Lời nói đầu
Ngày nay mâu thuẫn lớn nhất đối kháng là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết mâu thuẫn này ta phải tìm hiểu bản chất của hai phương thức nói trên.
Trên thực tế phương thức sản xuất tư bản chủ nghia vẫn dữ vị trí thống trị chi phối hoạt động nền kinh tế thế giới, lấn át phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa, tuy phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển nhưng nó không bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội loài người.
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1606 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chính vì vậy ta phải nghiên cứu “đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay” để có thể khẳng định rõ hơn phương thức sản xuất xã hội chủ nghĩa đảm bảo được sự công bằng và tiến bộ xã hội.
Do thời gian viết bài ngắn không tránh khỏi hạn chế và thiếu sót của bài viết. Kính mong Thầy, Cô góp ý để bài viết hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chủ nghĩa tư bản ngày nay chính là sự biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền
I. Sự biến đổi về lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những năng lực sản xuất của một xã hội nhất định, ở một thời kỳ nhất định.
1. Sự biến đổi về các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất.
Tư liệu lao động:Tư liệu lao động là một vật hay là hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự tác động của con người lên đối tượng lao động nhằm biến đổi tư liệu lao động theo ý muốn của mình .
ảnh hưởng lớn nhất đến tư liệu lao động là khoa học công nghệ bởi nó liên quan đến toàn bộ lĩnh vực khoa học kỹ thuật với mức độ rộng lớn chưa từng có .Hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trươc nổ ra trong ngành động lực và ngành chế tạo ,còn cuộc cách mạng lần này xâm nhập vào mọi mặt của cuộc sống xã hội loài người.
Điều này khiến cho con người tạo ra nhiều của cải vật chất nhanh hơn và phù hợp với nhu cầu của con người .Rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học mới ra đời và thành công làm cho đối tượng lao động đa dạng và phong phú với từng ngành,từng lĩnh vực rút ngắn nhanh chóng quá trình biến khoa học công nghệ thành lực lượng sản xuất.Làm cho khoa học công nghệ phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội cành nhanh.
Khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất và dưới chế độ tư bản, nó cũng là biện pháp cơ bản tăng nhan giá trị thặng dư. Điều này làm cho việc nghiên cứu khoa học công nghệ và sản xuất công nghiệp ở các nước tư bản phát triển kết hợp chặt chẽ với nhau.
Ngoài ra các nước tư bản phát triển còn chú ý đến việc nhập khoa học công nghệ tiên tiến của các nước, từ đó làm cho việc buôn bán kỹ thuật công nghệ mới không những thấy ngay hiệu quả, doanh lợi nhiều, mà còn lôi cuốn những ngành khoa học trong nước phát triển lên.
Dưới tác động của khoa học công nghệ làm cho tư liệu lao động ngày càng thông minh trong các ngành và cho nghiên cứu đặc biệt là ngành nghiên cứu vũ trụ và các ngành sản xuất vật chất.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại với cách mạng công tin then chốt đang triển khai và ngày càng mạnh mẽ và nó có tác động sâu xa tới nhiều mặt khác nhau của đời sống con người trước hết tại các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhất và ngày càng lan toả và bao trùm tất cả các nước ở những mức độ ngày càng sâu rộng khác nhau. Năm 1994 tổng chi phí vật chất cho công nghệ thông tin lên tới 186 tỉ USD tại các nước thuộc OECD. Việc đầu tư vào các cơ sở hạ tầng thôn tin và các dịch vụ truyền thông đa phương tiện được tạo ra từ loại tài sản được tạo thành mạng này, do vậy, ảnh hưởng lớn tới sự tăng trưởng kinh kế và các triển vọng việc làm. Sự phát triển của các cơ sở hạ tầng thông tin và các dịch vụ truyền thông đa phương tiện dường như sắp làm bùng nổ hoạt động kinh tế trên nhiều thị trường, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ có tỉ lệ tăng không ngừng của nền kinh tế các nước tư bản.
Sự xuất hiện của các cơ sở hạ tầng thông tin có khả năng sử lý tức thời việc truyền dẫn tương tác giọng nói và hình ảnh cho phép dự tính đến việc cung cấp các dịch vụ giải trí và thông tin trên các thị trường tiêu thụ hàng loạt.
Xã hội thông tin-số hoá xã hội điều này đã khiến cho người thợ dệt lụa Lyon đã quẳng chiếc máy dệt đầu tiên xuống sông với lý do là thứ “ Công nghệ mới” này khiến cho họ bọ mất việc làm. Họ đã không thể dự doán được rằng chiếc máy mà Joseph Marie Jacquard phát minh ra đánh dấu cho sự mở đầu kỷ nguyên mới-kỷ nguyên cơ khí hoá-nó đạt được sự chín muồi trong xã hội công nghiệp.
