Chính sách kinh tế mới của Lênin - Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam

A. Mở bài Chính sách kinh tế mới của V.I Lênin đã làm cho kinh tế nước Nga từ bị tàn phá kiệt quệ trong nội chiến trở nên phát triển nhanh chóng. Nó đã củng cố liên minh giai cấp công nông, tạo tiền đề ban đầu cho việc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế hiện nay của nước ta tuy không giống hoàn toàn như nước Nga hồi đầu những năm 20 (thế kỷ XX) nhưng cũng không ít điểm chung đó là chúng ta cũng đang thực hiện quá độ thực hiện nền kinh tế hàng hoá, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1533 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Chính sách kinh tế mới của Lênin - Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thực hiện thành công mục tiêu, chủ trương mà Đảng, Nhà nước ta đề ra đó thì không thể không tham khảo kinh nghiệm của các nước XHCN đi trước để rút ra lý luận, con đường cho riêng mình và thực tiễn đã chứng minh rằng: việc vận dụng sáng tạo chính sách kinh tế mới (NEP) của Lênin vào hoàn cảnh nước ta là việc làm cần thiết, kết quả của nó là nền tảng cho chúng ta thực hiện thành công CNXH. Nội dung của nó (thuế lương thực, tư bản nhà nước, lưu thông hàng tiền, kinh tế nhiều thành phần...) rất phù hợp với điều kiện hiện nay ở trong nước cũng như xu thế chung của thế giới (hợp tác hoá, đa phương hoá...). Chính vì vậy tôi chọn đề tài: “ Chính sách kinh tế mới của Lênin. Sự vận dụng vào thực tiễn Việt Nam”. Cùng với phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích việc làm đề tài này sẽ giúp tôi hoàn thiện hơn kiến thức lý luận, vận dụng lý luận vào thực tiễn, tập dượt nghiên cứu khoa học. B. Nội dung I/ Hoàn cảnh ra đời và nội dung của NEP. 1. Hoàn cảnh ra đời. Cuối năm 1920, đất nước Xô Viết ra khỏi chiến tranh và chuyển sang giai đoạn xây dựng trong hòa bình từ những điều kiện cực kỳ khó khăn. Nền kinh tế bị thiệt hại và sa sút rất nghiêm trọng biểu hiện cụ thể trên các lĩnh vực sau: * Nông nghiệp. Diện tích gieo trồng, sản lượng ngũ cốc, sản phẩm chăn nuôi đều giảm. Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1920 chỉ bằng 60% năm 1913. Dân số là 137 triệu người bình quân ngũ cốc đầu người năm 1920 là 246kg còn trước chiến tranh là 405kg. * Công nghiệp. Tổng sản lượng công nghiệp năm 1920 so với năm 1917 giảm đi hơn 4 lần, số người làm việc giảm gần 1/2. Do đó tỷ trọng sản phẩm công nghiệp trong nền kinh tế năm 1920 là 25%. Hầu như tất cả các ngành đều sa sút. So sản lượng năm 1920 với 1918 thì khai thác than đá giảm từ 731 triệu pút xuốn 476 triệu pút; đúc ngang giảm từ 31,5 triệu xuống 7 triệu pút; sản xuất thép mactanh giảm từ 24,5 xuống 10 triệu put... Nguyên liệu, vật liệu dự trữ đã dùng hết. So với năm 1913, sản xuất đại công nghiệp giảm xuống tới 12,8% còn công nghiệp giảm xuống tới 44,1%. Do đó tương quan đã thay đổi nghiêng về tiểu công nghiệp (từ 24,2% đến 52,3%). * Giao thông vận tải. Bị tàn phá nghiêm trọng; 61% số đầu máy và 28% số toa xe bị phá cùng với 4.000 chiến cầu và các ga kho tàng. So với trước chiến tranh, khối lượng vận chuyển năm 1920 chỉ còn 20%. * Tài chính – Tín dụng. Lâm vào tình trạng rối loạn. Năm 1918 bội chi ngân sách 31 tỷ rúp, năm 1901 con số bội chi lên tới 21.937 tỷ rúp. Mức dự trữ vàng của ngân hàng giảm sút nghiêm trọng. Nếu năm 1914 mức đảm bảo vàng cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông là 98,2% thì năm 1917 chỉ còn 6,8%. Khối lượng tiền tệ tăng nhanh đã đưa đến sự tăng vọt của giá cả. Mức giá trung bình toàn quốc năm 1923 tăng hơn 21 triệu lần so với năm 1913. Do đồng rúp mất giá nhanh nên các địa phương đã tự tạo ra vật ngang giá khác nhau. Đồng thời, xu hướng hiện vật hoá trong nền kinh tế tăng dần lên. Do sản suất và lưu thông sa sút, nên đời sống nhân dân lao động càng thêm khó khăn so với hồi chiến tranh. Tiền lương thực tế của công nhân trước chiến tranh là 22 rúp đã giảm xuống 8,3 rúp năm 1920. Do thiếu ăn thường