Lời mở đầu
Trong những năm gần đây Việt Nam đã và đang hòa nhập với nền kinh tế thế giới, và hoạt động thương mại quốc tế đã trở thành hoạt động mang tính chất sống còn cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Thương mại quốc tế bao gồm hai hoạt động chính đó là xuất khẩu và nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu giúp phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Còn hoạt động nhập khẩu giúp cung cấp những yếu tố cần thiết đảm bảo cho quá trình sản xuất tron
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1730 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g nước được liên tục và có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa của đất nước mà nền sản xuất trong nước chưa đáp ứng được. Thêm vào đó, nhập khẩu cũng cho phép có thể đi tắt, đón đầu, tiếp thu khoa học công nghệ tiên tiến của các nước phát triển từ đó có cơ hội rút ngắn khoảng cách, bắt kịp trình độ của các nước phát triển, tạo động lực thúc sự chuyển dịch của nền kinh tế theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Trước những vai trò vô cùng quan trọng trên của nhập khẩu thì việc hoàn thiện và đẩy mạnh công tác nhập khẩu là rất quan trọng và cần thiết nó giúp cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới.
Qua một thời gian thực tập tại Công ty TNHH thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu, tôi đã có những tìm hiểu về hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty và thấy rằng hoạt động nhập khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trên tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. Từ đó, tôi quyết định tìm tòi, nghiên cứu sâu hơn về hoạt động này của Công ty và thấy rằng Công ty đã đạt được rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đã đạt được, Công ty vẫn còn một số tồn tại nhất định cần giải quyết để hoạt động nhập khẩu ngày càng hoàn thiện và có hiệu quả hơn. Xuất phát từ vai trò quan trọng của nhập khẩu với nền kinh tế nói chung và với Công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK cùng với những kiến thức đã học, tôi đã đi sâu vào nghiên cứu và lựa chọn đề tài : “Các giải pháp hoàn thiện hoạt động nhập khẩu tại công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK” làm Chuyên đề thực tập.
Chuyên đề bao gồm 3 phần chính:
Chương 1. Lý thuyết về hoạt động nhập khẩu trong doanh nghiệp thương mại.
Chương 2. Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK.
Chương 3. Các giải pháp thúc đẩy hoạt động NK tại công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK.
Trong quá trình viết chuyên đề thực tập, tôi đã nhận được sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của Tiến sĩ Nguyễn Thị Tuyết Mai, sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn thể cán bộ kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, do thời gian thực tập ngắn và kiến thức có hạn, bản chuyên đề không thế tránh khỏi những khiếm khuyết, tôi rất mong sẽ nhận được những ý kiến đóng góp của thầy, cô, và các cán bộ kinh doanh của công tynhằm giúp cho bài viết này được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn.
Chương 1
Lý thuyết về hoạt động nhập khẩu trong doanh nghiệp thương mại
Khái niệm nhập khẩu.
Theo điều 28 Luật Thương mại Việt Nam 2006. Nhập khẩu hàng hoá là việc hàng hoá được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lanh thổ Việt Nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật. Dựa trên nguyên tắc ngang giá lấy tiền tệ làm môi giới để thu lại lợi ích cho các bên. Đây là hoạt động kinh doanh trên pham vi quốc tế và là một hệ thông các quan hệ mua bán phức tạp, có tổ chức.
Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia với nền kinh tế thế giới đặc biệt là trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay làm cho sự ảnh hưởng của từng quốc gia với nhau và của từng khu vực kinh tế thế giới ngày một tăng.
Khi tiến hành hoạt động nhập khẩu doanh nghiệp có thể hiểu biết thêm về đối tác, thị trường nước ngoài, giá cả, các phương thức mua bán để từ đó nhận biết được những mặt hàng nhập khẩu phù hợp với nhu cầu trong nước và tiềm lực của doanh nghiệp, từ đó có chiên lược nhập khẩu thích hợp và thu lợi nhuận.
Các phương thức nhập khẩu thường được sử dụng bao gồm : nhập khẩu trực tiếp, nhập khẩu bù trừ, nhập khẩu ủy thác.
Các đặc điểm cơ bản của hoạt động nhập khẩu:
Các đặc điểm cơ bản:
Thị trường: Thị trường nhập khẩu rất đa dạng và biến động không ngừng, doanh nghiệp có thể tiến hành hoạt động nhập khẩu hàng hóa từ nhiều thị trường khác nhau dựa trên lợi thế so sánh của từng nước. Do vậy doanh nghiệp cần có hoạt động nghiên cứu thị trường hiệu quả để lực chọn đối tác kinh doanh phù hợp và mang lại lợi nhuận cao nhất cho công ty.
Phương thức thanh toán: Để tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu thuận tiện doanh nghiệp có thể lựa chọn nhiều phương thức thanh toán khác nhau : phương thức nhờ thu, phương thức chuyển tiền, phương thức tín dụng chứng từ… dựa trên các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng nhập khẩu giữa các bên. Bên cạnh đó, doanh nghiệp luôn cần quan tâm tới sự biến động của tỷ giá hối đoái để hoạt động nhập khẩu đạt được hiệu quả cao nhất.
Vận chuyển: Hàng hóa được nhập khẩu phải trải qua những quãng đường vận chuyển dài với những địa hình khác nhau do vậy có thể được vận chuyển bằng nhiều phương thức: đường sắt, đường bộ, đường biển, đường hàng không… Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp phải chịu khoản chi phí lưu thông không nhỏ.
Hoạt động nhập là hoạt động mua bán có sự tham gia của nhiều đối tác với các quốc tịch khác nhau do vậy chịu sự chi phối của hệ thống luật pháp và các thủ tục liên quan của nhiều quốc gia khác nhau. Để hoạt động nhập khẩu được tiến hành thuận lợi thì đòi hỏi các doanh nghiệp phải tuân thủ vô điều kiện các quy định về thủ tục nhập khẩu và luật pháp của nước nhập và nước đối tác.
Khi tham gia vào thị trường quốc tế, doanh nghiệp được tiếp cận với một lượng thông tin về thị trường, hàng hóa, đối tác, … khổng lồ. Những thông tin này luôn biến động và ảnh hưởng đên hoạt động nhập khẩu. Vì vậy để tối thiểu hóa chí phí, thời gian cũng như rủi ro trong hoạt động nhập khẩu Doanh nghiệp phải biết nắm bắt và xử lý thông tin thu được kip thời và chính xác.
Vai trò của nhập khẩu:
Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của hoạt động ngoại thương. Nhập khẩu tác động trực tiếp và gián tiếp đến sản xuất và đời sống trong nước. Trong xu thế quốc tế hóa,toàn cầu hóa hiện nay vai trò của nhập khẩu đối với nền kinh tế ngày càng được khẳng định. Cụ thể:
Nhập khẩu cho phép khai thác thế mạnh, tiềm năng của từng quốc gia, giúp bổ sung những hàng hóa và dịch vụ mà trong nước sản xuất không hiệu quả hoặc không sản xuất. Do vậy nhập khẩu giúp cho thị trường hàng hóa trong nước hoạt động sôi nổi hơn và đa dạng, phong phú hơn về quy cách chủng loại sản phẩm.
Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa thông qua việc tiếp thu tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ trên thế giới để theo kịp các nước tiên tiến,. Thêm đó, hoạt động nhập khẩu còn giúp kịp thời bổ sung những mặt mất cân đối của nền kinh tế từ đó đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Nhập khẩu có vai trò tích cực cho sự phát triển của sản xuất trong nước thông qua cạnh tranh giữa sản phẩm được nhập khẩu và những sản phẩm cùng loại được sản xuất trong nước.
Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, do nó giúp cho người tiêu dùng có cơ hội tiêu dùng nhiều hàng hóa hơn, với chi phí thấp hơn. Thêm vào đó nhập khẩu còn giúp đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo công ăn việc làm ổn định cho người lao động.
Tóm lại, hoạt động nhập khẩu là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và thế giới tạo điều kiện cho phân công lao động quốc tế, đưa nền kinh tế trong nước trở thành 1 bộ phận của hệ thống kinh tế thế giới.
Đối với doanh nghiệp, hoạt động nhập khẩu cũng đóng vai trò quan trọng:
Hoạt động nhập khẩu là nguồn cung cấp hàng hóa kinh doanh cho doanh nghiệp tại thị trường trong nước.
Nhập khẩu cung cấp nguyên liệu phong phú về giá cả, chất lượng, số lượng cho các doanh nghiệp, đặc biệt trong trường hợp khan hiếm nguyên vật liệu cho sản xuất. bên cạnh đó, nhập khẩu cũng là một nguồn để cung cấp và trang bị cho doanh nghiệp các công nghệ sản xuất với kỹ thuật tiên tiến, hiệu quả và hiện đại.
Mỗi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh doanh nhập khẩu thông qua việc nghiên cứu thị trường sẽ nắm bắt được các thông tin về mặt hàng, chủng loại, thị trường tiêu thụ hàng hóa, thị trường nhập khẩu. Từ đó, doanh nghiệp xây dựng được chiến lược nhập khẩu thích hợp và thu được lợi nhuận cao nhất.
Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu.
Hoạt động kinh doanh nhập khẩu của doanh nghiệp chịu tác động của nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài theo nhiều phương thức khác nhau.Việc tìm hiểu các yếu tố tác động đến hiệu quả kinh doanh nhập khẩu tạo cơ sở cho doanh nghiệp đưa ra được các biện pháp, chiến lược thích hợp tác động vào các yếu tố đó nhằm mục đích nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Nhóm các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp:
Nhóm yếu tố môi trường
1.1.1 Môi trường luật pháp trong nước và quốc tế.
Môi trường luật pháp trong nước và quốc tế là những yếu tố mà khi tham gia kinh doanh phải nắm vững và tuân thủ vô điều kiện. Hoạt động nhập khẩu là một hoạt động kinh doanh phức tạp và nó chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật pháp của các quốc gia khác nhau với những quy định định đôi khi mâu thuẫn với nhau. Tại mỗi quốc gia những quy định về thuể quan, hạn ngạch, những thủ tục phải thực hiện để thực hiện hoạt động nhập khẩu, những quy định về mặt hàng được phép kinh doanh… quyết định đến sự khó khăn, thuận lợi của doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh. Nắm chắc hệ thống luật pháp của từng quốc gia, khu vực, hiệp định giữa các nước mới cho phép doanh nghiệp đưa ra những quyết định, lựa chọn đúng đắn trong hoạt động kinh doanh quốc tế nhằm giảm thách thức, hạn chể rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
1.1.2 Chính trị
Chính trị, bao gồm môi trường chính trị trong nước và quốc tế, là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thương mại quốc tế. Nếu môi trường chính trị ổn định sẽ khuyến khích môi trường kinh doanh và tăng cường hợp tác quốc tế trong nhiều lĩnh vực, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong kinh doanh, giảm bớt rủi ro về chính trị như: trưng thu tài sản, quốc hữu hóa tài sản, đảo chính… Chính trị ổn định là sự đảm bảo cho doanh nghiệp khi tiến hành giao dịch với các đối tác nước ngoài. Có thể nói chính trị ảnh hưởng đến sự ổn định của nguồn cung cấp hàng nhập khẩu cho các doanh nghiệp do vậy những biến động chính trị ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của mỗi công ty.
1.1.3 Môi trường kinh tế.
Doanh nghiệp tiến hành hoạt động nhập khẩu chịu tác động và ảnh hưởng của sự ổn định hay biến động của nền kinh tế trong nước và của thế giới nói chung. Nếu nền kinh tế phát triển và tăng trưởng ổn định sẽ tạo ra môi trường kinh doanh tốt thúc đẩy hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tiếp theo phải kể đến sự phát triển của nền sản xuất trong và ngoài nước vì nếu nền sản xuất trong nước không phát triển, sự cạnh tranh của hàng hóa trong nước trước sự xâm nhập của hàng hóa nhập khẩu yếu, điều này làm cho hoạt động nhập khẩu của các doanh nghiệp tăng lên đặc biệt với những mặt hàng mang tính công nghệ - kỹ thuật cao mà nên sản xuất trong nước chưa đủ sức cung ứng. Bên cạnh đó, khi một quốc gia gia nhập các tổ chức quốc tế như WTO, APEC,ASEAN,… đều tạo ra những cơ hội cho sự phát triển kinh tế của nước mình. Các doanh nghiệp nhập khẩu sẽ có điều kiện tiếp xúc với nhiều bạn hàng, tìm được nhiều nguồn cung cấp đầu vào với giá cả hợp lý, chất lượng tốt đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, do đó nâng cao hiệu quả nhập khẩu. Mức độ lạm phát của nền kinh tế cũng là yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu. Nếu lạm phát cao sẽ khiến cho đồng nội tế mất giá từ đó tỷ giá hối đoái sẽ làm tăng giá cả của hàng hóa nước ngoài một cách tương đối và nó có thể làm tăng gánh nặng nợ nần cho các doanh nghiệp khi chi phí nhập khẩu tăng lên từ đó làm giảm hiệu quả nhập khẩu. Do đặc trưng của hoạt động nhập khẩu là liên quan đến yếu tố nước ngoài đặc biệt là sử dụng ngoại tệ để thanh toán cho hàng nhập khẩu. Ngoài ra, môi trường kinh tế còn bao gồm các vấn đề sau:
Vấn đề về tốc độ tăng trưởng:Nền kinh tế tăng trưởng sẽ làm gia tăng các nhu cầu đầu tư về nguyên liệu, máy móc cho sản xuất và hàng tiêu dùng điều này mang lại cơ hội lớn cho các doanh nghiệp tăng cường khả năng đầu tư cung cấp hàng hóa ra thị trường để thu được lợi nhuận cao hơn.
Cung cầu của thị trường: Đây là yếu tố tác động lớn nhất đến số lượng, chất lượng hàng hóa mỗi doanh nghiệp cần cung cấp ra thị trường. Khi cung hàng hóa nhiều hơn cầu thì doanh nghiệp sẽ thu được ít lợi nhuận hơn do phải cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, lợi nhuận thu về không lớn. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, điều này khiến các công ty phải cắt giảm sản lượng hàng hóa cung ứng ra thị trường để tránh các rủi ro. Ngược lại khi cầu lớn thể hiện tiềm năng của thị trường đối với các sản phẩm. Cầu thị trường về số lượng, chất lượng hàng hóa sẽ thúc đẩy các công ty tăng khả năng thích ứng, đổi mới và đáp ứng nhu cầu thị trường từ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn, đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước.
Lợi thế kinh tế của một quốc gia: Mỗi quốc gia luôn có lợi thế riêng trong hoạt động kinh tế như về: tài nguyên, lao động, công nghê, chính sách… Những lợi thế này giúp cho quốc gia đó có thể chuyên môn hóa cung cấp các loại sản phẩm ra thị trường với giá cả thấp hơn so với những quốc gia khác và thu được nhiều lợi ích hơn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có thể tiến hành đầu tư làm ăn lâu dài và ổn định. Các công ty hoạt động trong lĩnh vực này phải biết tận dụng các lợi thế đó để sáng tạo, duy trì lợi thế cạnh tranh trên một lĩnh vực nào đó
1.1.4 Văn hóa.
Văn hóa là phạm trù dùng để chỉ các giá trị, tín ngưỡng, lệ và thể chế do một nhóm người xác lập nên. Hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh thương mại quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp phải tiếp cận với những nền văn hóa khác so với những gì đã quen thuộc. Do vậy, khi tham gia vào hoạt động ngoại thương thì các cá nhân, tổ chức cần có sự am hiểu nhất định về văn hóa tại thị trường mà mình định tham gia kinh doanh. Hiểu biết về nền văn hóa của mỗi quốc gia sẽ giúp nâng cao khả năng quản lý nhân viên, tiếp thị sản phẩm và tiến hành đàm phán với các đối tác. Sự khác biệt về văn hóa khiến cho các hoạt động kinh doanh quốc tế phải điều chỉnh sao cho phù hợp với thị trường ở từng quốc gia. Mỗi sản phẩm được đem xâm nhập vào thị trường quốc tế cần có những đặc đính phù hợp với nhu cầu tại địa phương đó. Am hiểu văn hóa địa phương giúp hoạt động thương mại quốc tế gần gũi hơn với nhu cầu và mong muốn của khách hàng, do đó sẽ nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa.
Ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong nên văn hoá của từng quốc gia, nó cung cấp cho các nhà sản xuất kinh doanh phương tiện quan trọng để giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế. Khi tiến hành đàm phán kinh doanh tiến hành ký kết hợp đồng nhập khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp và đối tác phải sử dụng một thứ ngôn ngữ chung, việc hiểu biết nhiều loại ngôn ngữ khác nhau giúp doanh nghiệp nhập khẩu có thể tiến hành đàm phán, làm ăn với nhiều đối tác khác nhau. Thêm vào đó, trong quá trình thương thảo hợp đồng việc hiểu biết ngôn ngữ của đối tác sẽ giúp doanh nghiệp tránh được các rủi ro do hai bên không ngôn ngữ của nhau và hợp đồng được thực hiện hiệu quả hơn, tránh các tranh chấp có thể xảy ra. Việc hiểu biết tiếng nước ngoài đồng nghĩa với việc hiểu biết về phong tuc, lễ nghi, cách ứng xử của đối tác giúp cho doanh nghiệp linh hoạt hơn trên bàn đàm phán cũng như trong hoạt động buôn bán, làm ăn. Do đó, với mỗi công ty xuất nhập khẩu cần phải biết nhiều ngoại ngữ để đạt được thành công trong hoạt động kinh doanh
Môi trường ngành và cạnh tranh.
Trong một ngành thường có rất nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh một loại mặt hang hoặc một nhóm các mặt hàng giống nhau. Sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp cùng kinh doanh trong một ngành sẽ tạo ra một sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp, đội khi là vấn đề sống còn của từng doanh nghiệp. Sự cạnh tranh này có tác động tích cực là thúc đẩy sự phát triển và ngày càng hoàn thiện hơn trong hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó nó cũng tạo ra những thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp, đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng vươn lên, khẳng định vị thế của mình nếu muốn tồn tại và phát triển.
