Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Gracia Marquez

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thành Trung YẾU TỐ KỲ ẢO TRONG TRUYỆN NGẮN GABRIEL GARCIA MARQUEZ Chuyên ngành : Văn học nước ngồi Mã số : 60 22 30 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐÀO NGỌC CHƯƠNG Thành phố Hồ Chí Minh - 2010 LỜI CẢM ƠN Tơi xin chân thành cảm ơn: Thầy hướng dẫn, Tiến sĩ Đào Ngọc Chương Các thầy cơ tổ Văn học Nước ngồi, các thầy cơ khoa Ngữ Văn Phịng Sau Đại học và Cơng nghệ trườn

pdf170 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 4274 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Gracia Marquez, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g Đại học Sư Phạm TP.HCM Gia đình và bạn bè đã tận tình gĩp ý, giúp đỡ để tơi hồn thành luận văn này. TPHCM, ngày 09 tháng 09 năm 2010 Người viết luận văn Nguyễn Thành Trung Lớp Cao học Văn học Nước ngồi khĩa 18 LỜI CAM ĐOAN Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi. Các số liệu khảo sát, kết quả trong luận văn này là trung thực và chưa từng cơng bố ở các cơng trình khác. Người viết luận văn Nguyễn Thành Trung Lớp Cao học Văn học Nước ngồi khố 18. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Mỹ Latin là nền văn học của các quốc gia, vùng lãnh thổ Trung, Nam châu Mỹ và Caribbe chủ yếu viết bằng tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và ngơn ngữ bản địa, gồm ba giai đoạn: cổ đại, cận đại và hiện đại. Nền văn học cổ đại bản địa hình thành từ hàng ngàn năm trước, đây chủ yếu là những sáng tác dân gian truyền miệng. Nền văn học này bị vùi lấp bởi cuộc xâm lược phương Tây; một thể chế chính trị cũng như văn chương ban đầu thuần túy châu Âu ra đời. Về sau nền văn chương ấy giao thoa với khuynh hướng dân tộc bản địa làm nên đặc trưng của nền văn học cận đại. Văn học hiện đại bắt đầu phát triển mạnh vào thế kỷ XX và đạt được sự bùng nổ mang tầm vĩc thế giới bằng 05 giải Nobel cho các tác giả Gabriela Mistral (1945), Miguel Angel Asturias (1967), Gabriel Garcia Marquez (1982), Pablo Neruda (1971) và Octavio Paz (1990). Giai đoạn này, văn học Mỹ Latin nổi tiếng với Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (magical realism)- một trào lưu cĩ nhiều đĩng gĩp cho văn học thế giới. Văn học hiện đại Mỹ Latin chứng kiến những thành tựu to lớn, trong đĩ cĩ sự phát triển vượt bậc của thể loại truyện ngắn, đặc biệt là mảng truyện ngắn kỳ ảo. Dịng truyện ngắn này kết hợp với truyện ngắn tâm lý tạo nên trào lưu biểu hiện trong văn học Mỹ Latin hiện đại. Các tác giả dường như lý giải lịch sử và thế giới bằng những yếu tố phi thực. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo ra đời như một phản ứng, một khám phá là vì thế. Truyện ngắn hiện thực huyền ảo được khơi nguồn từ Borges và phát triển với tên tuổi của Gabriel Garcia Marquez. Bản thân Marquez rất coi trọng truyện ngắn. Ơng từng phát biểu [50,354]: Tơi nghĩ rằng truyện ngắn và tiểu thuyết khơng chỉ là hai thể loại văn học khác nhau mà cịn là hai tổ chức cĩ bản chất khác nhau nếu hiểu lẫn lộn sẽ đưa đến hậu quả tai hại. Ngày nay, tơi vẫn tiếp tục tin như vậy và lại càng tin chắc hơn bao giờ hết rằng truyện ngắn cĩ vị thế hơn hẳn tiểu thuyết. Vì lẽ đĩ, tìm hiểu mảng truyện ngắn của ơng cũng quan trọng khơng kém gì, nếu khơng nĩi là hơn, tiểu thuyết. Đồng thời trong mảng truyện ngắn của ơng, chúng tơi đặc biệt lưu ý mảng truyện ngắn kỳ ảo vì ba lẽ sau: Thứ nhất, mảng truyện ngắn kỳ ảo chiếm đa số trong tổng thể truyện ngắn của Marquez. Theo khảo sát của chúng tơi ở bảng 03, nhĩm này cĩ số lượng 23/41 chiếm 56%. Thứ hai, trong các hợp tuyển, truyện ngắn kỳ ảo của Marquez cũng chiếm đa số so với truyện ngắn nghiêm ngặt (Bảng 3) 15 truyện ngắn kỳ ảo /19 hợp tuyển chiếm 79%. Thứ ba, do sở thích của bản thân người viết. Truyện ngắn kỳ ảo của Marquez đặc biệt thu hút chúng tơi vào những thế giới nghệ thuật kỳ ảo như cổ tích nhưng lại hiện đại một cách rõ ràng và đầy ý nghĩa. Thứ đến, đề tài này cịn gắn với thực tế văn học Việt Nam đương đại. Cĩ thể nhận thấy từ sau năm 1986, yếu tố kỳ ảo bằng một con đường khác đã bắt đầu quay trở lại một cách đáng chú ý trong nền văn học Việt Nam với một sức sống tươi mới, ham mê cái lạ và cả dũng khí lật lại các vấn đề những tưởng đã ổn thỏa. Từ những Đêm bướm ma, Truyện khơng nên đọc lúc giao thừa… cịn trích lại nhiều tác phẩm thời trung đại, người đọc trong nước dần tiếp xúc với các tập truyện kỳ ảo đương đại như Hồn hoa trở lại, Hồn hoa đêm tháp cổ, Truyện kỳ ảo thế giới (NXB Văn hĩa, HN, 1999), Truyện ngắn kinh dị (NXB Văn hĩa, Hà Nội, 1997), Truyện dị thường (NXB VHTT, 2002),… Vì thế, nghiên cứu mảng văn học kỳ ảo trở thành một nhu cầu tất yếu; đề cập đến yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của Marquez, chúng tơi hy vọng phần nào đáp ứng được mối quan tâm này. Hơn nữa, hiện nay việc đưa Văn học Mỹ Latin và tác giả Marquez vào chương trình giáo dục Đại học chỉ mới ở khâu chuẩn bị, đồng thời nền văn học nổi bật này vẫn chưa cĩ được chỗ đứng xứng đáng ở chương trình trung học phổ thơng. Vì thế, tiến hành đề tài trong mối quan hệ với hoạt động giáo dục, chúng tơi hướng đến việc nhấn mạnh khu vực văn học này cũng như bộ phận sáng tác được chính Marquez ưu ái- truyện ngắn- trong việc xây dựng chương trình và giảng dạy văn học trong nhà trường phổ thơng cũng như đại học ngành Văn học. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2.1 Về ấn phẩm Đối tượng chúng tơi xác định là truyện ngắn của Marquez. Theo phát biểu của Marquez trước đây [50,604] thì ơng cĩ 38 truyện ngắn, tuy nhiên theo khảo sát của chúng tơi (bảng 1 và 2) thì ơng cĩ khơng dưới 40 truyện ngắn. Sử dụng tiêu chí yếu tố kỳ ảo, chúng tơi lọc ra được 23 truyện ngắn phù hợp. Như vậy, về đối tượng chúng tơi khảo sát 23 truyện ngắn kỳ ảo của Marquez. Về văn bản, trong 23 truyện ngắn này thì 20 truyện ngắn đã cĩ bản tiếng Việt, chủ yếu là do Nguyễn Trung Đức dịch. Chúng tơi sử dụng bản Gabriel Garcia Marquez- Mười hai truyện ngắn phiêu dạt [52] và Gabriel Garcia Marquez- truyện ngắn tuyển chọn [53] của Nguyễn Trung Đức tuy nhiên khi cần cĩ những tham khảo và đối chiếu với nguyên bản, chúng tơi sử dụng ba văn bản: Ojos de perro azul [78], Todos los cuentos 1947-1972 [79] và Doce cuentos Peregrinos [80] đồng thời dựa vào các văn bản này để dịch hai tác phẩm Nỗi cay đắng của ba người mộng du và Bên kia cái chết. Truyện ngắn Chết ở Samarra là một ví dụ trích trong quyển tiểu luận Làm sao để viết truyện ngắn của Marquez xuất bản năm 1955 ở Bogota. 2.2 Về phương diện nghiên cứu Trước hết chúng tơi tập trung vào khái niệm yếu tố kỳ ảo và mối liên hệ của nĩ với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, đặt vào bối cảnh sáng tác và mơ hình quan niệm của Marquez. Thứ đến, chúng tơi tiến hành tìm hiểu hệ thống các phương diện thể hiện yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của G.G.Marquez bao gồm loại hình nhân vật, khơng gian thời gian nghệ thuật, biểu tượng và cấu trúc truyện ngắn. Vì thế, chúng tơi thống nhất tên đề tài là “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez.” 3. Lịch sử vấn đề Trong phần này, chúng tơi khảo sát một số cơng trình cĩ liên quan đến đề tài theo hai mảng chính: cái kỳ ảo và truyện ngắn Marquez. 3.1 Về cái kỳ ảo Đây là thuật ngữ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Chúng tơi sẽ làm rõ khái niệm này ở chương 1, trong phần này chúng tơi chỉ đề cập một số ý kiến và quan điểm chính của các nhà nghiên cứu. Khái niệm cái kỳ ảo đã được thảo luận nhiều nhưng tập trung nhất là thơng qua ý kiến của Todorov từ những năm 1970 trong cơng trình Dẫn luận về văn chương kỳ ảo [70]. Theo ơng, cái kỳ ảo là “sự kiện khơng thể giải thích được bằng những quy luật của chính cái thế giới quen thuộc này” [70,34]… Người cảm nhận sự kiện phải lựa chọn một trong hai giải pháp: hoặc đây chỉ là ảo ảnh của giác quan, một sản phẩm của tưởng tượng và những quy luật của thế giới này vẫn vậy; hoặc quả thật sự kiện đã diễn ra, nĩ là bộ phận của tồn bộ thực tế, nhưng bây giờ thực tế ấy lại được điều hành bởi những quy luật mà chúng ta khơng biết… Cái kỳ ảo chiếm lĩnh thời gian của sự mơ hồ ấy: tới khi chọn lấy một trong hai giải đáp, ta đã rời bỏ cái kỳ ảo để đi vào một thể loại cận kề, cái lạ hoặc cái thần tiên. Cái kỳ ảo đĩ là sự lưỡng lự cảm nhận bởi một con người chỉ biết cĩ các quy luật tự nhiên, đối diện với một hiện tượng bên ngồi mang tính siêu nhiên. Cĩ thể khái quát ý kiến về cái kỳ ảo của Todorov như sau: Thực- ảo Thực Lưỡng lự Ảo Lạ Kỳ ảo Thần tiên Todorov xác định sự lưỡng lự của độc giả là điều kiện thứ nhất của cái kỳ ảo, sau đĩ thứ hai là độc giả hĩa thân và đồng nhất với nhân vật lưỡng lự, cuối cùng là phải tồn tại một lối đọc khơng theo lối thơ hoặc ngụ ngơn. Như vậy, văn học kỳ ảo hay cái kỳ ảo muốn đạt chân giá trị của nĩ thì phải được duy trì để khơng thối hĩa thành chuyện đời thường hay thần thoại, ngụ ngơn. Điều này cĩ nghĩa là cái kỳ ảo nằm trong một độ căng nhất định mà vị thế của nĩ khơng phải là khơng bấp bênh, nhưng Todorov chấp nhận điều đĩ. Vì giải thích sẽ dẫn đến tiêu vong cái kỳ ảo, thế nên Todorov chủ yếu đưa ra các đề tài về tơi, về mình… Về tơi, hệ đề tài này cĩ nguyên lý ở thế khả năng biến đổi từ tinh thần sang vật chất (đĩ là biến hĩa, quyết định luận), xĩa nhịa chủ thể và đối tượng, tạo nên cái nhìn thống hợp. Về mình, hệ thống này hiện lên với đề tài tính dục và vì thế nĩ chủ yếu mang tính chất kỳ lạ xã hội chứ khơng cịn siêu nhiên nữa: loạn luân, tình yêu hơn một đơi, đồng giới, ân ái với xác chết,… Cĩ thể thấy ý kiến của Todorov đã hạn định yếu tố kỳ ảo khá hẹp, chủ yếu là trong văn học cận đại, chính xác hơn là khi ý thức về cái kỳ ảo đã được định hình và người ta buộc phải chấp nhận yêu cầu khá kiêu kỳ của cái kỳ ảo đặt ra cho sự tồn tại của mình. Bởi lẽ, cái kỳ ảo sẽ mất đi nếu được giải thích, cĩ nghĩa là trong khi bản thân địi hỏi một quyết định luận tự thân thì nĩ lại từ chối một quyết định dù là khiêm tốn nhất từ phía người đọc. Vì vậy, tuy cĩ đề cập đến phương diện ngữ nghĩa của tác phẩm nhưng Todorov phải đẩy việc giải thích ý nghĩa theo hướng khác đĩ là hướng chỉ ra hệ đề tài dù rằng việc này khơng thể nào che giấu chúng ta rằng đĩ cũng là một dạng giải thích, tuy cĩ khác biệt là thay vì xác quyết một ý nghĩa cho từng trường hợp cụ thể ơng quy tất cả thành một cái khung ta- mình để bao quát hết các ý nghĩa nhân sinh liên quan đến cá nhân và cộng đồng. Thật ra, điều này cũng khơng phải là trở ngại lớn trong việc phân tích truyện ngắn Marquez khi ít nhiều vẫn phải chỉ ra những lớp ý nghĩa văn hĩa xã hội, bởi lẽ, thứ nhất, người đọc đã khơng tách khỏi tính chất kỳ ảo mà vẫn ở trong đĩ, nĩi chung vẫn duy trì nĩ. Thứ hai, cĩ thể hiểu ý nghĩa đĩ như một bộ phận trong tổng thể- đĩ là tổng thể đa nghĩa nhưng khơng phải theo kiểu nhiều nghĩa mà nghĩa nào cũng đúng nhưng phải hiểu là một nghĩa duy nhất đúng nhưng khơng thể giải thích rốt ráo vì rào cản hạn chế ngơn ngữ cũng như tư duy, tuy nhiên soi vào lăng kính thì sẽ tạo nên những nét nghĩa gần đúng. Nhờ đĩ, điều này cĩ thể duy trì cái kỳ ảo. Trên tinh thần lý giải cái kỳ ảo theo hướng Todorov, John Gerlach trong bài viết The logic of Wings: Garcia Marquez, Todorov, and the Endless resources of Fantasy [87, 81-90] thơng quan phân tích