xuyên, thiếu thuốc men chữa bệnh nên tỷ lệ công nhân mắc bệnh và tử vong tăng lên. Trong lúc đó, vì thiếu điều kiện sản xuất nên nhiều nhà máy đóng cửa sổ người không có việc làm tăng lên, do đó tình trạng biến chất giai cấp của giai cấp công nhân tiếp tục diễn ra. Trong thời kỳ nội chiến, “chính sách cộng sản thời chiến” gây thiệt hại cho lợi ích nông dân, tuy vậy, sự thiếu thốn khó khăn trong đời sống của nông dân và công nhân trong thời kỳ ấy không gây ra sự mệt mỏi về tinh thần, vì quần chúng lao động sẵn sàng lao động quên mình để góp vào việc tiêu diệt bọn phản cách mạng, thiết lập và giữ vững chính quyền nhân dân. Nhưng sau chiến tranh khi những hi vọng trông chờ vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần không được đáp ứng thì lòng tin giảm dần và sự bất mãn bắt đầu tăng lên. Đó là điều kiện để bọn phản cách mạng lợi dụng lừa dối quần chúng tập hợp lực lượng hòng tấn công vào chính quyền Xô Viết non trẻ. Trước khi cách mạng thành công và thiết lập chuyên chính vô sản lần đầu tiên trên trái đất thì tư tưởng mác – xít mới xem xét những vấn đề của thời kỳ quá độ về mặt lý luận. Nhưng lúc này, sau khi thiết lập chuyên chính vô sản, người cộng sản vừa phải bắt tay vào giải quyết những mâu thuẫn khách quan do điều kiện lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội ở nước Nga vừa giải quyết những sai lầm chủ quan trong lãnh đạo quản lý: * Mâu thuẫn khách quan trong sự ra đời của chủ nghĩa xã hội ở nước Nga. Điều kiện lịch sử cụ thể ở nước Nga trong đó chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời lại không hoàn toàn giống như học thuyết C.Mác đã phân tích về mặt lý luận. Đặc điểm của nước Nga là sự lạc hậu tương đối về kinh tế là quyên đặt giữa tư bản độc quyền hiện đại với những tàn tích phong kiến. Lênin đã chỉ ra đặc điểm đó như sau: “ chế độ ruộng đất – lạc hậu nhất cùng với tình trạng nông thôn thối nát nhất và một bên là chủ nghĩa tư bản công nghiệp và tài chính tiên tiến nhất”1 V.I Lênin toàn tập T.16 . * Những sai lầm chủ quan của những người cộng sản cũng là một thực tế phái giải quyết đồng thời với việc giải quyết mâu thuẫn khách quan. Trong những năm tháng cần thiết phải áp dụng chính sách “cộng sản thời chiến” đã hình thành quan niệm về khả năng quá độ trực tiếp lên CNXH. Đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp vượt quá sức và đốt cháy giai đoạn: - Nhanh chóng thực hiện “quốc doanh hoá”. - Xoá bỏ thương nghiệp tư nhân. - Phân phối cưỡng bức mọi nguồn nhân lực và tổ chức lao động tập trung kiểu quân sự hoá. - Nhà nước quản lý toàn bộ sản phẩm kể cả sản phẩm thừa... Trong thời gian thực hiện những chủ trương biện pháp trên mà không xem xét đến đặc điểm và điều kiện lịch sử cụ thể của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội do sự chi phối của quan niệm chuyển trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội nên tình trạng khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng: sản xuất sa sút hơn, nhất là nông nghiệp. Dân số ăn theo chế độ cung cấp của nhà nước tăng nhanh trong khi mức lương thực cung cấp ngày càng ít, thấp. Các chỉ tiêu thu mua trưng thu cứ tăng lên, nhưng kết quả cứ giảm xuống, nhu cầu tiền mặt càng tăng càng phải in và càng phải phát hành thêm thì sức mua của đồng tiền càng giảm. Số lượng giai cấp công nhân đã giảm hơn 1/2, trong đó một bộ phận chuyển về nông thôn. Nông dân ngày càng không bằng lòng với chính sách của Đảng. Sai lầm trong lĩnh vực hoạt động kinh tế gây ra hậu quả chính trị nặng nề: liên minh công nông đứng trước nguy cơ tan rã, chuyên chính vô sản không được củng cố, vai trò lãnh đạo của Đảng yếu đi. Tình trạng an ninh chính trị và an toàn xã hội ngày càng xấu. Đại hội phải có sự thay đổi cơ bản chính sách kinh tế. Và chính sách kinh tế mới của Lênin đã ra đời. 2. Nội dung chủ yếu của chính sách kinh tế mới. a. Chính sách về thuế lương thực. Trong điều kiện nước Nga lúc ấy, giai cấp nông dân và nông nghiệp là