Khách hàng
Tất cả mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Đây chính là những người trả lương, trực tiếp mang lợi nhuận và do vậy quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp. Họ tác động, gây áp lực đến các công ty bằng cách giảm giá, giảm khối lượng hàng hóa, đòi hỏi chất lượng cao hơn với mức giá không đổi. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì vai trò của khách hàng ngày càng được nhấn mạnh hơn. Công ty nào càng đáp ứng được tốt lợi ích, nhu cầu của khách hàng thì họ càng nhận được sự ủng hộ, trung thành từ khách hàng và thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Khả năng cung ứng của nhà cung ứng
Người cung cấp có thể gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua các hoạt động vừa tăng giá, giảm chất lượng hàng hóa và dịch vụ. Những nhà cung cấp có mức độ chi phối thị trường lớn có khả năng chi phối đến giá cả, chiến lược, và các điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp. Thêm vào đó, những nhà cung cấp có sự khác biệt hóa cao khiến cho các doanh nghiệp khó có sự thay đổi cách lựa chọn của mình và chấp nhận các ràng buộc của nhà cung cấp. Do vậy sự tác động của nhà cung ứng đến doanh nghiệp có ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Nhóm các yếu tố bên trong doanh nghiệp.
2.1. Tiềm lực tài chính và cơ sở vật chất của doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp muốn tiến hành hoạt động kinh doanh phải có cơ sơ vật chất, tư liệu lao động và đặc biệt là vốn hay chính là tiềm lực tài chính. Cơ sở vật chất bao gồm nhà xưởng, kho tang, bến bãi… dùng làm nơi bảo quản, giữ gìn hàng hóa, các phương tiện cần thiết cho doanh nghiệp kinh doanh. Doanh nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại sẽ tiết kiệm được chi phí, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh. Cơ sở vật chất là nền tảng và là công cụ để con người sử dụng trong hoạt động kinh doanh, tiềm lực tài chính giúp doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh. Nguồn vốn có vai trò quyết định trong hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. Sự chủ động của nguồn vốn đảm bảo khả năng thanh toán cho hoạt động nhập khẩu và mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn. Có thể nói tiềm lực tài chính thể hiện sức manh của doanh nghiệp trên thị trường và giúp doanh nghiệp đối phó linh hoạt hơn trước các tình huống kinh doanh.
2.2 . Yếu tố con người.
Nguồn nhân lực là yếu vô cùng quan trọng nhất quyết định đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Con người chính là người ra đa quyết định việc diễn ra và thực hiện hoạt động nhập khẩu. Chính những hoạt động của con người quyết định đến sự thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp. Do vậy muốn nâng cao hiệu quả hoạt động nhập khẩu thì đòi hỏi mỗi doanh nghiệp cần có đội ngũ nhân sự giỏi, dày dạn kinh nghiệm, đội ngũ lãnh đạo cáo tài dùng người và công tác đào tạo nguồn nhân lực hiệu quả, thường xuyên cập nhật các kiến thức và tiến bộ mới cho nhân viên.
Chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua vai trò của nó đối với các hoạt động của doanh nghiệp. Chiến lược giúp doanh nghiệp xây dựng được định hướng phát triển và có được tầm nhìn lâu dài về tương lai, đặc biệt là trong hoạt động xuất nhập khẩu. Khi xây dựng chiến lược, doanh nghiệp sẽ thấy được điểm mạnh, điểm yếu của mình và cơ hội, thách thức đang chờ đón từ đó có những giải pháp thích hợp để kinh doanh thương mại có hiệu quả, lợi nhuận cao và tránh được các rủi ro. Chiến lược kinh doanh giúp chó hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế của doanh nghiệp vào nề nếp, có trật tự, tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh diễn ra ổn định do đó phát huy được khả năng sáng tạo, năng động của từng thành viên và các bộ phận trong doanh nghiệp. Chiến lược đúng đắn sẽ tạo điều kiện quy tụ và phát huy được khả năng sáng tạo và tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thị trường. Bên cạnh đó, chiến lược kinh doanh còn là điều kiện để các doanh nghiệp hội nhập và liên kết có hiệu quả trong môi trường kinh doanh đầy biến động, cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Tóm lại, với những vai trò quan trọng như trên, chiến lược kinh doanh sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả các hoạt động kinh doanh và tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Nội dung của hoạt động nhập khẩu.
Nghiên cứu thị trường và lập các phương án nhập khẩu hàng hóa.
1.1. Nghiên cứu thị trường
Nghiên cứu thị trường luôn là hoạt động đầu tiên mà mỗi doanh nghiệp phải tiến hành thực hiện khi muốn tham gia vào thị trường, đặc biệt đối với các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế. Mục đích của hoạt động động này là giúp doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin chính xác về các loại hàng hóa, dịch vụ, khả năng cung ứng, giá cả, khả năng thanh toán và nhu cầu của thị trường trong nước và nước ngoài. Đặc trưng cơ bản của thị trường quốc tế đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đó là sự biến động theo không gian, thời gian; sự khác biệt về văn hóa, hệ thống chính trị luật pháp và các yếu tố do môi trường địa lý quy định do đó nó chứa đựng nhiều rủi ro cao đối với hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, vì vậy các doanh nghiệp cần phải am hiểu luật pháp, văn hóa tại từng thị trường khác nhau thông qua đó doanh nghiệp có được đầy đủ các thông tin, cơ sở để tiến hành giao dịch và đàm phán với các đối tác nước ngoài có hiệu quả nhất.
Doanh nghiệp xuất nhập khẩu- song song tiến hành nghiên cứu thị trường tiêu thu hàng hóa nhập khẩu trong nước và thị trường cung ứng quốc tế. Kết quả của việc nghiên cứu thị trường trong nước mang lại cho doanh nghiệp đầy đủ các thông tin về loại sản phẩm cần cung ứng, dung lượng thị trường, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng, lượng cung hiện tại, những nhu cầu thiếu hụt cần được đáp ứng, đối thủ cạnh tranh… Hoạt động nghiên cứu thị trường nội địa được tiến hành có hiệu quả sẽ mang lại cho doanh nghiệp những thông tin sát thực nhất về lượng cầu và lượng cung hiện tạo cũng như tương lai của thị trường từ đó giúp cho việc lập kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp có khả năng thành công cao hơn.
Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường tiêu thụ nội địa thì việc nghiên cứu về thị trường cung ứng quốc tế giữ vai trò không kém phần quan trọng. Thị trường nước ngoài phức tạp hơn nhiều đối với thị trường nội địa do có sự khác biệt về chính trị- kinh tế- văn hóa- xã hội- luật pháp- phong tục tập quán… Hoạt động nghiên cứu thị trường quốc tế sẽ giúp cung cấp cho doanh nghiệp những thông tin về nguồn hàng, sự ổn định của nguồn cung ứng, giá cả, các loại mặt hàng được phép kinh doanh, chất lượng hàng hóa, chi phí chuyên chở, các thủ tục xuất nhập khẩu cần phải tiến hành, tỷ giá hối đoái… Đây là hoạt động rất quan trọng vì nó sẽ cung cấp cơ sở cho doanh nghiệp xây dựng các phương án nhập khẩu hàng hóa, giao dịch và đàm phán với đối tác nước ngoài, tạo các mối quan hệ làm ăn lâu dài, xác định được giá cả hàng hóa, chi phí và lợi nhuận thu được. Từ đó nó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng canh tranh và tồn tại của doanh nghiệp tại thị trường trong nước
Nội dung nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu mặt hàng nhập khẩu để tìm ra các sản phẩm đáp ứng được nhu cầu trong nước cũng như phù hợp với điều kiện và tiểm lực tài chính của Doanh nghiệp.
Nghiên cứu thị trường nội địa và các yếu tố ảnh hưởng tới dung lượng thị trường.
Nghiên cứu giá hàng hóa nhập khẩu và giá hàng hóa trong nước.
Nghiên cứu nguồn cung ứng và sự biến đổi của môi trường kinh doanh.
Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh để có thế đưa ra những chiến lược tối ưu tận dụng điểm yếu, hạn chế điểm mạnh của đối thủ để vươn lên chiếm lĩnh thị trường.
1.2. Lập phương án nhập khẩu hàng hóa.
Sau khi tiến hành nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước doanh nghiệp đã nắm cơ bản tình hình thực tế của thị trường và từ đó doanh nghiệp tiến hành lập phương án kinh doanh nhập khẩu nhằm thực hịên mục tiêu kinh doanh của mình. Để đạt được lợi nhuận tối đa, giảm được rủi ro doanh nghiệp cần phải lập ra phương án nhập khẩu tối ưu nhất. Các bước xây dựng phương án nhập khẩu hàng hóa:
Phân tích môi trường kinh doanh để lựa mặt hàng nhập khẩu: trong bước này doanh nghiệp, sau khi tiến hành phân tích nhu cầu, khả năng thanh toán của thị trường cũng như điều kiện kinh doanh của công ty, phải xác định rõ được mặt hàng, giá cả, nhãn hiệu, quy cách phẩm chất của hàng hóa, bao bì đóng gói, khối lượng hàng hóa dự định sẽ kinh doanh.