tác phẩm Cụ già với đơi cánh khổng lồ của Marquez đã chứng minh rằng: “Cái kỳ ảo khơng nhất thiết phải gắn chặt với đề tài mà cĩ thể được tạo ra ở bất kỳ thời kỳ nào, độc lập đối với đề tài.” Ơng cho rằng vì cái kỳ ảo được tạo ra từ sự lưỡng lự của người đọc và nhiệm vụ của người đọc là phản tư khơng phải bản thân cái kỳ ảo mà là chu trình của nĩ, nhờ đĩ cái kỳ ảo khơng bao giờ kết thúc, nĩ đã, đang và sẽ là một tiến trình nên sẽ khơng bị quy áp vào bất kỳ một khuơn mẫu nào. Cùng một đề tài và đối tượng, Vera M. Kutzinsky trong bài viết The logic of the Wings: Gabriel Garcia Marquez and Afro-American literature [87, 169-182] thơng qua việc chứng minh mối liên hệ của sáng tác Marquez với những yếu tố thuộc nền văn hĩa châu Phi đã lý giải thái độ giải thiêng đối với cái kỳ ảo hiện đại. Đĩ là quá trình thối hĩa của yếu tố thiêng mà người hiện đại thể hiện trong việc tri nhận thế giới và tiếp nhận văn chương. Ngồi ra các cơng trình khác như: Luận văn thạc sĩ Borderlands of Magical Realism: Defining Magical Realism found in popular and children’s literature của Ashley Carol Wills tại đại học bang Texas -San Marcos vào tháng 12 năm 2006; bài viết của Christopher Warnes: Naturalizing the Supernatural: Faith, Irreverence and Magical Realism [108] hướng đến phân biệt vấn đề niềm tin và sự bất kính trong quá trình hành chức của văn bản đã phần nào lý giải cái kỳ ảo như bộ phận trọng tâm của khuynh hướng trộn lẫn những yếu tố kỳ ảo với đời thường trong sáng tác văn học; bài viết El realismo mágico. Conceptos, rasgos, principios y métodos [77] của María Achitenei trình bày phương pháp, nguyên tắc, đặc điểm và khái niệm chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, bài viết From Realism to Magic Realism: the Meticulous modernist fictions of Garcia Marquez [87,227-242] của Morton P. Levitt trình bày tính sáng tạo của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo trong sáng tác của Marquez; Prisms of Consciousness: The “New Worlds” of Colombus and Garcia Marquez [87,243-256] của Micheal Palencia- Roth bàn về lăng kính tri nhận về tân thế giới của Colombus và Marquez; chuyên luận Image and symbols: Studies in Religious symbolism,… cũng đã bước đầu gĩp phần cung cấp một bức tranh khái quát về cái kỳ ảo trong văn chương. Về phía các cơng trình trong nước, Lê Nguyên Cẩn với Cái kỳ ảo trong tác phẩm của Balzac [13] đã vạch ra những điểm khái quát nhất về cái kỳ ảo. Về bản chất, ơng dùng thuật ngữ Le fantastique từ tiếng Pháp để minh định thuật ngữ cái kỳ ảo: “Như vậy, cái kỳ ảo là một phạm trù tư duy nghệ thuật, nĩ được tạo ra nhờ trí tưởng tượng và được biểu hiện bằng các yếu tố siêu nhiên, khác lạ, phi thường, độc đáo… Nĩ cĩ mặt trong văn học dân gian, văn học viết qua các thời đại. Nĩ tồn tại trên trục thực- ảo, và tồn tại độc lập, khơng hịa tan vào các dạng thức khác của trí tưởng tượng” (tr.16). Ơng xem cái kỳ ảo như một yếu tố nghệ thuật xuất phát từ trí tưởng tượng. Nĩ như một vết đứt gãy, đảo lộn trong trần thuật đưa người đọc sang một thế giới khác. Lê Nguyên Cẩn đã đưa ra 11 đề tài kỳ ảo của Roger Caillois, sau đĩ là 23 đề tài kỳ ảo của M.Schneider, chủ yếu tập trung vào các motif và nhân vật; đồng thời ba nhĩm đề tài kỳ ảo của Dan Pavel Sergiu cũng được ơng trình bày khá kỹ lưỡng. Cĩ thể nhận thấy, tác giả Lê Nguyên Cẩn chấp nhận cái kỳ ảo tồn tại từ xa xưa trong bất cứ nền văn học dân tộc nào dưới những hình thức được phân theo cấp độ: thần linh, quái dị, ma quỷ, khác lạ, phi thường, siêu nhiên. Những cấp độ này tùy thuộc vào ý đồ sáng tạo ra sự đa dạng về mặt hình thức đề tài [Sđd,29]. Yếu tố niềm tin cũng được ơng nhắc đến khi thẩm định cái kỳ ảo (điều này đã được Todorov giải quyết khá rõ). Như vậy, căn cứ trên ý đồ tác giả, Lê Nguyên Cẩn đã khơng giải thích rõ sự khác biệt về tính chất của cái kỳ ảo trong diễn trình của nĩ. Ví dụ như độ lệch của vết đứt gãy này thuần túy là trí tưởng tượng hay cĩ thể ghi nhận sự tham gia của yếu tố niềm tin, đặc biệt trong các nền văn học cổ xưa; hay vết đứt gãy này là vi phạm với tư duy sáng tác hiện đại vì nĩ phá vỡ các quy luật cịn chặt chẽ và bất biến. Vậy vai trị của nĩ với tư duy cổ đại là phá vỡ hay chính là tác thành quy luật?... Vì thế, tác giả cĩ khuynh hướng khái quát hĩa và đặt trọng tâm ở các đề tài. Rõ ràng, về lý thuyết, Lê Nguyên Cẩn tạo một độ rộng cho khái niệm cái kỳ ảo và khẳng định nĩ như sự tưởng tượng cĩ ý thức sáng tạo nghệ thuật là khá táo bạo, đặc biệt khi chúng ta đem áp dụng cho các tác phẩm thần thoại cổ xưa, hay Liêu Trai Chí Dị của Bồ Tùng Linh. Tuy nhiên, khi ứng dụng, tác giả chủ yếu vận dụng khái niệm cái kỳ ảo như một thành tố nghệ thuật xuất hiện khi được ý thức đầy đủ, điều này hiển nhiên do quy định của đề tài, đối tượng hướng đến là cái kỳ ảo của Balzac. Cái kỳ ảo này chủ yếu ở phương diện hình thức, mục tiêu của nĩ khơng gì khác hơn là khái quát hiện thực, mà nhiều khi bản thân cái kỳ ảo nếu bị tách rời thì cốt truyện vẫn khơng cĩ gì thay đổi (những chuyện lạ xảy ra trong Tấm da lừa đều cĩ cơ sở thực tế của nĩ), bởi nĩ là hình ảnh tập trung thể hiện một đối tượng xuyên suốt trong Tấn trị đời- đĩ là dục vọng, cái kỳ ảo là một lớp áo khác khái quát mọi dạng thức dục vọng nhân sinh, cái kỳ ảo này cĩ lẽ đi trên con đường của biểu tượng. Lê Huy Bắc trong cơng trình Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và Gabriel Garcia Marquez [8] đã tổng kết và trình bày các vấn đề về cái kỳ ảo- đúng hơn là cái huyễn ảo. Lê Huy Bắc xác định văn học kỳ ảo chỉ mới xuất hiện cùng thời hoặc phát triển xa hơn văn học lãng mạn và về bản chất thì những truyện thần thoại mang tính chất kỳ ảo khác với cái được gọi là văn học kỳ ảo sau này. Theo đĩ, ơng dùng thuật ngữ văn học huyễn ảo để bao quát các dạng thức văn học thần ma, gơ tích, kinh dị, ma quỷ, phi thường, siêu nhiên, kỳ ảo và huyền thoại. Văn học huyễn ảo xuất hiện từ khi con người biết sáng tác văn chương tuy nhiên nĩ là một trào lưu chứ khơng thể là một thể loại theo đúng cấu trúc sau [8,15]: Văn học Văn học khơng hư cấu Văn học hư cấu Loại hình (kind) Tự sự Kịch Trữ tình Thể loại (genre) Tiểu thuyết Truyện ngắn Sau đĩ, Lê Huy Bắc trình bày các giai đoạn của văn học huyễn ảo như sau: TT Thời gian Đặc điểm Tên gọi Tác giả Quan niệm về cái huyễn ảo Thái độ về cái huyễn ảo 1 Cổ đại- thế kỷ XIII Cái huyễn tưởng (the mythical) Thần thoại, cổ tích Khuyết danh Ma quỷ, siêu nhiên, thần bí,… là ta Khơng sợ 2 Thế kỷ XIV- Cái kỳ ảo (the Văn học kỳ Shakespeare, Hoffmann, Ma quỷ, siêu nhiên, thần Sợ hãi XIX fantastic) ảo Poe, Balzac bí,… khơng phải là ta 3 Thế kỷ XX- nay Cái huyền ảo (the magical) Văn học huyền ảo Kafka, Borges, Marquez Ma quỷ, siêu nhiên, thần bí,… vừa là ta vừa khơng phải là ta Vừa sợ vừa khơng sợ Cĩ thể thấy hệ thống của nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc khá rõ ràng và mạch lạc, khái niệm huyễn ảo đã bao quát được các dạng thức mà những nhà nghiên cứu trước đây ít nhiều đề cập đến ở nhiều chừng mực, mức độ. Việc xác định khung thời gian, đặc điểm và quan niệm là một hướng đi hợp lý nhằm minh định khái niệm trong lĩnh vực khá mơ hồ là nghiên cứu văn chương huyền ảo (hay huyễn ảo). Vì những điều này, chúng tơi cơ bản thống nhất với ý kiến của nhà nghiên cứu Lê Huy Bắc và khái niệm chúng tơi triển khai về sau cũng dựa trên khung quy định đã được ơng thể hiện. Tuy nhiên, chúng tơi vẫn giữ lại thuật ngữ cái “kỳ ảo” thay vì cái “huyễn ảo” dù nội hàm và ngoại diên của chúng, trong luận văn này, là tương đương. Như vậy, thơng qua các cơng trình này, chúng tơi nhận được những hệ thống luận điểm và hướng dẫn quý giá về cái kỳ ảo; từ đĩ chúng tơi cố gắng vận dụng vào luận văn với ý thức hạn định lại cách hiểu của mình trong những chiều hướng tương đồng cũng như cĩ phần dị biệt với những khái niệm đã được đề cập ở trên, cần thiết phải bàn luận kỹ hơn về khái niệm này và chúng tơi sẽ dành cơng việc đĩ cho chương 1. 3.2 Về truyện ngắn của Gabriel Garcia Marquez So sánh với tiểu thuyết, cĩ thể thấy truyện ngắn của Marquez ít được chú ý hơn từ phía các nhà nghiên cứu. Thơng qua khảo sát, chúng tơi chia mối quan tâm đến truyện ngắn của Marquez từ các cơng trình, bài viết thành hai mảng là nội dung và nghệ thuật với ý thức là sự phân chia này chỉ mang tính phương tiện. Thứ nhất, về mảng nội dung, chúng tơi lưu ý đến cơng trình của Frances M. Reece Nickeson. Trong luận văn El budismo y el cuento hispanoamericano tại đại học trung tâm bang Connecticut New Britain tháng Giêng năm 2007 [83], tác giả đã phân tích các tác phẩm nổi bật nhất của Marquez theo Phật học, chỉ ra kỹ thuật mảnh vỡ, phát triển tuyến tính được ví với trạng thái Thiền, buơng bỏ mọi vướng mắc để hướng đến tự do. Ơng khẳng định: “Cĩ lý do chính đáng để dùng yếu tố kỳ ảo khi thể hiện cuộc đời và kinh nghiệm về cuộc đời đĩ, nơi mà con người cảm nhận hai thái cực, cơ đơn trong tiến trình của Châu Âu, cơ độc trong cuộc sống thuần túy, những vị thần cơ đơn của điều thiện, của khả thể và bất khả”. Sau khi trình bày Trăm năm cơ đơn từ khía cạnh từ bi, san sẻ để vượt qua nỗi cơ đơn bởi lẽ con người chú trọng đến bản thân mình thì nỗi cơ đơn và chịu đựng càng nặng nề nên phải vượt qua cái tơi, cái ngã- hướng đến vơ ngã, tác giả trình bày 05 truyện ngắn riêng lẻ và tập Mười hai truyện ngắn phiêu dạt của Marquez với những luận điểm chính như sau: Buổi chiều kỳ diệu của Balthazar ca ngợi thái độ buơng xả, phi vật chất của con người; Bà quả phụ Montiel đề cập đến cái chết của ơng Montiel, người đã làm giàu trong thời kỳ biến loạn, người ta sợ ơng nhưng khi chết thì chẳng đem theo được gì và rút ra con người là cát bụi; Ơng lão cĩ đơi cánh khổng lồ đề cập đến cái nhìn mang tính vật chất trần gian của con người. Hai vợ chồng này tích lũy cho đầy nhà tiền bạc và nhẹ người khi ơng lão bay đi- họ khơng nhận ra giá trị của ơng lão- đĩ là người hướng dẫn tâm linh, ơng như hành giả, đến và ra đi trong cuộc đời; Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma nĩi về người thanh niên trong cuộc chinh phục con tàu ma. Đĩ là lịng nhân ái hướng đến tất cả chúng sinh. Hành động dẫn con tàu về làng của anh như một nhà triết học, người khai sáng, như một Bồ Tát thắp lên ánh sáng xĩa tan Vơ minh cho cả làng; Giấc ngủ trưa ngày thứ ba đề cập lịng từ bi đối với tha nhân; và Mười hai truyện ngắn phiêu dạt thể hiện mối quan hệ cái thực và ảo trong thế bất nhị, đĩ là “Những câu chuyện lướt đi giữa cuộc sống đời thường và kỳ ảo, những điều lạ lùng và những điều huyền ảo, nĩ như trục đường đi giữa thực và ảo nhưng khơng ngã về bên này hay bên kia, đĩ chính là trạng thái thiền”. Cĩ thể nĩi cơng trình này tiếp cận truyện ngắn Marquez theo một hướng nhìn mới khá lý thú. Trong khi thực tế cũng như lý luận đều quan tâm đến ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo đối với Mỹ Latin thì tác giả lại dùng Phật học. Thơng qua đĩ, chúng tơi nhận thấy một thơng lộ mới và mạnh dạn mở rộng những so sánh liên tưởng đến yếu tố kỳ ảo cũng như truyện ngắn của Marquez trong hồn cảnh tiếp xúc đa phương, đa diện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Bên cạnh đĩ, nhiều bài viết trong tập Modern critical views- Gabriel Garcia Marquez của Harold Blom đã chạm đến những vấn đề sâu sắc của truyện ngắn Marquez. Các tác giả Lois Parkinson Zamora, John Gerlach, Vera