Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương Việt Nam

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Ngày nay, trong thời đại kinh tế tri thức, hoạt động kinh doanh ngân hàng (NH) đã trở thành một ngành kinh tế tổng hợp mang tính quốc tế, được tổ chức với trình độ cao, có tính cạnh tranh ngày càng gay gắt trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính - tiền tệ. Hoạt động đó đòi hỏi các nhà quản lý kinh tế (QLKT) trong hoạt động NH cần có một khối lượng lớn kiến thức chuyên môn kỹ thuật và phải được đào tạo chuyên ngành, cán bộ quản lý kinh tế (CBQLKT) phải có t

doc138 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1797 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ầm và có tâm. Trong tương lai không xa đội ngũ cán bộ đó phải có đủ năng lực, trình độ ở tầm cỡ quốc tế để thực hiện tiến trình hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta. Ngân hàng Công thương Việt Nam (NHCTVN) là ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước được thành lập theo Quyết định số 402/CT ngày 14/11/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) và được Thống đốc Ngân hàng nhà nước (NHNN) ký Quyết định số 285/QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 thành lập lại theo mô hình tổng công ty nhà nước. Do lịch sử của mình, NHCTVN phải tiếp nhận và sử dụng đội ngũ cán bộ nhân viên (CBNV) còn nhiều vấn đề nổi cộm về chất lượng và cơ cấu số lượng lao động. Đến cuối năm 2004 NHCTVN có 13.804 người (là đơn vị có số lượng CBNV lớn thứ hai trong hệ thống các NHTM ở Việt Nam). Số lao động dôi dư chiếm khoảng 20% tổng số lao động trong toàn hệ thống - thực chất là thừa lao động giản đơn, thiếu trầm trọng về kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ của phần lớn các loại nghiệp vụ NH. Với số lượng lao động quá lớn, việc sắp xếp lại lao động trên cơ sở dự án hiện đại hóa NH và hệ thống thanh toán của ngân hàng công thương (NHCT) chưa đi liền với tinh giản lao động. Với tư cách là một doanh nghiệp nhà nước, việc quản lý lao động của NHCT rất khó thực hiện theo cơ chế thị trường. NHCTVN đã nhận thức được tầm quan trọng của CBQLKT trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng - dịch vụ NH và xác định đây là yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh, coi đó vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển NH. Vì thế NHCTVN đã thành lập trung tâm đào tạo (TTĐT) tháng 7 năm 1997 để tiến hành đào tạo và đào tạo lại, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho CBQLKT nói chung, quản lý kinh doanh tiền tệ nói riêng trong toàn hệ thống. Hoạt động đó đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, so với yêu cầu đổi mới của ngành NH trong tiến trình hội nhập vào khu vực và quốc tế thì còn nhiều bất cập. Để hiện đại hóa NHCTVN theo chuẩn mực quốc tế, lành mạnh tài chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động NH, đặc biệt là rủi ro tín dụng, cần phải đổi mới và hoàn thiện công tác đào tạo và đào tạo lại CBQLKT tại TTĐT NHCTVN, đáp ứng yêu cầu kinh doanh trong thời kỳ mới, đặc biệt là về tư cách, đạo đức, phẩm chất của cán bộ NH. Vì thế, tôi chọn vấn đề: "Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh doanh và quản lý. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Liên quan tới đào tạo nhân lực nói chung, đào tạo CBQLKT, quản lý kinh doanh NH đối với hệ thống NH nói riêng, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố: Đề tài nghiên cứu khoa học: "Đào tạo nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngân hàng", Lê Trọng Khanh, Học viện Ngân hàng, Hà Nội, 2003; Đề tài khoa học: "Nhu cầu nhân lực của ngành Ngân hàng Việt Nam thời điểm đầu thế kỷ 21", Lê Đình Thu, Hà Nội, 2001; Đề tài khoa học: "Giải pháp đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực Ngân hàng Việt Nam thời điểm đầu thế kỷ 21", Phạm Thanh Bình, Hà Nội, 2003; Đề tài khoa học: "Những vấn đề cơ bản về đổi mới công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học phù hợp với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường", Vũ Thị Liên, Hà Nội, 2001; "Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo - kinh nghiệm Đông Á", Lê Thị Ái Lâm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2003; "Quản lý nhân lực của doanh nghiệp", Đỗ Văn Phức, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội, 2004; "Giáo trình quản lý nhân lực trong doanh nghiệp", Nguyễn Tấn Thịnh, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội, 2003; "Một số cơ sở khoa học của cơ chế, chính sách thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đào tạo nghề nghiệp phục vụ phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2010", Viện chiến lược phát triển, Hà Nội, 2000, chủ nhiệm đề tài TS. Trần Thị Tuyết Mai; "Dự báo qui mô phát triển giáo dục và đào tạo cho các năm 2000, 2005, 2010, 2015 và 2020", Ban chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Hà nội, 1999; Luận văn thạc sĩ: "Phát triển nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở Thanh Hóa", Lê Văn Kỳ, Hà Nội, 2004; Luận văn thạc sĩ: "Quản lý giáo dục nghề nghiệp phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước", Phạm Ngọc Đỉnh, Hà Nội, 1999; Luận văn thạc sĩ: "Vấn đề qui hoạch, đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức quản lý nhà nước về kinh tế của tỉnh Đồng Nai", Vi Văn Vũ, Hà nội, 2000; Luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở nước ta hiện nay", Nguyễn Đức Tĩnh, Hà Nội, 2001; Luận văn thạc sĩ: "Hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề ở Hà Nội đáp ứng sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Chu Phương Anh, Hà Nội, 2003; Luận văn thạc sĩ: "Những giải pháp về quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề trên địa bàn Hà Nội hiện nay", Nguyễn Hữu Chí, Hà Nội, 2002... Các công trình nghiên cứu nói trên đã đề cập tới những khía cạnh khác nhau về nhân lực, như vai trò của nhân lực, nhu cầu và phát triển nhân lực, hoặc đào tạo và quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho đội ngũ nhân lực thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH). Tuy vậy, đào tạo và đào tạo lại CBQLKT tại TTĐT NHCT cho lĩnh vực NHCT với sự tiếp cận một cách cơ bản, hệ thống, phù hợp với yêu cầu mới hiện nay là vấn đề đang còn bỏ ngỏ cần tiếp tục nghiên cứu thấu đáo hơn. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích - Nhằm đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của NHCT: Kết hợp đào tạo nghề với đào tạo kiến thức tổng hợp gồm: lý luận, kỹ năng, quản trị, điều hành, gắn lý luận với thực hành, đảm bảo thành thạo nghề nghiệp. - Xây dựng nhân cách và đạo đức nghề nghiệp, tận tụy phục vụ khách hàng và phục vụ sự nghiệp phát triển của NHCTVN. - Góp phần đào tạo, phát triển đội ngũ CBQLKT của NHCTVN phù hợp với điều kiện, môi trường mới hiện đại, mở cửa, hội nhập. * Nhiệm vụ của luận văn - Hệ thống hóa, xây dựng, xác định nội dung cơ bản và phương thức đào tạo và đào tạo lại CBQLKT trong điều kiện mới tại NHCTVN. - Phân tích, đánh giá thực trạng đội ngũ CBQLKT và công tác đào tạo CBQLKT tại TTĐT NHCTVN. - Đề xuất giải pháp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của NHCTVN đáp ứng yêu cầu mới của kinh tế thị trường, hiện đại, mở cửa của nước ta. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn Xuất phát từ đặc điểm nhân lực nghề NH, cán bộ quản lý (CBQL) ngành NH có ba loại chính, cán bộ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, chính sách NH chủ yếu ở NHNN, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tiền tệ, NH; CBQL và kinh doanh tiền tệ, chủ yếu ở các NHTM. Loại này gồm hai bộ phận: + Bộ phận trung tâm đầu não: Hoạch định chiến lược, chính sách kinh doanh. + Bộ phận chỉ đạo cơ sở là bộ phận tác động trực tiếp đến chất lượng kinh doanh tiền tệ của một NH; CBNV nghiệp vụ, ở cả NHNN và NHTM. Trong luận văn này, phù hợp với lĩnh vực chuyên ngành NH, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL kinh doanh tiền tệ và nhân viên nghiệp vụ (gọi chung là cán bộ quản lý ngân hàng) trong phạm vi NHCTVN. Những vấn đề khác liên quan tới đào tạo, đào tạo lại CBQLKT nói chung, đối với NHTM nói riêng sẽ được đề cập khi cần thiết. 5. Phương pháp nghiên cứu Luận văn vận dụng các phương pháp nghiên cứu truyền thống như: Duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp thống kê, xác suất, điều tra, khảo sát thực tiễn... 6. Đóng góp mới của luận văn về mặt khoa học - Góp phần hoạch định chiến lược phát triển đội ngũ CBQLKT của NHCTVN thông qua công tác đào tạo và đào tạo lại. - Giúp các phòng, ban có liên quan đến quản lý nhân sự của NHCTVN xây dựng được chính sách đào tạo và đào tạo lại, sử dụng nhân lực có hiệu quả. - Xác định được nội dung, phương thức, hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của NHCTVN tại TTĐT NHCT trong điều kiện khoa học - công nghệ hiện đại và tiến trình hội nhập khu vực, quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương, 9 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO VÀ ĐÀO TẠO LẠI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ CỦA NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN VÀ VAI TRÒ, LỢI ÍCH CỦA ĐÀO TẠO VÀ ĐÀO TẠO LẠI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ KINH TẾ NGÀNH NGÂN HÀNG Đảng và Nhà nước ta xác định: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân" [24, tr. 7]. Điều 2, Luật Giáo dục nêu rõ: "Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam, phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp..." [24, tr. 8]. Con người là trung tâm và là mục tiêu phát triển xã hội, là yếu tố quyết định các quá trình sản xuất xã hội và khởi nguồn mọi sáng tạo của lao động có ích. Đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt là kinh tế nhờ sự phát triển không ngừng về trình độ nhận thức và lý luận, song cũng còn nhiều bất cập yếu kém, trong đó trình độ con người được xác định là một trong những nguyên nhân của yếu kém, khuyết điểm đó. Việt Nam đang bước vào thời kỳ xây dựng một đất nước CNH, HĐH, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế với mục tiêu: "Đến năm 2010 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại" [5, tr. 89]. Đảng Cộng sản Việt Nam nhận thức: "Con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [5, tr. 201] và "coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và là động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa" [5, tr. 91]. Chiến lược kinh tế - xã hội 2001-2010 xác định: "Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn lực, trọng tâm là giáo dục và đào tạo, khoa học..." [5, tr. 219]. Những điều đó đòi hỏi phải hiểu rõ và đặt đúng vị trí của đào tạo để phát triển con người. 