Xác định mục tiêu cụ thể về doanh số, lợi nhuận, các mục tiêu an toàn, chi phí từ đó đưa ra mức giá bán hợp lý và có tính cạnh tranh.
Xây dựng hàng loạt những phương án nhập khẩu: tại bước này doanh nghiệp cần phải lập kế hoạch cụ thể về lựa chọn nguồn cung cấp hàng hóa, hình thức nhập khẩu, phương thức thanh toán, phương thức chuyên chở, các điều kiện giao nhận hàng hóa, các điều khoản thỏa thuận trong hợp đồng, thời gian ký kết hợp đồng…
Lựa chọn phương án nhập khẩu tối ưu: từ những phương án đã được xây dựng ở bước trước doanh nghiệp sẽ tiến hàng lựa chọn phương án nhập khẩu tối ưu nhất sao cho có thể đạt được lợi nhuận cao nhất với chi phi thấp nhất mà vẫn đảm bảo chất lượng của hàng hóa.
Tổ chức công tác nhập khẩu hàng hóa.
Sau khi lập được phương án kinh doanh khả thi thì tiếp theo doanh nghiệp sẽ phải tiến hành công tác tổ chức nhập khẩu hàng hóa. Công tác tổ chức nhập khẩu hàng hóa thường bao gồm các công việc sau:
Đàm phán ký kết hợp đồng: Đàm phán là một quá trình trao đổi nhằm đi đến thống nhất về nội dung và một số điều kiện của hoạt động mua bán trong kinh doanh ngoại thương. Ký kết hợp đồng ngoại thương là hoạt động xác nhận những nội dung và nhữgn điều kiện mua bán đã được thống nhất dưới dạng những văn bản theo những điều khoản và điều kiện. Đặc biệt chú ý tới các điều khoản về: tên hàng, giá cả, số lượng, chất lượng, chủng loại, phương thức thanh toán, phương thức giao nhận, chuyên chở…
Xin giấy phép nhập khẩu: Giấy phép nhập khẩu là tiền đề quan trọng về mặt pháp lý để tiến hành các khâu khác cảu chuyển hàng nhập khẩu. Tuy theo chủng loại mặt hàng và quy định của mỗi quốc gia mà cách thức tiến hành xin giấy phép nhập khẩu khác nhau. Bộ hồ sơ xin giấy phép đối với những hàng hóa thông thường, có yêu cầu phải xin giấy phép phải gửi cho Bộ Thương mại, đối với những loại hàng hóa đặc biệt có sự quản lý chặt chẽ về mặt chuyên môn phải gửi cho các cơ quan ngang Bộ chuyên môn.
Làm thủ tục xác nhận thanh toán: Doanh nghiệp nhập khẩu hàng hóa có thể tiến hành thanh toán tiền hàng cho nhà cung cấp thông qua nhiều phương thức thanh toán khác nhau như thanh toán bằng tiền mặt, chuyển tiền, phương thức nhờ thu, phương thức thư tín dụng… Phương thức thanh toán sẽ được ghi rõ trong hợp đồng nhập khẩu hàng hóa, từ đó doanh nghiệp sẽ tiến hành thanh toán theo các thủ tục ứng với từng phương thức.
Thuê tàu ( nếu có ), mua bảo hiểm cho hàng hóa ( nếu trong hợp đồng ký kết không quy định người bán phải mua bảo hiểm cho hàng hóa ).
Tổ chức giao nhận hàng hóa: Liên hệ với cảng biển, chủ tàu, đại lý vận tải: trực tiếp nhận hàng và giao hàng lên phương tiện vận chuyển trong nội địa đưa về kho bãi.
Làm thủ tục hải quan, tiến hành kiểm tra hàng hóa.
Thanh toán (chỉ đúng trong phương thức nhờ thu, tất cả các phương thức khác đều phải thanh toán muộn nhất là khi có chứng từ chưáng tỏ đã giao hàng lên tàu)
Khiếu nại: Khi có dấu hiệu hư hỏng hàng hóa hoặc có sai lẹch so với hợp đồng thì doanh nghiệp sẽ tiến hành khiếu nại về hàng hóa.
Tổ chức triển khai bán hàng nhập khẩu.
Sau khi hàng hóa được đưa về kho thì doanh nghiệp sẽ tiến hành bán hàng, giao hàng cho các đơn vị đã đặt hàng. Hoạt động này được tiếnhàng càng nhanh thì việc thu hồi vốn và tốc độ quay vòng vốn của doanh nghiệp càng nhanh do đó giúp doanh nghiệp có thể tiết kiệm các chi phí về kho bãi, chi phí bán hàng và tăng lợi nhuân thu được. Các hoạt động trong khâu này bao gồm:
3.1. Định giá hàng bán
Đây là một công cụ mà doanh nghiệp có thể sử dụng để kiểm soát và thực hiến mục tiêu kế hoạch kinh doanh., đặc biệt là đối với thị trường Việt Nam là nơi chỉ cần có một sự thay đổi nhỏ về giá có thể tạo ra sự thay đổi lớn về cầu hàng hóa của doanh nghiệp và gây ảnh hưởng lớn tới khả năng canh tranh của hàng hóa trên thị trường. Việc định giá sản phẩm phải dựa vào mức giá trên thị trường, phù hợp với khả năng thanh toán của khách hàng và có tác dụng kích thích nhu cầu mua hàng. Để đưa ra được mức giá hợp lý có thể chấp nhận được đối với người mua, đảm bảo được lợi nhuận thì khi tiến hành tính giá doanh nghiệp cần phải phân tích kỹ và hài hòa các yếu tố ảnh hưởng đển giá như: chi phí, quyết định mua của khách hàng, mức giá của đối thủ, mục tiêu lợi nhuận của doanh nghiệp,... Các phương pháp tính giá thường được sử dụng là tính giá theo chi phí và tính giá theo mức độ chấp nhận của khách hàng, tính giá theo giá trị sử dụng của hàng hóa….
3.2. Xúc tiến bán và khuyếch trương sản phẩm
Để đưa sản phẩm tiếp cận được với khách hàng thì doanh nghiệp thường sử dụng hai hình thức là quảng cáo và các hoạt động xúc tiến bán. Quảng cáo là việc sử dụng phương tiện thông tin đại chúng nhằm truyền đạt các thông tin về doanh nghiệp, hàng hóa, dịch vụ tới khách hàng trong khoảng thời gian và không gian nhất định. Đây là một phương tiện không thể thiếu trong hoạt động xúc tiến bán hàng bởi nó là công cụ giúp đưa hình hảnh của doanh nghiệp, sản phẩm tới những khách hàng có nhu cầu, dẫn dắt nhu cầu của khách hàng tới nơi có thể đáp ứng được nhu cầu đó. Doanh nghiệp có thể lựa chọn và thực hiện quảng cáo theo các hình thức và phương thức khác nhau tùy thuộc vào đặc điểm kinh doanh. Ngoài việc quảng cáo để đưa hình ảnh của sản phẩm đến khách hàng thì doanh nghiệp cần phải thực hiện các kỹ thuật xúc tiến bán hàng nhằm thu hút và giữ chân được nhiều khách hàng. Các kỹ thuật xúc tiến bao gồm: khuyến mại, chiếu khấu với số lượng nhiều …
3.3. Xây dựng kênh phân phối và tiêu thụ hàng hóa.
3.3.1 Xây dựng kênh phân phối
Đây là một hoạt động rất quan trọng giúp đưa hàng hóa đến với khách hàng, giúp cho việc tiêu thu sản phẩm nhanh hơn trên phạm vi rộng hơn và đảm bảo cho hoạt động bán hàng diễn ra theo đúng kế hoạch, đáp ứng tối đa nhu cầu thị trường, đảm bảo lợi nhuận và uy tín cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể sử dụng ba loại kênh phân phối đó là kênh phân phối trực tiếp, kênh phân phối gián tiếp, kênh phân phối hỗn hợp. Trong kênh phân phối trực tiếp doanh nghiệp sử dụng l._.ực lượng bán hàng là các đại lý, cửa hàng, các phong kinh doanh của doanh nghiệp… phương thức này giúp đảm bảo hàng hóa được lưu thông nhanh với chi phí thấp, quan hệ mua bán thuận tiện, tuy nhiên là phạm vi hoạt động của loại kênh này không lớn. Sử dụng kênh phân phối gián tiếp tức là doanh nghiệp sử dụng lực lượng bán hàng là các đại lý bán buôn, đại lý bán lẻ. Kênh phân phối gián tiếp giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí bán hàng, tận dung được cơ sở vật chất sẵn có của các trung gian. Tuy nhiên nhược điểm của loại hình này đó là doanh nghiệp khó kiểm soát được hoạt động của các trung gian, không nắm bắt được chính xác thông tin phản hồi từ người tiêu dùng… Để tận dụng những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của hai loại kênh phân phổi trên thì doanh nghiệp thường sử dụng kết hợp cả hai loại trên và hình thành nên kiênh phân phối hỗn hợp.
