài được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Hà Nội ngày 03/06/2002. Sinh viên: Nguyễn Thị Mai Hoa mục lục Lời mở đầu…………………………………………………………………………..1 chương 1: Kết luận…………………………………………………………………… 95. Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………… 96 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28190.doc
Tài liệu liên quan