Biện chứng của quá trình phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước tới nay, nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới xã hội tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận từ đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, kinh tế thị trường cũng có

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Biện chứng của quá trình phát triển Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều mặt tiêu cực, mâu thuẫn với bản chất chủ nghĩa tư bản, đó là xu thế phân hoá giầu nghèo, phân tầng xã hội gay gắt, tâm lý sùng bái đồng tiền, vì đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức. Nó có nguy cơ tiềm tàng để phá vỡ hoặc mâu thuẫn trong mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể. Chính vì vậy có ý kiến cho rằng, không thể có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, rằng chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường không dung hợp với nhau, nếu đem “ghép” vào thì chẳng khác nào trộn dầu vào nước. Cũng có ý kiến nhấn mạnh một chiều những đặc trưng chung, những cái phổ biến của kinh tế thị trường, chưa thấy hết hoặc còn phân vân nghi ngờ về những đặc điểm riêng, những cái đặc thù của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó chưa tin vào kinh tế thị trường có thể phát triển trên cơ sở chế độ công hữu là nền tảng, kinh tế nhà nước là chủ đạo,… Lại có ý kiến băn khoăn cho rằng việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là trở về với chủ nghĩa tư bản, có thêm cụm từ “xã hội chủ nghĩa” là để “giữ vững lập trường” mà thôi, trước sau gì cũng trượt sang con đường chủ nghĩa tư bản. Tất cả những điều băn khoăn trên đều là dễ hiểu, bởi vì đây là điều còn rất mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, nếu không xác định rõ nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa và kiên trì vai trò quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường thì những điều trên rất dễ xảy ra. Vận dụng phép biện chứng duy vật, với tư cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, với 2 nguyên tắc phương pháp luận chung nhất đó là: trong nghiên cứu và giải quyết bất cứ một vấn đề nào cũng cần thiết phải đặt trong hệ thống các mối liên hệ phổ biến, trong quá trình vận động không ngừng và phải phân tích, giải quyết những mâu thuẫn một cách khoa học nhằm phát hiện và tạo động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, tôi đã lựa chọn đề tài: “Biện chứng của quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm tiểu luận của mình. Đề tài này sẽ chỉ rõ mối liên hệ phổ biến giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với các yếu tố khác trong nền kinh tế cũng như quá trình vận động phát triển không ngừng của kinh tế thị trường. Từ đó, hy vọng sẽ giải đáp được một phần băn khoăn trên. Kết cấu bài viết gồm 3 phần: Phần 1: Đặt vấn đề Phần 2: Giải quyết vấn đề Phần 3: Kết luận Trong giới hạn kiến thức còn hạn hẹp của mình, bài viết sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong được sự đóng góp của thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn. PHẦN 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2.1. Phát triển Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu xã hội. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Về cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.1.2. Sự ra đời và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam Theo nguyên tắc phát triển, mọi quá trình phát triển đều diễn ra một cách khách quan và tất yếu. Kinh tế thị trường thường gắn liền với chủ nghĩa tư bản, phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa không phải là vạn năng. Bên cạnh mặt tích cực nó còn có mặt trái, có khuyến tật từ trong bản chất của nó do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chi phối. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất thì mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản càng bộc lộ sâu sắc, không giải quyết được các vấn đề xã hội, đào sâu thêm hố ngăn cách giữa người giàu và người nghèo. Hơn thế nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, nó còn ràng buộc các nước kém phát triển trong quỹ đạo bị lệ thuộc và bị bóc lột. Chính vì thế, như Các Mác đã phân tích và dự báo chủ nghĩa tư bản tất yếu phải nhường chỗ cho một phương thức sản xuất và chế độ mới văn minh hơn, nhân đạo hơn. Chủ nghĩa tư bản mặc dù đang cố tìm mọi cách tự điều chỉnh, tự thích nghi nhưng do mâu thuẫn từ trong bản chất của nó nên bản thân nó không thể tự giải quyết được, có chăng chỉ tạm thời xoa dịu được chừng nào mâu thuẫn mà thôi. Vì vậy, nhân loại muốn tiến