3.3.2 Tổ chức bán hàng nhập khẩu
Bán hàng là hoạt động phải sử dụng nhiều kỹ thuật và kiến thức khác nhau nhằm mục đích thuyết phục khách hàng mua sản phẩm. Hoạt động bán hàng gồm hoạt động tuyển dụng nhân viên bán hàng, tổ chức trưng bày trong hàng hóa trong cửa hàng, thực hiện các dịch vụ sau bán. Lực lượng bán hàng của doanh nghiệp là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng nên cần có khả năng giao tiếp tốt, lịch sự, vui vẻ. Thêm vào đó, nhân viên bán hàng phải được đào tạo sao cho có những hiểu biết về các tính năng của hàng hóa, biết cách giao tiếp gây được thiện cảm với khách hàng. Tổ chức trưng bày trong quầy hàng là một công việc khá quan trọng vì nó giúp khách hàng có được cái nhìn thiện cảm đầu tiên về sản phẩm. Doanh nghiệp phải tiến hành sắp xếp, bài trí hàng hóa sao cho khách hàng thấy thoải mái, thuận tiện nhất và tiết kiệm thời gian cho họ nhất. Các dịch vụ sau bán như bảo hành, sửa chữa….là những công việc đơn giản nhưng có thể giúp doanh nghiệp tạo dựng được uy tín, gây dựng niềm tin ở khách hàng và giữ chân được người mua.
4. Đánh giá kết quả hoạt động nhập khẩu.
Đánh giá kết quả kết quả hoạt động nhập khẩu là công việc mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng phải tiến hành nhằm xem xét hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình trong một thời gian nhất định. Các chỉ tiêu dùng để đánh giá bao gồm chỉ tiêu về chi phí, doanh thu, lợi nhuận, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu. Cụ thể:
4.1. Chỉ tiêu về lợi nhuận và doanh thu:
Đây là hai thước đo phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh phổ biến nhất của mỗi doanh nghiệp.
Doanh thu bán hàng đối với doanh nghiệp thương mại được tính theo công thức:
TR = Doanh số bán - chiết khấu - giảm giá hàng bán - hàng bán bị trả lại.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh được tính theo công thức:
TP = TR – TC
Trong đó TP : tổng lợi nhuận thu được từ kinh doanh hàng nhập khẩu, TR: tổng doanh thu; TC: tổng chi phí kinh doanh hàng nhập khẩu.
4.2. Chỉ tiêu về hệ số doanh lợi theo doanh thu:
Chỉ tiêu này có tác dụng cho biết một đồng doanh thu chứa đưng bao nhiêu lợi nhuận.
Hd = Tổng lợi nhuận/ Tổng doanh thu.
Chỉ tiêu về hệ số doanh lợi theo vốn kinh doanh :
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn bỏ ra thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hv = Tổng lợi nhuận/ Tổng vốn kinh doanh
Chỉ tiêu về hệ số doanh lợi theo chi phí :
Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra thu về bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Hc = Tổng lợi nhuận/ Tổng chi phi kinh doanh
Từ nhưng kết quả thu được Doanh nghiệp có thể rút ra được những điểm mạnh của mình đồng thời cũng thấy được những mặt còn tồn tại cần phải có biện pháp xử lý kịp thời nhằm hoạt động hiệu quả hơn.
Chương 2
Thực trạng hoạt động nhập khẩu của công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK
Tổng quan về công ty.
1. Lịch sử hình thành
Quá trình hình thành và phát triển.
Công ty TNHH thương mại và dịch vụ xuất nhập khẩu được thành lập ngày 19.1.2001
Số đăng ký :0102002413, do Sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Loại hình doanh nghiệp: Công ty trách nhiệm hữu hạn có 2 thành viên trở lên.
Tên giao dịch quốc tế: Import- Export and trading company limited ( PTC CO.,LTD)
Vốn điều lệ : 6.000.000.000 đồng
Người đại diện theo pháp luật: Giám đốc Trần Hiếu.
Trụ sở chính: Số 2B, tổ 5B, ngõ 73, đường Nguyễn Trãi, phường Khương Trung, quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.
Số điện thoại: 5681175 Fax: 9721680
Khi mới thành lập năm 2001, với nguồn vốn không lớn, quy mô nhỏ, chưa có uy tín, cùng với việc thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh cũng như hoạt động quản lý khiến cho công ty đã gặp không ít khó khăn trong việc duy trì hoạt động. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của đội ngũ lãnh đạo và nhân viên đã giúp cho công ty vượt qua được thời điểm khó khăn để từng bước có được chỗ đứng trên thị trường và hoạt động sản xuất kinh doanh đi vào ổn định. Hiện nay, với phương châm phục vụ tốt nhất yêu cầu của khách hàng cùng với sự đầu tư không ngừng về vốn, công nghê, con người công ty đã đạt được những kết quả khả quan trong hoạt động kinh doanh và mở rộng quan hệ làm ăn với đối tác nước ngoài trên nhiều thị trường khác nhau. Phần dưới đây giới thiệu 1 số nét chính về công ty PTC.
1.2. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của công ty.
Ban Giám đốc
Phòng tổ chức, hành chính
Phòng kế toán
Phòng nghiệp vụ kinh doanh và XNK
Phòng kỹ thuật
a) Chức năng và nhiệm vụ của công ty.
Chức năng:
Lựa chọn ngành nghề và quy mô kinh doanh.
Tổ chức và thực hiện các kế hoạch kinh doanh, tự tạo nguồn vốn và tự bù đắp các chi phí kinh doanh
Tự chủ trong việc đàm phán, giao dịch và thực hiện các hợp đồng kinh tế; trong hoạt động quản lý kinh doanh; trong việc tuyển dụng các lao động.
Khai thác tối đa hiệu quả của các nguồn lực: vốn, nguyên liệu, hàng hóa đáp ứng tốt nhu cầu của thị trường từ đó thúc đẩy tốc độ chu chuyển hàng hoá tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển.
Nhiệm vụ của công ty
Kinh doanh theo đúng ngành nghề đã đăng ký và theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
Đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động theo luật. Chăm lo và không ngừng cải thiện điều kiện làm việc, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chế độ đãi ngộ với người lao động.
Nộp thuế và thực hiện các các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Ghi chép sổ sách theo đúng pháp lệnh về kế toán và chịu sự kiểm tra của cơ quan tài chính.
Chức năng của các phòng ban và bộ phận.
Giám đốc: Do Hội đồng thành viên bổ nhiệm,là người đại diện pháp nhân cho công ty, là người điều hành cao nhất các hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp, chịu trách nhiệm trước Hội đồng thành viên và pháp luật các hoạt động công ty.
Phòng quản lý hành chính tổng hợp: chịu trách nhiệm quản lý về nhân sự và các tiến hành các thủ tục hành chính trong công ty.
Phòng kinh doanh XNK: chịu trách nhiệm về các hoạt đọng thăm dò thị trường, nắm bắt thông tin, tìm kiếm các đối tác kinh doanh; tiến hành các giao dịch thương mại, soạn thảo các hợp đồng, tiếp thị và giới thiệu hàng hóa của công ty đến khách hàng…
Phòng kế toán: phụ trách việc quản lý theo dõi, giám sát, kiểm tra, toàn bộ công tác kế toán và quản lý tài chính của công ty.
Phòng kỹ thuật: phụ trách các vấn đề liên quan đến kỹ thuật của các mặt hàng.
Đứng đầu mỗi phòng ban là các trưởng phòng chịu trách nhiệm quản lý toàn bộ những hoạt động của bộ phận mình và báo cáo kết quả trực tiếp lên giám đốc.
1.3. Đặc điểm hoạt động của công ty.
Nội dung hoạt động của công ty:
Dịch vụ sửa chữa, bảo trì, bảo dưỡng các sản phẩm cơ khí.
Dịch vụ vận tải và bốc xếp hàng hóa.
Buôn bán vật tư, thiết bị phụ tùng hàng điện tử tin học, điện lạnh, thiết bị viễn thông, hóa chất ( trừ hóa chất Nhà nước cấm).
Mua bán, chế biến hàng nông, lâm, thủy sản.
Quảng cáo thương mại.
Kinh doanh bất động sản và cho thuê văn phòng.
1.4. Đặc điểm nguồn nhân lực của công ty.
Trong kinh doanh đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo đảm thành công. Chính con người với năng lực của họ mới chọn đúng cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác mà họ có như về vốn, tài sản, kỹ thuật, công nghệ …. 1 cách hiệu quả để vượt qua khó khăn và tận dụng được các cơ hội. Hiện tại công ty có 30 cán bộ công nhân viên trẻ với trình độ đại học chiếm chủ yếu, 80% sử dụng thành thạo tiếng Anh và máy tính. Do được đào tạo bài bản nên hầu hết các vị trí đều đáp ứng khá tốt những yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ. Thêm vào đó, bộ quản lý của công ty thực sự tinh giản gọn nhẹ đạt hiệu quả cao góp phần tận dụng được hết năng lực của người lao động. Công ty cũng luôn có các chế độ đãi ngộ hợp lý và tạo mọi điều kiện cho cán bộ nhân viên phát huy hết khả năng của mình, như chế độ: thưởng cho nhân viên trong các dịp lễ tết và khi có được kết quả làm việc tốt, tổ chức các hoạt động ngoại khóa, cung cấp đầy đủ các phương tiện và công cụ để người lao động làm việc đạt hiệu quả cao nhất …
Tình hình kinh doanh trong những năm gần đây.
