ĐẠI HỌC HUẾ 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
 ---------- 
 ĐINH THỊ KIM NGÂN 
 ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) 
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 
 (1954 - 1975) 
 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC 
 Huế, 2021
 ĐẠI HỌC HUẾ 
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM 
 ---------- 
 ĐINH THỊ KIM NGÂN 
 ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) 
TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC 
 (1954 - 1975) 
 CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM 
 MÃ SỐ: 9 22 90 13 
 LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC 
 Người hướ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 232 trang
232 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 660 | Lượt tải: 0 
              
            Tóm tắt tài liệu Đấu tranh chính trị ở Hội An (quảng nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớng dẫn khoa học: 
 PGS. TS. Lê Cung 
 Huế, 2021
 i 
 LỜI CAM ĐOAN 
 Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và kết 
quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, chưa từng công bố trong bất kỳ công trình 
nào khác. 
 Tác giả luận án 
 Đinh Thị Kim Ngân 
 ii 
 LỜI CẢM ƠN 
 Trân trọng cảm ơn quý thầy cô giáo Khoa Lịch sử, Phòng Đào tạo Sau Đại học 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế và Ban Đào tạo Sau Đại học - Đại học Huế 
đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận án. 
 Trân trọng cảm ơn Ban Tuyên giáo Thành ủy Đà Nẵng, Trung tâm Lưu trữ 
Quốc gia II, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV và các nhân chứng đã hỗ trợ về mặt tư 
liệu để tôi hoàn thành luận án. 
 Đặc biệt, tôi xin bày tỏ sự kính trọng, lòng biết ơn sâu sắc đối với PGS. TS. Lê 
Cung người thầy đã tận tình hướng dẫn cho tôi cả về chuyên môn, phương pháp cũng 
như thái độ nghiêm túc trong nghiên cứu khoa học. 
 Cảm ơn gia đình, thầy cô, bạn bè và đồng nghiệp luôn động viên, giúp đỡ tôi 
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu. 
 Huế, ngày tháng năm 2021 
 Tác giả 
 Đinh Thị Kim Ngân 
 iii 
 MỤC LỤC 
TRANG PHỤ BÌA ..........................................................................................................i 
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................................... ii 
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................................. iii 
MỤC LỤC .................................................................................................................................... iv 
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................... vii 
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................ 1 
 1. Lý do chọn đề tài .............................................................................................................. 1 
 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................. 3 
 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 3 
 4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu .................................................................... 4 
 5. Đóng góp của luận án ...................................................................................................... 5 
 6. Bố cục luận án .................................................................................................................. 5 
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ..................................................... 6 
 1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đấu tranh chính trị ở Hội An ................ 6 
 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam trong 
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ...................................................... 6 
 1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng 
Nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ................................ 13 
 1.2. Những vấn đề luận án kế thừa ................................................................................... 16 
 1.3. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết.................................................................. 17 
Chương 2. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) GIAI ĐOẠN 
1954 - 1965 ................................................................................................................................... 18 
 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, truyền thống yêu nước và cách 
mạng của nhân dân Hội An trước Hiệp định Genève (21-7-1954) ......................................... 18 
 2.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................... 18 
 2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội ........................................................................... 19 
 2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước 1954 .. 23 
 2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa ở Hội An giai 
đoạn 1954 - 1965 ....................................................................................................................... 26 
 iv 
 2.2.1. Về chính trị - quân sự ................................................................................. 27 
 2.2.2. Về kinh tế - xã hội....................................................................................... 32 
 2.2.3. Về văn hóa - giáo dục ................................................................................. 34 
 2.3. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu tranh chính trị 
ở Hội An giai đoạn 1954 - 1965 ................................................................................................. 35 
 2.3.1. Chủ trương của Trung ương Đảng .............................................................. 35 
 2.3.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V .................................................................. 37 
 2.3.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng ........................................ 38 
 2.3.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An ................................................................... 39 
 2.4. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn 1954 - 1965 ...... 40 