1.1.1. Một số khái niệm liên quan đến đào tạo và đào tạo lại Từ điển Tiếng Việt: đào tạo là những hoạt động "làm cho con người trở thành những người có năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định" [44]. Đại từ điển Tiếng Việt viết: "Đào tạo: dạy dỗ rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp: đào tạo thành người tri thức; đào tạo chuyên môn nghiệp vụ" [45, tr. 503]. Đào tạo nói chung: Là tổng hợp những hoạt động nhằm nâng cao trình độ học vấn, trình độ nghề nghiệp và chuyên môn cho người lao động. Hay nói cách khác, đào tạo là những cố gắng của tổ chức được đưa ra nhằm thay đổi hành vi và thái độ của người lao động để đáp ứng các yêu cầu về hiệu quả của công việc. Đào tạo nghề: Là tổng hợp các hoạt động cần thiết cho phép người lao động có được những kiến thức lý thuyết và kỹ năng thực hành nhất định để tiến hành một nghề cụ thể trong doanh nghiệp và trong xã hội [38, tr. 205]. Giáo dục: Theo nghĩa rộng, được hiểu là các hoạt động đào tạo hình thành nên những con người mới. Nó bao gồm bốn mặt: Trí dục, đức dục, giáo dục thể chất và giáo dục thẩm mỹ. Trí dục là giáo dục trí tuệ, mà kết quả là học vấn. Còn đức dục là giáo dục về mặt đạo đức. Qua giáo dục sẽ hình thành và phát triển ở người học những năng lực nhận thức, năng lực hành động, hình thành các thế giới quan khoa học và các phẩm chất đạo đức của một con người [38, tr. 205]. Đào tạo lại: Là một phương thức đào tạo bổ sung cho những khiếm khuyết do tính lạc hậu tương đối của nhận thức, do thời gian đào tạo ban đầu chưa kịp phổ cập kiến thức phát triển của xã hội... [1, tr. 53] Đào tạo lại là một dạng đào tạo nghề cho những người lao động làm cho họ thay đổi nghề nghiệp hay chuyên môn, do những phát sinh khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội; những tiến bộ khoa học - kỹ thuật cũng như những thay đổi về tâm sinh lý của người lao động vốn đã ổn định. Hay nói cách khác, đào tạo lại có nhiệm vụ bảo đảm cho kết cấu nghề nghiệp, chuyên môn của người lao động phù hợp với những biến động của sản xuất và của chính bản thân họ [37, tr. 205]. Học tập: Có hai nghĩa: "1. Học và rèn luyện cho có tri thức, cho giỏi tay nghề: Học tập tốt, chăm chỉ học tập; 2. Noi theo: Học tập các điển hình tiên tiến: Học tập bạn bè" [45, tr. 829]. Bồi dưỡng: Bồi dưỡng có hai nghĩa: "1. Làm cho khỏe thêm, mạnh thêm; 2. Làm cho tốt hơn, giỏi hơn: bồi dưỡng đạo đức, bồi dưỡng nghiệp vụ" [45, tr. 191]. Bồi dưỡng nghiệp vụ: Là việc tăng cường, bổ sung, cập nhật kiến thức, kỹ năng xử lý các tình huống nghiệp vụ, mức độ thành thạo trong công việc, kinh nghiệm công tác... để cán bộ, nhân viên làm việc tốt hơn, giỏi hơn, đạt năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn, giảm thiểu rủi ro do kém hiểu biết, thiếu kinh nghiệm. Từ những khái niệm trên có thể rút ra những nhận xét chung như sau: Đào tạo là những hoạt động được thực hiện trên cơ sở nền tảng giáo dục, theo một nội dung, chương trình đã thiết kế từ trước để thỏa mãn nhu cầu nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của người tham gia đào tạo trên cơ sở mục tiêu đào tạo hay tiêu chuẩn nghề nghiệp đã định trước. Đào tạo lại là một phương thức đào tạo nhằm bổ sung, bồi dưỡng kiến thức tạo điều kiện cho người được đào tạo có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên môn mới hoặc đổi nghề, khác với lĩnh vực được đào tạo trước đó để phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới đáp ứng yêu cầu của nghề nghiệp đang làm hoặc sẽ làm. Đào tạo lại về chuyên môn, nghiệp vụ diễn ra sau quá trình đào tạo ban đầu là quá trình bổ sung, hoàn thiện, cập nhật kiến thức mới mà người lao động còn thiếu. Đào tạo lại còn bao gồm cả bồi dưỡng kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ. Đào tạo người học những kiến thức khoa học, chuyên môn, nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ,... để họ trở thành người có nghề nghiệp. Đào tạo bao gồm đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo cơ bản, đào tạo nâng cao, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ. Các cán bộ NHTM thường được đào tạo cơ bản từ các trường đại học, học viện, các trường chuyên nghiệp ra làm việc. Do đặc điểm các NHTM Nhà nước được hình thành từ NHNN thời kỳ quản lý tập trung bao cấp, nên đội ngũ CBNV được hình thành từ một số ở các trường về, một số chuyển từ các ngành khác sang chưa được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ NH, hoặc nếu được đào tạo thì ở trình độ chưa phù hợp cho nên họ cần được đào tạo lại và đào tạo nâng cao (đại học, cao học, nghiên cứu sinh tại các trường đại học, các học viện và TTĐT NHTM). Đối với các CBNV NHTM cần đào tạo nghiệp vụ theo chuyên ngành như: tín dụng, kế toán kiểm toán, thanh toán quốc tế, kinh doanh đối ngoại, pháp luật... ngoài ra còn đào tạo tin học, ngoại ngữ, marketing và đào tạo lý luận chính trị đối với cán bộ lãnh đạo, QLKT theo quy định về tiêu chuẩn CBQLKT ngành NH. Theo Luật Giáo dục, Điều 6 về hệ thống giáo dục quốc dân: "Phương thức giáo dục gồm giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui" [24, tr. 10], Điều 7 mục 2 qui định: "Chứng chỉ của hệ thống giáo dục quốc dân được cấp cho người học để xác nhận kết quả học tập sau khi được đào tạo hoặc bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, nghề nghiệp" [24, tr. 10-11]. Theo qui định của Luật Giáo dục: đào tạo lại, bồi dưỡng nghiệp vụ thuộc hệ thống giáo dục quốc dân, thì được cấp chứng chỉ. Đào tạo, đào tạo lại, học tập, bồi dưỡng nghiệp vụ đan xen với nhau rất khó phân biệt về mục đích, nội dung, chương trình. Vì vậy việc xác định ranh giới giữa đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng là rất khó phân biệt, trong luận văn này dùng cụm từ chung đó là: Đào tạo và đào tạo lại. 1.1.2. Vai trò của đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế ngành ngân hàng - Hoạt động đào tạo và đào tạo lại CBQLKT nhằm đem lại những sự thay đổi về nhân cách cho CBQL. Con người sinh ra không phải ai cũng có tài ngay, hoặc dù có tài bẩm sinh cũng phải qua học tập rèn luyện mới có thể trở thành nhân tài được. Do đó, đào tạo huấn luyện đối với đội ngũ lao động là nhiệm vụ thường xuyên của mọi tổ chức [11, tr. 171]. - Đào tạo và đào tạo lại là hoạt động nhằm nâng cao trình độ CBQL theo một mục tiêu nhất định, tương ứng với vị trí công tác hiện hành hoặc dự kiến bố trí trong tương lai. Đào tạo là biện pháp làm thay đổi, nâng cao trình độ của CBQL và từ đó tạo sự thay đổi và nâng cao hiệu quả công tác. Vì vậy, công tác đào tạo và đào tạo lại có vai trò rất quan trọng có ý nghĩa sống còn đến ngành NH nói chung và NHCT nói riêng. - Thông qua đào tạo, xây dựng được một đội ngũ CBQL đủ sức đảm đương được nhiệm vụ công tác trước mắt cũng như lâu dài. - Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ và kỹ năng cần có để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. - Hiệu quả của công tác đào tạo biểu hiện gián tiếp qua hiệu suất công tác và kết quả kinh doanh, đầu tư cho đào tạo là đầu tư chiều sâu. - Thông qua đào tạo và đào tạo lại góp phần tích cực xây dựng, hình thành đội ngũ CBQL kinh doanh tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của hệ thống NHCT. Tóm lại, vai trò của NH hết sức to lớn trong nền kinh tế, đặc biệt đối với nước ta thực hiện đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn hiện nay là kinh tế thị trường định hướng XHCN. NHCTVN là NHTM nhà nước không những có chức năng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư, các tổ chức kinh tế trong xã hội để đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... mà còn là trung gian thanh toán, góp phần ổn định chính sách tiền tệ của nhà nước. Hệ thống NHTM nói chung, NHCTVN nói riêng hoạt động tốt sẽ góp phần "tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những ngành, những lĩnh vực chủ yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệ thống tài chính, ngân hàng" [4]. Theo Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VIII, hệ thống NH là một trong những ngành kinh tế trọng yếu được nhà nước tập trung nguồn lực củng cố đầu tư để phát huy vai trò định hướng của kinh tế nhà nước. Vì vậy, hệ thống NH nói chung, NHCTVN nói riêng phải tiếp tục đổi mới toàn diện về tất cả các mặt hoạt động, trong đó có công tác đào tạo các nhà quản lý để đáp ứng yêu cầu mới của ngành NH, vì ngành NH vừa là ngành kinh tế tổng hợp, đồng thời là ngành dịch vụ kỹ thuật áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật, phản ánh sự phát triển của các ngành kinh tế khác. 1.1.3. Lợi ích của việc đào tạo và đào tạo lại Thông qua việc đào tạo và đào tạo lại có thể giúp cho CBNV trong doanh nghiệp xác định rõ được nhiệm vụ, chức trách và mục tiêu công tác của bản thân, nâng cao kiến thức và kỹ năng, có được tố chất và khả năng nghiệp vụ thích hợp để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp, tạo ra giá trị lớn nhất cho doanh nghiệp cùng với sự vươn lên của bản thân. Với tư cách là một nhà quản lý, để duy trì được sự phát triển của doanh nghiệp, trong hiện tại hay tương lai nhà quản lý đều cần đến những nhân viên có đầy đủ những kỹ năng cần thiết. Do đó, họ phải coi trọng công tác đào tạo, bởi vì việc đào tạo CBNV có thể đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích sau: Một là, việc đào tạo có thể giúp cho CBNV hiểu biết sâu sắc hơn về mục tiêu và văn hóa của doanh nghiệp, giáo dục cho CBNV có được sự đồng lòng với doanh nghiệp. Hai là, thông qua hoạt động đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao nhận thức và trình độ kỹ thuật chuyên ngành của CBNV giúp cho họ hiểu biết công việc, có khả năng phân tích, giải quyết những vấn đề mà công việc đòi hỏi, để họ giảm bớt được những sai lầm và sự cố trong khi làm việc, lao động với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn đem lại lợi ích cho cả doanh nghiệp và người lao động. Ba là, khi kết quả đào tạo giúp nâng cao khả năng hoàn thành nhiệm vụ của CBNV cấp dưới thì CBQL cũng được giải tỏa khỏi những công việc vụn vặt như sửa chữa sai lầm, bổ sung thiếu sót... Bốn là, khi doanh nghiệp đang thực hiện công cuộc đổi mới quản lý, thì đào tạo là một phương pháp rất hiệu quả thúc đẩy thay đổi quan niệm nhận thức, đào tạo cho CBNV nắm bắt được những kỹ năng cần thiết để tham gia vào công việc đổi mới này. Năm là, việc đào tạo có tác dụng động viên, khích lệ. Khi được đào tạo, họ sẽ có cảm giác được coi trọng; sau khi được đào tạo, họ sẽ chủ động nắm bắt và ứng dụng những kỹ năng mới mà họ đã được học. Ở Việt Nam, nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế tập trung, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, có sự quản lý của Nhà nước nên các cơ chế, chính sách có những thay đổi cơ bản. Những năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước đang từng bước hoàn thiện cơ chế thị trường định hướng XHCN nên các cơ chế, chính sách và pháp luật đang được hoàn thiện phù hợp với tính chất, đặc điểm nền kinh tế nước ta, với luật pháp và thông lệ quốc tế. Mặt khác, ngành NH nói chung, các NHTM nói riêng đang trong quá trình hội nhập khu vực và quốc tế. Nhiều hoạt động và nghiệp vụ kinh doanh trước đây của NH ở nước ta chưa có, nay đòi hỏi phải được đưa vào để hội nhập kinh tế quốc tế. Nhiều sản phẩm dịch vụ NH như thanh toán điện tử, séc cá nhân, ATM, Cash card, tín dụng tiêu dùng, tín dụng thuê mua, bảo hiểm phi nhân thọ, chứng khoán... mới ra đời trong hoạt động NH ở Việt Nam đòi hỏi cần phải đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng tác nghiệp. Đối với CBQL trong NH nói chung, NHCT nói riêng phải thường xuyên được đào tạo và đào tạo lại, bồi dưỡng cập nhật kiến thức về quản lý NHTM theo chuẩn mực quốc tế và quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, về hoạt động tài chính NH, về hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước... Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đổi mới, hiện đại hóa hoạt động NH. 1.1.4. Các yếu tố cấu thành của đào tạo Căn cứ qui chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức (ban hành kèm theo Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ngày 4/8/2003 của Thủ tướng Chính phủ), các yếu tố cấu thành của đào tạo gồm: + Nội dung đào tạo, bồi dưỡng; + Chương trình, giáo trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng; + Giảng viên; + Trách nhiệm, quyền lợi của cán bộ trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng; + Cơ sở đào tạo, bồi dưỡng. Từ qui chế trên, cho thấy: Điều 4: Nội dung đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức gồm: Lý luận chính trị Kiến thức pháp luật, kiến thức kỹ năng quản lý Kiến thức kỹ năng, chuyên môn nghiệp vụ Kiến thức tin học, ngoại ngữ và các kiến thức bổ trợ khác [39, tr. 225]. Điều 5: Các chương trình, giáo trình, tài liệu sử dụng trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức: Loại chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh cán bộ công chức. Các chương trình tài liệu bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức: a) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng bổ sung kiến thức theo tiêu chuẩn ngạch, chức danh cán bộ, công chức; b) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng cập nhật kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ; c) Chương trình, tài liệu đào tạo, bồi dưỡng và tạo nguồn cán bộ lãnh đạo quản lý; d) Chương trình, tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch, chuyển ngạch Các chương trình, giáo trình đào tạo, tài liệu bồi dưỡng kiến thức tin học, ngoại ngữ và kiến thức bổ trợ khác theo tiêu chuẩn ngạch [39, tr. 226]. Điều 14. Giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức bao gồm: Giảng viên của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và giảng viên kiêm chức là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp của các bộ các ngành trung ương và địa phương [39, tr. 229]. Điều 15: Giảng viên đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, trung thành với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có kinh nghiệm thực tiễn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có phương pháp sư phạm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao [39, tr. 230]. Điều 17: Trách nhiệm của cán bộ công chức: Cán bộ, công chức phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ lý luận, kiến thức, kỹ năng hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các kỹ năng hoạt động khác theo qui định. Cán bộ, công chức đang giữ chức vụ thuộc ngạch bậc nào phải đào tạo bồi dưỡng đáp ứng các tiêu chuẩn qui định cho chức vụ và ngạch, chức danh đó. Cán bộ, công chức sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng mà tự ý bỏ việc hoặc chuyển công tác khỏi khu vực nhà nước vì lý do các nhân thì phải bồi thường cho cơ quan, tổ chức sử dụng cán bộ, công chức các chi phí đào tạo, bồi dưỡng theo qui định của nhà nước [39, tr. 230]. Điều 18: Quyền lợi của cán bộ, công chức: Cán bộ, công chức được cử đi đào tạo, bồi dưỡng được cơ quan bố trí thời gian và kinh phí theo chế độ qui định. Trong trường hợp cán bộ, công chức theo nguyện vọng cá nhân mà được cơ quan có thẩm quyền cử đi đào tạo, bồi dưỡng thì được cơ quan hỗ trợ về thời gian, kinh phí tùy theo khả năng và điều kiện cho phép. Trong thời gian được cử đi dự các khóa đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, công chức được hưởng nguyên lương và các chế độ khác theo qui định [39, tr. 231]. Điều 19: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ công chức thuộc các ngạch chuyên viên chính trở lên và đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh... [39, tr. 231]. Điều 21: Trường (Trung tâm) đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các bộ, ngành: tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, tổ chức bồi dưỡng nâng cao, cập nhật kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng quản lý chuyên ngành cho cán bộ lãnh đạo cấp phòng, cấp vụ, cấp sở... [39, tr. 232]. 1.1.5. Nâng cao chất lượng hiệu quả của công tác xây dựng qui hoạch, kế hoạch và các hình thức đào tạo bồi dưỡng cán bộ Qui định về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức (ban hành kèm theo Quyết định số 74/2001/QĐ-TTg ngày 7/5/2001 của Thủ tướng Chính phủ) xác định rõ: - Gắn qui hoạch đào tạo với sử dụng và tạo nguồn cán bộ lâu dài. Công tác xây dựng qui hoạch, kế hoạch phải được thực hiện từ dưới lên, dựa trên cơ sở của những điều kiện thực hiện và nhu cầu thực tế. - Thường xuyên tiến hành kiểm tra tiến độ và khả năng thực hiện kế hoạch cũng như việc sử dụng nguồn kinh phí được cấp. - Nâng cao năng lực hoạt động nghiệp vụ của đội ngũ công chức quản lý đào tạo, trước hết là nghiệp vụ quản lý, kỹ năng và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch [39, tr. 204]. Điều 22. Các hình thức cơ bản tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là tập trung, bán tập trung, tại chức. Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nghiên cứu lựa chọn hình thức đào tạo, bồi dưỡng thích hợp với từng đối tượng cán bộ, công chức, đảm bảo chất lượng và hiệu quả của các khóa đào tạo và bồi dưỡng [39, tr. 232]. 1.1.6. Tiêu chuẩn của cán bộ quản lý kinh tế Ngân hàng công thương hiện nay Tiêu chuẩn của một NH hiện đại là đưa công nghệ tin học, truyền thông và các công cụ NH điện tử vào hoạt động. Một hệ thống NH phát triển hiện đại, kinh doanh đa năng cung cấp các dịch vụ NH với chất lượng và hiệu quả cao phản ánh trình độ của nền kinh tế phát triển. Muốn vậy, NH phải có một đội ngũ CBQLKT giỏi chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ quản lý. Trong đổi mới QLKT ở nước ta từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đã phân định rõ hai chức năng QLKT, đó là: Chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và chức năng quản lý sản xuất kinh doanh... [9, tr. 338]. Vì vậy, CBQLKT ngành NH được phân thành: - CBQL nhà nước về kinh tế: loại này chủ yếu ở NHNN. - CBQL sản xuất - kinh doanh: Loại này chủ yếu ở NHTM. Trong luận văn này, phù hợp với lĩnh vực chuyên ngành NH, đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn là đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL kinh doanh tiền tệ và nhân viên nghiệp vụ (gọi chung là CBQLKT ngành NH) trong phạm vi TTĐT NHCTVN như đã trình bày ở phần đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn. Từ phân tích trên ngoài tiêu chuẩn của một người cán bộ nói chung, của một nhà kinh doanh nói riêng thì Tiêu chuẩn chung của CBQLKT Ngân hàng Công thương là: - Nắm vững các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và các chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh tiền tệ - tín dụng và dịch vụ NH. - Có kiến thức chuyên sâu về nghiệp vụ NH vì QLKT là một nghề, mỗi vị trí công việc cần có qui định về mức độ bằng cấp bắt buộc, cần được đào tạo. - Có khả năng tư duy tổng hợp, hiểu biết về những ngành kinh tế, kỹ thuật liên quan, có tầm nhìn chiến lược đối với nhiệm vụ cần thực hiện. - Đánh giá được mức độ hiệu quả và khả năng thua lỗ, rủi ro trong hoạt động cho vay, đầu tư và các hoạt động kinh doanh khác thuộc trách nhiệm quản lý. Đánh giá phân tích được tình hình kinh tế - xã hội, con người và xây dựng được những biện pháp triển khai tối ưu. - Có sức khỏe chịu đựng được những áp lực của công việc, có tinh thần tự giác trong học tập, tự chịu trách nhiệm theo chức năng nhiệm vụ được giao, thực hiện nhiệm vụ một cách tự giác, sáng tạo. 1.2. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN VÀ YÊU CẦU MỚI ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO VÀ ĐÀO TẠO LẠI ĐỘI NGŨ CÁN BỘ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 1.2.1. Sự cần thiết khách quan đối với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý Ngân hàng Công thương Việt Nam * Công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL là một trong những nhiệm vụ trọng tâm để phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH hoạt động Ngân hàng Lênin nói về công tác giáo dục và đào tạo cho quần chúng sau khi giành được chính quyền cách mạng: "Những người lao động khát khao tri thức vì tri thức cần cho họ để chiến thắng... Tri thức là một vũ khí trong cuộc đấu tranh tự giải phóng, rằng sở dĩ họ thất bại là do thiếu học thức" [20, tr. 105]. Để tăng năng suất lao động dưới chế độ XHCN, Lênin đã chỉ rõ sự cần thiết phải đào tạo để: "Nâng cao trình độ học vấn và văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân" [20, tr. 301]. Ở nước ta, Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khóa VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ những quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình nhiệm vụ mới: Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã hội [4]. Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo công tác cán bộ trong thời kỳ đổi mới. Văn kiện Đại hội Đảng IX nêu rõ mục tiêu, phương hướng của công tác giáo dục đào tạo trong những năm tới là: "Tạo chuyển biến cơ bản về giáo dục, đào tạo đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực cho sự phát triển đất nước nhanh và bền vững" [5]. Công tác đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng chuyê._.n môn nghiệp vụ cho CBQLKT ngân hàng là nội dung quan trọng trong hoạt động NH. "Đối với một doanh nghiệp thì nhu cầu đào tạo nhân viên là một nhiệm vụ quan trọng và cấp bách nhất. Bởi vì nếu người lao động không được đào tạo, không có trình độ thì dù hệ thống máy móc và thiết bị có tinh vi đến đâu đi nữa cũng trở thành vô nghĩa" [38, tr. 203]. Mục đích của công tác đào tạo CBQLKT ngân hàng là giúp cán bộ nắm vững chuyên môn, cập nhật kiến thức mới và những kỹ năng cần thiết trong hoạt động NH bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. * Con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của một tổ chức, một doanh nghiệp Theo C. Mác: "Lao động phức tạp chỉ là lao động giản đơn được nâng lên lũy thừa, hay nói cho đúng hơn, là lao động giản đơn được nhân lên, thành thử một lượng lao động phức tạp nhỏ hơn thì tương đương với một lượng lao động giản đơn lớn hơn" [26, tr. 75]. Sản xuất hàng hóa và sự phát triển kinh tế cần ba yếu tố cơ bản: Vốn, tài nguyên, con người. Hàng hóa là sản phẩm của lao động được sản xuất ra để trao đổi với nhau. Những hàng hóa là sản phẩm của lao động phức tạp - phải tốn công đào tạo, học tập, rèn luyện - là biểu hiện người lao động được đào tạo nhiều hơn, chi phí sản xuất cao hơn. Trong thời đại ngày nay vai trò của nguồn nhân lực (nhân tố con người đặc biệt là người QLKT) càng trở nên quan trọng mang tính chi phối nhiều hơn. Giáo sư, tiến sĩ Letter C.Thurow nhà kinh tế, nhà quản trị học thuộc viện công nghệ kỹ thuật Matsachuset viết: "Điều quyết định cho sự tồn tại và phát triển của công ty là những con người mà công ty đang có. Đó phải là những con người có học vấn cao, được đào tạo tốt, có đạo đức, có văn hóa và biết cách làm việc có hiệu quả". Giáo sư tiến sĩ Gary Backơ người được giải thưởng Nobel về kinh tế năm 1992 với các công trình khoa học về vốn con người đã viết: "Các công ty nên tính toán, phân chia hợp lý cho việc chăm lo sức khỏe, huấn luyện, nâng cao trình độ người lao động để đạt năng suất cao nhất. Chi phí cho giáo dục, đào tạo, chăm lo sức khỏe của nhân viên phải được xem là một hình thức đầu tư". Giáo sư Felix Migro thì kết luận rằng: "Quản trị nhân lực là nghệ thuật chọn lựa các nhân viên mới và sử dụng các nhân viên cũ sao cho năng suất và chất lượng công việc của mỗi người đạt mức tối đa có thể được" [13]. Qua các nhận định trên chúng ta thấy tầm quan trọng của nhân tố con người đối với doanh nghiệp, vì vậy các nhà quản lý phải có cơ chế tuyển chọn, sử dụng, bồi dưỡng nhân lực một cách có hiệu quả. Từ đó yêu cầu ban lãnh đạo doanh nghiệp phải biết cách dùng người và đòi hỏi họ phải là người có tài năng thực sự, có phẩm chất đạo đức, có học vấn, có văn hóa, có nghệ thuật quản lý. Họ phải được đào tạo một cách cơ bản. Trong lịch sử nhõn loại, từ khi cú nhà nước thỡ việc dựng người luôn luôn được đặt ra, nó quyết định sự thành bại của mọi chế độ chính trị, quyết định sự nghiệp của từng nhà chính trị, tướng lĩnh... Trong hệ thống tư tưởng chính trị và văn hoá Hồ Chí Minh thỡ phộp dựng người là một bộ phận đặc sắc và quan trọng nhất.Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ sở hữu của quyền lực chính trị, con người vừa là mục đích, vừa là động lực và sức mạnh của mọi sự nghiệp chính trị. Công việc Đảng, Nhà nước bao gồm nhiều lĩnh vực đũi hỏi phải cú đội ngũ cán bộ, công chức tốt để thi hành công vụ. Từ quan niệm "vô luận việc gỡ đều do người làm ra", Chủ tịch Hồ Chớ Minh khẳng định: "Cú cỏn bộ tốt, việc gỡ cũng xong. Muụn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [28]. Đó là một chân lý... Từ những quan điểm nêu trên ta thấy: Con người là yếu tố quan trọng quyết định mọi vấn đề. Chính con người sẽ quyết định sự thành công hay thất bại, phát triển hay suy thoái, giàu có hay phá sản của một quốc gia nói chung của một nền kinh tế, một ngành, hoặc một tổ chức, một doanh nghiệp nói riêng. NHTM nói chung, NHCTVN nói riêng không phải là một ngoại lệ. * Do xu thế phát triển mạnh mẽ của kinh tế tri thức, của quá trình toàn cầu hóa Toàn cầu hóa về kinh tế làm cho các nguồn vốn bằng tiền như vốn ODA, FDI, nguồn vốn tín dụng, các kênh đầu tư và tài nguyên thiên nhiên, nguyên vật liệu, sản phẩm hàng hóa... từ quốc gia này chuyển sang quốc gia khác hết sức thuận lợi, thông thoáng qua quan hệ mua bán ngoại thương, xuất nhập khẩu hàng hóa. Song xét một cách tương đối, yếu tố con người (nguồn vốn nhân lực) không dễ chuyển dịch và nó trở thành nhân tố quan trọng và quyết định khả năng cạnh tranh của mỗi quốc gia, của mỗi doanh nghiệp. Thế kỷ 21 khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, khoa học kỹ thuật đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với sự phát triển của kinh tế tri thức, vai trò của tri thức mang tính chất quyết định đến mọi hoạt động kinh tế - văn hóa - xã hội. "Con người muốn có tri thức thì phải thông qua đào tạo, phấn đấu, rèn luyện. Trong điều kiện đó nhân tố con người được đặt lên hàng đầu sau đó mới đến vốn, tài nguyên" [19, tr. 28]. Muốn xây dựng nền kinh tế tri thức phải có những con người tri thức. Lênin nói: Không có sách thì không có tri thức. Sách và tri thức là yếu tố quan trọng của quá trình đào tạo con người có chuyên môn, không có tri thức thì không có chủ nghĩ xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Đối với nước ta, ngành NH, trong đó có các NHTM, trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế, chịu tác động rất mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, của tri thức hiện đại, càng phải gấp rút đào tạo và đào tạo lại CBQL của ngành. * Do vị trí của ngành NH trong nền kinh tế quốc dân Sự ra đời của sản xuất hàng hóa do hai điều kiện là có sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất, theo V.I. Lênin thì: "Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức kinh tế xã hội" [21, tr. 106]. Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội ngày càng phát triển, hình thức trao đổi trực tiếp giữa những người sản xuất hàng hóa với nhau không còn thích hợp nữa, do đó cần thiết phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. "Vật ngang giá chung được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì có hình thái tiền tệ của giá trị" [8, tr. 57]. Như vậy, tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của trao đổi và sản xuất hàng hóa và của hình thái giá trị. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt dùng làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, tiền tệ là công cụ để trao đổi giữa hàng hóa này và hàng hóa khác. Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển mọi giao dịch bằng tiền đều thông qua trung tâm thanh toán trong nền kinh tế quốc dân đó là hệ thống NH, ngân hàng trong nền kinh tế hàng hóa phát triển phản ánh nhịp sống của xã hội. Nền kinh tế quốc dân nếu được coi như một cơ thể sống thì hệ thống NH là những mạch máu chảy lan tỏa khắp mọi vùng cơ thể, mọi giao dịch thanh toán đều thông qua tiền tệ, kinh tế thị trường càng phát triển kéo theo thị trường tiền tệ cũng phát triển tương ứng làm cho vị trí của hệ thống NH đối với nền kinh tế hết sức quan trọng. Đối với nước ta kinh tế thị trường chưa phát triển cao nhưng hoạt động của hệ thống NH đã và đang đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế. Mọi sự biến động về tiền tệ đều ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tái sản xuất xã hội: Sản xuất-phân phối-lưu thông-tiêu dùng và ảnh hưởng to lớn đến đời sống của hàng triệu người dân. Hệ thống NH có một mạng lưới rộng khắp đất nước đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, từng bước hình thành kinh tế tri thức, thực hiện thành công đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước. Hoạt động kinh doanh tiền tệ là hoạt động phi sản xuất nhưng thông qua các kênh đầu tư của NH nó lại tạo ra cơ sở vật chất, của cải và góp phần tạo ra lợi nhuận cho xã hội. Vì vậy NH là một ngành kinh tế tổng hợp, đặc thù trong nền kinh tế quốc dân. Tiền tệ là hàng hóa đặc biệt, hoạt động NH là ngành hoạt động đặc biệt, nhà nước ta xếp các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực NH là doanh nghiệp xếp hạng đặc biệt. Cho nên cán bộ làm công tác NH cần có trình độ tổng hợp phải "có tầm và có tâm" mới đáp ứng được yêu cầu của công việc. Cùng với xu thế phát triển của thời đại hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hóa về kinh tế, kinh tế tri thức thay dần kinh tế công nghiệp. Thực hiện đường lối đổi mới kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam, hệ thống NHTM trong đó có NHCTVN cũng đã và đang thay đổi về mục tiêu kinh doanh, tính linh hoạt, đa dạng trong hoạt động NH, sản phẩm, tiện ích dịch vụ NH ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ. NH là ngành kinh tế phải luôn luôn đi đầu trước những đòi hỏi của đổi mới, như vậy nó mới đáp ứng được yêu cầu hoạt động của các ngành kinh tế khác. * Do yêu cầu đổi mới hoạt động của ngành NH và các NHTM nhà nước trong quá trình đổi mới của nền kinh tế Hoạt động NH và các tổ chức tín dụng ở nước ta hiện nay dựa trên cơ sở pháp lý cơ bản là Luật NHNN Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng. Luật NHNN Việt Nam ban hành "Để xây dựng và thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia; tăng cường quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt động NH; góp phần phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" [25, tr. 44]. Luật NHNN tách biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ, chính sách tiền tệ được hoạch định và thực thi theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước ta trong giai đoạn mới đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng lành mạnh nền kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, kiềm chế lạm phát. Luật các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2004) nêu rõ: Để đảm bảo hoạt động của các tổ chức tín dụng được lành mạnh, an toàn và có hiệu quả; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân; góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa [23, tr. 104]. Ngày 26/3/1988 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ký Nghị định số53/NĐ: Chuyển hệ thống NH sang hoạt động kinh doanh. NHNN được tách ra để thành lập các NHTM quốc doanh, kinh doanh chuyên nghiệp [14]. NHCTVN được hình thành từ vụ tín dụng công nghiệp vận tải, Vụ tín dụng thương nghiệp thuộc NHNN Việt Nam [18, tr. 16]. Trong quá trình hoạt động các NHTM muốn tồn tại và phát triển phải luôn luôn đổi mới. Các nghiệp vụ NH truyền thống trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch hóa, tập trung quan liêu bao cấp, không còn phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cho nên các NHTM nhà nước bắt buộc phải đổi mới hoạt động để phù hợp với cơ chế mới, chấp nhận cạnh tranh không những giữa các NHTMNN với nhau mà còn phải cạnh tranh quyết liệt với các NH nước ngoài. Cùng với xu thế phát triển của đất nước, đổi mới hoạt động của nền kinh tế đòi hỏi phải đổi mới hoạt động của ngành NH và các NHTM nhà nước trong đó có NHCTVN là một tất yếu khách quan. Muốn đổi mới trước hết phải đổi mới công nghệ NH, kinh doanh những sản phẩm mới, đa dạng hóa dịch vụ NH, để theo kịp các nước trong khu vực và tiến tới hội nhập quốc tế, muốn vậy phải đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT ngân hàng để nắm vững công nghệ mới, chuyển từ lao động thủ công sang lao động tri thức sử dụng thành thạo công nghệ tin học, truyền thông, các công cụ NH điện tử, đưa tin học hóa vào hoạt động NH. Ngân hàng là ngành kinh tế tổng hợp. Hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng và dịch vụ NH của các NHTM là hoạt động kinh doanh rất nhạy cảm. Mọi sự biến động trong nền kinh tế, mọi sự thay đổi trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội... đều tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của NHTM. Vì vậy công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, cập nhật kiến thức đối với CBNV trong các NHTM phải được tổ chức thường xuyên, để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của hoạt động kinh doanh hiện đại và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ. Nhằm mục đích đưa hoạt động kinh doanh của NHTM sát thực tế, tránh được rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh tế. * Thực trạng trình độ đội ngũ CBQL NHCT còn nhiều bất cập Khi thành lập NHCT, "nguồn nhân lực hình thành phần lớn do lịch sử để lại, một bộ phận lao động tuyển dụng mới chưa đáp ứng được yêu cầu sử dụng thực tế. Số lao động dôi dư chiếm khoảng 20% tổng số lao động trong toàn hệ thống" [31, tr. 69]. Hình thành và hoạt động trong thời kỳ tập trung quan liêu bao cấp, nay các NHTMVN chưa kịp thích ứng với kinh tế thị trường và tiếp xúc với công nghệ NH hiện đại, CBQLKT NHCT ít được giao lưu với nước ngoài. Quá trình đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, cùng với xu thế toàn cầu hóa về kinh tế, yêu cầu đội ngũ CBQLKT NHCT phải làm quen với cơ chế thị trường và với nhiệm vụ mới do nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đòi hỏi. Qua thực tế, nhiều thành công và thất bại để lại những bài học hết sức quí báu trong hoạt động của NHCTVN. Từ những bài học thực tế, NHCTVN xác định cần phải đào tạo và đào tạo lại CBQLKT nhằm nâng cao trình độ nhận thức, tiếp thu công nghệ NH hiện đại của thế giới, áp dụng linh hoạt vào hoạt động của NHCTVN phù hợp với hoạt động NHCT trong cơ chế thị trường, phòng ngừa rủi ro và kinh doanh có lãi. Hiện tại NHCT còn thiếu nhiều CBQLKT có trình độ điều hành, tác nghiệp của NHTM hiện đại, thừa tương đối cán bộ không đảm đương nổi nhiệm vụ được giao. Đến nay NHCT còn thiếu rất nhiều cán bộ đại học và trên đại học ở các khâu, cấp tương ứng. Điều đó có thể xảy ra hẫng hụt lớn về nhân lực trong tương lai. Vì vậy, cần khẩn trương triển khai mô hình đào tạo hiện đại cho ngành NH, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và hội nhập với thế giới, mới có thể giải quyết vấn đề nguồn lực con người cho CNH, HĐH ngành NH trong thời gian sắp tới. Về công tác đào tạo cán bộ trong ngành NH, cơ quan cấp cao của Đảng ta đã chỉ rõ: Công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ trong ngành NH khi chuyển sang kinh tế thị trường chưa được quan tâm và chỉ đạo kiên quyết, nên nhìn chung cán bộ còn yếu, có sự bất cập về trình độ quản lý kinh doanh về kiến thức kinh tế thị trường, kiến thức chuyên môn, trình độ ngoại ngữ, tin học [17, tr. 47]. Từ phân tích