M.Kutzinsky, Isabel Alvarez-Borland, Carlos J.Alonso… đã thơng qua phân tích các truyện ngắn cụ thể như Cụ già với đơi cánh khổng lồ, Khơng ai viết thư cho ngài đại tá, Đám tang của bà mẹ vĩ đại,… chỉ ra nhiều vấn đề về nhân sinh quan, về thực tế chính trị, về những dấu ấn của William Faukner trong sáng tác của Marquez. Ruben Pelayo trong Critical Companion to popular contemporary writers- Gabriel García Marquéz [105] đã dành phần 5 nĩi về truyện ngắn Marquez. Ơng khảo sát 05 truyện ngắn gồm: Ơng lão cĩ đơi cánh khổng lồ, Đám tang của bà mẹ vĩ đại, Buổi chiều kỳ diệu của Balthazar, Giấc ngủ trưa ngày thứ ba, Độc thoại của Isabel ngắm mưa ở Macondo. Tác giả đã chỉ ra Ơng lão cĩ đơi cánh khổng lồ sáng tác năm 1968, sau Trăm năm cơ đơn, đã cĩ sự chuyển tiếp khác biệt, hướng vào vấn đề mới hơn so với hai tập truyện in trước đĩ là Đơi mắt chĩ xanh và Đám tang của bà mẹ vĩ đại, tiếp cận với tập truyện Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira và người bà bất lương. Đĩ là khuynh hướng về khai thác và bĩc lột cá nhân, đồng thời hình tượng biển bất tận bắt đầu xuất hiện. Elodie Morin trong Alteridad y muerte en Ojos de perro azul đã bàn đến sự thay thế tiếp nối- tức các giấc mơ và cái chết trong tập Đơi mắt chĩ xanh của Marquez. Tác giả nhấn mạnh sự cơ đơn về thể chất lẫn tinh thần của con người trong nỗ lực xác định bản thể và nỗi sợ hãi khi quá trình phản tư lại tách bản thân làm hai nửa khơng thể nào thống hợp, đến được với nhau… Về nghệ thuật truyện ngắn Marquez, chúng tơi lưu ý đến tác phẩm của Maythawee Holasut. Trong bài viết The Suspension of Time in Short Stories of Gabriel Garcia Marquez [103] tác giả đã trình bày kỹ thuật ngưng đọng thời gian, mối quan hệ của nĩ đối với chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và phong cách Marquez. Nhờ thủ pháp này mà truyện ngắn Marquez đã cung cấp được một cái nhìn sâu vào những thay đổi chính trị, lịch sử của khu vực Mỹ Latin thơng qua sự kết hợp giữa biến cố hiện thực và bối cảnh kỳ ảo, tạo ra một cảm quan kỳ ảo kết nối tâm hồn khu vực này với những niềm tin vào các thế lực siêu nhiên. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo thơng qua truyện ngắn Marquez đã thể hiện sức mạnh của mình trong quá trình phản ánh các sự kiện hiện thực như thuộc địa hĩa, độc tài quân sự cũng như ảnh hưởng của chúng đến lịch sử các đất nước và khu vực. Nghệ thuật đình chỉ thời gian cĩ thể tạo ra một kiểu thời gian quy hồi,… Cĩ thể nhận thấy những vấn đề nghệ thuật truyện ngắn Marquez thường ít khi được tách riêng mà được trình bày gắn kết vào các vấn đề nội dung trong các cơng trình nêu trên. Ví dụ như John Gerlach đã đề cập đến thủ pháp so sánh, cách đặt tựa đề và cơ cấu đoạn kết trong truyện ngắn Cụ già với đơi cánh khổng lồ nhằm làm rõ tính chất kỳ ảo của đơi cánh; hay Vera M.Kutzinski đã phân tích hình tượng ơng lão biết bay để chỉ ra sự nối kết về văn hĩa trong truyện ngắn vừa nêu của Marquez,… Tại Việt Nam, số lượng các cơng trình, bài viết về Marquez nĩi chung và truyện ngắn Marquez nĩi riêng, trong giới hạn tập trung của chúng tơi, chưa thực sự phong phú. Điều này cĩ lẽ là kết quả của thực tế Marquez vẫn chưa phải là tác giả được giảng dạy trong chương trình đại học, cao đẳng lẫn phổ thơng. Trong tình hình đĩ, chúng tơi chú ý đến những bài viết của dịch giả, nhà nghiên cứu Nguyễn Trung Đức về các vấn đề liên quan đến nội dung truyện ngắn Marquez. Nguyễn Trung Đức là người cĩ nhiều đĩng gĩp cho quá trình đưa Marquez đến với người đọc Việt Nam. Ngồi hệ thống tác phẩm của Marquez, ơng cịn viết những bài phê bình và giới thiệu về tiểu sử tác giả, chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và về truyện ngắn Marquez. Về truyện ngắn, bài giới thiệu viết trong tập Ngài đại tá chờ thư do NXB Văn học in năm 1983 cĩ thể xem là viên đá gĩc tường dẫn dắt và định hướng cho nhiều cơng trình nghiên cứu, trong đĩ cĩ luận văn này. Ơng đã nêu lên cảm quan về “ngày khải huyền của xã hội tư bản phụ thuộc Mỹ Latin, một xã hội chậm phát triển và trì trệ, một xã hội đang sụp đổ và chính trong quá trình sụp đổ này, xã hội mới và kiểu người thích hợp với nĩ đang ra đời” [49,5]. Đồng thời ơng cũng chia truyện ngắn Marquez làm hai nhĩm: nhĩm truyện ngắn hiện thực nghiêm ngặt và nhĩm truyện ngắn hiện thực huyền ảo với các đặc điểm như chứa các hiện tượng thuộc đời sống ý thức ở trình độ trực quan, tiền logic; kết hợp cảm quan của người nghệ sĩ và sức tưởng tượng của người đọc, kết hợp các loại khơng gian thời gian thực và tâm lý… Bài viết Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của G.Máckét qua Chuyện buồn khơng thể tin được của Êrênhđira ngây thơ và người bà bất lương [22] của ơng đã vạch ra những nét khái quát nhất của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và vận dụng vào phân tích truyện ngắn Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương, qua đĩ làm rõ sự áp bức của dạng người thú đối với những con người cơng cụ như Erendira đáng thương,… Với các cơng trình trong nước bàn về nghệ thuật truyện ngắn Marquez, bài viết của Lê Huy Bắc Tự sự nhiều điểm nhìn trong “Cụ già với đơi cánh khổng lồ” [8, 135-153] đã nêu lên được một điểm quan trọng về xây dựng cấu trúc truyện ngắn- điểm nhìn. Thơng qua đĩ tác giả đã chỉ ra hai lớp điểm nhìn: điểm nhìn trực tiếp bao gồm các loại: tơn giáo, nhà buơn, nghệ sĩ, võ biền, bè bạn, khoa học và điểm nhìn gián tiếp gồm dạng độc tài, quan liêu và bạo lực; từ đĩ khái quát ý nghĩa những gĩc nhìn đến quá trình tri nhận tác phẩm và cuộc đời. Bên cạnh đĩ, bài viết Quan niệm về nghệ thuật kể chuyện của Gabriel Garcia Marquez qua các truyện ngắn của Võ Thành Thắng [67] cũng đã nêu lên được nhiều vấn đề thú vị trong truyện ngắn của Marquez như cách kể chuyện bằng các tính từ và thủ pháp lạ hĩa, cách nhìn trong sáng của một đứa trẻ thể hiện qua những so sánh nhất, khẳng định phủ định tuyệt đối, phép so sánh nhân hĩa,… Tĩm lại, vấn đề yếu tố kỳ ảo và truyện ngắn Marquez bước đầu đã được chú ý. Các cơng trình và bài viết đã trình bày nhiều mảng khác nhau của vấn đề, cĩ ở đĩ những khơi gợi nhưng cũng khơng ít những mâu thuẫn, tồn tại song song những cơ hội và thách thức. Ý thức được điều đĩ, chúng tơi tiếp thu những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trước với tất cả sự cầu thị để thực hiện đề tài này. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn này, chúng tơi chủ yếu sử dụng ba phương pháp văn hĩa- lịch sử, phân tích cấu trúc và so sánh- đối chiếu. Ý thức được những tác nhân văn hĩa và lịch sử đối với sáng tác của một nhà văn, đồng thời quá trình tìm hiểu tác phẩm nếu khơi ngược lại đúng nguồn mạch này sẽ thu được một kết quả khả quan. Vì thế, chúng tơi vận dụng phương pháp văn hĩa- lịch sử và đây là phương pháp chính chúng tơi đặc biệt quan tâm. Trường hợp Marquez, chúng tơi lưu ý đến lịch sử châu lục và Colombia từ đĩ vận dụng chủ nghĩa lịch sử mới vào luận văn. Chủ nghĩa lịch sử mới giúp chúng tơi đẩy vấn đề theo hai hướng: xem xét cái tơi chủ thể đồng thời gắn được những yếu tố văn hĩa năng động vào nghiên cứu văn học. Trong giới hạn luận văn, chúng tơi vận dụng lịch sử chính trị của Mỹ Latin vào việc xác lập khơng gian nghệ thuật trong truyện ngắn kỳ ảo của Marquez, vận dụng triết học Mỹ Latin vào lý giải những hình tượng nhân vật của tác giả và các mảng văn hĩa là để lý giải hệ thống biểu tượng của nhà văn. Tất nhiên những vận dụng này hịa quyện vào nhau nhằm khái quát những nét cơ bản nhất cũng như xuyên suốt những vấn đề trọng tâm mà chúng tơi hướng đến. Đồng thời, chúng tơi cịn vận dụng phương pháp phân tích cấu trúc. Phương pháp này giúp tìm ra hướng liên kết các thành phần của truyện ngắn trong mối quan hệ với yếu tố kỳ ảo. Đằng sau những hình tượng, biểu tượng và cấu trúc, dường như cĩ một mơ hình chung từ phía tác giả chi phối, tạo nên một đường dây ngầm trong truyện ngắn nĩi riêng và các sáng tác nĩi chung. Mơ hình này chi phối mặt hình thức văn bản nhưng bản thân nĩ phải mang tính tư tưởng. Điểm này sẽ được chúng tơi làm rõ ở chương 2. Vấn đề ở đây là phương pháp cấu trúc cĩ thể giúp chúng tơi khảo sát và thao tác, lý giải bằng mơ hình quan niệm về con người và thế giới. Cũng bằng p._.hương pháp cấu trúc, chúng tơi tiến hành tìm hiểu cấu trúc truyện ngắn của Marquez trong mối quan hệ với yếu tố kỳ ảo ở chương 4. Trong phần này, chúng tơi phân rã truyện ngắn ra thành một mệnh đề, một tình thế rồi từ đĩ phát triển lên thành các truyện ngắn cĩ cấu trúc phức đa mệnh đề hoặc xếp chồng, mở rộng nhiều tình thế. Song song đĩ, truyện ngắn Marquez được khảo sát ở khâu đầu tiên và cuối cùng trong tương quan với cái kỳ ảo. Sau hết, phương pháp so sánh - đối chiếu cũng được vận dụng trong luận văn. Theo đĩ, cái kỳ ảo được chúng tơi so sánh qua ba giai đoạn nhằm làm rõ điểm tương đồng và khác biệt của dạng thứ ba- cái kỳ ảo hiện đại- đối với các dạng khác. Theo chúng tơi, cái kỳ ảo hiện đại là khái niệm trong tâm sẽ được dùng để triển khai tồn luận văn. Chúng tơi cịn vận dụng phương pháp này để so sánh các loại hình nhân vật, ba loại khơng gian để vừa chỉ ra đặc trưng khu biệt đồng thời cố gắng tìm ra hướng vận động của các đối tượng này. Phương pháp so sánh sẽ được vận dụng cả trong việc đối chiếu các dạng của biểu tượng trong chương 3 cũng như so sánh các nhĩm tác phẩm để chỉ ra các dạng cấu trúc như cấu trúc đơn và phức, cấu trúc tam đoạn luận,… 5. Mục đích nghiên cứu và đĩng gĩp của luận văn Triển khai luận văn này với đề tài “Yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Gabriel Garcia Marquez”, chúng tơi hướng đến các mục đích như sau: Thứ nhất, chúng tơi muốn nhấn mạnh rằng lịch sử văn học Mỹ Latin bắt nguồn từ những sáng tác truyền miệng, dân gian của người bản địa mà nổi bật nhất là của người Inca, Maya, Aztec. Bởi lẽ nhiều cơng trình nghiên cứu đều khẳng định rằng lịch sử và văn học Mỹ Latin bắt đầu từ khi người châu Âu xuất hiện vào thế kỷ XV: “The history of Latin America begins with its accidental discovery by Columbus in 1492, and continues with the subsequent colonies, revolutions, and forming of nations of the Twentieth Century. This history forms the foundation of the Latin American literary tradition, as well as Garc’a Márquez’ works” [87]. Tại Việt Nam, cơng trình cĩ tính nền tảng về văn học Mỹ Latin của Viện thơng tin Khoa học Xã hội tuy cĩ ý thức: nĩ cũng bao gồm cả sự thể hiện văn học của các nền văn minh người da đỏ đã phát triển cao bị chinh phục bởi người Tây Ban Nha [40,40] nhưng lại bắt đầu lịch sử văn học Mỹ Latin bằng thời kỳ thuộc địa với những sáng tác của các nhà thám hiểm phương Tây. Vì thế, trong khuơn khổ luận văn này chúng tơi muốn nhắc đến những sáng tác của người Inca, Maya khi liên hệ vào yếu tố kỳ ảo ở chương 1 cũng như dấu ấn anh hùng lưỡng tính ở rải rác các chương 2 và 3 với hy vọng khơi phục một bộ phận bị lãng quên của văn học Mỹ Latin. Thứ hai, hướng đến một cách hiểu về yếu tố kỳ ảo và vận dụng vào chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng là mục tiêu của chúng tơi. Hiện nay thuật ngữ cái kỳ ảo được hiểu trên nhiều cấp độ rộng hẹp khác nhau như chúng tơi đã trình bày trong phần lịch sử vấn đề. Đồng thời yêu cầu lý giải chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cũng được đặt ra cấp thiết. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo vốn là một thuật ngữ hội họa được chuyển sang dùng cho văn học châu Âu, sau đĩ lại trở thành đặc trưng của văn học Mỹ Latin, vậy bản chất của vấn đề này ra sao? Liệu chủ nghĩa hiện thực huyền ảo cĩ thể vận dụng cho văn học các nước châu Âu hay chỉ là của riêng Mỹ Latin. Thơng qua lý giải yếu tố kỳ ảo, chúng tơi hy vọng cũng cĩ thể tìm ra một hướng nhìn thơng suốt để lý giải vấn đề này ở chương 1 nhằm làm cơ sở lý luận để tiến hành tìm hiểu yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Marquez. Thứ ba, trên cơ sở khảo sát những thành phần như hình tượng nhân vật, khơng gian, thời gian và biểu tượng gắn với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của Marquez, chúng tơi hy vọng cĩ thể tìm ra đường dây liên kết các bộ phận này đặt trong tổng thể một cấu trúc truyện ngắn tương quan với yếu tố kỳ ảo. Bởi tương ứng với mơ hình quan niệm về con người và thế giới thì tất yếu sẽ cĩ một cấu trúc hình thức tương ứng. Tuy nhiên, vấn đề này cịn ở phía trước và sẽ được tiến hành ở chương 4. Ba mục đích trên, nếu viên thành, cĩ thể xem như đĩng gĩp của luận văn. 6. Cấu trúc của luận văn Luận văn này được chia làm ba phần: mở đầu, bốn chương nội dung chính và kết luận. Trong phần Mở đầu, chúng tơi giới thiệu những vấn đề mang tính dẫn nhập như lý do chọn đề tài, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, lịch sử vấn đề, phương pháp nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của luận văn, và cuối cùng là cấu trúc của luận văn. Đối với chúng tơi, lịch sử vấn đề và phương pháp nghiên cứu cĩ tầm quan trọng đặc biệt. Vì thế, trong mục lịch sử vấn đề, chúng tơi đã cố gắng bao quát, trong một chừng mực cĩ thể, các tư liệu liên quan ở trong và ngồi nước; đồng thời, tổng thuật cĩ phân tích một số điểm quan trọng nhằm bước đầu khơi gợi và chuẩn bị cho việc triển khai ý kiến của chúng tơi trong các chương nội dung chính. Đối với phương pháp nghiên cứu, chúng tơi đã lý giải lý do vận dụng ba phương pháp nghiên cứu chính trong luận văn: phương pháp lịch sử-văn hĩa, phương pháp phân tích cấu trúc và phương pháp so sánh đối chiếu. Phần nội dung chính gồm bốn chương: Yếu tố kỳ ảo – những vấn đề khái quát (chương một), Yếu tố kỳ ảo và hệ thống hình tương trong truyện ngắn G. G. Marquez (chương hai), Yếu tố kỳ ảo và biểu tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez (chương ba), và Yếu tố kỳ ảo và vấn đề cấu trúc truyện ngắn G. G. Marquez (chương bốn). Như vậy, trên cở sở những vấn đề chung của chương một, luận văn đã triển khai những phương diện khác nhau của truyện ngắn của G. G. Marquez liên quan đến yếu tố kỳ ảo. Đối với những vấn đề khái quát, luận văn, thơng qua việc xác định nội hàm và đặt yếu tố kỳ ảo vào diễn trình văn học, đã luận giải hai khái niệm cốt yếu: yếu tố kỳ ảo và chủ nghĩa hiện thực huyền ảo. Đồng thời, chúng tơi xác định yếu tố kỳ ảo như một phạm trù trung tâm trong chủ nghĩa hiện thực huyền ảo; từ đĩ, xác định khái niệm, tính chất của trào lưu văn học này và lưu ý đến tác giả nổi bật là Gabriel Garcia Marquez với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn của ơng. Trong Chương 2, luận văn khảo sát hệ thống hình tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez theo hướng xác định các dạng nhân vật, khơng gian và thời gian. Đây là những thành phần nổi bật nhất, cĩ vai trị định hướng và luận giải hệ thống truyện ngắn của Marquez . Về biểu tượng trong truyện ngắn G. G. Marquez (Chương 3), luận văn chú ý đến khái niệm, tính chất của biểu tượng và con đường vận hành của yếu tố kỳ ảo trở thành một biểu tượng. Từ đĩ, chúng tơi tiến hành khảo sát ba nhĩm biểu tượng cĩ mối liên hệ với yếu tố kỳ ảo trong truyện ngắn Marquez nhằm lý giải đặc điểm của bản thân hệ thống biểu tượng cũng như truyện ngắn hàm chứa các biểu tượng này, nghĩa là, chúng tơi nhìn yếu tố kỳ ảo và truyện ngắn theo hướng liên tưởng của các biểu tượng. Chương 4 tập trung vào vấn đề cấu trúc truyện ngắn G.G.Marquez là chương cuối cùng. Luận văn cố gắng xác định đặc điểm cấu trúc truyện ngắn kỳ ảo của Marquez trên diện cơ cấu với các khâu mở đầu, kết thúc của nĩ cũng như sự liên kết theo hướng cấu trúc trên các cấp độ khác nhau. Như vậy, chương này khảo sát truyện ngắn Marquez và yếu tố kỳ ảo trong tổng thể nhằm xác định những thành phần ổn định tạo nghĩa trong văn bản cũng như thể hiện mơ hình quan niệm của nhà văn trong sáng tạo văn chương. Phần Kết luận đề cập đến những kết quả của luận văn, kiến nghị cũng như đề xuất hướng nghiên cứu. Ngồi ra, luận văn cịn những mục khác như: Tài liệu tham khảo và Phụ lục. Trong mục Phụ lục, chúng tơi cung cấp thêm những dữ liệu liên quan đến đề tài, gồm bốn phần. Phần đầu giới thiệu những tác phẩm của Marquez - những sáng tác của ơng được chọn trong hợp tuyển cũng như những tác phẩm đã dịch sang tiếng Việt; phần hai tĩm tắt 23 truyện ngắn được khảo sát trong khuơn khổ luận văn, phần ba là bản dịch ba truyện ngắn kỳ ảo của Marquez do chúng tơi dịch từ tiếng Tây Ban Nha được dùng làm tài liệu khảo sát và phần bốn là một số bảng thống kê phục vụ quá trình tra cứu, luận chứng. Chương 1- YẾU TỐ KỲ ẢO- NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT 1.1 Văn học và yếu tố kỳ ảo Yếu tố kỳ ảo là một bộ phận của nền văn học nhân loại. Từ ngàn xưa, khi con người gắn bĩ, hịa mình vào tự nhiên và nhận thức bản thể, những mầm mống của yếu tố kỳ ảo đã ở đĩ và đĩn chờ họ trong mối tương tác đầy trực giác. Chính trong cuộc hội ngộ này, văn học được thúc đẩy bởi những sức mạnh vừa xa vừa gần, vừa rõ ràng vừa mơ hồ như thần khải, đã mải miết chảy và trở thành một trong những dịng chủ lưu đánh dấu chặng đường phát triển của con người. Từ những sáng tác ban đầu thể hiện niềm tin ngây thơ về bản chất thiêng liêng của vũ trụ, cái sợ hãi của con người trước các vị thần,… qua những sùng tín trên con đường hành hương về miền đất thánh mà thượng đế hứa ban, những ngại ngần của người dương gian trước yêu ma, hồ ly,... dần dần con người bắt đầu ý thức một cách đầy đủ hơn về cái kỳ ảo trong văn học. Đến khi các Thượng đế chết đi trong những chiếc ghế bành của ngài (chữ của Nietszche) thì con người phải đứng ra chịu trách nhiệm về bản thân mình và cái kỳ ảo đã trở thành cơng cụ quyền năng mà con người thể hiện trong văn học. Cuộc sống và văn học đồng hành, cùng chia sẻ những vấn đề và đặt ra các giới hạn cho con người. Giữa cái khả giải và bất khả giải luơn tồn tại những giới hạn mà con người phải cố gắng bước qua, khi chưa thể làm điều đĩ thì cái kỳ ảo trong văn học trở thành một giải pháp và điểm tựa cho con người, cĩ khi như một niềm tin, cĩ lúc như một thủ pháp. Rõ ràng cái kỳ ảo là sản phẩm của trí tưởng tượng và nĩ đã gặp được bạn đồng hành của mình là văn học- một hình thái ý thức xã hội bằng tư duy nghệ thuật, hạt giống lớn lên từ mảnh đất phì nhiêu của trí tưởng tượng phong phú. Vì thế, yếu tố kỳ ảo đã, đang và sẽ tồn tại trong văn học như một bộ phận khơng thể tách rời. Vai trị của yếu tố kỳ ảo trong nền văn học ngày càng trở nên quan trọng. Theo thời gian yếu tố kỳ ảo đã cĩ những biến đổi nhất định để thích nghi với văn học. Nĩi đúng hơn, người nghệ sĩ đã vận dụng yếu tố kỳ ảo theo những cách khác nhau nhằm đạt những mục đích của mình. Khi bơ vơ trước tự nhiên, con người đã đồng nhất bản thể vào thiên nhiên và hình thức hĩa các vị thần dưới sức mạnh của cái kỳ ảo. Ngay cả đến khi con người đề cao tuyệt đối lý trí thì cái kỳ ảo khơng mất đi mà vẫn âm thầm cảnh tỉnh, nhắc nhở nhân loại về những vấn đề hệ trọng của thế giới quan và nhân sinh quan; vẫn soi sáng con đường qua hỏa ngục, luyện ngục và thiên đàng của Dante; vẫn như một hồn ma day dứt về tội ác của Shakespeare,… Cái kỳ ảo càng trở nên quan trọng hơn trong văn học cận đại, hiện đại và hậu hiện đại, khi những chuẩn mực giá trị đặt trên viên đá tảng lý trí dần lung lay, con người hoang mang trước những tan vỡ thì càng khao khát bám lấy một bến bờ kỳ ảo đã quen thuộc tự xa xưa. Trên đồng dollar của đất nước hiện đại nhất thế giới người ta trang trọng in dịng chữ In God we trust, con người ngày nay đang dần sống lại những cổ tích, người ta dạy cho trẻ em tin vào những chuyện thần tiên, người lớn cố gắng tìm ra ước mơ trong hình bĩng Santa Claus, cả thế giới hồi hộp theo bước chân của cậu phù thủy Harry Potter… Chính trong cuộc sống bộn bề của hiện tại, người ta càng cần đến yếu tố huyền ảo trong văn học. 1.1.1 Yếu tố kỳ ảo Chúng tơi dùng khái niệm cái kỳ ảo trong mối tương quan so sánh giữa các thuật ngữ: myth, fantasy và magic. Trước hết, “myth” được hiểu là thần thoại, chuyện hoang đường tưởng tượng. Đĩ là câu chuyện kể về các vị thần trong cuộc sáng tạo thế giới và con người. Theo nhà nghiên cứu Đào Ngọc Chương trong cơng trình Phê Bình Huyền thoại [17], thần thoại hay huyền thoại gắn liền với tư duy huyền thoại; đĩ là cảm quan siêu tự nhiên khi người nguyên thủy và thế giới là một, chưa chia tách nhưng thể hiện ở hai cấp độ vĩ mơ và vi mơ khác nhau. Thứ cảm quan này kết nối con người và tự nhiên từ trong bản chất nhưng với mục đích phân biệt, con người bằng lời nĩi đã đặt tên và phân xuất cái ta ra khỏi cái khác bằng cách phĩng chiếu bản thân mình. Chính bản chất phổ quát tạo nên tính siêu tự nhiên là đặc trưng của myth- huyền thoại chứ khơng phải ở cách hình thức hĩa thành các vị thần. Thuật ngữ cái kỳ ảo được dịch từ “phantasia” trong tiếng Latin mang nghĩa điều tưởng tượng, về sau được hiểu như những hư huyễn, ma quỷ. Theo Lê Nguyên Long [44] thì: Về mặt từ nguyên học, chữ fantastic (tiếng Pháp: fantastique, tiếng Latin: phantasticus), xuất hiện trong tiếng Anh Trung cổ thế kỷ XIV, vốn cĩ nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp phantastikos, cĩ nghĩa là “tạo ra những hình ảnh thuộc về tinh thần”, chữ phantazein, nghĩa là “xuất hiện trong tâm trí”… Tiếp đĩ tác giả dẫn ý kiến của Allienne Backer trong bài giới thiệu tuyển tập nghiên cứu về cái kỳ ảo trong hội nghị thường niên lần thứ 15 tổ chức tại Florida của Hiệp hội cái kỳ ảo nghệ thuật quốc tế thì lý thuyết về cái kỳ ảo đến tận thế kỷ XIX mới hình thành do người Pháp dịch tác phẩm của nhà văn Đức Hoffmann vào năm 1828. Trong khi Hoffmann cho rằng tác phẩm của mình là hồn tồn hư ảo: fantasy, thì do cách dịch của Contes: fantastique, đã định hình một thể loại văn học. Trước đĩ Joseph Addison (1672-1719) trên tờ Spectactor năm 1712 đã cho đăng “Những khối cảm của sự tưởng tượng” đề cập đến “lối viết theo kiểu truyện cổ tích thần kỳ, tức là những sáng tác hiện đại viết theo cách thức bắt chước những câu chuyện cổ tích và những khúc ballad cĩ tính chất siêu nhiên cổ xưa” đã giúp cho thuật ngữ fantastic “tạo ra một loại khối cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí đọc giả và làm thỏa mãn trí tưởng tượng của đọc giả bởi cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đĩ.” [tlđd] Vấn đề là đã phát sinh từ cái kỳ ảo, như một yếu tố, một nhĩm các tác phẩm văn học cĩ đặc trưng riêng. Trào lưu văn học kỳ ảo sẽ được chúng tơi đề cập đến ở phần sau. Ở đây chúng tơi tập trung giải quyết cái kỳ ảo với tư cách là một yếu tố. Trước hết về lịch đại, nếu nĩi kỳ ảo là những sự việc khơng thể xảy ra thì bản thân việc con người nhận thức những cái khơng thể xảy ra hồn tồn khơng phải một kết điểm mà là một quá trình bởi khơng cĩ những giới hạn