Bên cạnh đó làm cho quá trình khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nông-lâm-ngư nghiệp có hiệu qủa rõ ràng, năng suất lao động cao.
Sự biến đổi các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất còn đề cập đến sự biến đổi đối tượng lao động.
Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người tác động vào làm thay đổi hình thái của nó phù hợp với mục đích của con ngươì.
Đối tượng lao động loại sẵn có trong tự nhiên và phải trải qua quá trình tác động của con người. Nhưng loại sẵn có trong tự nhiên ngày càng khan hiếm do con người khai thác trong thời gian dài làm xuất hiện nhu cầu tái tạo lại tự nhiên. Ngày nay, dưới tác động của khoa học công nghệ làm cho sự gia tăng của nhiều ngành nghề khai thác và chế biến ứng với nó là sự đa dạng và phong phú hơn đối tượng lao động.
Mã hoá các thông tin và sử lý trên dây truyền hiện đại các ngành công nghệ cao xuất hiện. Sự đa dạng và phong phú tư liệu lao động và đối tượng lao động đã làm ra những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Nó thúc đẩy sự xuất hiện hàng loạt ngành nghề mới và làm cho những nghề cũ được cải tạo “ Thay da đổi thịt”. Làm cho cơ cấu ngành nghề ở các nước tư bản phát triển nhờ đó mà có sự thay đổi lớn. Lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh (hàng hoá sản xuất ra chất lượng cao, đẹp, giá thành hợp lý phù hợp với nhiều loại thị trường) trên thị trường quốc tế, theo đó cũng có sự biến đổi sâu sắc.
2. Sự biến đổi về cơ cấu lao động.
Kết cấu kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa người sản xuất với giới tự nhiên, là sự tác động của mối quan hệ kinh tế đó. Sự phát triển của lực lượng sản xuất và quá trình tăng trưởng kinh tế không chỉ biểu hiện ở mức tăng tài sản mà còn biểu hiện về sự biến đổi cơ cấu lao động đặc biệt là theo cơ cấu ngành.
Sau đại chiến thế giới lần II lực lượng sản xuất của chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh, đặc điểm cơ bản là cơ cấu theo ngành ngày càng được dịch chuyển, nâng cấp nhanh. Điều này phản ánh cơ cấu lao động trong ba ngành .
Sự thay đổi về phương thức sản xuất đến phương thức kinh doanh dẫn đến thay đổi cơ cấu lao động trong các ngành công nghiệp người lao động có sự biến đổi cả về trình độ và nghiệp vụ. Cơ cấu và các yếu tố cấu thành giá trị hàng hoá sức lao động để phù hợp với bước nhảy vọt mang tính cách mạng của tư liệu sản xuất. Cho tới nay đội ngũ lao động ở các nước tư bản phát triển và đạt đến trình độ chuyên nghiệp cao. Cơ cấu lao động có sự thay đổi theo hướng tiến bộ và các yếu tố tái sản xuất tư bản chủ nghĩa một cách hiệu quả.
Lao động dịch vụ tập trung cao đến 70->75%, đồng thời chuyên gia có tay nghề cao chủ yếu tập trung ở ngành dịch vụ. Tỷ lệ lao động trong ngành nông-lâm-ngư nghiệp ngày càng giảm với tốc độ nhanh chóng, không ngừng thu nhỏ.
Bởi sự thay đổi cơ cấu lao động theo ngành làm cho sự chuyên môn hoá ngày càng cao, con người tạo ra nhiều của cải vật chất, cơ cấu ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao đã thúc đẩy quá trình kinh tế chủ đạo, thúc đẩy kinh tế phát triển. Đẩy nhanh qúa trình toàn cầu hoá kinh tế. Nâng cao năng suất lao động.
Nó định hướng phát triển nền giáo dục và định hướng phát triển lực lượng lao động theo cơ cấu ngành giúp chúng ta đầu tư mang lại hiệu quả cao hơn .
Có được sự phân công lao động như vậy là do khoa học công nghệ phát triển, mọi hoạt động kinh tế đều được số hoá, tự động hoá. Có thể nói đó là bước chuyển mình từ lao động phổ thông là chính đến nay thế giới bước sang nền kinh tế tri thức thì vai trò của nguồn nhân lực càng trở nên quan trọng.