trên chúng ta thấy, đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQL NHCTVN là vô cùng cần thiết, vừa là đòi hỏi bức xúc, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa có tính chiến lược, lâu dài. 1.2.2. Yêu cầu mới đối với đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế ở Ngân hàng Công thương Việt Nam 1.2.2.1. Những đòi hỏi bức xúc đặt ra * Đòi hỏi của khoa học - công nghệ hiện đại của ngành ngân hàng và yêu cầu của nền kinh tế tri thức Lao động tri thức và sáng tạo là cơ sở của nền kinh tế kỹ thuật số, do vậy làm việc và học tập tất nhiên phải hội tụ vào một điểm. Khi bạn lao động tri thức tức là bạn đang học tập. Đồng thời bạn cũng phải học tập liên tục mọi nơi mọi lúc mới có thể lao động tri thức có hiệu quả. Trong nền kinh tế mới, tỷ lệ được đào tạo tăng lên mạnh, công tác và học tập đan chéo nhau tạo thành yếu tố vững chắc nhất của năng lực làm việc [40, tr. 336]. Nền kinh tế tri thức yêu cầu học tập suốt đời, cho nên doanh nghiệp phải có trách nhiệm tự đào tạo ngày càng lớn. Stan Davit và Jim Botkin đã viết trong cuốn sách: Monster under the bed (Quái vật dưới gầm giường): "Chức trách giáo dục từ xưa đã thuộc về nhà thờ, về sau chuyển sang chính phủ, ngày nay lại dần dần rơi vào tay các doanh nghiệp, bởi vì cuối cùng, phụ trách đào tạo người làm việc tri thức phải là doanh nghiệp". Hai tác giả cho rằng: Khi nền kinh tế nông nghiệp chuyển sang nền kinh tế công nghiệp, các trường học xây gạch to lớn thay thế cho các trường học nhỏ bé ở nông thôn. 40 năm trước đây, chúng ta bắt đầu chuyển sang loại hình thái kinh tế mới. Nhưng cho đến nay ta còn chưa phát triển ra một mô hình giáo dục mới, chưa nói đến một loại trường mới cho tương lai, nó có thể không phải là trường học cũng không phải là một tòa nhà kiến trúc dùng làm phòng học [40, tr. 339]. Bởi vì nền kinh tế mới sẽ là nền kinh tế tri thức, mà đào tạo và đào tạo lại sẽ là một bộ phận của hoạt động kinh tế hàng ngày và của cuộc sống, do đó doanh nghiệp và cá nhân CBQL doanh nghiệp đều sẽ thấy rằng cần phải học tập để làm việc có hiệu quả. Muốn cạnh tranh doanh nghiệp phải trở thành trường học. * Yêu cầu của nền kinh tế thị trường Việt Nam, đáp ứng đòi hỏi hội nhập kinh tế quốc tế CBQL được xác định như là yếu tố quyết định sự thành công trong quá trình cạnh tranh và hiệu quả của hiện đại hóa cũng như hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực NH. Trên phạm vi từng NH và toàn ngành thì nhân lực, đặc biệt là nhân tài là nguồn lực quan trọng nhất. Cạnh tranh xét cho cùng là cạnh tranh về nhân lực có trình độ cao. Vì vậy, đào tạo và đào tạo lại là yếu tố quan trọng nhất đảm bảo sự thành công trong cạnh tranh. Do đòi hỏi của kinh tế thị trường nên bản thân NHCT vừa phải tham gia hội nhập lại vừa phải cạnh tranh ngay trong nước vừa là NHTM lớn của Nhà nước, nhưng lại còn nhiều bất cập so với yêu cầu đổi mới của ngành NH, đặc biệt là CBQLKT. Từ những lý do nêu trên công tác đào tạo và đào tạo lại CBQLKT ở NHCTVN phải đảm bảo thực hiện nhiều yêu cầu mới cơ bản. 1.2.2.2. Những yêu cầu cơ bản của đào tạo và đào tạo lại đối với CBQL của Ngân hàng Công thương * Yêu cầu chung về đào tạo và đào tạo lại - Có mục đích, có kế hoạch - Có chương trình đào tạo phù hợp - Có hiệu quả - Gắn lý thuyết với thực hành - Đảm bảo chất lượng đào tạo [11, tr. 172]. * Yêu cầu cụ thể đào tạo và đào tạo lại CBQL đối với NHCT - Cần được trang bị những kiến thức cơ bản về tiền tệ và NH trong kinh tế thị trường, những kỹ năng về quản trị và nghiệp vụ NH hiện đại nhằm tạo ra một thế hệ CBQL mới có chất lượng và trình độ phù hợp với kinh tế thị trường, mở cửa của Việt Nam. - CBQL vừa có kiến thức nền tảng vừa tiếp cận được công nghệ NH mới. Vấn đề quan trọng của hoạt động NH trong cơ chế thị trường đó là rủi ro hoạt động và rủi ro tác nghiệp mà tất cả CBQLKT ngân hàng đều phải hiểu biết, nắm vững. - Cần trang bị cho CBQL những kiến thức về quản lý kinh doanh và kỹ năng điều hành, lãnh đạo bao gồm kỹ năng Marketing, phát triển thị trường, sản phẩm dịch vụ, quan hệ khách hàng, quản trị chiến lược, điều hành hoạt động... - Đào tạo và đào tạo lại cần gắn với thị trường và yêu cầu phát triển của NHCTVN, phải luôn gắn liền với thực tiễn hoạt động NH trong việc tiếp cận với công nghệ và kiến thức mới. - Xây dựng môi trường văn hóa trong hoạt động của NHCTVN: "Trong các hiệu buôn ngày xưa, ông chủ không những dạy việc, còn dạy kỹ lưỡng lễ phép, đạo đức và cách ăn nói. Doanh nghiệp muốn đào tạo công dân tốt cho xã hội, không nên quên điều này" [27, tr. 90]. Xã hội ngày nay rất đa dạng về nghề nghiệp. Tùy theo cách nhìn, có thể nói, tất cả những nơi này đều là nơi giáo dục, rèn luyện công dân. - Trang bị đầy đủ những kỹ năng hỗ trợ làm việc như công nghệ thông tin, kỹ năng giao tiếp và ngoại ngữ. Sản phẩm của đào tạo và đào tạo lại CBQLKT không chỉ có trình độ chuyên môn cao có khả năng vận hành hệ thống máy móc thiết bị hiện đại, tiên tiến mà còn phải có phẩm chất, đạo đức. - Đào tạo và đào tạo lại phải mang tính kế thừa trên cơ sở tiêu chuẩn các chức danh của CBQLKT NHCT, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ chuyên môn. Có kế hoạch cụ thể về nội dung, thời gian, địa điểm, tài liệu cho từng đối tượng cán bộ tham gia đào tạo và đào tạo lại. - Trên cơ sở qui hoạch đào tạo và sử dụng, phân loại cán bộ cử đi học các khóa đào tạo phù hợp. Nội dung đào tạo và đào tạo lại phải được bổ sung, cập nhật thường xuyên các kiến thức mới, đội ngũ giảng viên cũng phải được bổ sung kiến thức mới để theo kịp với sự biến đổi các hoạt động NH mới. - Đa dạng hóa các loại hình đào tạo, kết hợp lý luận với thực tiễn đảm bảo khi được đào tạo, người học có thể làm tốt công việc chuyên môn của mình được giao. 1.3. ĐẶC ĐIỂM, CHỨC NĂNG, NỘI DUNG, TIÊU CHUẨN VÀ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ ĐÀO TẠO VÀ ĐÀO TẠO LẠI CÁN BỘ QUẢN LÝ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 1.3.1. Đặc điểm công tác đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý Ngân hàng Công thương Việt Nam Công tác đào tạo CBQLKT ở NHCTVN có đặc điểm: - Đối tượng đào tạo là những CBQLKT đang làm việc ở NHCTVN có tuổi đời bình quân tương đối cao: "Bình quân độ tuổi lao động ở NHCTVN là 39,2 tuổi, phân bố không đều ở các chi nhánh. Nhiều chi nhánh ở vùng sâu, vùng xa, miền Trung có độ tuổi lao động cao từ 41-43 tuổi" [43, tr. 8]. Độ tuổi này có ưu điểm là có kinh nghiệm, ý thức cao trong giải quyết công việc nhưng ở độ tuổi này khả năng nhận thức, độ nhanh nhạy trong học tập giảm so với tuổi trẻ. - CBQLKT ở NHCTVN hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và NH đều là những người có chức vị trong đơn vị mà họ công tác, vì vậy đào tạo CBQLKT ở NHCTVN là một loại đào tạo về chức vị. "Lao động quản lý là dạng lao động cụ thể thực hiện các chức năng quản lý. Đó là hoạt động của con người trong lĩnh vực quản lý" [10, tr. 163]. - Đào tạo CBQLKT ở NHCTVN có tính định hướng phù hợp với nội dung, hình thức đa dạng, mục tiêu rõ ràng cụ thể cho từng khóa đào tạo vì công việc giao cho từng cán bộ là những công việc cụ thể rõ ràng. - Việc tổ chức đào tạo phải thực sự đáp ứng nhu cầu học tập của CBQLKT ở NHCTVN với nội dung, chương trình, mục tiêu đào tạo rõ ràng. 1.3.2. Chức năng của Ngân hàng Công thương và của cán bộ quản lý kinh tế Ngân hàng Công thương * Chức năng của NHCTVN Chức năng của NHCTVN là NHTM nhà nước, "là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, một tổ chức môi giới tài chính. Hoạt động của nó cũng như các tổ chức môi giới tài chính khác là nhận tiền gửi của người này và đem số tiền đó cho người khác vay để sinh lời. Ngân hàng thương mại cũng được được coi là một tổ chức tài chính trung gian" [2, tr. 117]. - Ngoài ra, NHTM còn có chức năng thanh toán trong nền kinh tế quốc dân và thanh toán quốc tế, là cầu nối giữa sản xuất và tiêu dùng, hệ thống NHTM còn có chức năng: tạo ra tiền" Sự tạo ra tiền NH của tiền gửi. Quá trình tạo ra tiền là sự mở rộng nhiều lần số tiền gửi và được thực hiện bởi hệ thống các ngân hàng thương mại" [2, tr. 118]. - Mở rộng tiền gửi là chức năng vốn có của hệ thống NHTM gắn liền với hoạt động tín dụng và thanh toán. Hoạt động tín dụng đóng vai trò như kênh điều tiết lượng tiền trong lưu thông làm cho nó phù hợp với chu kỳ luân chuyển hàng hóa". Từ một khoản tiền gửi ban đầu (khoản tiền này do Ngân hàng Trung ương mới đưa thêm vào lưu thông) thông qua cho vay bằng chuyển khoản trong hệ thống NHTM, số tiền gửi đã tăng lên gấp bội so với lượng tiền gửi ban đầu" [12, tr. 143]. - NHCTVN là NHTM nhà nước còn có trách nhiệm thực hiện nghiêm chỉnh các yêu cầu của NHNN Việt Nam để thực thi chính sách tiền tệ quốc gia. Cho vay để thực hiện đường lối CNH, HĐH của đất nước góp phần đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Có lẽ không có lĩnh vực hoạt động nào của con người quan trọng hơn là công việc quản lý, bởi vì mọi nhà quản lý ở mọi cấp độ và trong mọi cơ sở đều có nhiệm vụ cơ bản là thiết kế, duy trì một môi trường mà trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm, có thể hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định... Chúng ta coi các chức năng của người quản lý bao gồm: "Việc lập kế hoạch, xây dựng tổ chức, xác định biên chế, lãnh đạo và kiểm tra..." [7, tr. 17]. Để lập kế hoạch, xây dựng tổ chức, xác định biên chế phải xác định được mục tiêu. Mục tiêu chiến lược của NHCT đến năm 2010 là: Xây dựng NHCTVN thành một NHTM chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam. * Chức năng của cán bộ quản lý kinh tế NHCT - Đảm bảo chất lượng các hoạt động tín dụng góp phần tích cực ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội, điều tiết lượng tiền trong lưu thông để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của hệ thống NHCT. - Lựa chọn đường lối hành động: CBQLKT NHCT phải làm gì? Làm thế nào? để thực hiện mục tiêu chiến lược của NHCT đến năm 2010. - Tạo môi trường làm việc cho việc thực hiện nhiệm vụ của từng loại CBQLKT. Đặt ra các yêu cầu cần làm để NHCT trở thành một NHTM chủ lực và hiện đại của Nhà nước góp phần thực hiện đường lối của Đảng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. - Kiểm tra, điều chỉnh và tự kiểm tra hoạt động của các bộ phận. Phối hợp giữa các bộ phận, các cá nhân để hoàn thành mục tiêu đề ra. - Động viên mọi người để họ hăng hái, cố gắng hoàn thành nhiệm vụ. Tóm lại, từ chức năng của NHCT và chức năng của CBQLKT NHCTVN, có thể cho ta thấy, nội dung đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của NHCTVN. 1.3.3. Nội dung đào tạo và đào tạo lại cán bộ quản lý kinh tế ở Ngân hàng Công thương Việt Nam Thực hiện mục tiêu chiến lược của NHCT đến năm 2010, theo đề án cơ cấu lại NHCTVN: "Xây dựng Ngân hàng Công thương Việt Nam thành một ngân hàng thương mại chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam, xếp loại BB trên thị trường quốc tế" [31, tr. 16]. Việc đào tạo và đào tạo lại CBQLKT nói chung ở NHCTVN nói riêng thường bao gồm các nội dung sau: * Dự báo nhu cầu về nhân lực - Xác định tổng lượng cầu về nhân lực Muốn xác định tổng lượng cung, tổng lượng cầu nhân lực chính xác cần tiến hành phân tích kỹ nguồn nhân lực hiện đang làm việc, vị trí và mối quan hệ của NH trong nền kinh tế quốc dân. Vấn đề cơ bản đặt ra là mức độ sử dụng nguồn nhân lực như thế nào trong việc thực hiện nhiệm vụ hoạt động kinh doanh,dịch vụ NH. Như vậy ta phải xét trên một số khía cạnh: Thứ nhất: Mức độ sử dụng tối ưu nguồn nhân lực hiện có trong hệ thống NH như: sự chuẩn bị nhân lực có trình độ cao cho những loại công việc, nghề cần thiết để đáp ứng yêu cầu của NH hiện đại, sớm hòa nhập với các NH tiến tiến trên thế giới. Thứ hai: Cầu nhân lực không chỉ chú ý về số lượng mà còn phải đảm bảo cơ cấu theo loại hình các tổ chức tín dụng, theo nghề nghiệp, công việc cụ thể. Thứ ba: loại công việc cần thiết cho tương lai. Điều quan trọng nhất trong dự đoán nhu cầu nhân lực là nhận biết được cái gì cần phải làm trong tương lai. Việc làm này đòi hỏi phải xác định: + Xác định các loại kỹ năng theo số lượng + Xác định các loại việc và trình độ công việc + Xác định các bộ phận hoạt động kinh doanh, dịch vụ của NH và yêu cầu về nhân lực của nó. - Xác định tổng lượng cung nhân lực Xét trên tổng thể có hai nguồn cung về nhân lực: Thứ nhất: Nguồn cung từ lực lượng lao động xã hội. Nguồn này chủ yếu từ các trường đại học, học viện và các cơ sở đào tạo khác, ưu điểm là người lao động được đào tạo, có tiềm năng lớn, tuổi trẻ. Nhược điểm là phải đào tạo lại và phải có thời gian chờ phát huy năng lực chuyên môn. Thứ hai: Nguồn cung từ trong nội bộ các NH. Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sử dụng nhân lực, các hệ thống NH khác nhau áp dụng các biện pháp thu hút nhân tài. Hệ thống NH nào có chính sách sử dụng nhân lực tốt hơn sẽ thu hút được cán bộ đã được đào tạo và đã qua kinh nghiệm trong công tác, có trình độ chuyên môn cao. Nguồn này có ưu điểm, họ đã có kinh nghiệm làm việc, là những người có năng lực đáp ứng được nhu cầu công việc, có nguyện vọng thăng tiến, từ đó động viên họ làm việc nhiệt tình. Tuy nhiên nguồn này cũng có những hạn chế nhất định như: có thể xảy ra hiện tượng rập khuôn, bắt chước, hạn chế sáng tạo. - Cân đối cung cầu nhân lực Sau khi xem xét, dự đoán cung và cầu nhân lực phải làm rõ các vấn đề: có mất cân đối về nguồn nhân lực hay không? Sự mất cân đối đó tăng lên hay giảm đi? Nguyên nhân của sự mất cân đối đó là gì?... Trên cơ sở đó lựa chọn các giải pháp tối ưu để cân đối cung cầu nhân lực. Xây dựng một qui trình quản lý nguồn nhân lực bao gồm: Tạo nguồn - Tuyển dụng - Sắp xếp sử dụng - Đào tạo và đào tạo lại. * Xác định chiến lược đào tạo - Xây dựng hệ thống chương trình đào tạo, đào tạo lại đồng bộ, thống nhất và linh hoạt, phù hợp với chuẩn mực nghề NH. - Xây dựng và phát triển nhanh đội ngũ giảng viên có kỹ năng sư phạm, có trình độ chuyên môn và kinh nghiệm thực tế. - Nâng cao vị thế TTĐT, mở rộng hệ thống cơ sở hạ tầng và tăng cường trang thiết bị phục vụ công tác đào tạo và đào tạo lại. * Các mục tiêu đào tạo và đào tạo lại - Đáp ứng nhu cầu đào tạo hiện tại và tương lai trong toàn hệ thống NHCT - Nâng cao năng lực công tác và duy trì một đội ngũ CBQL kinh doanh giỏi, tinh thông công việc, hiểu biết lý luận cần thiết, có nhân cách và đạo đức nghề nghiệp. - Đào tạo gắn với tiêu chuẩn, chức danh phù hợp với các cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ. - Chứng chỉ cấp cho học viên là một trong những cơ sở để thực hiện đầy đủ, nghiêm túc qui trình bổ nhiệm, đánh giá cán bộ. * Lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại Xác định nhu cầu đào tạo là một nội dung quan trọng của kế hoạch đào tạo. Tùy thuộc vào các chiến lược và chính sách phát triển của NH trong điều kiện cụ thể, để đánh giá xác định các nhu cầu đào tạo. Kế hoạch tổng thể về đào tạo và đào tạo lại cho cả hệ thống sẽ được xây dựng dựa trên những nhu cầu này (xem Phụ lục 1). Thông thường việc lập kế hoạch đào tạo và đào tạo lại được tiến hành dựa trên tổng hợp về nhu cầu đào tạo từ các phòng, ban trụ sở chính và các đơn vị thành viên gửi cho TTĐT. Tiếp theo đó TTĐT lập một kế hoạch tổng thể về đào tạo và đào tạo lại cho toàn thể CBNV trong hệ thống, bao gồm các mục chính như sau: - Các định hướng chiến lược về đào tạo và đào tạo lại - Nhu cầu đào tạo của từng loại nghiệp vụ và của toàn hệ thống, dự kiến trong năm tới, trong đó được cụ thể cho các loại đào tạo, ví dụ như: + Đào tạo nhân viên mới + Đào tạo hoàn thiện kiến thức đối với CBNV + Đào tạo để thích ứng với công việc mới, vị trí công tác mới + Đào tạo để thăng tiến + Đào tạo dự phòng + Đào tạo để thỏa mãn các nhu cầu của CBQL - Cơ sở đào tạo dự kiến và thời gian sẽ tiến hành đào tạo - Dự kiến ngân sách cho từng loại đào tạo và cho toàn bộ hệ thống NH * Chương trình đào tạo và đào tạo lại Để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ, công tác đào tạo phải gắn liền với tiêu chuẩn chức danh cán bộ NHCT. Chương trình đào tạo gồm: đào tạo nghề NH cơ bản, đào tạo kỹ năng nghiệp vụ - kỹ thuật, đào tạo chuyên sâu và đào tạo kỹ năng cao cấp. Cá._. mới hoạt động TTĐT NHCT là một bước đi then chốt giúp NHCT đạt tới các kết quả và mục tiêu hoạt động kinh doanh cao hơn trên cơ sở nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo và chất lượng nhân lực trong toàn hệ thống. * Nhiệm vụ mới của TTĐT TTĐT NHCTVN có nhiệm vụ đào tạo nghề cho đội ngũ CBQL và tác nghiệp, thành thạo công việc, có kỹ năng nghề nghiệp, thực hành giỏi; có kiến thức quản trị NH hiện đại; rèn luyện nhân cách, có đạo đức, tri thức và lý luận cần thiết. Nhiệm vụ cụ thể của TTĐT NHCTVN là đào tạo - phát triển và tư vấn về: - Kiến thức hỗ trợ: tin học, ngoại ngữ, v.v...; - Kiến thức lý luận - kinh tế - kỹ thuật - nghiệp vụ NH hiện đại; - Cập nhật kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp; - Trình độ và năng lực quản trị NH hiện đại,... Tiến đến đạt chuẩn quốc tế cho độ ngũ cán bộ QLKT bao gồm: CBNV tác nghiệp, chuyên viên chuyên môn nghiệp vụ, cán bộ quản trị NH cấp trung và cấp cao của hệ thống NHCTVN. Để phù hợp với mục tiêu và nhiệm vụ mới TTĐT cần xây dựng bộ máy quản lý, điều hành mới, để đáp ứng nhiệm vụ được giao theo sơ đồ dưới đây: BAN LÃNH ĐẠO NHCTVN (Hội đồng quản trị và ban điều hành) GIÁM ĐỐC TTĐT CÁC PHÓ GIÁM ĐỐC HỘI ĐỒNG KHOA HỌC Phân hiệu Huế Phân hiệu TP. Hồ Chí Minh Ban thông tin học liệu Các phòng, khoa nghiệp vụ Các lớp học viên Sơ đồ 3.1: Quản lý và điều hành TTĐT Chú thích: - Các phòng, khoa; ban thông tin, học liệu chỉ có ở TTĐT Hà Nội - Phân hiệu tại Huế, Phân hiệu tại Thành phố Hồ Chí Minh bố trí bộ máy quản lý gọn nhẹ, chỉ từ 7 đến 10 cán bộ, không bố trí cán bộ hành chính đơn thuần. Bố trí cán bộ theo hướng kiêm nhiệm là chính. - Chương trình, nội dung, tài liệu, giảng viên, triệu tập học viên các khóa đào tạo do TTĐT chịu trách nhiệm, thống nhất trong toàn hệ thống. Các phân hiệu có trách nhiệm quản lý học viên, tổ chức ăn, nghỉ và báo cáo kết quả đào tạo về TTĐT NHCT. - Ban thông tin chịu trách nhiệm thông báo chương trình, nội dung các lớp học, thời gian, đối tượng đào tạo, học viên đăng ký đào tạo. Đưa lên mạng nội bộ các thông tin về đào tạo và đào tạo lại của TTĐT NHCT... - Bộ phận học liệu có trách nhiệm cập nhật in ấn tài liệu các khóa đào tạo nội bộ của TTĐT NHCT, in ấn chứng chỉ... - Ban thông tin, học liệu chịu trách nhiệm xây dựng, quản lý thư viện; xây dựng các trang Web về đào tạo và đào tạo lại. 3.2.6. Đổi mới, hoàn thiện công tác quản lý Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương Để đổi mới, hoàn thiện, nâng cao chất lượng công tác quản lý đào tạo và đào tạo lại cần thực hiện một số nội dung sau: Một là, nghiên cứu, xây dựng, bổ sung và hoàn thiện hệ thống cơ chế quản lý bao gồm tiến hành rà soát, nghiên cứu bổ sung hoặc sửa đổi những qui định không phù hợp. Ví dụ: ban hành sửa đổi các văn bản qui chế đào tạo, đào tạo lại cán bộ QLKT, qui chế giảng viên kiêm chức. Bổ sung qui chế cần thiết như: qui chế hoạt động TTĐT NHCT, qui chế cấp chứng chỉ, qui chế giảng viên, qui định về hệ thống chương trình, tài liệu. Nghiên cứu đề xuất những chế độ thích hợp, những cơ chế động lực như: lương kinh doanh, khen thưởng, thi đua, gắn đào tạo với sử dụng cán bộ để khuyến khích họ không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Hai là, đi đôi với việc đổi mới hoạt động của TTĐT cần tăng cường đội ngũ CBQL đào tạo có năng lực và tâm huyết với sự nghiệp đào tạo của NHCT. Quản lý đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng nghiệp vụ của TTĐT NHCTVN rất cần một đội ngũ cán bộ, giảng viên có trình độ về chuyên môn, khả năng về sư phạm, biết quản lý, tổ chức đào tạo có hiệu quả và một trái tim nhiệt huyết, có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo. Bởi vậy, muốn TTĐT đào tạo có hiệu quả đáp ứng yêu cầu kinh doanh luôn năng động, đổi mới, hiện đại của NHCT rất cần sự quan tâm đến công tác tổ chức và cán bộ dành cho TTĐT của Ban lãnh đạo NHCT. Đầu tư phát triển TTĐT, đặc biệt là đầu tư về con người sẽ góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực của NHCT, nâng cao chất lượng kinh doanh từ các chi nhánh NH cơ sở và toàn hệ thống, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ NHCT trên thương trường. Năng lực, trình độ, đạo đức nghề nghiệp và phong cách giao dịch của CBNV sẽ quyết định thành công của NHCTVN. Ba là, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng kế hoạch đào tạo, qui hoạch đào tạo tại TTĐT. Kế hoạch đào tạo tại TTĐT là một bộ phận kế hoạch đào tạo của NHCT. Bởi vậy, khi xây dựng kế hoạch đào tạo tại TTĐT cần lựa chọn nội dung đào tạo vừa cập nhật được các thông tin, văn bản, chế độ mới ban hành liên quan đến nghiệp vụ cần đào tạo, vừa sát với thực tiễn kinh doanh diễn ra sinh động trên thương trường; trao đổi, phổ biến những kinh nghiệm công tác trong nội bộ NHCT. Do đó, việc xây dựng kế hoạch đào tạo tại TTĐT phải xuất phát từ chủ trương của Ban lãnh đạo; từ thực tiễn hoạt động của các chi nhánh cần đào tạo nghiệp vụ gì, đối tượng nào,... từ ý kiến tham mưu của các phòng, ban nghiệp vụ trụ sở chính. Xây dựng kế hoạch đào tạo phải có luận cứ khoa học, nội dung cụ thể của từng chuyên đề, nếu được Ban lãnh đạo duyệt thì ai là người chịu trách nhiệm biên soạn tài liệu? Những giảng viên nào được giao nhiệm vụ giảng dạy từng chuyên đề, v.v... Có như vậy kế hoạch đào tạo mới có tính khả thi cao. Đổi mới và nâng cao chất lượng xây dựng kế hoạch đào tạo nói chung, kế hoạch đào tạo tại TTĐT nói riêng có ý nghĩa quan trọng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ QLKT NHCT. Qui hoạch đào tạo phải gắn với sử dụng và nguồn cán bộ lâu dài. Đảm bảo số lượng và chất lượng cán bộ bố trí vào các vị trí công việc trước mắt và lâu dài. Công tác xây dựng kế hoạch, qui hoạch đào tạo phải được thực hiện từ dưới lên trên, dựa trên nhu cầu thực tế và điều kiện thực hiện cụ thể. Tránh tình trạng đào tạo tràn lan, học theo phong trào sẽ tốn kém kinh phí và không hiệu quả. Khi kế hoạch đào tạo đã được thông qua, nó phải trở thành chỉ tiêu bắt buộc mọi người phải thực hiện nghiêm chỉnh. Bốn là, nâng cao chất lượng biên soạn tài liệu phục vụ công tác giảng dạy tại TTĐT. Tài liệu giảng dạy là căn cứ để giảng viên soạn giáo án, là cơ sở để TTĐT quản lý công tác giảng dạy của giảng viên, để học viên nghiên cứu trước và trong quá trình học. Xây dựng và hoàn chỉnh tài liệu đào tạo phù hợp với nội dung cần đào tạo và đối tượng đào tạo, rất quan trọng để đảm bảo chất lượng đào tạo với những nội dung lãnh đạo duyệt và quản lý nội dung giảng dạy của giảng viên thông qua giáo án. Để nâng cao chất lượng biên soạn tài liệu phải có một đội ngũ cán bộ, chuyên gia có trách nhiệm biên soạn tài liệu, và có hội đồng thẩm định tính khoa học, tính thực tiễn nội dung tài liệu. Tùy mức độ quan trọng của tài liệu mà có thể tổ chức Hội đồng khoa học thẩm định phù hợp. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ KẾT LUẬN Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT là một khâu rất quan trọng trong quá trình tồn tại, phát triển của NHCTVN. Hoạt động đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm cho nguồn lực con người của NHCTVN ngày càng giá trị, đóng góp tích cực để thực hiện mục tiêu: Xây dựng NHCTVN thành một NHTM chủ lực và hiện đại của Nhà nước, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa chức năng, chiếm thị phần lớn ở Việt Nam, xếp loại BB trên thị trường quốc tế. Để đáp ứng mục tiêu trên đòi hỏi hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ QLKT tại TTĐT NHCT phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện. Trong thời đại kinh tế tri thức, xu thế toàn cầu hóa đang phát triển, càng khẳng định Nghị quyết của Đảng và nhà nước ta xác định: "Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân" là hoàn toàn đúng đắn. Các sản phẩm và công nghệ của các NHTM không khác nhau lắm. Sức mạnh tạo nên sự khác nhau trong kết quả kinh doanh giữa các NHTM lại là trình độ, năng lực và phẩm chất của đội ngũ CBQLKT. Tại các tổ chức tín dụng, có nhiều nhân tố cấu thành nên hoạt động và thành công trong kinh doanh như: vốn, trụ sở làm việc, trang thiết bị, nhân sự, môi trường pháp luật... trong đó, nhân sự là tiền đề tạo ra các nhân tố khác. Khi các tổ chức tín dụng có những cán bộ và nhân viên đạt đến trình độ tối thiểu cần thiết thì tổ chức tín dụng đó có khả năng huy động được mọi nguồn lực để tổ chức kinh doanh, phát triển mạng lưới, tăng vốn và mức lợi nhuận... trình độ học vấn của CBNV ngân hàng là một trong những tiêu chí đánh giá thanh danh của NH đó trong hệ thống các tổ chức tín dụng [6, tr. 101]. Qua nghiên cứu những vấn đề đã trình bày trong luận văn: "Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế tại Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương Việt Nam" tác giả xin rút ra những kết luận sau: 1- Luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận về đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ QLKT của NHCTVN trong điều kiện khoa học công nghệ hiện đại, nền kinh tế tri thức, tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế về kinh tế bao gồm: Các khái niệm và đặc điểm của hoạt động đào tạo và đào tạo lại; khái niệm và đặc điểm của CBQLKT ngành NH nói chung và NHCTVN nói riêng. Sự cần thiết khách quan, yêu cầu mới đối với đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ QLKT của NHCTVN, từ đó xây dựng chương trình, nội dung đào tạo và lựa chọn loại hình đào tạo và đào tạo lại phù hợp với đặc điểm đội ngũ CBQLKT tại TTĐT NHCT. Qua phân tích các nhân tố ảnh hưởng và kinh nghiệm thực tiễn đào tạo và đào tạo lại CBQLKT ngành NH của một số nước như: Cộng hòa Liên bang Đức, Thụy Sĩ, Thái Lan và một số NHTM trong nước như Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam; NHNo; Ngân hàng cổ phần Á châu để rút ra những bài học, điều kiện và khả năng vận dụng tại TTĐT NHCTVN. 2- Trên cơ sở đưa ra và phân tích một cách có hệ thống thực trạng đội ngũ CBQLKT của NHCT, những số liệu về tình hình số lượng, chất lượng CBQLKT NHCTVN có so sánh với các NH trong nước và nước ngoài, thực trạng đào tạo và đào tạo lại CBQLKT tại TTĐT NHCT, luận văn đã nêu bật được những thành công và kết quả, hạn chế và tồn tại, những nguyên nhân trong công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT làm cơ sở để đưa ra giải pháp hoàn thiện hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của NHCT và kiến nghị đối với NHNNVN và NHCT về hoàn thiện công tác đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT của ngành NH nói chung, NHCT nói riêng. 3- Trên cơ sở đề án cơ cấu lại NHCT giai đoạn 2001-2010, xây dựng định hướng hoạt động kinh doanh của NHCT là căn cứ để định hướng hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT NHCT; qua những nhận xét rút ra từ lý luận và thực tiễn về đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT NHCT, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện, nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT NHCT. Những giải pháp chủ yếu được nhấn mạnh là: Trước hết phải đổi mới, nâng cấp hoạt động TTĐT NHCT gồm: Xác định yêu cầu, nhiệm vụ mới của TTĐT, cơ cấu lại bộ máy tổ chức quản lý, xây dựng đội ngũ giảng viên đủ về số lượng, nâng cao chất lượng, đổi mới nội dung chương trình, tài liệu giảng dạy, đổi mới hình thức và phương pháp giảng dạy, công tác quản lý, qui hoạch đào tạo và tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho đào tạo và đào tạo lại. Cuối cùng là xây dựng hệ thống thông tin quản lý đào tạo từ NHCT Trung ương đến các chi nhánh NHCT cơ sở trong toàn quốc. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ + Kiến nghị đối với NHNN Việt Nam - Qui định tiêu chuẩn chuyên gia trong ngành NH: Xây dựng, ban hành những văn bản qui định về tiêu chuẩn chuyên gia và đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia. Đội ngũ chuyên gia rất cần cho sự phát triển của đất nước nhưng chưa có văn bản của Nhà nước qui định tiêu chuẩn chuyên gia; xét công nhận chuyên gia, quyền lợi và nghĩa vụ của chuyên gia nên nhiều cán bộ giỏi không có hướng trau dồi kiến thức, tập trung nghiên cứu để trở thành chuyên gia giỏi mà chỉ tìm mọi cách phấn đấu để làm CBQL, cán bộ lãnh đạo có chức, có quyền. Một số khi được bổ nhiệm không phát huy được tác dụng nhưng rất khó bố trí các việc khác tạo nên tình trạng trì trệ của các cơ quan quản lý. Cần có chính sách hợp lý để khuyến khích các cán bộ giỏi, chuyên tâm phấn đấu trở thành chuyên gia, không nhất thiết cứ phải phấn đấu trở thành CBQL mới là người được trọng dụng; tạo nên tâm lý xã hội mới, quan niệm lao động mới, là điều kiện thuận lợi để thực hiện bổ nhiệm cán bộ có thời hạn đạt hiệu quả. - Qui định tiêu chuẩn các chức danh nghiệp vụ chủ chốt trong các NHTM nhà nước: Quản lý kinh tế là một nghề, cần được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên. Thống đốc nên xem xét ban hành các văn bản qui định tiêu chuẩn các chức danh nghiệp vụ chủ chốt trong các NHTM nhà nước để đào tạo phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đạt hiệu quả. Căn cứ vào tiêu chuẩn các chức danh như: Tổng giám đốc, Giám đốc chi nhánh cấp I, chi nhánh cấp II, các trưởng phòng, ban chuyên môn, nghiệp vụ của NHTW và các chi nhánh.., để CBNV các NHTM phấn đấu học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ một cách tự giác. Những người chưa đủ các tiêu chuẩn qui định sẽ có hướng để học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ để đạt trình độ đó, những người đã đạt trình độ lại cố gắng tu dưỡng rèn luyện chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp để được giao nhiệm vụ tương xứng. Đây chính là động lực thúc đẩy hoạt động đào tạo, đào tạo lại cán bộ QLKT tại các NHTM. - Chỉnh sửa, bổ sung hệ thống tài khoản kế toán thống nhất: NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính trình Thủ tướng Chính phủ cho ra đời một bảng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất trong nền kinh tế quốc dân để tất cả các ngành các doanh nghiệp trong đất nước Việt Nam phải cùng chung một hệ thống sổ sách kế toán, một hệ thống báo cáo kế toán. Có như vậy các số liệu thống kê của các ngành, của toàn bộ nền kinh tế mới dễ dàng tổng hợp và chính xác. Như hiện nay hệ thống tài khoản kế toán trong ngành NH khác hệ thống tài khoản kế toán doanh nghiệp ngoài ngành NH. Quá trình giảng dạy kế toán tại các trường cũng gặp nhiều khó khăn. NH là ngành kinh tế đặc thù thì có thể qui định một số tài khoản đặc biệt dùng riêng cho ngành NH. - Kiến nghị với Ngân hàng Công thương Việt Nam · Trên cơ sở đề án cơ cấu lại, NHCT cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, trong đó đào tạo, đào tạo lại là một bộ phận của chiến lược này. Trên cơ sở chiến lược phát triển kinh doanh, NHCT xây dựng những mục tiêu và biện pháp thực hiện của chiến lược phát triển nguồn nhân lực từ nay đến 2010. Có như vậy, TTĐT mới có cơ sở để xây dựng kế hoạch đào tạo từng thời kỳ và hàng năm sát với yêu cầu phát triển của NHCT. Đào tạo và đào tạo lại đội ngũ CBQLKT phải đi trước một bước và là điều kiện cần thiết để phát triển kinh doanh. · Trong kế hoạch tài chính hàng năm cần xây dựng tỷ lệ kinh phí chi cho đào tạo tương xứng với yêu cầu phát triển kinh doanh của NHCT. Coi đầu tư cho đào tạo là đầu tư phát triển, đầu tư chiều sâu và được phân bổ vào chi phí hàng năm như khấu hao tài sản cố định, không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh. · Trong phạm vi quyền hạn theo qui định, Ban lãnh đạo NHCT nên có kế hoạch thực hiện tiêu chuẩn hóa các chức danh CBQLKT NHCT. Công khai hóa tiêu chuẩn CBQLKT các cấp, công khai hóa qui hoạch đào tạo để mọi người phấn đấu, học tập bổ sung tiêu chuẩn... có những tiêu chuẩn có thể thực hiện được ngay, có những tiêu chuẩn qui định thời hạn thực hiện. Mặt khác, căn cứ vào nhu cầu đào tạo thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ để có kế hoạch đào tạo phù hợp. · Đổi mới và nâng cao chất lượng lập kế hoạch đào tạo vừa đáp ứng các yêu cầu thực hiện hiện đại hóa NHCT và kế hoạch kinh doanh hiện nay, xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn và kế hoạch đào tạo dài hạn để chủ động đào tạo, phát triển đội ngũ CBQLKT theo định hướng và mục tiêu phát triển NHCT. · Cần đổi mới, nâng cấp hoạt động TTĐT. Trung tâm Đào tạo hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo của NHCT. Nhu cầu đào tạo CBQLKT NHCT rất lớn, nếu cứ đào tạo như hiện nay khoảng 25% tổng số cán bộ QLKT một năm thì bình quân sau 4 năm mỗi CBNV mới được học một khóa tại TTĐT. Vì vậy, NHCT cần phải khẩn trương tăng cường cơ sở vật chất, trang thiết bị cho TTĐT, đồng thời đổi mới công tác quản lý bổ sung thêm chức năng nhiệm vụ, bổ sung CBQL có đủ năng lực và tâm huyết với sự nghiệp đào tạo của NHCT, xây dựng đội ngũ giảng viên và có kế hoạch thu hút những giảng viên giỏi trên cơ sở nghiên cứu, ban hành các cơ chế khuyến khích về vật chất, tinh thần, chú trọng bồi dưỡng giảng viên kiêm chức một cách thường xuyên, để phát huy tốt vai trò đào tạo, đào tạo lại CBQLKT, phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh doanh có hiệu quả. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Thanh Bình (1998), Giải pháp đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực Ngân hàng Việt Nam đầu thế kỷ 21, Đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Bộ Giáo dục và đào tạo (2004), Kinh tế học vĩ mô, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Báo cáo chính trị đại hội Đảng lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đinh Xuân Hạ (2005), "Đào tạo nguồn nhân lực cho các tổ chức tín dụng ở Việt Nam - hình thức và giải pháp phối hợp", Khoa học và đào tạo Ngân hàng (1+2), tr. 101. Harold Koontz, Cyril Odonnell (2004), Những vấn đề cốt yếu của quản lý, (Người dịch: Vũ Thiếu), Nxb Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin về phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình quản lý kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội (2000), Tập bài giảng về quản lý kinh tế, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Ngân hàng (2002), Giáo trình quản trị và kinh doanh ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội. Học viện Ngân hàng (2001), Giáo trình lý thuyết tiền tệ và ngân hàng, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Thanh Hội (1998), Quản trị nhân sự, Nxb Thống kê, Hà Nội. Hội đồng Bộ trưởng (1988), Nghị định số 53/NĐ của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về chuyển hệ thống ngân hàng sang hoạt động kinh doanh, Hà Nội. Phạm Huy Hùng (2005), "Năm 2005, Ngân hàng Công thương tập trung xử lý dứt điểm nợ đọng", Báo Nhân dân, (18059), ngày 10/1, tr2. Lê Viết Huyến (2002), "Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương khâu quan trọng để phát triển nguồn nhân lực", Thông tin Ngân hàng công thương, (6), tr. 12. Lê Trọng Khanh (1998), Đào tạo nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngân hàng, Đề tài nghiên cứu khoa học, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Ngô Tuấn Kiệp (2003), "Những ngày đầu mới thành lập Ngân hàng Công thương Việt Nam", Thông tin Ngân hàng Công thương Việt Nam, (Số đặc biệt kỷ niệm 15 năm ngày thành lập), Hà Nội, tr. 16. Lê Thị Ái Lâm (2003), Phát triển nguồn nhân lực thông qua giáo dục và đào tạo kinh nghiệm Đông Á, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. V.I. Lênin (1971), Toàn tập, tập 27, 28, Nxb Sự thật, Hà Nội. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập1, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Vũ Thị Liên (2001), Những vấn đề cơ bản về đổi mới công tác quản lý đào tạo và nghiên cứu khoa học phù hợp với hoạt động ngân hàng trong nền kinh tế thị trường, Học viện Ngân hàng, Hà Nội. Luật Các tổ chức tín dụng (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Giáo dục (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2004), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Matsusita (1999), Nhân sự chìa khóa của thành công, (Người dịch: Trần Quang Tuệ), Nxb Giao thông, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. Ngân hàng Công thương Việt Nam (1998), Qui chế tạm thời về công tác đào tạo trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam (Ban hành theo Quyết định 13/QĐ-HĐQT-NHCT1 ngày 26/2/1998 của Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam). Ngân hàng Công thương Việt Nam (1998), Qui chế tổ chức và hoạt động của trung tâm bồi dưỡng nghiệp vụ ngân hàng công thương, (Ban hành kèm theo Quyết định số 01/QĐ-HĐQT ngày 01/01/1998, Hội đồng quản trị NHCTVN), Hà Nội. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2001), Đề án cơ cấu lại Ngân hàng Công thương Việt Nam giai đoạn 2001-2010, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Hà Nội. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2002), "Thư của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương gửi cán bộ nhân viên Trung tâm đào tạo", Thông tin Ngân hàng Công thương Việt Nam, (6), tr. 11. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2003), Báo cáo thường niên 2003, Hà Nội. Ngân hàng Công thương Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết hoạt động tín dụng 2004 và các giải pháp tín dụng chủ yếu năm 2005, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Hà Nội. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1996), Kế hoạch tổng thể phát triển nguồn nhân lực ngân hàng công thương việt nam, Dự án SIDA/WORLBANK, Hà Nội. Nguyễn Đình Nguộc (2000), "Đôi điều suy nghĩ về công tác đào tạo trong hệ thống Ngân hàng Công thương Việt Nam", Ngân hàng, (10), tr. 35. Đỗ Văn Phức (2004), Quản lý nhân lực của doanh nghiệp, Nxb Khoa học kỹ thuật, Hà Nội. Nguyễn Tấn Thịnh (2003), Giáo trình quản lý nhân lực trong doanh nghiệp, Nxb Lao động và xã hội, Hà Nội. Thủ tướng Chính phủ (2004), Một số qui định pháp luật về đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tổng công ty Bưu chính viễn thông Việt Nam (2000), Nền kinh tế tri thức những hứa hẹn và hiểm họa, Nxb Bưu điện, Hà Nội. Hoàng Việt Trung (2002), "Hiệu quả đào tạo nghiệp vụ của Trung tâm đào tạo đối với các đơn vị thành viên Ngân hàng Công thương Việt Nam", Thông tin Ngân hàng công thương, (6), tr. 17. Viện Nghiên cứu đào tạo về quản lý (2004), Phương pháp kỹ năng quản lý nhân sự, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. Viện Nghiên cứu kinh tế và quản trị kinh doanh (2004), Đề án và điều lệ nâng cấp Trung tâm Đào tạo Ngân hàng Công thương thành trường đào tạo phát triển nhân lực ngân hàng công thương, Phân viện Nghiên cứu kinh tế, Hà Nội. Viện Ngôn ngữ học (1996), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh. PHỤ LỤC Phụ lục 1 Lập tài liệu về các nhu cầu đào tạo Phân loại nhu cầu Nội dung của từng lĩnh vực Kiến thức cơ bản Các nguyên tắc của kinh tế thị trường Kiến thức kinh tế ngành Nguyên lý kế toán Thống kê và phân tích kinh tế Lý thuyết tiền tệ và tín dụng Các mối quan hệ giao tiếp Chính sách, luật lệ và các qui định Hệ thống luật pháp liên quan Cập nhật các chính sách, luật lệ và qui định mới Tuân thủ các luật lệ và duy trì khả năng sinh lời Luật quốc tế về tài chính - thương mại Quan hệ xã hội Quan hệ với khách hàng Quan hệ với đồng nghiệp tại nơi làm việc Các kỹ năng giao tiếp Quan hệ với các NH khác Quản lý Các phương pháp kiểm tra, theo dõi Phương pháp lãnh đạo trong NH Lập kế hoạch chiến lược Quản lý phát triển nguồn nhân lực Kiểm toán Quản lý kinh doanh Hệ thống nhân sự Phát triển hệ thống mô tả công việc Đánh giá kết quả công tác cá nhân Đánh giá kết quả đào tạo Các phương pháp tuyển chọn nhân viên Các phương pháp hướng nghiệp nhân viên Nghiệp vụ tín dụng Thẩm định dự án trong từng ngành kinh tế Phân tích rủi ro trong tín dụng Các dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ cầm cố Đánh giá bất động sản Đánh giá tài sản thế chấp Thuê mua tài chính Ủy thác đầu tư Nghiệp vụ thị trường mở Kiến thức kinh tế ngành Sản xuất và phân phối sản phẩm công nghiệp Kiến thức chuyên môn về các sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp chế biến... Kiến thức về công nghệ trong khai thác chế biến thủy hải sản Kiến thức về ngành du lịch và khách sạn Các qui trình xuất nhập khẩu Kiến thức về ngành tiểu thủ công nghiệp Các hệ thống thanh toán Thanh toán VNĐ Thanh toán ngoại tệ trong lãnh thổ Việt Nam Thanh toán quốc tế Rút tiền tự động (ATM) và các dịch vụ bán lẻ Thẻ quốc tế: VISA CARD, MASTE R CARD.... Phương pháp nhận biết tiền thật, tiền giả.... Nghiệp vụ NH quốc tế Ngoại hối Nghiệp vụ NH đại lý Tài trợ thương mại Kinh doanh vàng bạc đá quí Cân đối quản lý vốn Quan hệ đại lý Công nghệ NH Quản lý thông tin Các giải pháp ứng dụng tin học NH Đào tạo các kỹ năng phần cứng, phần mềm, truyền thông cho cán bộ kỹ thuật Nghiên cứu và phát triển Đào tạo cán bộ vận hành Thị trường liên NH Thị trường liên NH trong nước và quốc tế Thị trường chứng khoán Thị trường vốn Hạn chế rủi ro trong thanh toán Tài chính và kế toán Lập kế hoạch tài chính Kế toán tổng hợp Báo cáo tài chính Phân tích tài chính Các dịch vụ tư vấn và bảo hiểm Trợ giúp kỹ thuật cho cán bộ NH Tư vấn cho các khách hàng trong việc sử dụng các sản phẩm dịch vụ NH Tư vấn đầu tư Các dịch vụ bảo hiểm Quản lý và phát triển các dịch vụ bảo hiểm Tiếp thị và tư vấn khách hàng trong hoạt động bảo hiểm Đào tạo ngoại ngữ Ngoại ngữ chuyên ngành Ngoại ngữ nâng cao Phiên dịch, biên dịch Các kỹ năng khác Phụ lục 2 Tổng hợp số liệu đào tạo từ năm 1997 đến năm 2004 (từ tháng 9 năm 1997 đến tháng 12 năm 2004) Các khoa đào tào 1997 1998 1999 2000 2001 Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên BỒI DƯỠNG CBQL – GVKC Nghiệp vụ sư phạm cơ bản Phát triển kỹ năng quản lý & lãnh đạo 1 21 Quản trị NH quốc tế 1 26 Quản trị NHTM 2 81 2 102 Nghiệp vụ KD ĐN (cho LĐ CN) Đào tạo giảng viên kiêm chức 1 12 1 18 Quản lý trung tâm đào tạo 1 14 NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG Quản lý tín dụng Bồi dưỡng nghiệp vụ TD 15 527 7 399 7 370 6 315 Bồi dỡng nghiệp vụ TD (Việt - Đức) 10 377 6 228 4 177 Nghiệp vụ tín dụng (chuyên đề) 5 249 Kế toán & phân tích tài chính DN 1 19 Nghiệp vụ tài trợ XNK Thẩm định dự án đầu tư 2 30 Marketing 1 25 2 59 Quản lý rủi ro tín dụng 1 24 1 26 1 40 2 101 Doanh nghiệp khởi sự lập nghiệp 10 370 10 373 10 397 NGHIỆP VỤ TTQT – KDĐN Nghiệp vụ KD ĐN & TTQT Thanh toán quốc tế 4 157 2 156 2 98 2 154 Thanh toán quốc tế (cơ bản) 2 101 Tài trợ thơng mại Nghiệp vụ chuyển tiền nhanh 2 142 Kinh doanh ngoại tệ 2 76 2 104 Nghiệp vụ ATM Thẻ tín dụng 1 44 2 60 NGHIỆP VỤ KIỂM TRA - KIỂM TOÁN Kiểm toán 2 83 2 98 Nghiệp vụ tín dụng (cho CBKT) 2 99 Nghệp vụ TTQT (cho CBKT) Nghiệp vụ kế toán (cho CBKT) 2 107 TIN HỌC Tin học cơ bản 9 101 1 26 2 38 Tin học cơ bản-Chơng trình Samis Tin học nâng cao (CB Điện toán) 2 74 3 100 Tin học văn phòng Th điện tử Thơng mại điện tử – Internet Chuyên viên mạng CISCO Chứng chỉ ORACLE CÁC LOẠI NGHIỆP VỤ KHÁC Quản trị dự án đầu tư Bồi dỡng kế toán trưởng 2 74 2 81 2 77 Nghiệp vụ kế toán Nhận biết ngoại tệ, séc du lịch.... 3 142 2 79 2 88 2 120 Tiếng Anh TCNH 1 26 1 25 Hội thảo chiến lợc Marketing Nghiệp vụ bảo hiểm Nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ Kế toán doanh nghiệp bảo hiểm Dịch vụ NH mới Nghiệp vụ pháp chế 2 124 Nghiệp vụ an toàn kho quĩ 4 111 Nghiệp vụ chứng khoán Nghiệp vụ cho thuê Tài chính 1 23 Tập huấn TCCB - ĐT 2 75 2 60 3 141 Tập huấn nghiệp vụ cho CN mới Thử nghiệm tài liệu dự án Mê Kông 1 10 Bồi dỡng Thi Nghiệp vụ NH giỏi 3 85 Tập huấn Pháp Luật DỰ ÁN OSFA Giao dịch DN & giao dịch khách hàng Nghiệp vụ kho quỹ DỰ ÁN HIỆN ĐẠI HÓA Đào tạo theo nghiệp vụ CỘNG 6 105 49 1503 40 1654 51 2116 46 2161 Các khoa đào tào 2002 2003 2004 Tổng Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên Số lớp Số học viên BỒI DƯỠNG CBQL – GVKC Nghiệp vụ sư phạm cơ bản 1 36 1 36 Phát triển kỹ năng quản lý & lãnh đạo 1 21 Quản trị NH quốc tế 1 26 Quản trị NHTM 2 81 2 69 8 333 Nghiệp vụ KD ĐN (cho LĐ CN) 2 70 1 73 3 143 Đào tạo giảng viên kiêm chức 2 30 Quản lý trung tâm đào tạo 1 14 NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG Quản lý tín dụng 36 1781 12 568 48 2349 Bồi dưỡng nghiệp vụ TD 9 504 11 625 55 2740 Bồi dỡng nghiệp vụ TD (Việt - Đức) 20 782 Nghiệp vụ tín dụng (chuyên đề) 5 249 Kế toán & phân tích tài chính DN 1 19 Nghiệp vụ tài trợ XNK 1 113 2 113 Thẩm định dự án đầu tư 2 30 Marketing 2 98 5 182 Quản lý rủi ro tín dụng 4 197 9 388 Doanh nghiệp khởi sự lập nghiệp 8 311 38 1451 NGHIỆP VỤ TTQT – KDĐN Nghiệp vụ KD ĐN & TTQT 2 110 2 110 Thanh toán quốc tế 10 565 Thanh toán quốc tế (cơ bản) 2 90 4 191 Tài trợ thơng mại 2 180 2 180 Nghiệp vụ chuyển tiền nhanh 2 142 Kinh doanh ngoại tệ 4 180 Nghiệp vụ ATM 1 15 1 15 Thẻ tín dụng 3 104 NGHIỆP VỤ KIỂM TRA - KIỂM TOÁN Kiểm toán 4 181 Nghiệp vụ tín dụng (cho CBKT) 2 99 Nghệp vụ TTQT (cho CBKT) 2 105 2 105 Nghiệp vụ kế toán (cho CBKT) 2 107 TIN HỌC Tin học cơ bản 12 165 Tin học cơ bản-Chơng trình Samis 15 585 15 585 Tin học nâng cao (CB Điện toán) 2 79 2 73 9 326 Tin học văn phòng 1 39 3 80 8 294 6 413 Th điện tử 2 114 2 114 Thơng mại điện tử – Internet 2 77 2 77 Chuyên viên mạng CISCO 1 20 2 38 3 58 Chứng chỉ ORACLE 1 20 1 20 CÁC LOẠI NGHIỆP VỤ KHÁC Quản trị dự án đầu tư 1 49 1 49 Bồi dỡng kế toán trưởng 2 103 8 335 Nghiệp vụ kế toán 2 108 2 108 Nhận biết ngoại tệ, séc du lịch.... 2 105 2 132 2 128 15 794 Tiếng Anh TCNH 1 28 1 34 4 113 Hội thảo chiến lợc Marketing 1 29 1 29 Nghiệp vụ bảo hiểm 1 29 1 29 Nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ 1 50 1 51 2 101 Kế toán doanh nghiệp bảo hiểm 1 8 1 8 Dịch vụ NH mới 2 178 2 178 Nghiệp vụ pháp chế 2 124 Nghiệp vụ an toàn kho quĩ 4 111 Nghiệp vụ chứng khoán 1 56 1 56 Nghiệp vụ cho thuê Tài chính 1 23 Tập huấn TCCB - ĐT 7 276 Tập huấn nghiệp vụ cho CN mới 3 49 3 49 Thử nghiệm tài liệu dự án Mê Kông 1 10 Bồi dỡng Thi Nghiệp vụ NH giỏi 3 85 Tập huấn Pháp Luật 8 1077 8 1077 DỰ ÁN OSFA Giao dịch DN & giao dịch khách hàng 4 243 4 243 Nghiệp vụ kho quỹ 2 36 2 36 DỰ ÁN HIỆN ĐẠI HÓA Đào tạo theo nghiệp vụ 27 703 45 1570 72 2273 TỔNG CỘNG 52 2350 102 4258 97 4603 435 18750 Nguồn: Phòng quản lý chương trình đào tạo TTĐT-NHCT. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS80.doc
  • docBang 2.2.doc
  • docMuc luc- bang.doc
  • docMuc luc.doc
  • docViet tat.doc
Tài liệu liên quan