của vật chất, chỉ cĩ những giới hạn của nhận thức con người. Về mặt đồng đại, mở ra nhiều khơng gian khác nhau, cái kỳ ảo cũng khĩ cĩ thể được xác định là cái khơng cĩ thực, khơng thể tin được, bởi lẽ sự khác biệt về văn hĩa tạo nên những khung giá trị và quan niệm khác nhau. Một người châu Âu duy lý kiểu “Tơi nghi ngờ là tơi tư duy, tơi tư duy là tơi tồn tại” (Dercarte) chắc hẳn sẽ khĩ chấp nhận tư duy mang đậm tính tơn giáo của phương Đơng với sức thu hút kỳ lạ của những mê cung ngơn ngữ như “sắc bất dị khơng, khơng bất dị sắc; sắc tức thị khơng, khơng tức thị sắc,…” (Bát Nhã tâm kinh), càng khĩ nhận thức được thứ hiện thực kỳ diệu ở các quốc gia Mỹ Latin- đang được con người ở đĩ xác tín từng ngày từng giờ… Vì thế, một cách tương đối, cĩ thể xác định cái kỳ ảo trong nét nghĩa hẹp nhất, thường được hiểu là sự thể hiện của ma quỷ, các thế lực siêu nhiên, thần bí và được ý thức trong văn học như yếu tố khác thường tác động theo những cách thức đặc biệt gây nên phản ứng, cảm xúc tột độ của con người. Đĩ là bĩng ma của đức vua Đan Mạch- cha của Hamlet, là tiểu thuyết Gothic thế kỷ XVIII- XIX với bối cảnh rùng rợn, đáng sợ, là Người tu sĩ vận đồ đen của Tchekhov, là Miếng da lừa của Balzac,… Magic thường được dịch là huyền ảo, vốn là một tính từ tiếng Latin: magicus, về sau phát triển ở dạng danh từ là magica; bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp là magikē (tekhnē) nghĩa là (nghệ thuật của) thầy phù thủy. Đĩ là một sức mạnh bí ẩn cĩ khả năng làm những điều khơng thực thành cĩ thực (thường gắn với nét nghĩa tiêu cực- black magic- phép thuật ma quỷ). Tuy nhiên, từ huyền ảo được sử dụng rộng rãi trong nền văn học hiện đại để chỉ những điều kỳ lạ, huyền diệu xảy ra trong cuộc đời thực. Đĩ là việc con người biến thành bọ trong Hĩa thân của Kafka; là mê cung cuộc đời mà Borges đề cập theo kiểu xác suất trong Những cơng viên cĩ lối đi rẽ hai ngã, là những con người ăn đất, mất ngủ vì tiếng các vì sao chuyển động, là con người cĩ cánh, người hĩa nhện của Marquez,… Chúng tơi hiểu cái kỳ ảo là sự tổng hịa tất cả các đối tượng vừa nêu. Nếu như khơng quá lệch lạc thì cái kỳ ảo là một sản phẩm của trí tưởng tượng được biểu hiện theo một logic riêng, khác thường trong văn học từ cổ chí kim. Điều này hẳn khơng tránh khỏi cảm nhận thuật ngữ này quá rộng, và nằm vào hướng thứ nhất trong chỉ trích của Lê Nguyên Long khi phê phán Marshall B. Tymm, tác giả cơng trình Fantasy literature: A core Collection and reference guide đã chia thể loại này thành fantasy cấp cao và fantasy cấp thấp. Fantasy cấp thấp là sự cùng tồn tại của cái lý tính và phi lý tính; fantasy cấp cao bao gồm kiểu huyền thoại và truyện thần tiên của Hĩa thân (Kafka) và Kinh Thánh. Nhà nghiên cứu cho rằng: Thực ra những hình thức mà Marshall B. Tymm gọi là fantasy cao cấp đĩ chỉ cĩ tư cách như là cội nguồn và tiền đề cho một sự thay đổi về chất dẫn đến sự ra đời của cái kỳ ảo thực thụ trong kỷ nguyên hiện đại khi cĩ sự vươn lên thống trị của lý tính và các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho phép con người thơi tin vào các phép màu huyền diệu, cịn các nhà văn thì sáng tạo nên những chuyện thần kỳ quái đản chỉ vì những mục tiêu thuần túy nghệ thuật của mình. [43,44] Thật ra, quan niệm rộng vấn đề ở đây khơng phải mở toang phạm vi cho truyện ngắn kỳ ảo vốn chỉ thực sự xuất hiện khi cĩ ý thức rõ rệt về lý luận vào thế kỷ XIX mà là nhận thức yếu tố kỳ ảo theo một nét nghĩa rộng nhất, bao gồm các đặc điểm về bản chất, cách biểu hiện và tính chỉnh thể của nĩ. Cái kỳ ảo xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Nĩ giống như thật nhưng do bản chất của mình, nĩ khơng cĩ thật. Tính chất này cĩ phần tương đồng với bản chất văn học; cĩ lẽ vì thế mà cái kỳ ảo cĩ mối quan hệ mật thiết với văn học như. Cơ sở tâm lý của yếu tố kỳ ảo là trí tưởng tượng của con người. “Giai đoạn đầu tiên và thứ nhất của tưởng tượng phải kể là tưởng tượng hoang đường”[57]. Như vậy, cái kỳ ảo khơng phải là điều gì hư vơ bên ngồi mà bắt nguồn từ chính thế giới tưởng tượng, tinh thần, thế giới nội tâm bí ẩn của con người. Sự thể hiện cái kỳ ảo trong văn học mỗi thời kỳ, do những tiền đề xã hội nhất định, lại khơng giống nhau. Yếu tố kỳ ảo gắn chặt với tâm lý lo sợ của con người về những gì khơng lý giải được hoặc khơng được phép lý giải. Phần khơng lý giải được thể hiện thành những yếu tố kỳ ảo thời cổ đại chỉ với tư cách là huyễn tưởng thế giới thực tại mà con người hiểu theo trí tưởng tượng ngây thơ chất phác nguyên thủy. Phần khơng được phép lý giải thể hiện ở cái kỳ ảo được sử dụng phản ánh thái độ của con người về những ẩn ức, những điều kiêng kị trong xã hội khơng được phép nĩi đến. Một trong những mục đích sử dụng cái kỳ ảo là thoả mãn lý tưởng đạo đức đang mâu thuẫn với một xã hội nhất định. Cái kỳ ảo thường được hiểu là kỳ dị, quái lạ, siêu nhiên, bất thường, kinh dị, thần ma, huyền thoại,… Tuy cĩ nhiều dạng thức nhưng cái kỳ ảo luơn mang trong mình một logic nhất định. Logic này cĩ thể được lý giải hay thuộc dạng “bất khả tư nghì” nhưng nĩ vẫn cĩ ở đĩ, trong từng hồn cảnh lại bộc lộ một khía cạnh của mình để luơn soi chiếu và làm rõ từng phần cuộc đời, văn học và chính cái nĩ đã là và sẽ là. Từ tư duy, cái kỳ ảo được đan cài và hiện thực hĩa trong tác phẩm văn học dưới dạng thức yếu tố kỳ ảo. Yếu tố là một bộ phận cấu thành sự vật, sự việc, hiện tượng. Yếu tố mang nghĩa nhân tố tức là yếu tố cần thiết gây ra, tạo ra cái gì đĩ [63,1170]. Trong Anh ngữ, yếu tố cĩ thể hiểu là “element”. Element xuất phát từ khoảng thế kỷ XII đến XVI dùng để chỉ các thành tố cơ bản của thế giới hay các đối tượng thiêng liêng từ bầu trời. Từ này phát xuất từ tiếng Pháp cổ xưa nhất được sử dụng cho đến khoảng những năm 1400, cĩ thể truy nguyên về tiếng Latin: elementum- mang nghĩa là nguyên tắc (principle), nguyên lý cơ bản (rudiment), được dịch từ tiếng Hy Lạp là stoikheion- bước (một giai đoạn trong tiến trình), bộ phận cấu thành. Theo từ điển Oxford (Advanced Leaner) bản in lần thứ 7, element cĩ 08 nhĩm nghĩa chia thành 09 nét nghĩa như sau: 1. Phần, lượng: Bộ phận điển hình, bộ phận cần thiết của sự vật; thành phần chất lượng hay cảm xúc. 2. Nhĩm người: nhĩm người tạo thành một bộ phận của tập thể lớn hơn, của xã hội. 3. Hĩa học: một chất hĩa học đơn giản chỉ mang một nguyên tử của một nguyên tố mà khơng thể bị phân chia nhỏ hơn bởi các cơng cụ hĩa học. 4. Đất, nước, lửa, khơng khí: một trong bốn thành tố được tin là tạo ra vạn vật. 5. Thời tiết: thời tiết, chủ yếu là mang nét nghĩa tiêu cực. 6. Nguyên lý cơ bản: các nguyên lý đại cương của một mơn học. 7. Mơi trường: mơi trường tự nhiên, phù hợp với một lồi động vật nhất định. 8. Bộ phận điện: một phần của dụng cụ điện cung cấp nhiệt. Thơng qua khảo sát các nét nghĩa của từ “yếu tố” và “element”, chúng tơi nhận thấy hai phạm trù chính được quan tâm là vị trí và vai trị. Thứ nhất, yếu tố phải nằm trong mối quan hệ với tổng thể, nĩi cách khác nĩ là một bộ phận hữu cơ của một tổng thể. Vì vậy, khi xác định yếu tố, tức là đề cập đến quan hệ của cái riêng đối với cái chung trong tiền giả định một mối liên hệ khắn khít, cái tạo thành và cái được tạo thành; đây chính là vị trí của yếu tố. Thứ hai, vai trị của yếu tố khác với thành tố, khác với bộ phận ở tính chất trọng yếu. Yếu tố là thành tố quan trọng đối với hệ thống. Như vậy yếu tố kỳ ảo là một bộ phận quan trọng trong một tác phẩm nghệ thuật. Từ đây trở lên chúng tơi đã trình bày cách hiểu về khái niệm yếu tố kỳ ảo. Thuật ngữ “kỳ ảo” chúng tơi sử dụng chỉ giữ lại sợi dây xuyên suốt các dạng thức- đĩ là huyễn, là ảo- ấy khơng chỉ là cái khơng thực mà cịn là mờ ảo, khơng thể nhận thức rõ như cái thực. Đĩ là nét nghĩa chung nhất của kỳ dị, siêu nhiên, thần thoại, huyền ảo,… Đây khơng phải là một sự cắt tỉa khái niệm quá tay mà là trừu tượng hĩa để giữ lại, hay nĩi đúng hơn với tiến trình của chúng tơi, là tìm ra cái nhân, cái mẫu số chung của hệ thống. Giải đáp được cái nhân- bản chất này chính là chìa khĩa mở ra cánh cửa bí ẩn vì sao yếu tố kỳ ảo luơn cĩ mặt trong văn học và vẫn chưa cĩ biểu hiện gì về một cáo chung của nĩ, vì sao yếu tố kỳ ảo lại mơ hồ, khĩ nhận biết được hơn so với cái thực. Chúng tơi cho rằng, yếu tố kỳ ảo trong văn chương, là một tín hiệu nghệ thuật. Đĩ là một hệ thống gồm cái biểu đạt và cái được biểu đạt tự hồn chỉnh, biến đổi theo mục đích, tư duy người sử dụng hướng đến nhĩm người tiếp nhận nhất định. Hệ thống này mang hai đặc tính là: Tính hiện thực (phi võ đốn) và tính quy ước. Tính hiện thực của yếu tố kỳ ảo hiểu như một dạng tín hiệu chỉ ra nguồn gốc hiện thực của cái kỳ ảo. Khơng như ký hiệu ngơn ngữ mang tính võ đốn, yếu tố kỳ ảo cũng như văn học gắn bĩ một cách sâu sắc với hiện thực cĩ nghĩa là yếu tố kỳ ảo thể hiện những hình thức siêu phàm, phi thực nhưng luơn dựa trên những hình thức thừa kế từ hiện thực. Đĩ cĩ thể là sự phản chiếu bản thân con người thành hình ảnh các vị thần, thành Thượng Đế (theo nghĩa con người tạo ra Thượng Đế giống với hình ảnh mình); cĩ thể là phản chiếu kinh nghiệm bản thân thành chốn thiên đường, địa ngục, hay “quy mao thố giác”. Những phản chiếu này dù phong phú đến đâu nhưng cũng nằm trong một mơ hình nhất định, mơ hình về đời sống. Đĩ là bản chất, cịn con đường của yếu tố kỳ ảo được quy định bởi tính chất quy ước của yếu tố kỳ ảo. Yếu tố kỳ ảo với tư cách là một ký hiệu nghệ thuật được quy ước về mặt hành chức. Từ hiện thực, yếu tố kỳ ảo phải thâm nhập vào văn học bằng con đường riêng, bằng logic của mình, đĩ là mã hĩa. Con đường này như Freud nĩi về cái vơ thức, nĩ khơng phải đại lộ nhưng là những tiểu lộ song song cĩ khi giao cắt, đĩ là nơi chuẩn bị những cảnh vật mà ta sẽ nhìn thấy trên đường lớn, nĩ cịn nguyên những bề bộn, sống động và phong phú. Cái kỳ ảo là kết quả một sự biến đổi, như cách nĩi của Lê Nguyên Cẩn là một vết đứt gãy, là dạng quy chuyển về một mơ hình khác so với mơ hình cuộc sống hiện thực được quy định bởi logic thơng thường. Tính chất của quá trình mã hĩa này nằm ở cái khác biệt nhưng khơng phải ở tầm so sánh thơng thường với hiện thực mà là một dạng khác biệt về chất được nâng cao, một dạng sự thật cao hơn hiện thực. Nhờ tính thật này mà yếu tố kỳ ảo khi kết cấu thành một thế giới nghệ thuật hay một hệ thống thì luơn cĩ logic riêng mình, đĩ là lý do vì sao thần Hermes nhờ đơi giày cĩ cánh mà di chuyển nhanh, vì sao những đứa trẻ sinh ngay đêm 15 tháng 08 năm 1947 ở Ấn Độ lại cĩ khả năng tiên tri như Salman Rushdie kể lại trong Midnight’s Children,… Chính vì được quy ước nên yếu tố kỳ ảo khơng bị hịa tan vào các dạng thức tưởng tượng khác. Đồng thời, cần tính đến vai trị của người tạo nên ký hiệu lẫn người nhận ký hiệu trong trường hợp yếu tố kỳ ảo. Xuất phát từ khâu tiếp nhận để khẳng định cái kỳ ảo nằm ở quyết định của người đọc xem đĩ là cái kỳ lạ hay cái huyễn hoặc là một mặt của vấn đề. Mặt khác, từ gĩc độ người tạo ký hiệu, cĩ thể thấy rằng vấn đề niềm tin trong việc định tính yếu tố kỳ ảo là một vấn đề giả. Người tạo ký hiệu cĩ thể tin hồn tồn những điều anh ta mơ phỏng bản thân và gán cho mơ hình vũ trụ hay khơng tin mà chỉ dùng nĩ như một thủ pháp, quan trọng là mục đích của anh ta. Người nguyên thủy dùng yếu tố kỳ ảo để giải thích tự nhiên; các nhà văn cận đại dùng yếu tố kỳ ảo nhằm nhấn mạnh tính