Các ngành sản xuất sử dụng công nghệ cao phát triển nhanh sẽ trở thành các ngành sản xuất chủ đạo thúc đẩy nền kinh tế chủ nghĩa tư bản phát triển. Ngành sản xuất thông tin mở rộng nhanh chóng trở thành trụ cột của nền kinh tế quốc dân. Sẽ có sự khác nhau ngày càng lớn giữa ngành sản xuất thông tin với ngành dịch thứ ba, truyền thống dịch vụ của nó cung cấp sẽ là “ tri thức” được hình thành nhờ đầu tư cao lại có hiệu ích cao chứ không phải là dịch vụ thông thường.
Hoạt động sáng tạo cái mới sôi động chưa từng có với nhịp độ cao. Được coi là nhân tố nội tại phát triển kinh tế bao gồm sáng tạo công nghệ mới, khai thác dịch vụ mới tạo ra phương thức sản xuất mới, hình thức tổ chức mới. Tri thức trở thành nguồn vốn quý nhất và quyền sở hữu tri thức trở thành quan trọng. Trong nền kinh tế truyền thống người khống chế xí nghiệp là người nắm giữ tư bản còn kỹ thuật, tài năng của nhà doanh nghiệp, người lao động đều là đối tượng thuê mướn của nhà tư bản. Nhưng khi kinh tế tri thức phát triển thì quyền sở hữu phát minh sáng tạo và tài năng của nhà doanh nghiệp đều có thể tham gia cổ phần với tư cách vốn đầu tư quan trọng và thu được lợi ích. Nền kinh tế tri thức tạo ra cho người lao động có vị thế hơn và thúc đẩy quá trình phân công lao động rõ ràng trong các ngành kinh tế.
Cơ cấu lao động của chủ nghĩa tư bản ngày nay được đặc trưng bởi: Từ tập trung hoá, tiêu chuẩn hoá, chuyên môn hoá đến phi tập trung hoá, phi đồng bộ hoá, phi hiện vật hoá. Bên cạnh đó tỉ lệ người thất nghiệp cao và sự xuất hiện của những người làm công ăn lương tự do : khi thì là ông chủ, khi là người cố vấn, người diễn thuyết, giáo viên. Các cuộc điều tra cho thấy là nhiều người làm công ăn lương săn lùng, chấp nhận những hình thức tiền công phụ thêm khác. một số người thích nâng cao chất lượng cuộc sống được đào too, giảm thời gian lao động, tạo ra một “ quỹ tiết kiệm thời gian” hơn là được tăng lương.
Một trong những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay còn có hình thức lao động theo nhóm, hình thức này bao gồm nhiều đơn vị hoạt động song song nhau.
Vai trò của nhà nước tư bản trong quá trình phân công lao động: dưới mọi góc độ ,sự phát triển của lực lựơng sản xuất xã hội, sự truyển dịch kết cấu kinh tế sự ra đời của kinh tế tri thức ,sự phát triển xã hội thông tin-thì cách mạng khoa học công nghệ, yếu tố số một có vai trò mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất theo đó ma quan hệ sản xuất cung phai thay đổi theo, sự phân công lao động cũng không thể giữ nguyên theo vậy.Nhà nước tư bản chi phối sự phân công rõ hơn cả bởi mọi hoạt động của các xí nghiệp đều chịu sự chi phối của Nhà nước.Đây là yếu tố coe bản của quá trình phân công lao động.
II. Sự điều chỉnh về quan hệ sản xuất.
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất ,phân phối, trao đổi và tiêu dùng sản phẩm xã hội.
1. Sự biến đổi về quan hệ sở hữu.
Sự biến đổi về quan hệ sản xuất dẫn đến sự biến đổi về quan hệ sản xuất trong đó yếu tố quyết định là quan hệ sở hữu.
Quan hệ sở hữu là một quan hệ cơ bản có tính chất quyết định chi phối các quan hệ khác trong quan hệ sản xuất. Dưới tac động của cuộc cách mạnh khoa học công nghệ quan hệ sở hữu có sự thay đổi rất lớn về khía cạnh chủ sở hữu ,đối tượng sở hữu và hình thức sở hữu.
a. Chủ sở hữu.
Ngày nay, trong một công ty, tập đoàn không chỉ đơn thuần chỉ có một quan hệ chủ sở hữu mà là có rất nhiều chủ cùng sở hữu.Nền sản xuất của các nước tư bản ngày càng mở rộng quy mô vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Quá trình toàn càu hoá ,quốc tế hoá nền sản xuất đòi hỏi phải có nguồn vốn khổng lồ, vượt khả năng của từng công ty, tập đoàn. Quá trình cổ phần hoá cùng với sự gia tăng tương ứng của các cổ đông làm cho chủ sở hữu tư bản cổ điển mất đi ưu thế và mất dần địa vị quyết định trong xã hội. Bởi các công ty, tập đoàn phải dựa vào sự đầu tư của rất nhiều người.