 2.4.1. Đấu tranh đòi Mỹ và chính quyền Việt Nam cộng hòa thi hành Hiệp định 
Genève (21-7-1954) ....................................................................................................... 40 
 2.4.2. Đấu tranh chống “tố Cộng” ........................................................................ 46 
 2.4.3. Đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ....................................................... 53 
 2.4.4. Đấu tranh chống phá ấp chiến lược ............................................................ 55 
 2.4.5. Đấu tranh đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963 .................. 57 
 2.4.6. Đấu tranh chính trị ở Hội An sau cuộc đảo chính Ngô Đình Diệm từ ngày 
1-11-1963 đến ngày 8-3-1965 và đồng khởi ở nông thôn đồng bằng cuối năm 1964 đầu 
năm 1965 ...................................................................................................................... 63 
Chương 3. ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN (QUẢNG NAM) GIAI ĐOẠN 
1965 – 1975 ................................................................................................................................... 70 
 3.1. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Hội An giai đoạn 
1965 - 1975 ................................................................................................................................... 70 
 3.1.1. Về chính trị - quân sự ................................................................................. 70 
 3.1.2. Về kinh tế - xã hội....................................................................................... 74 
 3.1.3. Về văn hóa - giáo dục ................................................................................. 76 
 3.2. Chủ trương của Trung ương Đảng và Đảng bộ địa phương về đấu tranh chính trị 
ở Hội An giai đoạn 1965 - 1975 ................................................................................................. 78 
 3.2.1. Chủ trương của Trung ương Đảng .............................................................. 78 
 3.2.2. Chủ trương của Liên Khu ủy V .................................................................. 79 
 3.2.3. Chủ trương của Tỉnh ủy Quảng Đà ............................................................ 80 
 v 
 3.2.4. Chủ trương của Thị ủy Hội An ................................................................... 82 
 3.3. Nội dung đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) giai đoạn 1965 - 1975 ...... 85 
 3.3.1. Đòi thành lập chính phủ dân sự .................................................................. 85 
 3.3.2. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân (1968) .... 91 
 3.3.3. Đòi dân sinh, dân chủ ................................................................................. 96 
 3.3.4. Đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Paris (27-1-1973) ............................... 101 
 3.3.5. Đấu tranh chính trị trong Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 ..... 105 
Chương 4. MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ ĐẤU TRANH CHÍNH TRỊ Ở HỘI AN 
(QUẢNG NAM) TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954 - 1975)
 ...................................................................................................................................................... 110 
 4.1. Về tính chất ................................................................................................................ 110 
 4.1.1. Tính chất dân tộc....................................................................................... 110 
 4.1.2. Tính chất dân chủ, dân sinh ...................................................................... 113 
 4.2. Về đặc điểm ............................................................................................................... 115 
 4.2.1. Thu hút hầu hết các thành phần xã hội tham gia ...................................... 115 
 4.2.2. Hình thức, biện pháp đấu tranh phong phú, linh hoạt và quyết liệt .......... 117 
 4.2.3. Tích cực hưởng ứng và phối hợp với các địa phương khác trong đấu tranh ... 121 
 4.3. Về ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm............................................................. 127 
 4.3.1. Góp phần nâng cao giác ngộ chính trị đối với các tầng lớp nhân dân, phối 
hợp đánh địch trên 3 mũi giáp công ............................................................................ 127 
 4.3.2. Làm rối loạn hậu phương và suy giảm thế lực của chính quyền Việt Nam 
Cộng hòa, tạo điều kiện cho phong trào cách mạng đi đến thắng lợi ......................... 130 
 4.3.3. Về bài học kinh nghiệm đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc ................ 132 
KẾT LUẬN ............................................................................................................................... 142 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ................................................................................................ 146 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ .................................................................. 146 
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 147 
 vi 
 DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT 
ACL : Ấp chiến lược 
ATS : Ấp tân sinh 
CTQG : Chính trị Quốc gia 
CQNĐD : Chính quyền Ngô Đình Diệm 
CQVNCH : Chính quyền Việt Nam Cộng hòa 
ĐTCT : Đấu tranh chính trị 
HĐ : Hiệp định 
Nxb : Nhà xuất bản 
PTTg : Phủ Thủ tướng 
QN - ĐN : Quảng Nam - Đà Nẵng 
QĐND : Quân đội Nhân dân 
SV - HS : Sinh viên - học sinh 
TLLT : Tài liệu Lưu trữ 
Tp HCM : Thành phố Hồ Chí Minh 
TTLTQG II : Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II 
TTLTQG IV : Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV 
 vii 
 MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
 Cục diện và diễn trình lịch sử chiến tranh cách mạng Việt Nam đã khẳng định 
đấu tranh chính trị (ĐTCT) có ý nghĩa chiến lược xuyên suốt trong đường lối cách 
mạng, vừa là sách lược và nghệ thuật trong thực tiễn lãnh đạo phong trào đấu tranh của 
nhân dân, là một nhân tố quan trọng hợp thành với đấu tranh quân sự (ĐTQS) trong 
thế trận chiến tranh nhân dân. 
 Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), ĐTCT đã khẳng định 
vai trò và vị thế quan trọng của nhân dân trong cuộc đấu tranh trực diện với bộ máy 
chiến tranh của Mỹ, hạ thấp uy thế chính trị của chính quyền Việt Nam Cộng hòa 
(VNCH), góp phần đánh bại những âm mưu, thủ đoạn của chúng, hỗ trợ lực lượng vũ 
trang tiêu diệt sinh lực của kẻ thù. ĐTCT trở thành một mặt trận hợp thành với ĐTQS, 
tạo nên sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân đánh bại chiến tranh tổng lực của 
đế quốc Mỹ và chính quyền VNCH. 
 Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Lê Duẩn - Bí thư thứ 
nhất BCH Trung ương Đảng đã khẳng định, nếu “ĐTQS là một hình thức đấu tranh cơ 
bản có tác dụng quyết định trực tiếp trong việc tiêu diệt lực lượng quân sự địch, và do 
đó đập tan âm mưu quân sự và chính trị của chúng” thì “ĐTCT của quần chúng nhân 
dân cũng là một hình thức cơ bản có tác dụng quyết định trong tất cả các thời kỳ phát 
triển của cách mạng miền Nam và đối với sự thành công của cách mạng miền Nam” 
[32, tr. 56-57]. Và do sự chi phối bởi điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội của từng 
địa phương ở miền Nam mà ĐTCT diễn ra phong phú, đa dạng với nhiều hình thức và 
cấp độ khác nhau. ĐTCT ở Hội An cũng là một trong những trường hợp như vậy. 
 Hội An là thị xã có lợi thế về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên, nơi tập trung các cơ 
quan đầu não chính trị, quân sự của chính quyền tỉnh Quảng Nam và của quân Mỹ, quân 
đội VNCH, đồng thời cũng là nơi tiếp giáp với địa bàn có phong trào cách mạng phát 
triển mạnh mẽ nên là nơi diễn ra những cuộc đấu tranh quyết liệt cả về quân sự và 
chính trị giữa lực lượng cách mạng và lực lượng đối lập. 
 Hội An là địa bàn không lớn nhưng dưới ách thống trị Mỹ và chính quyền VNCH 
(1954-1975), ĐTCT diễn ra dưới nhiều hình thức, thu hút hầu hết các thành phần xã 
 1 
hội tham gia và đạt được những kết quả đáng được lịch sử ghi nhận, nổi bật là 
phong trào đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève; chống chính sách “tố Cộng”; 
chống phá ấp chiến lược (ACL); đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 
1963; chống độc tài, quân phiệt, đòi tự do và dân chủ; đấu tranh chống dư đảng Cần 
Lao, chống các chính quyền độc tài sau cuộc đảo chính 01-11-1963 và đồng khởi ở 
đồng bằng cuối năm 1964 đầu năm 1965; đòi thành lập chính phủ dân sự năm 
1966, đòi thi hành Hiệp định Paris năm 1973; phối hợp với LLVT tham gia Tổng 
tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 và Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 
1975. ĐTCT của nhân dân Hội An đã góp phần làm thất bại các chiến lược chiến 
tranh thực dân mới của Mỹ tiến hành ở địa phương cũng như ở miền Nam. 