khác biệt. Họ đẩy nĩ ra khỏi địa hạt lý trí bằng mọi cách, khẳng định nĩ khơng thực hay bất khả tri,… nhà văn hiện đại, hậu hiện đại nửa tin nửa ngờ và dùng nĩ như một phương tiện giúp con người sang bờ bên kia, để nhìn rõ hơn đời sống trong thể tổng hịa của nĩ. Do những mục đích tư duy và hiện thực khác nhau của người tạo lập ký hiệu mà yếu tố kỳ ảo xuất hiện với những dạng thức khác nhau như myth, fantasy hay magic. Hệ quả của việc quan sát từ gĩc độ người tạo lập ký hiệu càng khẳng định tính nghệ thuật của yếu tố kỳ ảo, bởi đĩ chính là manh nha xuất hiện ý đồ nghệ thuật của người nghệ sĩ. Như vậy, các mặt bản chất, con đường và khuynh hướng của yếu tố kỳ ảo đến đây đã thống nhất, soi chiếu làm rõ lẫn nhau. Dù nhằm vào mục đích gì, bản chất cái kỳ ảo luơn được vũ trang bằng lớp áo xác thực để hướng đến thuyết phục người tiếp nhận về giá trị và mức độ đáng tin của nĩ, bất kể thuộc giai đoạn nào của lịch sử, tư tưởng hay văn học. Muốn người tiếp nhận tin tưởng, thơng tin đưa ra phải rõ ràng và hiện hữu trực quan trước nhận thức của đối tượng. Con đường nối từ bản chất của sự vật đến cảm nhận của người nhận cĩ lẽ trực tiếp nhất là số lượng. Đĩ là phần thể hiện ra ngồi, phần cĩ thể sờ nắm, đã khá quen thuộc với kinh nghiệm- đây là sự cụ thể hĩa để làm cho cái kỳ ảo mang tính chất hiện thực. Điển hình trong kinh điển Phật giáo, Kinh Cực Lạc Trang Nghiêm (Sukhavativyuhah samksiptamatrka)- Phật Thích Ca Mâu Ni đã nĩi về một chốn Tịnh độ trang nghiêm khơng thuộc thế giới này: Nhĩ thời, Phật cáo trưởng lão Xá Lợi Phất viết: Tùng thị Tây phương quá thập vạn ức phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật hiệu A di đà, kim hiện tại thuyết pháp. [30,29] Như vậy, cần đi qua một con đường với khoảng cách X để đến cõi Phật A di đà, với X cĩ đơn vị là tứ thiên hạ được xác định như sau: X= 10 x 10.000 x 100.000.000 (Phật quốc) x 3.000 (đại thiên thế giới) x 1.000 (trung thiên thế giới) x 1.000 (tiểu thiên thế giới) x 1000 (tứ thiên hạ). Đứng trên phương diện văn bản, quốc độ Phật A di đà được xác định khá rõ nhờ phương vị và các con số thế giới cụ thể, rõ ràng, khơng thể lầm lẫn mơ hồ về sự, về tướng nhờ đĩ mà Phật thuyết phục đồ đệ về tính minh xác của khái niệm mình nĩi ra, và Phật dùng đĩ như một phương tiện. Hay trong Kinh Thánh, với một phương pháp tương tự, phép lạ của Jesus được hiện thực hĩa bằng những con số khá thuyết phục. Đĩ là con số 5000 người ăn (thanh niên) khơng kể phụ nữ và trẻ em, 05 chiếc bánh và 02 con cá, số mẩu vụn thu được sau khi ăn là 12 giỏ đầy [41,1127]. Những con số cụ thể này thuyết phục những người tiếp nhận văn bản về tính chất hiện thực của yếu tố kỳ ảo. Về sau, Gabriel Garcia Marquez cũng ý thức về những con số trong việc làm cho người đọc tin những điều kỳ ảo mà ơng chuyển tải trong các tác phẩm khi trả lời câu hỏi phỏng vấn của Peter H. Stone: Stone: Đây cĩ vẻ như là kỹ thuật và giọng điệu của một nhà báo. Diễn tả những biến động cĩ vẻ kỳ quái, với từng chi tiết thật là chi ly, từ đĩ, nĩ cĩ được cái vẻ thực. Đây là điều ơng nhặt được, khi hành nghề báo chí? Marquez: Đúng là ngĩn nghề của mấy tay làm báo, nhưng bạn cĩ thể áp dụng cho văn chương. Ví dụ, nếu bạn nĩi, cĩ những con voi bay trên trời, sẽ chẳng ai tin. Nhưng nếu bạn nĩi, cĩ 425 con voi đang bay trên trời, sẽ cĩ người tin [107, 315]. Cĩ thể thấy rằng bản chất của yếu tố kỳ ảo thống nhất trong diễn trình lịch sử và nhờ đĩ chúng tơi cĩ đủ cơ sở để dùng nĩ như một đối tượng hợp lý. Chúng tơi cho rằng cái kỳ ảo với tư cách là đối tượng trong luận văn này cĩ giá trị di động giữa khoảng thực và ảo, loại bỏ cực thực, khoảng cịn lại chính là tổng thể mang bản chất, mơ hình và mục tiêu mà chúng tơi đã xác lập. Từ gĩc nhìn này, chúng tơi hy vọng cĩ cơ may tái hiện, mơ tả được một hệ thống rộng hơn và nếu may mắn là đầy đủ hơn của cái kỳ ảo nĩi chung, yếu tố kỳ ảo nĩi riêng. 1.1.2 Yếu tố kỳ ảo trong diễn trình văn học Yếu tố kỳ ảo ra đời trong văn học dân gian gắn liền với cảm quan siêu nhiên cổ đại. Từ cảm quan này, con người tự soi chiếu bản thân thành hai cấp độ đồng chất, điều này cũng tương tự như người Ấn Độ bàn về đại ngã và tiểu ngã. Trong hệ thống này tồn tại những yếu tố bất biến và khả biến, tất cả cùng thống nhất trong mơ hình chung và được quy kết, truyền lưu tiếp nối qua nhiều thế hệ và giai đoạn văn học. Gọi là mơ hình vì đĩ là cái sườn chung sẵn sàng linh động dung hợp và cải tổ trong những ._., trong những nụ hơn, những cuộc tình, cứ thế chuyển xuống động mạch rồi tinh hồn, ở đĩ cho đến khi, như trong một cuộc dạ du, đến tử cung của người mẹ gần nhất. Hành trình tơng truyền huyền thoại giờ đây được thực hiện trong chân thực và đau đớn, nĩ rõ ràng đã phá vỡ tất cả sự cân bằng và tương đồng xác quyết. Nĩ biết cĩ gì đĩ đã trượt khỏi sự hài hịa cá nhân, sự hồn chỉnh hằng ngày và bình thường của họ: Jacob đã tự do một cách vơ vọng trong mắt cá chân. Trong suốt những ngày này, khi anh của nĩ bệnh, nĩ khơng cĩ thứ cảm giác này bởi gương mặt hốc hác, bị biến dạng đi bởi cơn sốt và nỗi đau, râu mọc xồm xồm, anh ta trơng khác xa với bản thân mình. Thế nhưng trong lúc bất động nằm trên giường, anh ta đã gọi cho mình một thợ cạo để trang điểm tử thi. Anh ta được dựng lên, tựa vào tường cho đến khi người thợ mặc đồ đen và đến với tất cả các dụng cụ của mình. Với sự chuyên nghiệp, anh ta phủ một lớp bọt lên râu tử thi (Cái miệng đầy bọt, tơi đã thấy cảnh này trước khi chết) và anh ta cẩn trọng cạo râu như thể người ta đang dần hé lộ một bí mật kinh người. Rồi sau đĩ nĩ bị một ý nghĩ khủng khiếp tấn cơng. Khi con dao cạo lướt qua để lộ gương mặt xanh xao và phàm tục của người anh trai, nĩ cĩ cảm giác rằng tử thi này khơng xa lạ với mình mà cũng được làm từ một thứ vật chất với nĩ, chính là một bản sao của nĩ. Nĩ cĩ cảm giác rằng những người họ hàng của mình đều được làm bằng hình ảnh trong gương của nĩ, hình ảnh mà nĩ thấy mỗi khi cạo râu. Giờ đây, hình ảnh ấy phản ứng lại trong mọi động thái hướng đến tự do của nĩ. Nĩ đã thấy việc cạo râu mỗi sáng nhưng giờ đây trước cảnh này nĩ lại cĩ cảm giác rằng người ta đang lấy đi bộ râu từ hình ảnh trong gương của mình bất chấp đến vĩc dáng vật lý ấy. Nĩ tin chắc rằng, nếu lúc ấy nĩ tiến sát đến chiếc gương thì sẽ nhận ra ở đĩ chẳng cĩ gì ngồi một khoảng trống dù chắc chắn khoa vật lý học sẽ chẳng thể nào cĩ lời giải thích xác đáng cho hiện tượng này. Đĩ là trạng thái phân tách mà bản sao của nĩ là một xác chết. Với tất cả sự liều lĩnh, nĩ cố làm một phán ứng gì đấy nhưng lại nhận ra bức tường rắn cứ nâng cao lên như một két sắt bất khả cơng phá. Người thợ cạo đã hồn thành cơng việc của mình và với đầu kéo anh ta đã kéo mí mắt người chết xuống. Bĩng đêm nằm rung rẩy bên trong cơ thể nĩ, trong sự cơ độc khơng thể dứt bỏ của cái cơ thể đã bị hủy hoại đi. Như thế mới chính xác. Hai anh em, giống nhau, lặp đi lặp lại khơng ngừng nghỉ. Đĩ là sau đĩ, sau khi đã quan sát xong cái sự liên kết chặt chẽ của hai sinh vật này, khi nĩ chợt nhận ra rằng cĩ điều gì đĩ lạ thường, bất ngờ sẽ xảy ra. Nĩ tưởng tượng rằng tách hai cơ thể ra là khơng thể thực hiện được khi trên thực tế cả hai đều là một phần của cùng một sinh vật độc nhất. Cĩ lẽ đến khi cơ thể đã phân hủy hết, nĩ, phần cịn sống, cũng bắt đầu thối rữa từ bên trong. Nĩ nghe tiếng mưa bắt đầu nhỏ lộp độp trên cửa sổ và con dế đột ngột kéo đàn. Hai bàn tay nĩ giờ đây lạnh tốt do khơng khí giá băng kinh khủng. Mùi formal nồng nặc làm nĩ nghĩ đến khả năng đưa mình đến gần cái cơ thể mục nát của đứa em sinh đơi mà nĩ đang giao tiếp từ phía kia, từ cái lỗ lạnh cứng bằng đất. Thật là vơ lý! Cĩ lẽ hiện tượng này diễn ra theo hướng ngược lại: nên thực hành với đứa vẫn cịn sống, với năng lượng của nĩ, với tế bào cịn sống của nĩ. Cĩ lẽ, trên tầng này, cả nĩ cũng như đứa em trai của nĩ vẫn cịn tiếp xúc, duy trì sự cân bằng giữa sống và chết để tránh sự thối rữa. Nhưng ai cĩ thể bảo đảm điều này? Cũng khơng thể nào người em bị thối rửa duy trì tới mức mà sự thối rữa xâm chiếm cuộc sống với những chiếc vịi màu xanh? Nĩ nghĩ rằng giả thiết thứ hai là cĩ thể xảy ra nhất và nhẫn nhịn để chờ thời khắc quan trọng đến. Thịt của nĩ đã trở nên mềm, cĩ mỡ, và nĩ nghĩ rằng nĩ cảm thấy cĩ một chất màu xanh bao phủ nĩ hồn tồn. Nĩ ngửi thấy mùi cơ thể đặc trưng bay lên từ phía dưới, nhưng chỉ cĩ chất formol của cái mảnh bên cạnh làm rung rẩy những tế bào khứu giác một cách khơng thể nhầm lẫn được. Sau đĩ, nĩ khơng lo lắng gì nữa. Trong gĩc nhỏ, con dế lại tiếp tục cất lên bài hát trong khi những giọt gì đĩ đặc sệt và giống hệt nhau bắt đầu thấm qua từ bầu trời phẳng lì đầy lan ra căn phịng. Nĩ lắng nghe mưa rơi mà khơng hề thấy ngạc nhiên bởi vì biết rằng tại nơi này gỗ đã mục, nhưng nĩ tưởng tượng giọt nước đĩ được làm từ một loại nước trong sạch, ngon lành đến từ trên trời, từ một cuộc sống tốt đẹp hơn, rộng rãi hơn và ít những điều ngu ngốc như tình yêu hay là sự tiêu hĩa và phân đơi. Cĩ thể cái giọt này sẽ lắp đầy cả căn phịng trong một giờ hoặc cả ngàn năm và làm tiêu tan đi cái sự cay đắng kinh khủng này, cái chất trống rỗng đĩ cĩ thể- tại sao khơng? – khơng cịn tồn tại nữa trong một thời gian ngắn mà là một hỗn hợp nhão giữa albumin và huyết thanh. Bây giờ mọi thứ đều giống nhau. Giữa nĩ và ngơi mộ chỉ cịn cái chết. Cam chịu, nĩ nghe giọt nước to, nặng, rơi lộp độp trong một thế giới khác, trong cái thế giới sai lầm và kì lạ của những động vật cĩ lý trí. 2. NỖI CAY ĐẮNG CỦA BA NGƯỜI MỘNG DU (AMARGURA PARA TRES SONÁMBULOS)- 1949 Truyện ngắn Amargura para tres sonambulos xuất hiện lần đầu trên tờ El Espectador bản Chủ Nhật ngày 13 tháng Mười một năm 1949 ở Bogotá, về sau được in trong tập Ojos de perro azul. Văn bản chúng tơi dùng cũng thuộc tập này nhưng được in lại ở Buenos Aires vào tháng 03 năm 1977 từ trang 21 đến trang 3 với ISBN 950-07-0088-3; đồng thời cĩ so sánh với bản in trong tập Todos los cuentos, Bogotá Editol Oveja Negra 1987 từ trang 34-37. Giờ đây chúng tơi đã cĩ được cơ gái, con người bị bỏ lại trong gĩc nhà. Cĩ ai đĩ đã nĩi trước khi chúng tơi xách hành lý của cơ ấy- quần áo cơ thơm mùi gỗ mới, giày tịnh khơng dính một tí bùn- rằng chắc cơ khơng thể quen với cuộc sống chậm chạp đĩ, khơng một hương vị ngọt ngào, khơng một hứng thú nào khác là nỗi cơ đơn cùng cực, luơn luơn níu chặt người ta. Họ cũng nĩi- đã rất lâu rồi trước khi chúng tơi cịn nhớ- rằng cơ gái ấy cũng cĩ một tuổi thơ. Khi ấy cĩ lẽ chúng tơi đã khơng tin điều đĩ, nhưng giờ nhìn cơ ngồi trong gĩc phịng với cặp mắt ngạc nhiên, ngĩn tay đính trên mơi, chúng tơi cũng chấp nhận rằng cơ đã từng cĩ một thời ấu thơ, rằng cơ đã từng cĩ sự tinh tế nhạy cảm của cơn mưa đầu mùa mát mẻ và rằng cơ đã chịu đựng việc bên cạnh mình luơn là một cái bĩng khơng mong đợi. Với tất cả những điều đĩ- và cịn hơn thế- vào buổi chiều hơm ấy chúng tơi tin rằng mình nhận ra ngồi cái vẻ âm ty địa ngục kinh khủng đĩ, cơ ấy hồn tồn là con người. Đột nhiên, chúng tơi thấy, như thể tấm kính bị vỡ ra từ bên trong, cơ bắt đầu gào khĩc thảm thương rồi gọi tên chúng tơi từng người, giọng nĩi hịa theo những giọt nước mắt cho đến khi chúng tơi ngồi lại bên cơ, hát và vỗ tay như thể những âm thanh ấy cĩ thể hàn gắn lại tấm kính đã vỡ. Chỉ khi ấy chúng tơi mới tin rằng cơ đã từng cĩ tuổi thơ. Tựa như rằng những tiếng kêu cĩ một mối tương quan gì