Mặt khác, phải thắng trong cạnh tranh các tập đoàn không còn cách nào khác là phải sử dụng vốn của nhiều người trong mọi tầng lớp xã hội để bảo đảm hoạt động mới hoàn thiện kỹ thuật-công nghệ, sử dụng hết tiềm năng sáng tạo của người lao động...
Trong quá trình đó, người công nhân cũng là chủ sở hữu ( với tư cách là cổ đông). Điều đó cho ta thấy khả năng vay vốn làm xuất hiện xu thế phi cá thể hoá sở hữu tư nhân lớn.
Như vậy trong xí nghiệp, công ty, các tập đoàn có cả nhà tư bản lớn, nhà tư bản nhỏ và công nhân cùng tham gia và đồng sở hữu với tỷ lệ khác nhau. Việc người công nhân cùng sở hữu với các nhà tư bản là xu hướng “ dân chủ hoá nền kinh tế” và điều này làm cho người công nhân vừa là người làm thuê vừa là chủ sở hữu. Nó làm cho trong xi nghiệp có tính dân chủ. Tuy nhiên sở hữu của công nhân còn chiếm một tỷ lệ nhỏ không đáng kể. Đây chính là một biện pháp để chủ nghĩa tư bản thực hiện sự quản lý của mình và phương pháp thu hút sự quan tâm của người lao động đối với công ty. Nhưng đó cũng không phải là do các nhà tư bản tự nguyện chuyển quyền sở hữu cho người lao động và cũng không phải là “cuộc cách mạng về sở hữu tư liệu sản xuất”, đây chẳng qua là sự thích nghi mới trong điều kiện mới của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, vừa là thu hút vốn đầu tư từ nhiều nguồn trong xã hội, kể cả nguồn vốn nhàn rỗi trong dân, vừa là biện pháp làm dịu mâu thuẫn giữa nhà tư bản với công nhân . Đây là đặc trưng cơ bản của sự thay đổi chủ sở hữu của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Trong điều kiện hiện nay, nhiều vấn đề kinh tế đã vượt ra khỏi khả năng của các công ty.Nhiều tiềm năng, nguồn lực chưa phát huy một cách có hiệu quả đúng đắn với cái vốn có của nó mà bản chất của chủ nghĩa tư bản là bóc lột. Do vậy hình thức chủ sở hữu nhà nước mới bảo đảm được hay nói một cách khác đó là chủ sở hữu nền kinh tế quốc dân mà đại diện của nó chính là chính quyền nhà nước tư sản.
Đối tượng sở hữu cũng có sự biến đổi. Trong chủ nghĩa tư bản ngày nay đối tượng sở hữu không còn bị giới hạn trong việc sở hữu tư liệu sản xuất mà là sở hữu về mặt giá trị (dưới nhiều hình thức: như vốn tự có, vốn cổ phần, vốn cho vay, trí tuệ...), sở hữu trí tuệ, sở hữu các công trình khoa học, bằng phát minh sáng chế, kiểu dáng công nghiệp..., các hình thức này ngày càng trở nên quan trọng và mang tính quyết định đối với tăng trưởng kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Trong các hình thức trên, sở hữu trí tuệ có vai trò đặc biệt quan trọng, vì chính trí tuệ là nguồn gốc sinh ra mọi của cải xã hội, đặc biệt là trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế trí tuệ đang thay thế dần nền kinh tế cổ điển.theo C.Mác, lao động tạo ra giá trị không chỉ bao hàm lao động thể lực mà còn cả lao động trí tuệ, lao động khoa học-kỹ thuật và cả lao động quản lý...bởi vì thời gian lao động xã hội cần thiết thay đổi theo mỗi sự thay đổi trong sức sản xuất của lao động, được quyết định bởi “ trình độ khéo léo trung bình của người công nhân, mức độ phát triển của khoa học và trình độ áp dụng khoa học vào công nghệ, sự kết hợp xã hội của quá trình sản xuất” và theo đà phát triển của đại công nghiệp việc tạo ra của cải thực sự ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động hao phí hơn là phụ thuộc vào những tác nhân được đưa vào vận dụng trong suốt thời gian lao động và bản thân những tác nhân này đến lượt mình lại tuyệt đối không tương ứng với thời gian lao động trực tiếp sản xuất ra chúng. Mà nói đúng hơn, chúng tuỳ thuộc vào trình độ chung của khoa học và bước tiến bộ của kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc vận dụng khoa học ấy vào sản xuất. ở các nước tư bản đã thực hiện sự kích hoạt hoạt động nghiên cứu, phát minh, sáng tạo công nghệ. Tài sản đã được sản xuất ra quan trọng nhất hoá ra lại không nhìn thấy và được cất giữ trong cá nhân .