 Tuy nhiên, ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở các 
địa bàn như Sài Gòn, Huế, Đà Nẵng, Khánh Hòa,... đã được triển khai nghiên cứu ở 
những mức độ khác nhau; trong khi đó, đối với Hội An, cho đến nay chủ đề ĐTCT chỉ 
được đề cập vắn tắt trong các công trình lịch sử Đảng bộ, lịch sử các tổ chức chính trị - 
xã hội của địa phương. Vì vậy, nghiên cứu ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến 
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn: 
 Về ý nghĩa khoa học, luận án làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT, chính 
sách của Mỹ và chính quyền VNCH (1954-1975), chủ trương của Trung ương Đảng và 
Đảng các cấp về ĐTCT ở Hội An (1954-1975), nội dung ĐTCT ở Hội An (1954-1975) 
và đưa ra một số nhận xét về ĐTCT ở Hội An (1954-1975. Qua đó, giúp nhận thức rõ 
hơn về truyền thống yêu nước, cách mạng của nhân dân Hội An; bản chất thực dân 
mới của các chính sách, biện pháp do Mỹ và chính quyền VNCH triển khai tại Hội An; 
sự nhạy bén trong chủ trương lãnh đạo ĐTCT của Đảng; sự đa dạng, linh hoạt, quyết 
liệt về hình thức của ĐTCT ở Hội An; sự hưởng ứng, phối hợp của Hội An với địa 
phương khác trong ĐTCT; kết quả của ĐTCT ở Hội An thời kỳ 1954-1975; không 
những thế, luận án còn cung cấp những cứ liệu để nhận thức đầy đủ hơn về phương 
châm “hai chân”,“ba mũi”, “ba vùng” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở 
Hội An nói riêng và miền Nam nói chung. 
 Về ý nghĩa thực tiễn, luận án cung cấp một mô hình địa phương có tính đặc thù 
về ĐTCT. Để từ đó là cơ sở cho việc xây dựng chổ đứng chân cho lực lượng cách 
mạng trong các giai đoạn về sau. Đặc biệt là chổ đứng chân của lực lượng vũ trang. 
 2 
Hơn nữa, luận án cung cấp thêm nguồn tư liệu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu 
nước của nhân dân Hội An phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa 
phương, góp phần nâng cao niềm tự hào về truyền thống của quê hương và giáo dục lý 
tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ Hội An, là tài liệu tham khảo cho ngành du lịch để du 
khách biết rõ hơn về một Hội An không những đẹp mà còn mang nhiều ý nghĩa lịch 
sử. Hơn nữa, những bài học kinh nghiệm được rút ra trong luận án góp phần phát huy 
sức mạnh của quần chúng nhân dân trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trên 
địa bàn Hội An hiện nay. 
 Từ những ý nghĩa trên, tôi chọn đề tài “Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng 
Nam) trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” làm luận án Tiến sĩ 
sử học chuyên nghành lịch sử Việt Nam. 
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 Về đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận án là ĐTCT ở Hội An 
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), trong đó, tập trung nghiên 
cứu nguyên nhân, diễn biến, mục tiêu, lực lượng, hình thức, biện pháp đấu tranh và kết 
quả các phong trào tiêu biểu đồng thời đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở 
Hội An (Quảng Nam) trong khoảng thời gian nói trên. 
 Về phạm vi nghiên cứu: Về không gian: địa bàn Hội An theo phân chia địa giới 
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong một số 
trường hợp cụ thể luận án có thể mở rộng ở một số địa bàn trước đây vốn thuộc thị xã 
Hội An mà hiện nay không còn thuộc Hội An. 