lên, xã hội muốn phát triển thì dứt khoát không thể dừng lại ở kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn mấy chục năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống nhân dân Liên Xô. Nhưng do nôn nóng, làm trái quy luật không kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu vào cuối những năm 80, đầu năm 90 của thế kỷ XX đã làm lộ rõ những khuyết tật mô hình kinh tế cứng nhắc phi thị trường. Việt Nam là một nước nghèo lạc hậu, trình độ kinh tế- xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Suốt một thời gian dài, Việt Nam cũng như nhiều nước khác đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô Viết, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhưng về sau mô hình này bộc lộ nhiều khuyết điểm, nguyên nhân sâu xa là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng quy luật khách quan. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước nhằm thực hiện có hiệu quả hơn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đưa ra quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là quan niệm về công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ, thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá và thị trường, phê phán triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, và khẳng định chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh. Hội nghị trung ương 6 (tháng 3- 1989), khoá VI, phát triển thêm một bước, đưa ra quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hoá có kế hoạch gồm nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội, coi chính sách kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tính quy luật từ sản xuất nhỏ lên chủ nghĩa xã hội. Đến đại hội VII, Đảng cộng sản Việt Nam tiếp tục nói rõ hơn chủ trương này và khẳng định đây là chủ trương chiến lược, là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đưa ra một kết luận hết sức quan trọng: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”, nhưng lúc đó cũng mới dùng từ kinh tế hàng hoá, cơ chế thị trường, chưa dùng khái niệm “kinh tế thị trường”. Phải đến đại hội IX của Đảng mới chính thức đưa ra khái niệm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Rõ ràng kinh tế thị trường đã phát triển trong thực tế và nó cũng đã được thừa nhận trong định hướng của Đảng ta. Như vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được khẳng định là tổn tại cả trong lý thuyết và thực tế. 2.1.3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, có sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Vị thế nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng. Sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém. Nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt: Đất nước đang gặp nhiều khó khăn, thách thức không thể xem thường. Xây dựng XHCN là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, phải từng bước xác lập, tạo ra những điều kiện, những tiền đề của CNXH, đồng thời tránh nguy cơ chệch hướng. Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hóa cụ thể. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hóa quy định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong CNXH đều tồn tại kinh tế thị trường, nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường XHCN dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng Cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xóa bỏ chế độ bóc lột, giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và CNXH, mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay; là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hóa lao động, cải tiến kỹ thuật - công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân... Đồng thời, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra. Nói kinh tế thị trường định hướng XHCN có nghĩa là nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung quan liêu; cũng không phải là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa; và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường XHCN. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của CNXH, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vừa mang tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt động trong khuôn khổ của những nguyên tắc và bản chất của CNXH. Theo nguyên lý biện chứng, phát triển chính là một quá trình thống nhất giữa khẳng định và phủ định. Chính vì vậy mà quá trình phát triển có tính chu kỳ, phát triển là kế thừa chứ không tách rời, trong cái cao hơn bao gồm cả nhân tố cũ đồng thời cũng thể hiện mặt mới. Đảng ta trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển của kinh tế thị trường thế giới đã đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, phù hợp với điều kiện và đặc điểm cụ thể của Việt Nam. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phải là một nền kinh tế thị trường chung chung mà nó vừa kế thừa, tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng như: Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện từng bước đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần. Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư nhân tư bản). Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại một cách khách quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phát triển kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung nền kinh tế của đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu. Trong nền kinh tế thị trường ở nước ta, tồn tại các hình thức phân phối thu nhập sau đây: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp, phân phối theo giá trị sức lao động (nó được thực hiện trong các doanh nghiệp tư bản tư nhân và các doanh nghiệp mà vốn đầu tư là của nước ngoài), phân phối thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao động được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện ngày nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “những thất bại của thị trường”. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa để kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Như vậy có thể nói, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức kinh tế của một xã hội đang trong quá trình chuyển biến từ nền kinh tế còn ở trình độ thấp sang nền kinh tế ở trình độ cao hơn hướng tới tiến bộ xã hội mới- xã hội xã hội chủ nghĩa. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng cộng sản Việt Nam về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Lựa chọn mô hình đi lên chủ nghĩa xã hội trên cơ sở vận dụng được ưu thế cũng như hạn chế được khuyết điểm của hai cơ chế là kế hoạch và thị trường. 2.2. Cơ sở phương pháp triết học để nhận thức đúng đắn về quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 2.2.1. Khái niệm phép biện chứng Kế thừa có phê phán chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử triết học, dựa chắc vào các thành tựu khoa học đương thời, Mác và Ăngghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đem lại cho phép biện chứng một sự phát triển mới về chất, đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật được Mác, Ăngghen khẳng định và được Lênin tiếp tục phát triển lên tầm cao mới, đã trở thành môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy con người. Đây là học thuyết toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự liên hệ phổ biến và sự phát triển. Hệ thống quy luật của phép biện chứng duy vật vừa là quy luật của thế giới khách quan, vừa là quy luật nhận thức của tư duy lô-gích. Đó là sự thống nhất trên cơ sở duy vật giữa phép biện chứng với lý luận nhận thức và lô-gích biện chứng. Đặc trưng nổi bật của phép biện chứng duy vật là tính cách mạng và khoa học, vì thế nó mang tính tự giác cao, có tác dụng trong việc chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động nhận thức và thực tiễn. Xét theo nội dung cấu trúc cơ bản, phép biện chứng duy vật khoa học bao gồm hai nguyên lý cơ bản: nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. 2.2.2. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật 2.2.2.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dùng để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Mối liên hệ được hiểu là sự thống nhất của 3 phương diện: tính quy định, quá trình tương tác và dẫn tới là quá trình biến đổi. Trong ba phương diện trên, tính quy định là cơ sở khách quan của các quá trình tương tác, quá trình tương tác là cơ sở, là nguyên nhân và quá trình biến đổi là hệ quả tất yếu. Nhưng trong quá trình nhận thức về mối liên hệ thì thường ngược lại: từ quan sát đến những sự biến đổi, trên cơ sở đó xác định nguyên nhân và sự tương tác có được là do tính quy định. Mối liên hệ phổ biến chính là những mối liên hệ của nó được thể hiện ở các mối liên hệ đặc thù trong mỗi trường hợp đặc thù, có hai tính chất cơ bản là tính khách quan và tính phổ biến. Tính khách quan là cái vốn có của các tồn tại thế giới, được hiểu là không có sự vật đồng nhất, giữa các sự vật hiện tượng không có tồn tại biệt lập tuyệt đối, còn tính phổ biến được hiểu trên ba nội dung sau: Thứ nhất: mọi sự vật hiện tượng, mọi lĩnh vực của thế giới luôn tồn tại các mối liên hệ và liên hệ phổ biến. Theo nghĩa đó cũng đồng thời có nghĩa là không có sự vật đồng nhất, đồng thời cũng không có sự tồn tại biệt lập giữa các sự vật. Thứ hai: với mỗi sự vật có vô vàn các mối liên hệ khác nhau bởi tính không giới hạn của những tính quy định, mỗi tính quy định là một sự tồn tại. Vậy sự tồn tại của nó là vô hạn, vì thế để nhận thức một đối tượng bao giờ cũng phải xét nó trong mối liên hệ. Thứ ba: mỗi sự vật biến đổi đều có thể dẫn tới những biến đổi khác. Như vậy có thể thấy, mối liên hệ phổ biến là cơ bản trong nhận thức khoa học. Theo nguyên tắc, khi nghiên cứu phải xem xét trên mọi mặt, mối liên hệ có thể có và có thể làm được, tránh những phiến diện trong phân tích một vấn đề cụ thể. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện khi xem xét các sự vật, hiện tượng. Quan điểm toàn diện trong phân tích hiện thực trở thành một trong những nguyên tắc quan trọng nhất của phương pháp biện chứng Mác-xít. Quan điểm này đòi hỏi chúng ta khi phân tích sự vật, hiện tượng phải tính toán đến các điều kiện không gian, thời gian, phải xem xét đầy đủ mối quan hệ qua lại đó với sự vật khác; phải nghiên cứu cả quá khứ, hiện tại và tương lai của nó. Quán triệt quan điểm biện chứng vào việc phân tích toàn diện các mối liên hệ của sự vật, hiện tượng giúp chúng ta nhận thức đúng bản chất của các sự vật, hiện tượng làm cơ sở cho việc xác định đường lối, nhiệm vụ, mục tiêu một cách đúng đắn, chỉ ra được nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản lâu dài và mục tiêu chủ yếu trước mắt; phối hợp chặt chẽ mọi hành động trong quá trình thực hiện, thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển hợp quy luật khách quan, điều kiện và khả năng khách quan. 2.2.2.2. Nguyên lý về sự phát triển Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường “xoáy ốc”, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng; đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển. Vận động và phát triển là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất, là đặc tính cố hữu của vật chất, gắn với mọi dạng vật chất bất kể trong điều kiện, hoàn cảnh nào. Sự phát triển là một kiểu vận động đặc biệt, được đặc trưng bởi tính xu hướng, tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Vì thế không phải sự vận động nào cũng được coi là sự phát triển. Nguyên lý về sự phát triển cung cấp cho ta phương pháp nhận thức khoa học về thế giới, chỉ cho chúng ta con đường đúng đắn để cải tạo tự nhiên và xã hội. Nếu phát triển là một quá trình đổi mới không ngừng thì nhiệm vụ của khoa học là phải nghiên cứu xem xét các sự vật, hiện tượng của thế giới đang vận động, biến đổi từ dạng này sang dạng khác, từ giản đơn đến phức tạp, từ thấp đến cao như thế nào. Điều đó đòi hỏi phải xem xét sự vật, hiện tượng trong sự phát triển; phải hành động để đưa đến sự phát triển của sự vật; phải thấy phát triển là quá trình trong đó tất yếu có sự ra đời của cái mới. Song sự diệt vong của cái cũ và sự ra đời của cái mới là cả một quá trình đấu tranh gay go, phức tạp. Vì thế phép biện chứng yêu cầu chúng ta phải hướng tới cái mới, phát hiện cái mới một cách nhạy bén, nhìn về tương lai phát triển của nó. Đồng thời trong phát hiện, hướng tới cái mới phải phân biệt cái mới thực sự với những cái giả danh để kịp thời ngăn chặn, loại trừ. Chỉ những cái nào ra đời hợp với quy luật, mang nội dung mới trên cơ sở kế thừa có chọn lọc loại bỏ cái cũ, có sự phát triển cao hơn về chất so với cái cũ thì mới được coi là cái mới. Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển của nhận thức. Đây là một khoa học triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất về sự liên hệ phổ biến và về sự phát triển của thế giới. Với bản chất cách mạng và khoa học, phép biện chứng đã, đang và sẽ tiếp tục cung cấp cho chúng ta hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận phổ biến, thực sự khoa học và có hiệu quả trong nhận thức và hoạt động thực tiễn xã hội nói chung, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn quân sự nói riêng. 2.3. Những mâu thuẫn trong quá trình chuyển đổi cơ chế cũ sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam Như chúng ta đã biết, kinh tế thị trường ở Việt Nam đang còn trong giai đoạn sơ khai, trình độ quản lý, hệ thống cán bộ cũng như cơ sở vật chất để tiếp cận nền kinh tế thị trường còn yếu, do vậy khó có thể tránh khỏi những mâu thuẫn trong quá trình phát triển, thể hiện ở một số mâu thuẫn sau: 2.3.1. Mâu thuẫn giữa cơ chế cũ và cơ chế mới Trải qua một thời gian dài nền kinh tế được điều khiển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên xuống dưới, các cơ quan hành chính kinh tế can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở, nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất đối với quyết định của mình,….