nguồn nuôi sống xã hội. Sản xuất và đời sống xã hội phụ thuộc vào nông nghiệp. Khó khăn rất lớn mà nhà nước vấp phải là thiếu lương thực. Vì vậy mục đích trực tiếp của thuế lương thực là một trong những biện pháp cấp tốc, cương quyết nhất, cấp thiết nhất để cải thiện đời sống của nông dân và nâng cao lực lượng sản xuất của họ. Thực hiện thuế lương thực, xoá bỏ chế độ trưng thu lương thực thừa có nghĩa là chuyển từ biện pháp hành chính thuần tuý sang biện pháp kinh tế, thuế lương thực có vai trò của bước quá độ đó. Việc bỏ chế độ trưng thu lương thực bằng việc đặt ra thuế lương thực làm cho mỗi người nông dân ai cũng biết trước số thuế phải nộp và cố gắng sản xuất để vượt mức đó. Nhà nước thu thuế dễ dàng, thuận lợi; nông dân được khuyến khích sản xuất. Thuế lương thực là một trong những hình thức của bước quá độ từ "chủ nghĩa cộng sản thời chiến" - chủ nghĩa cộng sản đặc biệt do tình trạng cùng khốn cực độ, tình trạng hoang tàn và chiến tranh để bước sang chế độ trao đổi xã hội chủ nghĩa bình thường và chế độ này lại là một trong những hình thức của bước quá độ từ chủ nghĩa xã hội với những đặc thù do tình trạng tiểu nông chiếm ưu thế trong dân chúng tạo nên sang chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa “cộng sản thời chiến” có điều này đặc biệt là thực tế chúng ta lấy ở nông dân tất cả những lương thực thừa của họ và có khi những thứ không phải là thừa mà là một phần những sản phẩm cần thiết cho sự sinh sống của họ, để cung cấp cho nhu cầu của quân đội và để nuôi sống công nhân. Đối với giai cấp vô sản đang thực hiện quyền chuyên chính của mình trong một nước tiểu nông thì một chính sách đúng là phải tổ chức việc trao đổi những sản phẩm công nghiệp cần thiết cho nông dân để lấy lúa mì. Chỉ có chính sách thuế lương thực mới phù hợp với nhiệm vụ của giai cấp vô sản , chỉ có chính sách đó mới có thể tăng cường được cơ sở của chủ nghĩa xã hội và đưa chủ nghĩa xã hội đến chỗ toàn thắng. Việc thay chế độ trưng thu lương thực bằng chế độ thuế lương thực ổn định, việc cho nông dân quyền tự do lựa chọn hình thức sử dụng ruộng đất, kể cả rút ruộng đất ra khỏi công xã nông thôn, việc cho phép mặc dù còn có những hạn chế nhất định, thuế ruộng đất và thuế sức lao động – tất cả những cái đó đã tạo điều kiện để tăng cường tính tích luỹ kinh tế ở nông thôn, là đòn neo mạnh mẽ để khôi phục nền nông nghiệp sau chiến tranh, biểu hiện yêu cầu của tính quy luật đầu tiên của quá trình khôi phục kinh tế. b. Chính sách khôi phục và phát triển sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp thông qua trao đổi sản phẩm giữa nông nghiệp và công nghiệp. Muốn cải thiện đời sống nông dân và công nhân thì không thể dựa vào nền nông nghiệp gia trưởng mang tính chất tự cung tự cấp mà chỉ có thể dựa vào một nền nông nghiệp hàng hoá. ý nghĩa và tác dụng cần có thuế lương thực không thể phát huy được trong nền nông nghiệp tự cung tự cấp vì số nông sản thừa tăng lên một mức độ nào đó nếu không có trao đổi thì có mất tác dụng kích thích. Cơ chế kinh tế hàng hoá sẽ đáp ứng nhu cầu nhiều mặt của sản xuất và tiêu dùng của nông dân và xã hội. Thông qua trao đổi hàng hoá thúc đẩy quá trình phân công lao động trong nông nghiệp vừa đi vào chuyên canh vừa phát triển kinh doanh tổng hợp, nhờ đó các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp được khôi phục và phát triển. Kinh tế hàng hoá là con đường để nhà nước giải quyết vấn đề lương thực một cách vững chắc. Sản xuất lương thực ngày càng mang tính chất hàng hoá thì nông dân lợi hơn, nên vừa mở rộng diện tích canh tác vừa thâm canh nhờ đầu tư thêm vốn và lao động. Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá trong nông nghiệp làm sống động lại các ngành kinh tế và toàn bộ sinh hoạt xã hội ở thành thị và nông thôn. Để thực hiện được cơ chế hàng hoá trong nông nghiệp thì phải giải quyết 2 vấn đề: - Lấy hàng công nghiệp ở đâu để trao đổi với nông dân? - Khôi phục và phát triển kinh tế hàng hoá bên trong nông nghiệp mới thực hiện được chính sách kinh tế mới nhưng sẽ kéo theo sự khôi phục và kích thích xu hướng tư bản chủ nghĩa. Lênin đã có quan điểm về vấn đề này như sau: + Sự phát triển của trao đổi tư nhân của chủ nghĩa tư bản là một sự phát triển không tránh được. Việc ngăn cấm, chặn đứng sự phát triển đó là có hại cho cách mạng. Nhưng không được coi thường buông lỏng sự kiểm tra; kiểm soát sự phát triển ấy của xu hướng tư bản chủ nghĩa. Muốn vậy phải sử dụng hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước. Lênin còn đề xuất là phải nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, là sự củng cố khu vực kinh tế nhà nước có hiệu quả. c. Cơ cấu lại nền sản xuất công nghiệp phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp và nông dân. Một trong những điều kiện để thực hiện trao đổi hàng hoá là cần quỹ hàng công nghiệp có cơ cấu phù hợp với yêu cầu nông thôn. Để thực hiện điều đó quá trình khôi phục sản xuất công nghiệp cần theo các hướng sau: - Khôi phục công nghiệp trên cơ sở kỹ thuật cũ. Đây là một tất yếu khách quan vì điều kiện rất khó khăn lúc bấy giờ. - Phạm vi khôi phục sản xuất công nghiệp cần đối với nguồn tài chính, nguyên liệu và nhiên liệu. Đến cuối năm 1992, nhà nước chỉ sử dụng được 1/3 trong tổng số xí nghiệp đã quốc hữu hoá trước kia số xí nghiệp còn lại thì đóng cửa, tạm ngừng hay cho thuê, tô nhượng. Nhờ thực hiện sự cân đối như vậy nên đã đẩy nhanh việc khôi phục các xí nghiệp tiên tiến, nâng cao công suất sử dụng thiết bị, nâng cao năng suất lao động. Kết quả trong thời gian 1921 – 1924, tổng sản lượng công nghiệp quốc doanh đã tăng hơn 2 lần, sớm phát huy vai trò của nó trong nền kinh tế. - Bước đi của quá trình khôi phục công nghiệp: Trước hết là khôi phục công nghiệp nhẹ và công nghiệp thực phẩm, là những ngành gắn bó với nông nghiệp về nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm. - Chuyển từ cơ chế quản lý tập trung bằng mệnh lệnh sang cơ chế hạch toán kinh tế theo nguyên tắc tập trung dân chủ. - Sử dụng cơ cấu nhiều thành phần trong khôi phục công nghiệp. Hình thức kinh tế cơ bản trong việc sử dụng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là những hình thức chủ nghĩa tư bản nhà nước như hình thức tô nhượng trong công nghiệp, hình thức hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ, hình thức tư nhân làm đại lý cho nhà nước trong thương nghiệp, hình thức nhà nước cho tư nhân thuê xí nghiệp, vùng mỏ, khu rừng. Thực chất của các hình thức đó là những mắt xích trung gian có thể tạo điều kiện thuận lợi cho bước chuyển từ chế độ gia tưởng từ nền tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. d. Tổ chức quá trình lưu thông theo quan điểm mới. Căn cứ vào thị trường hiện có và tính toán đến các quy luật của nó, chiếm lĩnh thị trường và bằng những biện pháp kinh tế thường xuyên có cân nhắc và được xây dựng trên sự kiểm kê chính xác quá trình của thị trường mà nắm vững việc điều tiết thị trường và lưu thông tiền tệ. Như vậy từ năm 1921, quan điểm đổi mới lĩnh vực lưu thông hoàn toàn khác với quan điểm trong thời kỳ trước là quan điểm đòi xoá bỏ thương nghiệp và lưu thông hàng hoá. Quan điểm mới của NEP đối với lĩnh vực này phù hợp với yêu cầu chuyển nền kinh tế từ trạng thái hỗn loạn sang quỹ đạo tái sản xuất bình thường, từ phân phối trực tiếp và bao cấp sang kinh tế hàng hoá. Do đó nội thương trở thành cái mắt xích đặc biệt cần nắm vững trong dây chuyền quản lý, điều tiết hoạt động của nền kinh tế. Mục đích cao nhất của chính sách kinh tế mới ở bước ngoặc cách mạng là thiết lập liên minh kinh tế giữa hai giai cấp công nhân và nông dân trong điều kiện nông nghiệp lạc hậu, phân tán thì thương nghiệp là mối liên hệ kinh tế duy nhất có thể có giữa hàng chục triệu nông tiểu nông với giai cấp vô sản, là điều kiện để cho nông nghiệp và công nghiệp có thể tái sản xuất được. Hơn nữa, không có hoạt động thương nghiệp thì không thể sử dụng các hình thức quá