đĩ, như thể tiếng kêu ấy gợi về nhiều tàn cây rộng, con sơng sâu mà cơ đã từng dầm mình; hơi cúi người về phía trước vẫn khơng mạng che mặt, vẫn khơng sụt sùi nhưng vẫn trong làn nước mắt cơ bảo chúng tơi rằng: “Tơi sẽ khơng cười nữa” Cả ba chúng tơi đi ra sân, khơng nĩi gì nhưng chắc rằng mình cĩ những suy nghĩ chung. Cĩ lẽ khơng nên mở đèn trong nhà. Cĩ lẽ cơ ấy muốn ở một mình ngồi trong gĩc tối để đan mảnh vải cuối cùng, tựa như đĩ là cách duy nhất để trải qua thời khắc này. Bên ngồi khoảng sân rả rích tiếng cơn trùng, chúng tơi ngồi xuống và cùng nghĩ về cơ ấy. Chúng tơi đã làm thế này khơng biết bao nhiêu lần, cĩ thể nĩi chúng tơi đang thực hiện điều mà mình làm đi làm lại mỗi ngày trong đời. Tuy nhiên, đêm nay lại khác; cơ ấy đã nĩi sẽ khơng bao giờ cười nữa; và chúng tơi hiểu cơ ấy rất rõ, tin chắc rằng cơn ác mộng đã thành hiện thực. Ngồi thành hình tam giác chúng tơi cùng tưởng tượng về điều đang xảy ra trong nhà, một cái gì vơ hình, trừu tượng cho đến khi nghe rõ tiếng chiếc đồng hồ gõ nhịp và chứng tỏ một cách rõ ràng cơ ấy đã ra đi. Chúng tơi đồng thanh: “Ít nhất thì chúng ta cũng cĩ dũng khí để nghĩ về cái chết của cơ ấy.” Nhưng chúng tơi yêu thương cơ gái lạnh lùng và xấu xí này như một cách thơng cảm với những mặt xấu xa tăm tối ẩn khuất của bản thân mình. Chúng tơi đều đã trưởng thành từ lâu rồi. Tuy vậy, cơ ấy vẫn nhà người lớn nhất nhà. Cũng trong đêm đĩ lẽ ra cơ đã ở đấy, cùng ngồi với chúng tơi, cảm nhận sự chuyển động của các ngơi sao, xung quanh là những đứa trẻ khỏe mạnh. Lẽ ra cơ đã cĩ thể trở thành một mệnh phụ đáng kính nếu lấy một nhà quyền quý hay làm vợ lẻ cho một nhân vật quan trọng. Nhưng cơ đã quen sống trong một khơng gian đơn độc, tựa như đường thẳng tắp, cĩ lẽ do các khuyết điểm cũng như ưu điểm của cơ khơng thể nhìn thấy từ bên hơng. Sau nhiều năm, chúng tơi đã hiểu rõ về cơ. Thế nên khơng cĩ gì là ngạc nhiên khi một sáng nọ sau khi tỉnh dậy chúng tơi thấy cơ nằm úp mặt, cạp đất với một thái độ tĩnh tại cứng nhắc ấy. Sau đĩ, cơ đã mỉm cười quay lại nhìn chúng tơi. Cơ đã té từ cửa sổ lầu hai xuống mặt đất sét cứng trong sân, nằm đấy bất động, mặt úp bùn ẩm. Sau đĩ, chúng tơi nhận ra lời giải thích khả dĩ rằng ấy là do nỗi sợ độ cao, như khi người ta đứng trước hố sâu vậy. Chúng tơi xốc cơ lên vai. Thật ra cũng khơng quá khĩ như chúng tơi đã nghĩ. Ngược lại, cơ thể cơ mềm nhũng ra, như những bộ phận tách rời hẳn với ý chí, như thể một xác chết âm ấm khơng bao giờ cứng lại. Mắt cơ mở to, trên miệng vẫn cịn dính đất mà cơ cĩ lẽ biết đĩ là thứ đất trong mộ huyệt, khi tơi đem cơ ra sưởi nắng, cứ như là đặt cơ trước một tấm gương. Cơ nhìn tất cả chúng tơi với sự đờ đẫn phi giới tính- tơi ơm cơ trong vịng tay- điều đĩ thể hiện vơ hồn của cơ. Cĩ người nĩi rằng cơ đã chết. Và sau đĩ cơ nằm đĩ, nhoẻn miệng với nụ cười lạnh lẽo và bất động suốt đêm hơm ấy cho đến khi bị cả nhà đánh thức. Cơ bảo rằng cơ chẳng biết tại sao mình ra được ngồi hiên. Cơ bảo rằng cơ đã cảm thấy nĩng bức và đang nghe tiếng dế kêu nhức nhối, the thé như thể (cơ đã nĩi như thế) tiếng kêu ấy sẵn sàng đánh đổ bốn bức vách căn phịng và làm cơ nhớ đến những lời cầu nguyện trong thánh lễ misa ngày chủ nhật khi cơ áp sát má mình xuống sàn xi măng. Tuy vậy, chúng tơi biết cơ chẳng nhớ gì, bởi vì chúng tơi biết rằng sau khi cơ hồn tồn mất đi khái niệm thời gian khi nĩi rằng mình đã ngủ phía sau bức tường, về tiếng dế kêu bên ngồi, và rằng cơ đã ngủ say khi chúng tơi bế xốc cơ lên và đem gương mặt cơ soi ra trước ánh mặt trời. Tối nay, ngồi hồi hiên, chúng tơi biết rằng cơ ấy sẽ khơng bao giờ cười nữa. Chúng tơi đau trước sự vơ hồn trầm trọng, trước sự tối tăm và kiên quyết sống thu mình vào gĩc tối của cơ. Chúng tơi đau đớn vơ cùng vào cái ngày mà thấy cơ ngồi trong bĩng tơi nơi cơ đang ngồi đây và nghe cơ nĩi sẽ khơng bao giờ quanh quẩn trong nhà nữa. Thoạt đầu, chúng tơi khơng tin cơ. Chúng tơi đã quan sát cơ hàng tháng trời lúc nào cũng bận rộn việc nhà, với chiếc đầu cứng ngắc, vai cong cong khơng bao giờ mệt mỏi. Nửa đêm, chúng tơi cĩ thể nghe tiếng động từ thân hình đẩy đà của cơ di chuyển giữa những khoảng tối, và cĩ lẽ chúng tơi nằm thức trên giường, nghe tiếng chân lén lút và tiếp tục nghe âm thanh của cơ khắp nhà. Cĩ lần, cơ bảo với chúng tơi rằng cơ nghe thấy tiếng dế trong gương rồi nĩ chìm dần, hịa vào mặt phẳng trong suốt ấy, thế là cơ ấy đã theo vào gương để bắt tiếng dế. Thực tế, chúng tơi khơng hiểu ý cơ muốn nĩi gì tất cả những gì mà chúng tơi cĩ thể thấy là đồ cơ ướt sũng, dính sát người như thể vừa bước lên từ ao nước. Khơng cần bất cứ lời giải thích nào, chúng tơi quyết định đặt dấu chấm hết cho cơn trùng trong nhà này, tiêu diệt những gì ám ảnh cơ ấy. Chúng tơi làm sạch bức tường, nhờ người cắt bụi cây trong vườn, cứ như thể quét sạch đi cái im lặng của bĩng đêm. Nhưng, khơng cịn nghe tiếng chân cơ ấy nữa, khơng cịn nghe cơ ấy nĩi về tiếng dế; cho đến một ngày sau bữa ăn gần đây nhất, cơ nhìn chúng tơi, vẫn ngồi dưới sàn xi măng mắt vẫn khơng rời chúng tơi, cơ nĩi: “Tơi sẽ ngồi đây luơn!” Chúng tơi rùng mình vì thống thấy cĩ điều gì đĩ gần như là một cái chết hồn tồn. Từ đấy chúng tơi thấy cơ ấy ngồi ở đấy, với tấm vải len dài như cơ định đan; tựa như cơ ấy bị hịa tan trong sự cơ đơn và biến mất. Dù cơ vẫn đang nhìn nhưng vơ hồn như khơng tồn tại. Vì vậy, bây giờ chúng tơi đã hiểu rằng cơ sẽ khơng cười nữa bởi cơ đã nĩi điều đĩ một cách chắc chắn như khi cơ bảo sẽ khơng đi nữa. Điều này cũng chắc chắn như thể rằng sau này cơ sẽ nĩi rằng: “Tơi khơng thấy gì”, hay “Tơi khơng nghe gì!” và chúng tơi biết rằng phải là con người một cách đầy đủ để mơ ước thốt ly những chức năng cơ bản của cuộc sống và lúc đĩ ngay lập tức sẽ dẫn đến sự phá bỏ mọi ý nghĩa cho đến một ngày người ta tìm thấy cơ bên bức tường như thể cơ đã ngủ từ lần đầu tiên trong đời. Cĩ lẽ thiếu nhiều thời gian cho việc ấy, nhưng cả ba chúng tơi đã ngồi đĩ, trong khu vườn, mong ước nghe thấy tiếng khĩc trong đêm sắc nhọn của cái kính bị vỡ, ít nhất để cĩ một ảo tưởng rằng cĩ một cơ gái được sinh ra trong ngơi nhà, để tin rằng cơ ấy lại mới được sinh ra. 3. CHẾT Ở SAMARRA (LA MUERTE EN SAMARRA)-1955 Tên người hầu hoảng hốt chạy về nhà ơng chủ _“Thưa ơng”, hắn nĩi, “Tơi đã thấy thần Chết ở chợ và ơng ta đã làm dấu hiệu báo tử với tơi” Ơng chủ lấy ngựa và mang tiền đến, nĩi: _“Hãy trốn đến Samarra!” Tên người hầu đã trốn thốt. Chiều, người chủ đến chợ gặp thần Chết ở đấy. _“Sáng nay ơng đã đe dọa giết người hầu của tơi”, ơng chủ nĩi. _“Đĩ khơng phải là đe dọa”, thần Chết trả lời, “mà là ta ngạc nhiên. Bởi ta gặp nĩ ở đây, cách quá xa Samarra, và chiều nay ta vừa giết nĩ ở đĩ.” ------------------------------------------- García Márquez (1995), Cĩmo se cuenta un cuento, Taller de guiĩn, Voluntad, Bogotá, p.46 D. BẢNG THỐNG KÊ BẢNG 1- BẢNG KÊ TÁC PHẨM THEO NĂM SÁNG TÁC STT TÁC PHẨM NĂM 1 Lần thứ ba an phận 1946 2 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng 1946 3 Bên kia cái chết 1948 4 Đối thoại trước gương 1949 5 Nỗi cay đắng của ba người mộng du 1949 6 Đơi mắt chĩ xanh 1950 7 Người đàn bà đến vào lúc sáu giờ chiều 1950 8 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng 1952 9 Độc thoại của Isabel ngắm mưa ở làng Macondo 1955 10 Blacaman, người hiền bán phép tiên 1955 11 Một ngày sau thứ bảy 1955 12 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi 1955 13 Ngài đại tá chờ thư 1957 14 Một trong những ngày này 1959 15 Buổi chiều kỳ diệu của Bantaxa 1960 16 Ở làng này khơng cĩ kẻ trộm 1960 17 Bà gĩa Montiel 1961 18 Biển của thời đã mất 1961 19 Đám tang của bà mẹ vĩ đại 1961 20 Những bơng hồng giấy 1961 21 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma 1968 22 Cụ già với đơi cánh khổng lồ 1968 23 Người chết trơi đẹp nhất trần gian 1968 24 Thần chết thường ẩn sau ái tình 1970 25 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương 1972 26 Mùa hè hạnh phúc của bà Phorbert 1976 28 Quà tết 1978 28 Tơi đến chỉ để gọi điện thoại Tháng 04,1978 29 Thưa Tổng thống, chúc ngài thượng lộ bình an Tháng 06,1979 30 Tơi được thuê để nằm mộng Tháng 03,1980 31 Mười bảy người anh bị đầu độc Tháng 04,1980 32 Những bĩng ma tháng Tám Tháng 10,1980 33 Thánh Bà Tháng 08,1981 34 Giĩ bắc Tháng 01,1982 35 Máy bay của người đẹp ngủ Tháng 06,1982 36 Giấc ngủ trưa ngày thứ ba 1984 37 Bà Maria Dos Przeres (Đồn Đình Ca dịch) 1992 38 Dấu máu em trên tuyết 1992 39 Chết ở Samarra 1995 TÁC PHẨM KHƠNG RÕ NĂM SÁNG TÁC 40 Ơng bạn Mitut của tơi 41 Đêm của những con vạc BẢNG 2- BẢNG KÊ TÊN TÁC PHẨM THEO THỨ TỰ ALPHABET TÁC PHẨM NĂM 1 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng 1952 2 Bà gĩa Montiel 1961 3 Bà Maria Dos Przeres (Đồn Đình Ca dịch) 1992 4 Bên kia cái chết 1948 5 Biển của thời đã mất 1961 6 Blacamăng, người hiền bán phép tiên 1955 7 Buổi chiều kỳ diệu của Bantaxa 1960 8 Chết ở Samarra 1995 9 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương 1972 10 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma 1968 11 Cụ già với đơi cánh khổng lồ 1968 12 Đám tang của bà mẹ vĩ đại 1961 13 Dấu máu em trên tuyết 1992 14 Đêm của những con vạc 15 Đối thoại trước gương 1949 16 Độc thoại của Isabel ngắm mưa ở làng Macondo 1955 17 Đơi mắt chĩ xanh 1950 18 Giấc ngủ trưa ngày thứ ba 1984 19 Giĩ bắc Tháng 01,1982 20 Lần thứ ba an phận 1946 21 Máy bay của người đẹp ngủ Tháng 06,1982 22 Một ngày sau thứ bảy 1955 23 Một trong những ngày này 1959 24 Mùa hè hạnh phúc của bà Phorbert 1976 25 Mười bảy người anh bị đầu độc Tháng 04,1980 26 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi 1955 28 Ngài đại tá chờ thư 1957 28 Người chết trơi đẹp nhất trần gian 1968 29 Người đàn bà đến vào lúc sáu giờ chiều 1950 30 Những bơng hồng giấy 1961 31 Những bĩng ma tháng Tám Tháng 10,1980 32 Nỗi cay đắng của ba người mộng du 1949 33 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng 1946 34 Ở làng này khơng cĩ kẻ trộm 1960 35 Ơng bạn Mitut của tơi 1970 36 Quà tết 1978 37 Thần chết thường ẩn sau ái tình 1970 38 Thánh Bà Tháng 08,1981 39 Thưa Tổng thống, chúc ngài thượng lộ bình an Tháng 06,1979 40 Tơi đến chỉ để gọi điện thoại Tháng 04,1978 41 Tơi được thuê để nằm mộng Tháng 03,1980 TỔNG 41 truyện ngắn 1946-1995 BẢNG 3- PHÂN LOẠI TRUYỆN NGẮN CỦA MARQUEZ STT TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC NGHIÊM NGẶT STT TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC KỲ ẢO 1 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng 2 Bà gĩa Montiel 1 Bà Maria Dos Przeres (Đồn Đình Ca dịch) 3 Biển của thời đã mất 4 Bên kia cái chết 5 Blacamăng, người hiền bán phép tiên 2 Buổi chiều kỳ diệu của Bantaxa 6 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương 7 Chết ở Samarra 8 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma 9 Cụ già với đơi cánh khổng lồ 10 Đám tang của bà mẹ vĩ đại 11 Dấu máu em trên tuyết 3 Đêm của những con vạc 4 Đối thoại trước gương 5 Độc thoại của Isabel ngắm mưa ở làng Macondo 12 Đơi mắt chĩ xanh 6 Giấc ngủ trưa ngày thứ ba 13 Giĩ bắc 14 Lần thứ ba an phận 7 Máy bay của người đẹp ngủ 8 Một ngày sau thứ bảy 9 Một trong những ngày này 10 Mùa hè hạnh phúc của bà Phorbert 11 Mười bảy người anh bị đầu độc 15 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi 12 Ngài đại tá chờ thư 16 Người chết trơi đẹp nhất trần gian 13 Người