Nói đến sở hữu người ta không chỉ quan tâm đến mặt pháp lý của nó, mà phải xem xét đến mặt hiệu quả kinh tế-xã hội của nó, tức là xem xét đến mặt kinh tế của sở hữu.Ngày nay, ở các nước phát triển đã có những bước ngoặt lớn về công nghiệp và kinh tế-kỹ thuật, trong điều kiện sản xuất hiện đại, sản xuất theo đơn đặt hàng, liên kết sản xuất với khâu tiêu dùng cuối cùng. Những công nghệ cao cần những người công nhân hiện đại với phẩm chất mới được hình thành và chiếm tỷ lệ ngành càng cao.
Những người công nhân có trình độ chuyên nghiệp hoá cao được tách ra và không tham dự trực tiếp vào quá trình sản xuất, đứng trên quá trình sản xuất trực tiếp mà họ làm việc với tất cả các yếu tố của quá trình sản xuất qua các thiết bị điện toán điều khiển ở đó họ phải xư lý hàng loạt các thông số có quan hệ qua lại phức tạp. Những người công nhân đó là những người chủ sở hữu kinh tế tiềm năng. Những tiềm năng về trình độ, tri thức khoa học,thái độ, lòng mong muốn lao động sáng tạo là thuộc về công nhân, một hình thức sở hữu mới là sở hữu kinh tế tiềm năng được hình thành. Loại sở hữu này chỉ thực hiện được một khi bản thân chủ sở hữu phát huy đầy đủ khả năng, phẩm chất của mình khi nó được đặt trong môi trường tập thể và mang tính tập thể cao.
b. Hình thức sở hữu.
Sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bao gồm sở hữu tư bản tư nhân và sở hữu của những người sản xuất nhỏ trong đó sở hữu tư bản tư nhân giữ địa vị thống trị trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Ngày nay, hình thức sở hữu này có sự biến đổi lớn , không còn thuần tuý là sở hữu tư nhân, tính độc lập thuần tuý của nó đã bị mất dần và thay thế vào đó là hình thức sở hữu hỗn hợp. Hình thức sở hữu hỗn hợp được hình thành và tồn tại dưới các hình thức sở hữu tập đoàn tư nhân, sở hữu xã hội và sở hữu tập thể, cũng như sở hữu liên hợp giữa nhà nước và các nhà tư bản .
Hình thức sở hữu độc quyền vẫn tồn tại nhưng có sự biến đổi, nó không còn là độc quyền thuần tuý mà là ở dạng hỗn hợp dưới các hình thức sở hữu tư bản tài chính, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, các công ty xuyên quốc gia. Trước nhất đó là hình thức sát nhập giữa các xí nghiệp độc quyền, hình thức này ngày nay đã mang tính toàn cầu và càng thành các tập đoàn xuyên quốc gia những công ty khổng lồ. Thứ hai, là do các xí nghiệp đã sử dụng phương thức phát hành trái phiếu để gom vốn, do ngân hàng đầu tư hoặc bảo lãnh để gắn kết các xí nghiệp lại thành những tập đoàn tài chính lớn. Thông qua việc ngân hàng đứng ra làm uỷ thác phát hành cổ phiếu của các xí nghiệp, ngân hàng sẽ lắm được tình hình tài chính các quyết sách kinh doanh và thực hiện quyền chi phối, kiểm soát, chia sẻ rủi ro và lợi ích chung, đã có tác động lớn tới các doanh nghiệp công thương nghiệp, biến các doanh nghiệp chức năng này thành những thành viên cấu thành tư bản tài chính. Nó là đặc trưng cơ bản của hình thức sở hữu tư bản tài chính của chủ nghĩa tư bản hiện nay.
Một hình thức sở hữu tư bản khác cần khảo cứu là sở hữu độc quyền nhà nước. Theo Lenin: sự dung hợp giữa tư bản độc quyền với nhà nước là cơ sở cho sự xuất hiện sở hữu độc quyền nhà nước. Do khi chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước ra đời thì cũng xuất hiện sở hữu độc quyền nhàn nước. Đây là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, sự thay đổi cục bộ cả ba mặt của quan hệ sản xuất.
Sở hữu độc quyền nhà nước là “ sở hữu tập thể của giai cấp tư bản độc quyền” mà vốn tư bản đó được tạo ra bằng nhiều con đường khác nhau như: thuế, công trái, huy động vốn tiết kiệm, tích luỹ từ các công việc kinh doanh của nhà nước và bằng con đường ngân sách phân phối lại thu nhập quốc dân trong đó ngân sách nhà nước và ngân hàng là con đường quan trọng nhất.