độ trong sản xuất và lưu thông. e. ổn định tiền tệ, củng cố nền tài chính Xô - viết. Công tác tài chính được thực hiện theo các biện pháp như: Kiểm kê và kiểm soát có tác dụng tính toán nhu cầu thực tế về tài chính của xí nghiệp; Kiểm soát việc chi tiêu, hạn chế các chi phí sản xuất và chi phí cho bộ máy. Nhà nước chủ trương tổ chức tài chính quốc gia, điều tiết giá cả nhằm thiết lập quan hệ kinh tế mới giữa thành thị và nông thôn. Chính sách tài chính quốc gia thống nhất dựa trên quan điểm tập trung tài chính, tập trung lực lượng của quốc gia cho cuộc cải cách vì lợi ích của người lao động. Quan điểm về tập trung tài chính của Lênin không mâu thuẫn với yêu cầu phát huy quyền chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động thực tiễn của các tổ chức Xô Viết địa phương. Nhà nước tiến hành đổi đơn vị tiền tệ. Lần thứ nhất vào đầu năm 1922, với tỷ lệ 1 rúp mới năm 1922 bằng 10 nghìn rúp cũ. Đến lần thứ hai vào năm 1923 là 1 rúp bằng 100 rúp năm 1922. Qua hai lần đổi tiền đã nâng đồng rúp lên 1 triệu lần đồng thời mở rộng phát hành tín phiếu. Bên cạnh việc đổi tiền tháng 10/1922 nhà nước phát hành giấy bạc ngân hàng, gọi là đồng “checvônet” được bảo đảm không dưới 25% bằng vàng và bằng ngoại tệ. Đồng “checvonét” nhanh chóng được chấp nhận và có vị trí vững chắc trong lưu thông, bởi vì một mặt nó được bảo đảm bằng vàng mặt khác nó còn có vật tư và hàng hoá của các tổ chức kinh tế quốc doanh bảo đảm giá trị. Nhờ đó, nó trở thành một đồng tiền mạnh, đủ đẩy vàng và ngoại tệ ra khỏi lưu thông. Nó trở thành cơ sở tiền tệ ổn định làm thước đo giá trị cho việc thực hiện hạch toán kinh tế, xác định giá thành giá cả cho việc thanh toán giữa các tổ chức kinh tế với nhau. II/ Sự vận dụng chính sách kinh tế mới của VI.Lênin ở Việt Nam. 1.Thực trạng kinh tế Việt Nam. Sau khi dành được độc lập (1945) nước ta phải đương đầu với một nền kinh tế lạc hậu, nông nghiệp yếu kém. Tình trạng thiếu lương thực, thực phẩm diễn ra khắp nơi. Nhân dân chết đói (2 triệu năm 1945), ruộng đất bị bỏ hoang. Nền tài chính non yếu, Nhà nước ta chưa có đồng tiền riêng. Cộng với chế độ quan liêu bao cấp hách dịch cửa quyền ( trong những năm 70- 80), đã làm cho nền kinh tế nước ta trong mỗi thời kỳ có những khó khăn riêng đòi hỏi phải có sự thay đổi, cải tiến vận dụng các chính sách kinh tế đã được ứng dụng thành công ở các nước XHCN đi trước. Qua mỗi giai đoạn, nền kinh tế nước ta có những khó khăn riêng. Chiến tranh chống Mỹ làm cho chúng ta không có điều kiện để đầu tư phát triển kinh tế. Hoà bình lập lại (1975) thì có các chính sách hành chính chưa phù hợp. Nhiều cơ quan nhà nước nhũng nhiễu dân chúng, quan liêu, xa rời nhân dân. Các chính sách kinh tế chỉ tồn tại trên giấy tờ với hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh. Nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ thâm hụt vào vốn. Do không thừa nhận các quy luật kinh tế vốn có nên nền kinh tế nước ta trước đổi mới (1986) rất trì trệ, yếu kém. Đó là một nền kinh tế công nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa theo kịp quan hệ sản xuất. Là một nước nông nghiệp nhưng chúng ta phải nhập lương thực, đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn. Do đó việc áp dụng chính sách kinh tế mới đã thành công ở nước Nga nước có một số đặc điểm giống Việt Nam là điều hết sức cần thiết. 2. Vận dụng chính sách kinh tế mới ở Việt Nam. a. áp dụng NEP trong giai đoạn 1960 – 1975. * Trong giai đoạn này nước ta tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa (miền Bắc). Công cuộc cải tạo cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích cải tạo những quan hệ sản xuất không xã hội chủ nghĩa thành quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó mẫu chốt là cải tiến chế độ sở hữu cá thể và chế độ sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất thành các hình thức khác nhau của chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sức sản xuất phát triển. ở miền Bắc nước ta, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa bao gồm cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân, cải tạo nông nghiệp, cải tạo thủ công nghiệp và cải tạo tiểu thương, trong đó cải tạo nông nghiệp là khâu chính vì nông nghiệp chiếm bộ phận rất quan trọng, nông dân lao động là một lực lượng sản xuất to lớn. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chúng ta dùng con đường hợp tác hoá nông nghiệp kết hợp cải tạo quan hệ sản xuất với cải tiến kỹ thuật và giáo dục tư tưởng, đi từ tổ đội công đến hợp tác xã bậc thấp và hợp tác xã sản xuất bậc cao, từ hợp tác xã nông nghiệp quy mô nhỏ đến hợp tác xã quy mô lớn để biến nông dân cá thể thành nông dân tập thể. Trong việc cải tạo công thương tư bản tư nhân, căn cứ vào điều kiện cụ thể của nước ta, chúng ta chủ trương cải tạo hoà bình công thương nghiệp tư bản tư nhân theo chủ nghĩa xã hội: dùng chính sách sử dụng, hạn chế và cải tạo, chính sách chuộc lại và trả dần đối với tư liệu sản xuất của giai cấp tư sản, thông qua các hình thức gia công, đặt hàng, kinh tiêu, đại lý xí nghiệp công tư hợp doanh và xí nghiệp hợp tác; kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính giáo dục. Con đường hợp tác hoá thủ công nghiệp của ta là thông qua các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã cung tiêu sản xuất và hợp tác xã sản xuất, kết hợp chặt chẽ việc cải tạo quan hệ, sản xuất với việc cải tiến sức sản xuất. Còn đối với thương nghiệp nhỏ, chúng ta chủ trương dùng các hình thức hợp tác như tổ hợp tác mua bán, tổ hợp tác vừa mua bán vừa sản xuất, cửa hàng hợp tác… và chuyển dần bộ phận lớn những người buôn bán nhỏ sang sản xuất. Đến cuối năm 1960 Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã căn bản được hoàn thành: 85,5% số hệ nông dân đã vào hợp tác xã nông nghiệp theo hình thức thấp và quy mô nhỏ (33 ha ruộng đất và 68 hộ một HTX) gần 100% số hộ tư sản thuộc diện cải tạo đã được cải tạo; 87,9% thợ thủ công đi vào con đường làm ăn tập thể; 45,6% số tiểu thương vào HTX, chuyển được 11.000 người sang sản xuất và một số ít người được tuyển vào làm nhân viên mậu dịch quốc doanh và HTX mua bán. Thắng lợi trong cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có ý nghĩa lịch sử to lớn: quan hệ sản xuât xã hội chủ nghĩa được xác lập một cách phổ biến (nhưng chủ yếu mới thay đổi được quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất); chế độ người bóc lột người đã căn bản bị xoá bỏ, lực lượng sản xuất đã được giải phóng và đang trên đà phát triển. Giai cấp nông dân tập thể được hình thành, khối công nông liên minh được củng cố, chuyên chính vô sản được tăng cường. Tuy nhiên, trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã có những biểu hiện chủ quan nóng vội muốn xóa bỏ ngay các thành phần kinh tế phi XHCN, nhanh chóng biến kinh tế tư bản tư nhân thành quốc doanh; một số nơi gần như cưỡng bức nông dân đi vào hợp tác xã, khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất vừa được chia. * Thực hiện một bước công nghiệp hoá XHCN. Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta. Chủ trương công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa đã được Đại hội Đảng lần thứ Iii đề ra như: “Xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đối và hiện đại kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, lấy công nghiệp nặng làm nền tảng, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ nhằm biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại” Để thực hiện chủ trương trên, nhà nước đã dành 48% số vốn đầu tư xây dựng cơ bản để xây dựng công nghiệp, trong đó tới 78% dành cho công nghiệp nặng. Với số vốn đó ta đã xây dựng được một số công trình lớn của kế hoạch này: khu ngang thép Thái Nguyên, nhà máy điện uông bí, hoá chất Việt Trì, Supe phot phát Lâm Thao. Các phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội đã diễn ta rầm rộ và sôi nổi ở khắp các ngành, các địa phương như “thi đua một người làm việc bằng hai”, “gió đại phong”, phong trào “ba tốt” trong thương nghiệp. Do đó trong giai đoạn này giá trị sản lượng công nghiệp và nông nghiệp đều có bước tăng trưởng vưọt bậc, chi viện cho tiền tuyến. b. áp dụng NEP vào Việt Nam giai đoạn 1975 –1986. Trước hết là vấn đền củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất ở miền Bắc. Do có sự khủng hoảng của mô hình tập thể hoá nông nghiệp trong giai đoạn 1976 –1980 nên tháng 1-1981 Ban bí thư trung ương đã ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm va người lao động. Sự ra đời của chỉ thị 100 rất phù hợp với thực tiễn khách quan, bởi vì vào cuối những năm 70 nền kinh tế nói chung, nông nghiệp nói riêng gặp nhiều khó khăn gay gắt: năng suất, sản lượng cây trồng, vật nuôi giảm; sản xuất không đủ tiêu dùng; thu nhập và đời sống của xã viên bị bấp bênh và giảm sút; trên 70% số hợp tác xã nông nghiệp thuộc loại trung bình và yếu kém; nhiều hợp tác xã nằm trong tình trạng bị tan rã; nông dân bỏ ruộng đồng; không thiết tha gắn bó với hợp tác xã. Trước tình hình đó, ở một số địa phương, có hợp tác xã đã phải khoán “chui” đối với hộ gia đình dưới các hình thức khác nhau. Khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động là một hình thức quản lý tiến bộ, thích hợp với điều kiện lao động của ta – chủ yếu còn là thủ công và là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất phù hợp với tíh chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Chỉ thị 100 đã có tác dụng gắn chặt trách nhiệm và lợi ích của người lao động với sản xuất phẩm cuối cùng. Còn hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã phát huy được tốt hơn khả năng lao động, tạo ra những khí thế lao động sôi nổi, tận dụng được điều kiện về vốn và vật tư, chú trọng các biện pháp thâm canh, tăng năng suất, tăng thu nhập, giải quyết tốt việc kết hợp ba lợi ích; cho nên chỉ thị đó nói chung đã là một động lực đối với việc phát triển sản xuất nông nghiệp. Đồng thời với việc củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp ở miền Bắc, Đảng và nhà nước còn tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp ở miền Nam. Sau giải phóng 1975, quan hệ sở hữu ruộng đất đã biến đổi sâu sắc, đại bộ phận ruộng đất đã về tay nông dân, quan hệ sản xuất phong kiến không còn là trở lực lớn trên con đường tiến lên của xã hội miền Nam. Do đó, ở đây chúng ta không cần tiến hành cải cách ruộng đất như ở miền Bắc mà chủ yếu là việc xoá bỏ những tàn dư thực dân và phong kiến về ruộng đất. Sau đó tiến hành công cuộc hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam được tiến hành. Một vấn đề quan trọng trong quá trình tiến hành hợp tác hoá nông nghiệp ở miền Nam là hợp tác hoá đi đôi với thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá. Đó là điều khác với miền Bắc – hợp tác hoá di trước cơ giới hoá. Trong thời kỳ này Đảng và nhà nước rất quan tâm đến vấn đề phát triển công nghiệp, tiếp tục tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH công cuộc công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa vẫn được tiếp tục đẩy mạnh. Nội dung chính của vấn đề nông nghiệp coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước tiến lên sản xuất lớn XHCN, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp với nông nghiệp và công nghiệp trong một cơ cấu công nông nghiệp hợp lý. c. áp dụng NEP từ 1986 đến nay. Một số giải pháp. Tháng 12/1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra bước ngoặc quan trọng trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi mới đó là một cuộc cách mạng, mỗi bước đi của nó là một sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ. Lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở lý luận nền tảng cho sự tìm kiếm và khám phá mới mẻ này, trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN chính sách kinh tế mới và những tư tưởng cơ bản của Lênin đã được chúng ta nhìn nhận lại với hoàn cảnh lịch