Vốn.
Công ty có vốn điều lệ là 6 tỷ đồng. Với nguồn vốn như vậy, công ty đã trang bị được những trang thiết bị hiện đại để phục vụ cho hoạt động kinh doanh, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của thị trường.Vốn của công ty được hình thành từ 3 nguồn cơ bản: vốn tự bổ sung, vốn vay và vốn huy động khác. Với số vốn kinh doanh ban đầu là 6 tỷ (năm 2004), để tiến hành hoạt động kinh doanh hàng năm công ty phải lập những phương án, kế hoạch vay vốn ngân hàng. Hiện tại, công ty có quan hệ giao dịch chủ yếu với 2 ngân hàng: Ngân hàng công thương, ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Do công ty làm ăn có uy tín trên thị trường, thêm vào trung bình doanh thu mỗi năm tăng 15% đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp có thể vay vốn của ngân hàng cũng như huy động từ các nguồn khác. Bên cạnh đó, do hoạt động kinh doanh của công ty ngày càng phát triển nên việc quay vòng vốn diễn ra nhanh chóng.
Bảng 1.
Phân tích tình hình vốn của công ty từ năm 2004 đến 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Số tiền
Tỷ lệ (%)
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ lệ
Số tiền
Tỷ lệ
Tài sản
12015,5
100
21895
100
13606,17
100
23130,9
100
TSCĐ
255.25
2.14
437.9
3,04
306,17
2,25
520,49
2.25
TSLĐ
11760.25
97.86
21229.1
96,96
13,300
97,75
22610,41
97.75
Nguồn vốn
12015,5
100
21895
100
13606,17
100
23130,9
100
Nợ phải trả
9350
77.8
18884.75
86.2
9995
73,45
16991,5
73.45
NVCSH
2665.5
22.18
3010.25
13.8
3661,7
26,55
6139,9
63,7
(Nguồn: Bảng cân đối kế toán từ năm 2004 đến năm 2007)
Qua bảng trên ta thấy, tỷ lệ đầu tư vào tài sản cố định (TSCĐ) của công ty hàng năm đều thấp (trung bình 2.42 %), trong khi đó tỷ lệ tài sản lưu động (TSLĐ) trên tổng tài sản lại rất lớn (trung bình 97.5 %), điều này rất hợp lý đối với một doanh nghiệp thương mại. Tuy nhiên từ những nguồn hình thành tài sản cho ta thấy tài sản hình thành chủ yếu từ các khoản phải thu của khách hàng (chiếm trung bình 72 %) nên có rủi ro cao dù giá trị tổng tài sản là khá lớn. Tổng nguồn vốn của công ty cao, nhưng chiếm tỷ trọng chủ yếu là nợ phải trả chiếm trung 77.725., còn lại là nguồn vốn chủ sở hữu 22.275 , công ty có các khoản nợ ngắn hạn chiếm đa số và không có nợ dài hạn. Đây là đặc trưng của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại với phương thức kinh doanh vay nợ, ứng tiền hàng để nhập khẩu sau khi bán lại mới thu tiền về.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty.
Bảng 2.
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty từ năm 2004 đến 2007
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Doanh thu thuần
35273,60
28349,37
34018,80
40822.56
Giá vốn hàng bán
32980,34
24468,35
30552,56
37783,80
Chi phí quản lý kinh doanh
1223,40
1585.00
1854.00
2008
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh
1069,85
2295,87
1612,24
3334,56
Tổng lợi nhuận chịu thuế TNDN
1069,856
2295,875
1612,24
3334,56
Thuế TNDN phải nộp
299,60
642,84
356,68
933,68
Lợi nhuận sau thuế
770,25
1653,03
1259,56
2400,88
( nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh qua các năm)
Qua bảng kết quả của công ty trong 4 năm gần đây, cho thấy hoạt động kinh doanh của công ty đang diễn ra theo chiều hướng khá tích cực và có những bước tăng trưởng bền vững. Doanh thu thuần của mỗi năm tăng lên nhanh chóng. Năm 2005, doanh thu của công ty có sự sụt giảm do mặt hàng nhựa đường đang trong tình trạng khủng hoảng, tuy nhiên lợi nhuận của công ty vẫn tăng trưởng đều do bên cạnh mặt hàng này công ty còn kinh doanh các sản phẩm khác. Đây là một bước tiến rất đáng khích lệ, cho thấy công ty đã dần khẳng định được vị trí của mình trên thị trường và hoạt động kinh doanh không chỉ phụ thuộc vào 1 mặt hàng. Về lợi nhuận thuần, có thể nói năm 2005, công ty đã có bước nhảy vọt lên gấp 2,1 lần năm 2004, những năm tiếp sau đó mức tăng trưởng lợi nhuận khá ổn định.
Tình hình hoạt động kinh doanh nhập khẩu của công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK.
1. Phân tích tình hình nhập khẩu của công ty từ năm 2003- 2007.
Phân tích kim ngạch nhập khẩu theo các năm:
Bảng 3: Kim ngạch nhập khẩu của công ty 2005- 2007
Năm
2005
2006
2007
Tổng kim ngạch nhập khẩu
1.356.978
2.126.147
2.283.174
Tôc độ tăng trưởng (lần)
1
1.57
1.07
Đơn vị: USD
( nguồn: báo cáo tổng hợp 2005 – 2007)
Đồ thị 1: Kim ngạch nhập khẩu qua các năm
Qua 3 năm gần đây nhất kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Công ty lần lượt là: Năm 2005 là 1.356.978 USD, năm 2006 là 2.126.147 USD, năm 2007 là 2.283.174 USD. Như vậy, kim ngạch nhập khẩu có xu hướng tăng liên tục, năm 2006 tăng gấp 1.56 lần năm 2005, năm 2007 tăng gấp 1.07 lần so với năm 2006. Giá trị của kim ngạch nhập khẩu của năm 2006 so với năm 2005 có sự gia tăng đột biến do trong giai đoạn 2004 – 2005 có sự biến động lớn trên thị trường các mặt hàng nhập khẩu của công ty ( phân tích ở phần dưới đây), điều này tác động làm cho kim ngạch nhập khẩu năm 2005 giảm mạnh. Đến giai đoạn 2006 – 2007 doanh nghiệp đã có sự thích nghi với sự biến động và có những thay đổi phù hợp do vậy các mặt hàng nhập khẩu được tiêu thụ nhiều hơn, kim ngạch nhập khẩu 2 năm này cũng tăng lên đáng kể.
Hoạt động nhập khẩu là hoạt động chính của Công ty và các mặt hàng nhập khẩu chủ lực là nhựa đường, máy móc thiết bị, đồ điện tử… kim ngạch nhập khẩu từng loại mặt hàng này phụ thuộc nhiều vào sự biến động của thị trường trong từng giai đoạn. Để hiểu rõ hơn hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Công ty, phần phân tích dưới đây sẽ làm rõ hiệu quả nhập khẩu theo các mặt hàng và thị trường nhập khẩu
Phân tích theo thị trường.
Trong quá trình hình thành và phát triển, Công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK luôn tìm cách mở rộng mối quan hệ bạn hàng với các đối tác nước ngoài theo hướng đa dạng hóa nguồn cung cấp hàng hóa. Khả năng mở rộng nguồn hàng còn cho thấy uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Thị trường nhập khẩu của công ty rất đa dạng. Bên cạnh nhiều thị trường tiềm năng như: Thái Lan, Úc,…thì Nhật, Singapore, Hàn Quốc, Đài Loan, được coi là 4 thị trường được công ty nhập khẩu nhiều nhất, luôn có tổng kim ngạch trên gần 2 triệu USD hàng năm. Cụ thể :
Bảng 4: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu theo từng thị trường
Đơn vị: USD
Thị trường nhập khẩu chính
2005
2006
2007
KN
TT(%)
KN
TT(%)
KN
TT(%)
Singapore
400.265
29,50
595.356
28,00
703.341
27,57
Nhật Bản
349.475
25,75
618.172
29,07
819.874
32,13
Hàn Quốc
295.652
21,78
515.191
24,23
478.231
18,74
Đài Loan
201.212
14,82
250.238
11,77
268.236
10,51
Các thị trường khác
110.383
8,15
147.190
6,93
281.728
11,03
(Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2004-2007)
Hình 1.Thị phần nhập khẩu của năm 2005
Hình 2.Thị phần nhập khẩu của năm 2006
Hình 3.Thị phần nhập khẩu của năm 2007
(Nguồn: Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2005-2007)
Từ những số liệu trên ta thấy rằng kim ngạch nhập khẩu của công ty trên tất cả các khu vực thị trường đều tăng: trong đó kim ngạch tại thị trường Nhật luôn lớn nhất( xấp xỉ 1 triệu USD). Kim ngạch nhập khẩu của Công ty tại các thị trường khác tuy không lớn nhưng có tốc độ tăng nhanh nhất: năm 2007 tăng hơn 2,5 lần so với năm 2005(110.383 USD). Điều này thể hiện ngoài việc tiếp tục củng cố, giữ vững các thị trường truyền thống thì Doanh nghiệp đã có cố gắng mở rộng quan hệ làm ăn với nhiều đối tác ở các nước khác để có thể chủ động hơn trong việc tạo nguồn, không quá phụ thuộc vào các bạn hàng truyền thống, làm tăng uy tín và dần dần xây dựng thương hiệu cho mình.