Sở hữu độc quyền nhà nước được hình thành bằng con đường quốc hữu hoá do nhà nước tiến hành quốc hữu hoá các ngành công nghiệp và các cơ sở kinh doanh quan trọng, Anh và pháp đã tiến hành quốc hữu hoá ở các ngành công nghiệp than đá, điện lực, đường sắt, một phần công nghiệp luyện kim đen và một số các ngân hàng quan trọng, cơ quan bảo hiểm.
Vai trò của sở hữu độc quyền nhà nước: nó là một công cụ có vị trí trọng yếu để nhà nước can thiệp vào nền kinh tế để tạo điều kiện thuận lợi cho sở hữu tư bản tư nhân tự do phát triển. Hình thức sở hữu độc quyền nhà nước là một hình thức xã hội của sở hữu phù hợp với tính chất xã hội hoá của sản xuất, là một cách thức giải quyết mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá của sản xuất với hình thức chiếm hữu hoá tư nhân tư bản chủ nghĩa đây là một hình thức vận động mới của chủ nghĩa tư bản ngày nay.
Sở hữu độc quyền xuyên quốc gia được hình thành do quá trình tích tụ và tập trung sản xuất đựợc đẩy mạnh trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế và cuộc cách mạng khoa học công nghệ làm tiền đề cho các tổ chức độc quyền vươn ra khỏi biên giới quốc gia. Đó cũng chính là hình thức mang tính chất khách quan do tác động của quá trình xã hội hoá sản xuất dưới hình thức quốc tế hoá trong điều kiện tư bản.
Tóm lại:
Sự biến đổi về quan hệ sở hữu trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa để thích ứng với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất đã có tác động trở lại nhất định đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Tuy sự tác động này có hạn chế song đây là quá trình mang tính khách quan và là xu thế vận động của chủ nghĩa tư bản ngày nay. Đồng thời sự biến đổi của quan hệ sở hữu cũng đã đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi quan hệ quản lý và phân phối phải có sự biến đổi tương ứng
2. Sự điều chỉnh về quan hệ tổ chức, quản lý.
Quan hệ quản lý nói lên địa vị của con người trong quá trình sản xuất, xuất hiện trong quá trình sản xuất.
Cùng với những biến đổi về quan hệ sở hữu, hình thức tổ chức và cơ chế quản lý cũng có sự biến đổi theo. Những hình thức tổ chức quản lý mới đến lượt nó vừa mang lại hiệu quả cho hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, xí nghiệp và cả nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, vừa có tác động củng cố, thúc đẩy quan hệ sở hữu ngày càng phù hợp với sự phát triển cao của lực lượng sản xuất .
Sự biến đổi về hình thức tổ chức quản lý trong nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản đã diễn ra cả trong lĩnh vực vi mô và vĩ mô, từ trong các công ty, xí nghiệp, đến họat động quản lý của nhà nước tư sản.
Trên cơ sở những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, tự động hoá như các thiết bị điều khiển số hoá, thiết kế và chế tạo với sự trợ giúp của máy tính điện tử, các hệ thống sản xuất linh hoạt, người máy... Phương thức tổ chức quản lý sản xuất vật chất có sự thay đổi từ sản xuất lớn hàng loạt sang quản lý tổ chức theo loạt nhỏ hay đơn chiếc đáp ứng nhu cầu thị hiếu đa dạng của khách hàng và đa dạng hoá các sản phẩm. Thực hiện tổ chức quản lý từ xa để sản xuất trên diện rộng ở nhiều vùng khác nhau trong những thời điểm khác nhau. Nền kinh tế mang tính chất toàn cầu và hoạt động như một đơn vị kinh tế cấp toàn cầu, vì vậy hoạt động tổ chức quản lý cũng mang tính quốc tế hoá, toàn cầu hoá. Tất cả những biến đổi trên cho ta thấy việc tổ chức quản lý sản xuất và hoạt động kinh tế đã dịch chuyển từ kiểu đại trà sang kiểu sản xuất loạt nhỏ ngày càng linh hoạt, cũng như sự dịch chuyển từ các tổ chức có quy mô lớn liên kết theo chiều dọc sang phi liên kết theo chiều dọc và sang các mạng lưới theo chiều ngang giữa các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước.