đã tạo nên một phong cách làm việc trì trệ, thiếu trách nhiệm, sản xuất đình đốn. Chính vì vậy, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đã khiến nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn. Bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều cấp trung gian và kém năng động từ đó sinh ra một đội ngũ cán bộ kém năng lực quản lý, nhưng phong cách thì cửa quyền quan liêu, dẫn đến sự phát triển của nền kinh tế. Hoạt động sản xuất của các cơ quan nhà nước khi chuyển sang nền kinh tế thị trường không bắt kịp nhịp độ sản xuất do máy móc cũ kỹ lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém không so sánh được các hàng hoá nhập ngoại và các xí nghiệp liên doanh. Mặt khác, nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên cho con người thói quen làm việc rề rà, sản xuất kém năng động đã cản trở sự phát triển nền kinh tế thị trường Mô hình kinh tế cũ- kinh tế chỉ huy, mà điển hình là nền kinh tế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp có ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục tiêu chủ yếu, nhưng nó lại thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ khoa học- kỹ thuật, làm triệt tiêu tính năng động sáng tạo của đơn vị kinh tế, hình thành cơ chế kìm hãm sự phát triển kinh tế- xã hội, vì vậy việc giải quyết mâu thuẫn này cũng là để tạo sự phát triển vững mạnh cho nền kinh tế. 2.3.2. Mâu thuẫn giữa tính tự phát của sự phát triển kinh tế trường với định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường gắn liền với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản. Tối đa hoá lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà tư bản bằng cách gia sức bóc lột sức lao động của công nhân làm thuê, do đó đã gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế, là việc cạnh tranh không lành mạnh sinh ra độc quyền dẫn đến sự thôn tính của các công ty lớn với công ty nhỏ bằng các thủ đoạn khác nhau. Với sự phát triển của kinh tế thị trường thị quyền lực nhà nước rất dễ bị lấn át, lũng đoạn bởi các tập đoàn tài chính, những công ty lớn tập trung mọi quyền lực trong tay. Để giữ vững được việc kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước đã lựa chọn là xã hội không có bất công, không có sự phân hoá giầu nghèo, mọi người được bình đẳng với nhau,….đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của Đảng, vai trò quản lý tích cực của Nhà nước, tính tự giác của các chủ thể trong nền kinh tế, khắc phục sự chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư, để nền kinh tế vận hành theo sự phát trỉển kinh tế thị trường mà vẫn đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.3.3. Mâu thuẫn giữa mặt tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường Như đã biết, trong nền kinh tế thị trường có một loạt những quy luật kinh tế vốn có của nó như: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh,…Các quy luật đó đều biểu hiện sự hoạt động của mình thông qua giá cả thị trường. Nhờ sự vận động của mình thông qua giá cả mà diễn ra một sự thích ứng một cách tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất (tổng cung) với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã hội (tổng cầu), tức là sự hoạt động của các quy luật đó đã điều tiết nền sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà không có cơ chế nào hoàn toàn thay thế được, đó là: Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển năng động và hiệu quả. Sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giữa tổng cung và tổng cầu, nhờ đó có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng ngàn, hàng vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiện một công việc rất lớn, có khi không thực hiện được và đòi hỏi chi phí cao trong quá trình ra các quyết định. Cơ chế thị trường kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến mức tối thiểu bằng cách áp dụng phương pháp sản xuất tốt nhất như không ngừng đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả. Cơ chế thị trường thực hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu. Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản xuất, vốn đều tuân thủ nguyên tắc của thị trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lực kinh tế sẽ được phân bổ một cách tối ưu. Sự điều tiết của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước những điều kiện kinh tế biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất với nhu cầu xã hội. Nhờ có những ưu điểm và tác dụng đó, c._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0130.doc
Tài liệu liên quan