sử cụ thể cuả mình. Nước ta xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một nước phong kiến với nền nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất yếu kém thì chưa thể xây dựng quan hệ sản xuất XHCN lớn ngay được. Chính vì vậy cần phải có một thời gian quá độ để xây dựng cơ sở hạ tầng, vật chất tiên tiến, lực lượng sản xuất tiến bộ. Và chính sách kinh tế là một cơ sở lý luận là công cụ thực hiện quá độ có vai trò rất quan trọng đã được Đảng ta vận dụng. Đại hội Đảng VI đã chỉ rõ nguyên nhân của những sai lầm nôn nóng, chủ quan duy ý chí của chủ trương ‘tiến nhanh tiến thẳng” lên chủ nghĩa xã hội trong những năm trước đổi mới ở nước ta. Khi đó, với mục đích đúng đắn là nhanh chóng nâng cao hiệu quả của sản xuất nông nghiệp; song biện pháp và bước đi lại quá vội vàng, chúng ta đã quá vội tiến hành hợp tác hoá và xây dựng các hợp tác xã bậc cao, bất chấp quy luật phát triển khách quan của nó và cũng chưa tính đến một cách đầy đủ hoàn cảnh lịch sử – cụ thể của nước ta và do vậy kết quả mang lại đã không được như ý muốn. Chúng ta đã thiếu quan tâm đến những hình thức nhỏ của sản xuất nông nghiệp và có lẽ phần nào đã không đánh giá đúng một luận điểm quan trọng của VI. Lênin trong chính sách kinh tế mới – luận điểm về tính không khả thi của việc chuyển nền sản xuất nhỏ, lạc hậu lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bằng cách ban bố những sắc lệnh từ trên xuống. Hậu quả của việc làm đó không chỉ ở chỗ, sản xuất nông nghiệp không phát triển mà còn ở chỗ sản xuất nông nghiệp không phát triển, mà còn ở chỗ, niềm tin của người nông dân vào con đường làm ăn tập thể phần nào bị giảm sút do lợi ích kinh tế của hệ không được đáp ứng đời sống của họ ít được cải thiện. Trong lĩnh vực công nghiệp và lĩnh vực sản xuất khác, tình hình cũng diễn ra một cách tương tự như vậy. Thực tiễn cho thấy rằng, không thể giải quyết được những vấn đề cấp bách trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế bằng các chủ trương, biện pháp dựa trên tư duy kinh tế cũ, mang đầy tính bị động và đối phó với tình hình. Bởi vậy, đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là bước chuyển có ý nghĩa cách mạng, đặt đúng vị trí và tầm vóc của cái tất yếu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nước phải đi theo con đường phát triển rút ngắn với hình thức quá độ gián tiếp mà lịch sử đã quy định. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta và các nước XHCN trước đây cho thấy rõ, chính sách kinh tế mới là mẫu mực về giải pháp tình thế và đối với nước ta. Chính sách kinh tế mới còn là đường lối mang tính chiến lược là cái đem lại cho chúng ta cơ sở lý luận về con đường quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Thật vậy, những tư tưởng cơ bản của V.I. Lênin về chính sách kinh tế mới nói chung, quan niệm của ông về việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nướ, thi hành chế độ hợp tác xã, cho phép tự do buôn bán, tự do trao đổi hàng hoá, kinh doanh tư nhân trên cơ sở điều tiết nhà nước trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nói riêng vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa lớn lao của nó trong công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng đã khẳng định là phải vận dụng sáng tạo và tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đặc biệt là tư tưởng của Lênin về chính sách kinh tế mới, về chủ nghĩa tư bản nhà nước, sáng tạo nhiều hình thức quá độ những nấc thang trung gian đa dạng, phù hợp với hoàng cảnh lịch sử cụ thể để đưa nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII một lẫn nữa khẳng định đường lối đổi mới mà chúng ta đã thực hiện trong 10 năm qua và cụ thể hoá đường lối đó, Đảng đã chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc cây dựng nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay là: Thực hiện nhất quán, lâu dài chính s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0338.doc
Tài liệu liên quan