Có thể dễ dàng nhận thấy thị trường nhập khẩu tuy đa dạng, phong phú, ổn định và các thị trường chủ lực luôn được giữ vững qua các năm với tỷ trọng trên 10% / thị trường trong kim ngạch nhập khẩu.
Nhật Bản và Singapore luôn là hai thị trường nhập khẩu có giá trị lớn nhất của Công ty, thị phần các mặt hàng được nhập từ Nhật tăng từ 26% năm 2005, tăng lên 31% năm 2007, tỷ trọng các mặt hàng nhập khẩu từ Singapore luôn chiếm khoảng 29% kim ngạch nhập khẩu của Doanh nghiệp.
Phân tích theo mặt hàng.
Bảng 5. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu 2005-2007
Đv : USD
Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu
2005
2006
2007
KN
TT(%)
KN
TT(%)
KN
TT(%)
Máy móc,thiết bị:
615.687
47,90
1.119.596
52,65
1.278.105
50,09
Nhựa đường
600.145
46,69
885.594
41,65
1.069.577
41,92
Mặt hàng khác
69.516
5,41
120.957,8
5,70
203.728
7,99
Nguồn:Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2005-2007)
Hình 4. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu năm 2005
Hình 5. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu năm 2006
Hình 6. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu năm 2007
(Nguồn:Báo cáo hoạt động nhập khẩu năm 2005-2007)
Nhận xét về cơ cấu mặt hàng nhập khẩu năm 2005-2007:
Các mặt hàng nhập khẩu chủ lực, quan trọng và ổn định của Công ty là nhựa đường, máy móc. Máy móc thiết bị là mặt hàng nhập khẩu lớn nhất của Công ty và ngày càng có xu hướng tăng, năm 2007, riêng nhập khẩu mặt hàng này đã chiếm 50% tổng kim ngạch nhập khẩu.Tiếp theo là đến nhựa đường với 42% kim nghạch nhập khẩu của Công ty.Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu rất đa dạng và phong phú, luôn có 10 mặt hàng nhập khẩu hàng năm, mà tỉ trọng bốn mặt hàng này cộng lại đã chiếm trên 70%, điều đó cho thấy tỉ trọng của bốn mặt hàng này là rất lớn. Điều này là một xu hướng thuận lợi cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung và cũng tạo ra sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của Công ty nói riêng.
Vì nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chính của Công ty nên mặt hàng nhập khẩu cũng đa dạng và phong phú và sự biến động về cơ cấu hàng nhập khẩu là không nhiều, các mặt hàng nhập khẩu chủ lực luôn được đảm bảo qua các năm.
Nhựa đường cũng là mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chủ đạo của Công ty. Trong những năm gần đây, nó đang có xu hướng tăng nhanh và tăng đều qua các năm, trung bình 200.000 USD/ năm. Nguyên nhân là do nhu cầu các mặt hàng nhựa đường trong thời gian gần đây tăng nhanh để phục vụ cho các công trình giao thông lớn đang trong giai đoạn hoàn thành.
Bên cạnh hai mặt hàng chủ lực trên, Công ty còn kinh doanh nhập khẩu rất nhiều mặt hàng khác như: Giấy các loại, điện tử gia dụng, nguyên liệu sản xuất dùng trong công nghiệp, …
2. Các yếu tố tác động đến hoạt động nhập khẩu của công ty.
2.1. Tỷ giá
Tỷ giá hối đoái là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ tới hoạt động nhập khẩu hàng hóa của mỗi doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái giảm sẽ làm tăng giá đồng nội tệ như vậy giá hàng hóa nước ngoài sẽ giảm đi đáng kể,hạn chế xuất khẩu điều này khiến cho chi phí kinh doanh hàng nhập khẩu giảm xuống do vậy thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hàng hóa. Ngược lại nếu tỷ giá hối đoái tăng sẽ làm giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên và làm hạn chế hoạt động nhập khẩu.
Bảng 6.
Tỷ giá hối đoái giữa VNĐ và USD
Đơn vị: đồng
Năm
2004
2005
2006
2007
Tỷ giá
VND/USD
15733
15863
16051
16173
Nguồn: Vietcombank.com.vn, 2007
Bảng trên đề cập đến tỷ giá giữa đồng VND và USD ( đây là ngoại tệ mạnh và được sử dụng trong hầu hết những hợp động nhập khẩu hàng hóa của công ty PTC). Qua đây, ta thấy tỷ giá tăng qua các năm, giá trị tăng trung bình là khoảng 147 đồng, đây là con số lớn đối với các giao dịch của công ty lên tới hàng trăm nghìn USD. Điều này cho thấy đồng Việt Nam có giá trị giảm xuống so với đồng USD và có tác động bất lợi cho hoạt động nhập khẩu. Do cùng một lượng tiền VND sẽ đổi được ít ngoại tệ hơn, giá cả hàng nhập khẩu sẽ đắt hơn làm tăng chi phí công ty khi giá hàng hóa tăng, các chi phí liên quan khác cũng tăng như chi phí về vận chuyển, bốc dỡ, thanh toán hợp đồng… Sự tăng lên đột biến của tỷ giá hối đoái cũng là một phần nguyên nhân làm giảm doanh thu bán hàng giảm đáng kể của công ty trong giai đoạn 2004- 2006: 2004 ( 35 tỷ VNĐ; 2005 ( 28tỷ VNĐ); 2006 ( 34tỷ VNĐ). Một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ giá hối đoái đó chính là sự tăng lên của tỷ lệ lạm phát. Dưới đây ta sẽ xem xét về sự tác động của yếu tố này đến hoạt động của doanh nghiệp.
Lạm phát
Lạm phát là một trong những yếu tố có tác động mạnh mẽ lên toàn bộ nền kinh tế nói chung và với từng doanh nghiệp nói riêng, đặc biệt với các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa. Vì vậy, lạm phát là một vấn đề mà công ty PTC luôn quan tâm đến
Bảng 7
Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2004 – 2007
Năm
2004
2005
2006
2007
Tỷ lệ lạm phát
9,5 %
8,4 %
7.4 %
12,63 %
Nguồn: Tổng cục Thông kê
Tỷ lệ lạm phát dưới 5% luôn là mong muốn đối với bất kỳ nền kinh tế nào, vì nó có tác dụng thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế và làm cho nền kinh tế ổn định hơn từ đó thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong giai đoạn 2004 – 2007 thì mức lạm phát của Việt Nam tăng liên tục và luôn ở mức cao, điều này làm cho chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng theo, giá hàng hóa trong nước cũng tăng theo. Điều này cũng làm cho giá cả hàng hóa nhập khẩu tăng lên vì vậy doanh thu bán hàng của doanh nghiệp tăng lên, đây là một tín hiệu đáng mừng đối với doanh nghiệp. Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy, kèm theo sự gia tăng của lạm phát là những chính sách nhằm bình ổn giá cả và hạn chế lạm phát của Chính Phủ, đặc biệt là chính sách tăng lãi suất tiết kiệm và tăng lãi suất các khoản cho vay để làm giảm lượng tiền lưu thông trên thị trường của các ngân hàng. Chính điều này tác động làm tăng chi phí kinh doanh của công ty do một phần vốn của công ty được huy động từ các ngân hàng. Nếu công ty có số vốn chủ sở hữu lớn và vay ngân hàng ít thì chi phí kinh doanh sẽ tăng ít và lợi nhuận thu về sẽ nhiều hơn và ngược lại. Điều này được thể hiện ở kết quả kinh doanh của công ty trong giai đoạn 2005 – 2007, năm 2005 công ty đạt mức lợi nhuận sau thuế là 1653,5 triệu đồng mặc dù tỷ lệ lạm phát năm này cao hơn năm 2006, lợi nhuận năm 2006 đã giảm xuống còn 1259.56 triệu đồng do tác động của sự biến động của lãi suất và nguồn hàng đã làm tăng chi phí của doanh nghiệp nên lợi nhuận của công ty đã giảm xuống; năm 2007 do tỷ lệ lạm phát tăng đột biến trong khi các chính sách của nhà nước chưa kịp thời có tác dụng nên lợi nhuận của công ty tăng lên là 2400,88 triệu đồng.