Mô hình tổ chức quản lý của thể chế này có hai loại. Theo quá trình nằm ngang và theo kiểu “tế bào sản xuất” :
Mô hình tổ chức quản lý theo quá trình nằm ngang được xây dựng nhằm khắc phục những khuyết tật của kiểu quản lý truyền thống, giảm bớt nhiều tầng cấp trung gian, chuyển từ việc lấy chức năng công việc làm hạt nhân sang quá trình làm hạt nhân để tổ chức nhân viên. Nội dung cơ bản của kết cấu tổ chức theo quá trình nằm ngang là việc tập hợp những viên chức có kỹ năng khác nhau vào một “tế bào sản xuất” để họ thấy được mục tiêu của một “ quá trình tác nghiệp”. Từ đó họ tự quản lý sản xuất phát huy cao độ tinh thần hợp tác và ưu thế của một tập đoàn hoàn chỉnh để giành thắng lợi trong cạnh tranh. Mô hình này có tác dụng kiểm tra và loại bỏ được mọi hoạt động không làm tăng giá trị sản phẩm, kích thích thi đua hợp tác nhân viên, tăng khả năng tiếp xúc, cuốn khách hàng mang hiệu quả kinh tế cao.
Mô hình kinh tế tổ chức quản lý theo kiểu “ tế bào sản xuất” là kiểu tổ chức quản lý trong đó công nhân được chia ra từng ca, kíp nhỏ có thể chế tạo, kiểm tra và hoàn thành toàn bộ sản phẩm. Mỗi công nhân có thể làm nhiều việc và mỗi tế bào phải chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm của mình. “tế bào sản xuất” là một “quá trình hẹp” nhưng lại rất linh hoạt, hiệu quả cao, đáp ứng được yêu cầu thay đổi kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm của khách hàng một cách nhanh chóng đáp với sự biến động mau lẹ của thị trường. Mỗi tế bào sản xuất một sản phẩm khác nhau, nếu sảy ra rủi ro thì chỉ ảnh hưởng tới tế bào “ đương sự”, tránh được rủi ro cho toàn xí nghiệp. Mô hình tổ chức quản lý này đem lại năng suất chất lượng hiểu hơn.
Hai mô hình tổ chức này nhằm phát huy nguồn lực con người- đó là hệ thống tổ chức sản xuất lấy con người làm trung tâm, định hướng vào loại nhân lực có trình độ cao trong quá trình sản xuất, bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình độ chuyên môn một cách liên tục và có hệ thống đội ngũ công nhân năng động và cách thức tổ chức linh hoạt đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn cả trang thiết bị mới hiện đại. Việc hoàn thiện công tác quản lý con người mang lại tác động mãnh mẽ hơn nhiều về mặt thành tựu so với việc mau sắm thiết bị kỹ thuật tiên tiến từ các máy công cụ điều khiển.
Để nâng cao hiệu quả công tác, các xĩ nghiệp lớn đang cải tiến cơ chế quản lý trước đây là phân công ngành quá chi tiết, quá nhiều tầng nấc...các xĩ nghiệp đã lập ra giám đốc tri thức hoặc chủ quản thông tin nhằm tăng cường công tác thông tin cũng như công tác nghiên cứu khoa học và đạo tạo. giám đốc cấp trên đi sâu vào cơ sở, tìm hiểu tình hình sản xuất kinh doanh phát huy tính chủ động của các ngành, giảm bớt sự can thiệp trực tiếp, từ đó làm cho công ty chuyển từ “ quản lý kiểu gia chưởng” thành công việc chung của bạn hàng.
Các cuộc cải cách về tổ chức và quản lý xí nghiệp của các nước tư bản chủ nghĩa phát triển nhằm thích ứng yêu cầu chuyển sang thông tin hoá hiện nay vẫn ở giai đoạn mò mẫm chưa được định hình. Nhưng chỉ có cải cách mới có lối thoát, điều này đã trở thành nhận thức chung của mọi người. Hơn nữa có một số xí nghiệp thông qua cải cách, năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh thực tế có được nâng cao. Xét từ ý nghĩa này, những cải cách và sáng tạo của các xí nghiệp tư bản chủ nghĩa là một bước tiến bộ. Nhưng tính chất tư bản chủ nghĩa của xí nghiệp không hề thay đổi. Không những thế, mức độ lợi nhuận của các xí nghiệp lớn thu được qua cuộc cải cách này còn tăng lên. đồng thời, mặc dù thu nhập tiền lương của công nhân, đặc biệt là công nhân kiến thức và nhân tài chuyên môn cũng được nâng cao, nhưng mức độ được nâng cao rất ít. điều đó cũng có nghĩa là giá trị mà lao động của công nhân tạo ra phần lớn rơi vào tay các tập đoàn tư bản lớn. Mặc dù công nhân được giải phóng khỏi máy móc và dây chuyền sản xuất nhưng lại rơi vào mạng lưới vi tính; mặc dù họ được khuyến khích phát huy cao độ tinh thần chủ động và tinh thần sáng tạo, nhưng thành quả lao động sáng tạo của họ lại bị bọn tư bản chiếm đoạt nhiều hơn, quan hệ bóc lột và bị bóc lột trong nội bộ xí nghiệp bị che đậy một cách khéo léo hơn bởi phương thức quản lý và văn hoá xí nghiệp.