đàn bà đến vào lúc sáu giờ chiều 14 Những bơng hồng giấy 17 Những bĩng ma tháng Tám 18 Nỗi cay đắng của ba người mộng du 19 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng 15 Ở làng này khơng cĩ kẻ trộm 16 Ơng bạn Mitut của tơi 20 Quà tết 21 Thần chết thường ẩn sau ái tình 22 Thánh Bà 17 Thưa Tổng thống, chúc ngài thượng lộ bình an 18 Tơi đến chỉ để gọi điện thoại 23 Tơi được thuê để nằm mộng BẢNG 4- LOẠI HÌNH NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN KỲ ẢO CỦA MARQUEZ NHÂN VẬT STT TÁC PHẨM Người thú, người cơng cụ Người tiên/ hồn ma Người già Xác chết 1 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng X 2 Biển của thời đã mất X X X 3 Bà gĩa Montiel X X X 4 Blacamăng, người hiền bán phép tiên X 5 Bên kia cái chết X 6 Chết ở Samarra X 7 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương X 8 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma X 9 Cụ già với đơi cánh khổng lồ X X X 10 Đám tang của bà mẹ vĩ đại X 11 Dấu máu em trên tuyết X X 12 Đơi mắt chĩ xanh 13 Giĩ bắc X X 14 Lần thứ ba an phận X 15 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi X X 16 Người chết trơi đẹp nhất trần gian X X 17 Những bĩng ma tháng Tám X 18 Nỗi cay đắng của ba người mộng du 19 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng X 20 Quà tết X 21 Thánh Bà X X 22 Thần chết thường ẩn sau ái tình X X 23 Tơi được thuê để nằm mộng X BẢNG 5- LOẠI HÌNH KHƠNG GIAN, THỜI GIAN TRONG TRUYỆN NGẮN KỲ ẢO CỦA MARQUEZ KHƠNG GIAN THỜI GIAN ST T TÁC PHẨM Làng Biển Phiêu Chu Tuyến Khơng dạt kỳ tính -thời 1 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng X 2 Biển của thời đã mất X X X X 3 Bà gĩa Montiel X X 4 Blacamăng, người hiền bán phép tiên X X 5 Bên kia cái chết X X 6 Chết ở Samarra X X 7 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương X X X 8 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma X X 9 Cụ già với đơi cánh khổng lồ X 10 Đám tang của bà mẹ vĩ đại X 11 Dấu máu em trên tuyết X X 12 Đơi mắt chĩ xanh X 13 Giĩ bắc X X 14 Lần thứ ba an phận X 15 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi X X X 16 Người chết trơi đẹp nhất trần gian X X 17 Những bĩng ma tháng Tám X 18 Nỗi cay đắng của ba người mộng du X X 19 Nữ thần Eva ở ngay X X trong con mèo của nàng 20 Quà tết X X X 21 Thánh Bà X 22 Thần chết thường ẩn sau ái tình X X 23 Tơi được thuê để nằm mộng X X BẢNG 6- BẢN KÊ BIỂU TƯỢNG TRONG TRUYỆN NGẮN KỲ ẢO MARQUEZ STT TÁC PHẨM Nhĩm biểu tượng biển Nhĩm biểu tượng hoa hồng Nhĩm biểu tượng du tử 1 Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng X 2 Biển của thời đã mất X X X 3 Bà gĩa Montiel 4 Blacamăng, người hiền bán phép tiên X 5 Bên kia cái chết X 6 Chết ở Samarra 7 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương X X 8 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma X 9 Cụ già với đơi cánh khổng lồ X X X 10 Đám tang của bà mẹ vĩ đại X 11 Dấu máu em trên tuyết X X 12 Đơi mắt chĩ xanh X 13 Giĩ bắc X X 14 Lần thứ ba an phận X 15 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi 16 Người chết trơi đẹp nhất trần gian X X 17 Những bĩng ma tháng Tám X 18 Nỗi cay đắng của ba người mộng du X 19 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng X 20 Quà tết X 21 Thánh Bà X X 22 Thần chết thường ẩn sau ái tình X 23 Tơi được thuê để nằm mộng X BẢNG 2.1 LUẬN ĐIỂM VÀ LUẬN CỨ DÂN LÀNG TRI NHẬN XÁC CHẾT Luận điểm Luận cứ 1. Đàn ơng trong cái làng này khơng lấy gì làm đơng lắm… trong số họ khơng thiếu một ai 2 ...rong rêu này là thứ chỉ cĩ ở biển Thái Bình Dương và quần áo của anh rách bươm như thể anh ta đã bơi qua rừng san hơ. 3 …anh là người cao nhất, khỏe nhất và dũng cảm nhất… họ vẫn khơng thể tin được rằng trong cuộc đời lại cĩ người đàn ơng đẹp đến thế. 1. Xác chết này là người lạ 4. Họ nghĩ rằng anh là người cĩ mãnh lực đến mức cĩ thể gọi tên cá, cá hải nhảy lên khỏi biển,… 1. …một cụ già nhất…, bỗng thở dài nĩi: Người này cĩ khuơn mặt của Esteban 2. … với tấm thân ngoại cỡ ấy anh đã phải chịu bao nỗi bất hạnh, bất hạnh ngay cho đến khi chết. 2. Xác chết này là Esteban 3. … những người đàn ơng trở về nĩi rằng: người chết trơi này khơng phải là người của các làng lân cận… Đích thị là người của chúng ta rồi. 4. Ngay tức khắc một bà, vì né giận chẳng được, đã lật tung cái khăn che mặt người chết và thế là cả đám đàn ơng câm họng im bặt. Đĩ là Esteban. Bọn đàn ơng khơng thể nghi ngờ được nữa. 5. Chẳng cần nhìn nhau dân làng cũng biết họ đã thiếu mất một người BẢNG 2.2. KHƠNG GIAN PHIÊU DẠT TRONG ĐỐI SÁNH VỚI KHƠNG GIAN QUÊ NHÀ TRONG 12 TRUYỆN NGẮN PHIÊU DẠT Mỹ Latin Châu Âu Tác phẩm Matinich Thụy Sĩ Thưa tổng thống, chúc ngài thượng lộ bình an Colombia Ý Thánh Bà Colombia Pháp- Mỹ Máy bay của người đẹp ngủ Cuba, Colombia Áo, Roma Tơi được thuê để nằm mộng Mexico Tây Ban Nha Tơi chỉ đến để gọi điện thoại Venezuela Ý Những bĩng ma tháng tám Tây Ban Nha Maria Dos Przeres Colombia Ý Mười bảy người Anh bị đầu độc Tây Ban Nha Giĩ bắc Ý Mùa hè hạnh phúc của bà Phorbert Colombia Tây Ban Nha Quà tết Colombia Pháp Dấu máu em trên tuyết BẢNG 4.1. ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN KỲ ẢO MARQUEZ ĐIỂM NHÌN TÁC PHẨM Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Ai đĩ đã làm rối những bơng hồng Ngơi thứ ba Bà gĩa Montiel Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Bên kia cái chết Ngơi thứ ba Biển của thời đã mất Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Blacamăng, người hiền bán phép tiên Ngơi thứ ba Chết ở Samarra Ngơi thứ ba Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma Ngơi thứ ba (đa điểm nhìn) Cụ già với đơi cánh khổng lồ Ngơi thứ ba Đám tang của bà mẹ vĩ đại Ngơi thứ ba→ ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Dấu máu em trên tuyết Ngơi thứ nhất, tác giả- người kể chuyện Đơi mắt chĩ xanh Ngơi thứ nhất, tác giả- người kể chuyện Giĩ bắc Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Lần thứ ba an phận Ngơi thứ ba Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi Ngơi thứ ba Người chết trơi đẹp nhất trần gian Ngơi thứ nhất, tác giả- người kể chuyện Những bĩng ma tháng Tám Ngơi thứ nhất số nhiều, tác giả- người kể chuyện Nỗi cay đắng của ba người mộng du Ngơi thứ nhất, nhân vật- người kể chuyện Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng Ngơi thứ ba Quà tết Ngơi thứ nhất, tác giả- người kể chuyện Thánh Bà Ngơi thứ ba Thần chết thường ẩn sau ái tình Ngơi thứ nhất, tác giả- người kể chuyện→ nhân vật- người kể chuyện Tơi được thuê để nằm mộng BẢNG 4.2. NHỮNG SO SÁNH CỰC CẤP TRONG MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN KỲ ẢO CỦA MARQUEZ Tác phẩm Những lần so sánh nhất mang ý nghĩa cực cấp Bên kia tình yêu thường là cái chết Ơng đã cưới một cơ vợ người Đức thanh lịch sinh cho ơng năm đứa con sống cả nhà vui vầy hạnh phúc và chính ơng từng là người hạnh phúc nhất đời cho đến cách đây ba tháng, người ta thơng báo rằng ơng sẽ chết và chắc chắn chết vào kỳ Giáng sinh tới. Cơ con gái thừa hưởng làn da và vĩc dáng của mẹ, và do đĩ người cha đơi mắt vàng vọt ngỡ ngàng cứ nghĩ rằng mình đang nuơi nấng người phụ nữ đẹp nhất trần đời. Ơng lão cĩ đơi cánh khổng lồ Những người bất hạnh nhất của cả vùng biển Ca-ri-bê đến đến đây để mong được chữa bệnh: một người đàn bà bị bệnh tim ngay từ thời ấu thơ lúc nào cũng đếm nhịp tim mình và bà ta đã đếm được rất nhiều, tới mức khơng cịn đủ con số cho bà ta đếm;… Dấu máu em trên tuyết Căn nhà cĩ vơ số cửa sổ từ nền đến trần đối diện với mặt nước tĩnh lặng - một thứ vật cấm được sùng bái - của Vịnh biển trước mặt và ngơi nhà đĩ là một trong những ngơi nhà lớn nhất và cũng cổ nhất trong quận La Manga, khơng nghi ngờ gì nữa, cũng là ngơi nhà xấu xí nhất. Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira và người bà bất lương Câu chuyện lan truyền rộng rãi bằng tiếng thổ dân Anhđiêng ở đây kể rằng: Amađix bố đã cướp người phụ nữ đẹp nhất của một nhà chứa ở vùng Angtidat bằng cách dùng dao đâm chết một người đàn ơng rồi sau đĩ mang cơ gái về sống ngồi vùng cương toả tại hoang mạc này… Gã nhìn khuơn mặt đau buồn vì thất vọng, nhìn đơi mắt mêt mỏi vì thức nhiều, nhìn mái tĩc đã ngả màu xám chì của người phụ nữ mà dẫu tuổi đã cao và đang ở trong tình huống cực kỳ khĩ khăn vẫn cĩ thể nĩi đĩ là người đàn bà đẹp nhất trần gian… Chàng ta đứng đĩ với con vẹt đuơi dài đậu trên vai, với khẩu súng Etpintơn săn kẻ ăn thịt đồng loại. Ta cảm thấy hơi thở sặc mùi người chết khi chàng đứng trước mặt ta và bảo ta: “Anh đã đi khắp thế giới hàng ngàn lần, đã nhìn thấy tất cả phụ nữ của mọi dân tộc, vì thế anh cĩ quyền để nĩi với em rằng: em là cơ gái kiêu kỳ nhất đồng thời lại là cơ gái đáng yêu nhất, em là cơ gái đẹp nhất trần gian này” Người chết trơi đẹp nhất trần gian Khi tắm gội cho người chết trơi này, mọi người bỗng nín thở im lặng vì nhận ra anh thuộc lớp người hiếm cĩ khơng chỉ anh là người cao nhất, khoẻ nhất, dũng cảm nhất mà cịn ngay khi ngắm nhìn anh, họ vẫn khơng tin được trong cuộc đời lại cĩ người đàn ơng đẹp đến thế... Anh khơng mặc vừa quần áo của đàn ơng làng này dù đĩ là quần diện ngày lễ của những người đàn ơng cao to nhất, dù đĩ là sơ mi diện hằng ngày của những người đàn ơng vạm vỡ nhất. Cả những đơi giày ngoại cỡ đĩng đẹp nhất cũng khơng vừa chân anh. Họ nghĩ rằng, nếu con người quý hĩa ấy mà sống ở trong cái làng này thì nhà của anh hẳn phải cĩ cửa rộng, trần cao, sàn chắc chắn nhất, giường nằm của anh hẳn phải rộng rãi vững chắc nhất và người vợ của anh hẳn phải là người phụ nữ hạnh phúc nhất. Họ khĩc anh mãi tới mức anh trở thành người cơ đơn nhất thế gian, trở thành con người hiền lành nhất, con người tận tụy nhất, Êxtêban đáng thương! Bọn họ cịn muốn buộc thêm cái mỏ neo to vào củ khoai chân của xác chết để nĩ chìm hẳn xuống đáy biển, nơi cá phải mù mắt và những người thợ lặn giỏi nhất cũng khơng bao giờ lặn tới. Sự hiện diện của anh là cĩ thực, rất thực đến mức ngay cả những người đàn ơng hay ngờ vực nhất, những người trong những đêm thanh vắng ở ngồi khơi đang héo ruột héo gan lo ở nhà vợ mình vì đợi họ no chán vẫn khơng thấy về, ao ước được chung chạ với những người chết trơi, chính những con người ấy và cả những người đàn ơng sắt đá nhất cũng đã phải mũi lịng thật sự trước Êxtêban chân thành. Rồi đám tang của Êxtêban được cử hành với nghi thức trọng thể nhất cĩ thể cĩ đối với một cái thây vơ chủ. BẢNG 4.3. MỘT SỐ TRUYỆN NGẮN MANG YẾU TỐ KỲ ẢO Ở TÊN TÁC PHẨM STT TÊN TIẾNG VIỆT TÊN NGUYÊN BẢN 1 Bên kia cái chết La otra costilla de la muerte 2 Blacamăng, người hiền bán phép tiên Blacaman el bueno, vendedor de milagros 3 Chuyện buồn khơng thể tin được của Erendira ngây thơ và người bà bất lương La increible y triste historia de la candida Erendira y su abuela desalmada 4 Chuyến đi cuối cùng của con tàu ma El último viaje del buque fantasma 5 Cụ già với đơi cánh khổng lồ Un seđor muy viejo con unas alas enormes 6 Nabo, người da đen khiến các thiên thần phải đợi El negro que hizo esperar a los angeles 7 Người chết trơi đẹp nhất trần gian El ahogado más hermoso del mundo 8 Những bĩng ma tháng Tám Espantos de agosto 9 Nữ thần Eva ở ngay trong con mèo của nàng Eva está dentro de su gato 10 Thánh Bà La Santa 11 Tơi được thuê để nằm mộng Me alquilo para sođar ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA5271.pdf
Tài liệu liên quan