2.3. Sự biến động nguồn hàng
Qua những phần trên chúng ta biết rằng các mặt hàng kinh doanh nhập khẩu chính của công ty là nhựa đường và máy móc thiết bị… do vậy những biến động về nguồn cung cấp những mặt hàng này sẽ tác động rất lớn đến Doanh nghiệp. Về mặt hàng máy móc thiết bị Công ty có những nhà cung cấp uy tín từ Nhật Bản, Hàn Quốc nên không có sự biến động lớn về nguồn cung và giá cả làm ảnh hưởng đến doanh thu của doanh nghiệp. Tuy nhiên trong giai đoạn 2005 – 2007 thì mặt hàng nhựa đường có sự biến động khá lớn. Cụ thể: vào tháng 6/2005, giá CIF cho một tấn nhựa đường (bao gồm cả thuế VAT) là 243 USD thì đến đầu tháng 6/2006, giá nhựa đã tăng lên 451 USD/tấn bao gồm cả thuế VAT. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2006, nhựa đường đã 5 lần tăng giá. Trung bình mỗi lần tăng người tiêu thụ phải bỏ thêm 40 USD cho một tấn nhựa đường. Đây là mức tăng kỷ lục trong nhiều năm trở lại đây. Nguyên nhân của sự tăng giá này đó là giá dầu mỏ trên thế giới tăng liên tục trong thời gian qua cộng với nhu cầu sử dụng nhựa đường của Trung Quốc và các nước Đông Nam á đang vượt quá khả năng cung cấp của các nhà máy lọc dầu lớn trong khu vực dẫn đến giá các sản phẩm từ dầu trong đó có nhựa đường liên tục tăng giá. Điều này đã tác động rất lớn đến doanh thu bán hàng của Công ty. Do sự biến động của giá nhựa đường như vậy khiến cho doanh nghiệp đã phải thay đổi kế hoạch nhập khẩu, không nhập nhiều mặt hàng này và từ đó làm giảm lợi nhuận của Công ty xuống gần 400triệu đồng từ năm 2005 và 2006. Đến năm 2007, giá nhựa đường đã giảm và ổn định hơn cộng thêm trong giai đoạn này có rất nhiều các công trình giao thông đang được gấp rút được hoàn thành khiến cho nhu cầu nhựa đường tăng lên. Doanh nghiệp đã tận dụng điều này để tăng lượng nhập khẩu để đáp ứng đủ nhu cầu, do vậy doanh thu và lợi nhuận kinh doanh của doanh nghiệp năm 2007 là 40tỷ đồng và 2.4 tỷ đồng tăng lên rất nhiều so với năm 2006. Để làm được điều này, ban lãnh đạo và nhân viên của công ty đã khéo léo, sáng tạo, linh hoạt trong mọi hoàn cảnh, nắm bắt được thời cơ, tiến hành đàm phán có hiệu quả với các đối tác để đạt được thành công như đã thấy.
2.4. Chiến lược kinh doanh
Trong quá trình kinh doanh, công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK luôn đề ra chiến lược kinh doanh nói chung và chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu nói riêng. Chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu của công ty sẽ chi phối cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu, chi phối thị trường nhập khẩu, đưa ra các phương án, kế hoạch để thực hiện hoạt động nhập khẩu có hiệu quả nhất. Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi làm cho mức lợi nhuận chung của Công ty thay đổi và tỷ suất lợi nhuận cũng thay đổi. Từ chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu đã được lập ra, Công ty xác định được mặt hàng nhập khẩu, lợi nhuận đạt được từ hoạt động nhập khẩu, và các bước cần tiến hành để nhập khẩu hàng hóa phục vụ hoạt động kinh doanh. Hiện nay, chiến lược kinh doanh hiện tại của công ty đó là tiếp tục nhập khẩu những mặt hàng chủ lực, do trong thời gian tới nhu cầu về tiêu dùng các mặt hàng này liên tục tăng, do vậy giữ vững và phát triển thị phần là mục tiêu mà công ty hướng tới. Bên cạnh đó, Công ty cũng sẽ tiến hành nhập khẩu thêm nhiều mặt hàng khác, để mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ và giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh khi thị trường những mặt hàng máy móc thiết bị, nhựa đường có biến động ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh doanh của doanh nghiệp như giai đoạn 2004 – 2005.
Các nghiệp vụ kinh doanh liên quan đến hoạt động NK tại công ty TNHH thương mại và dịch vụ XNK.
3.1. Nghiên cứu thị trường
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì cần phải hiểu rõ thị trường của mình, hiểu rõ được công ty của mình đang ở đâu để có thể đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp. Do đó, hàng năm công ty đều trích 10% lợi nhuận để đầu tư vào hoạt động nghiên cứu và phát triển thị trường. Việc đầu tư cho hoạt động R&D rất có ích, cung cấp các thông tin về nguồn hàng cung cấp, thị trường đầu ra, giá cả dịch vụ, chất lượng hàng hóa, nhận biết được những thông tin về xây dựng cơ bản … từ đó giúp cho công ty có thể nắm bắt được những cơ hội ,xây dựng các kế hoạch kinh doanh, mạng lưới thu mua và tiêu thụ hàng hóa có hiệu quả và có hướng phát triển thích hợp.
Hiện nay, Công ty đang có một bộ phận phụ trách việc nghiên cứu thị trường riêng, bao gồm những nhân viên có kinh nghiệm chịu trách nhiệm tìm kiếm các thông tin về thị trường, đối tác, hàng hóa nhằm đảm bảo cho Công ty có những hoạt động kinh doanh nhập khẩu hàng hóa có hiệu quả. Nguồn thông tin cà Công ty có thể thu thập để nghiên cứu là thông tin trên mạng, các tạp chí chuyên nghành, các công ty trong nước và cán bộ ngành liên quan đến mặt hàng, trực tiếp khảo sát thị trường nước ngoài. Một nguồn thông tin mà được Công ty sử dụng khá nhiều đó là từ phía các đối tác, bạn bè quen biết trong nước. Các cán bộ tận dung tối đa mối quan hệ của mình các đơn vị khác để tận dụng sự giới thiệu của họ đến các đối tác trong và ngoài nước cũng như các thông tin về thị trường. Đây là nguồn thông tin rất quý giá và ít rủi ro, chính xác hơn so với những thông tin mà Doanh nghiệp phải tự tìm. Do được đầu tư, nên hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty bước đầu cũng đã mang lại hiệu quả khi tìm hiểu kỹ về đối tác nhập khẩu nước ngoài nên tìm được những nguồn hàng có chất lượng với giá cả hợp lý, nắm bắt và đáp ứng được hầu hết nhu cầu tiêu dùng hàng hóa trong nước nên kim ngạch nhập khẩu hàng hóa liên tục gia tăng và ổn định, đảm bảo hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
3.2. Tổ chức công tác nhập khẩu hàng hóa
Quá trình mua hàng của công ty được tổ chức khá chặt chẽ từ khâu lập kế hoạch đến khâu mua và quản lý hàng hóa.
Đàm phán và ký kết hợp đồng: Hiện nay công ty sử dụng các phương thức đàm phán sau:
Đàm phán qua thư tín: đây là phương thức được sử dụng chủ yếu. Ngày nay, với sự phát triển của công nghệ thông tin, công ty chủ yếu sử dụng thư điện tử hay thông qua telefax.
Đàm phán trực tiếp: vì hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị, nhựa đường của công ty thường là những hợp đồng lớn nên việc gặp gỡ giữa các bên để đàm phán trực tiếp là rất cần thiết.
Các cuộc đàm phán thường thảo luận rất nhiều vần đề trong hợp đồng như về số lượng, phẩm chất hàng hoá, điều kiện giao hàng, thanh toán, các dịch vụ kèm theo… Công ty thường tiến hành việc thanh toán hợp đồng nhập khẩu bằng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ vì vậy hai bên phải thống nhất về ngân hàng mở L/C, trị giá L/C, ngày mở L/C. Lựa chọn đồng tiền thanh toán cũng là vấn đề cần được đề cập đến vì nó ảnh hưởng đến sự biến động của trị giá hợp đồng khi tỷ giá hối đoái của đồng tiền thanh toán có biến động.
Ký kết hợp đồng.
Sau khi đàm phán thành công, công ty tiến hành việc ký kết hợp đồng. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu máy móc thiết bị thường gồm những mục sau:
Đối tượng của hợp đồng: quy định khái quát về những nét chủ yếu của hợp đồng.
Giá cả và trị giá của hợp đồng: giá thành của máy móc thiết bị nhập khẩu, phương pháp tính giá, cơ sở tính giá, đồng tiền tính giá.
Điều kiện giao hàng: ở Công ty thường được giao hàng theo giá CIF (Incoterm 2000).
Thời gian giao hàng: do tính chất của việc nhập khẩu nhiều loại hàng hóa với nhiều chủng loại khác nhau nên có thể giao hàng theo nhiều đợt .
Điều kiện thanh toán: thanh toán bằng LC với đồng tiền thanh toán thường là USD.
Kiểm tra hàng hoá: quyền và trách nhiệm của mỗi bên trong việc kiểm tra hàng hoá trước khi bốc hàng tại cảng đi v._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27742.doc