Sự xuất hiện của trí thức khoa học-công nghệ cao đã thúc đẩy sự ra đời nhanh chóng các mô hình chiếm lĩnh và khai thác thị trường quốc tế. Đó là sự quản lý tổng hợp thông qua máy vi tính một loạt những hoạt động sản xuất từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất sản phẩm.
Cùng với sự biến đổi mô hình quản lý của các xí nghiệp,c ông ty, tập đoàn trong những thập kỷ qua, vai trò của tư bản tài chính và nhà nước tư sản trong quá trình quản lý, chi phối hoạt động kinh tế xã hội của chủ nghĩa tư bản là rất to lớn. Sự biến đổi về kết cấu tổ chức quyền lực là dựa trên sự biến đổi kết cấu sở hữu. ngày nay kết cấu mang tính gia tộc cơ chế thống trị thông qua chế độ tham dự được thay thế bằng kết cấu tập trung kiểu mạng lưới cơ chế uỷ nhiệm.
3. Sự điều chỉnh về quan hệ phân phối.
Do sự thay đổi các đối tượng trong quan hệ sản xuất nên quan hệ phân phối cũng có sự thay đổi theo, nhưng yếu tố trực tiếp là do sự phát triển của lực lượng sản xuất dưới sự tác động của khoa học công nghệ.
Quan hệ phân phối nó trực tiếp thực hiện lợi ích kinh tế của các cá nhân tham gia vào sản xuất.
Trước hết là sự thay đổi quan hệ phân phối tư bản chủ nghĩa trước kia, nguyên tắc tuyệt đối quyết định quá trình phân phối lợi ích kinh tế là theo tỷ lệ khối lượng tư bản và khối lượng sức lao động mà các chủ thể bỏ ra. Quan hệ phan phối này không tính đến vai trò sáng tạo của sức lao động trong quá trình sản xuất ra giá trị mới cho xã hội, do đó ai nắm trong tay khôi lượng tư bản lớn là quyết định mức phân phối và thu được mức lợi ích cao hơn; người chỉ có duy nhất sức lao động để bán thì ngày càng nghèo đi, còn những người không bán được sức lao động của mình thì sẽ bị gạt ra ngoài nề xã hội. Những người bán sức lao động và những người không có điều kiện, khả năng bán sức lao động lại chiếm ở đại bộ phận dân cư là bộ phận tiêu dùng chủ yếu quyết định khối lượng cầu trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Nguyên tắc phân phối lợi ích này đã không khuyến khích tạo điều kiện để tiêu dùng. Cho nên nền sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn vận động trong trạng thái mất cân đối giữa sản xuấtc và tiêu dùng đã dẫn đến tình trạng khủng hoảng và mất ổn định chính trị, xã hội. Chủ nghĩa tư bản ngày nay với vai trò của nhà nước , tư bản độc quyền đã thực hiện sự điều chỉnh phân phối lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế. Nguyên nhân là do nhiều chủ thể tham gia vào sản xuất kinh doanh trên thị trường nên phải có sự tương quan giữa các lợi ích của các chủ thể có quan hệ chằng chịt, xoắn quện vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Trong đó tương lợi ích giữa lao động và nhà tư bản là cơ bản và chủ yếu để thực hiện bản chất xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Cơ cấu chi tiêu của người công nhân được tăng lên đáng kể do đã thực hiện chủ trương kích cầu bằng cách nâng cao tiêu dùng và tăng đầu tư, việc nâng cao tiền lương và cải thiện đời sống cho công nhân không những không tổn hại đến lợi nhuận của các nhà tư bản mà nó còn có lợi cho quá trình tái sản xuất mở rộng tư bản chủ nghĩa, làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản va lao động, thúc đẩy sản xuất lợi nhuận cho nhà nước tư bản, giữ môi trường ổn định củng cố chính trị. Tuy cơ cấu chi tiêu của người công nhân đáng kể nhưng dù sao người lao động cũng chỉ nhận được phần V còn nhà tư bản nhận được phần m và phần độc quyền .
Cách mạng khoa học công nghệ không những tạo ra tiền đề để nâng cao sản xuất mà còn tạo cơ sơ vật chất để nâng cao mức sống của người lao động. Thực tế tại các nước tư bản phát triển cho thấy tốc độ tăng lương thực tế của người lao động nhanh hơn tốc độ tăng giá. Cùng với việc tăng lương thì đời sống của công nhân cũng được nâg cao làm cho kết cấu tiêu dùng của công nhân có sự thay đổi lớn, tỉ lệ chi cho ăn, mặc giảm xuống , chi cho cải thiện đời sống tăng lên . Việc sử d._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35673.doc