 Về thời gian: Luận án giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1954 đến năm 1975, 
cụ thể là từ khi HĐ Genève được ký kết (21-7-1954) đến ngày giải phóng hoàn toàn 
Hội An (28-3-1975). Tuy nhiên, để làm rõ hơn nhân tố ảnh hưởng đến ĐTCT, khung 
thời gian của luận án được lùi về trước thời điểm 21-7-1954 khi trình bày nội dung 
truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An. 
 Về nội dung: luận án nghiên cứu toàn diện quá trình ĐTCT ở Hội An (1954-1975). 
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
 Về mục đích nghiên cứu 
 Tái hiện có hệ thống quá trình ĐTCT ở Hội An, góp phần nhận thức đầy đủ hơn về 
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) ở địa phương. Mặt khác, bổ sung tư 
 3 
liệu cho công tác nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương; cung cấp luận cứ khoa học 
nâng cao hiệu quả công tác giáo dục truyền thống cách mạng, phát huy sức mạnh đại đoàn 
kết toàn dân trên địa bàn Thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay. 
 Về nhiệm vụ nghiên cứu 
 Phân tích về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của Hội An, nhất là chính sách của 
Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An (1954-1975) có ảnh hưởng đến ĐTCT. 
 Làm rõ đường lối, chủ trương của Trung ương Đảng vá các cấp đảng bộ địa phương 
trong chỉ đạo ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). 
 Trình bày diễn biến và nội dung ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến 
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua các phong trào tiêu biểu dựa theo mục tiêu 
và đối tượng đấu tranh. 
 Đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong 
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) 
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tư liệu 
 Về phương pháp nghiên cứu 
 Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, quan điểm của 
Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về đấu tranh chính trị, để thực 
hiện luận án, tác giả chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp 
logic. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như 
phân tích, tổng hợp, thống kê, sưu tầm và xử lý tư liệu (thành văn, điền dã, 
phỏng vấn nhân chứng), 
 Về nguồn tài liệu 
 Các nguồn tư liệu đã công bố như văn kiện, công trình tổng kết của Đảng, Nhà 
nước, các tác phẩm viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) có đề cập đến ĐTCT 
ở Hội An; công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu về ĐTCT trong cuộc kháng chiến 
chống Mỹ (1954-1975); lịch sử Đảng bộ, lịch sử Hội Nông dân, lịch sử Hội Liên hiệp Phụ 
nữ; một số công trình nước ngoài viết về “chiến tranh Việt Nam” liên quan đến luận án. 
 Nguồn tư liệu tại kho lưu trữ thuộc Ban Tuyên giáo Thành phố Hội An; Phòng Văn 
hóa - Thông tin Thành phố Hội An, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh Quảng Nam, Trung tâm 
Lưu trữ của Ban Tuyên giáo và Lịch sử Đảng Thành phố Đà Nẵng; Trung tâm Lưu trữ 
Quốc gia II (Thành phố Hồ Chí Minh); Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt). 
 4 
 Ngoài ra, một nguồn tư liệu quan trọng trong nghiên cứu lịch sử địa phương 
được tác giả chú ý khai thác là di tích lịch sử, bảo tàng, đặc biệt là trao đổi, phỏng vấn 
một số nhân chứng tại Hội An. 
5. Đóng góp của luận án 
 Luận án có những đóng góp sau đây: 
 Một là, trên cơ sở trình bày, phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; chính 
sách của Mỹ và chính quyền VNCH đối với Hội An; làm rõ chủ trương, đường lối chỉ 
đạo ĐTCT của Trung ương Đảng, Liên Khu ủy V và Tỉnh ủy Quảng Nam, Thị ủy Hội 
An trong chỉ đạo ĐTCT tại Hội An, luận án làm rõ sự ảnh hưởng của những nhân tố 
này đối với ĐTCT ở Hội An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-
1975). 
 Hai là, luận án tái hiện khách quan và có hệ thống diễn biến ĐTCT ở Hội An từ 
năm 1954 đến năm 1975, trong đó thể hiện rõ mục tiêu, lực lượng, thành phần, hình 
thức, kết quả,... của từng phong trào. 
 Ba là, luận án đưa ra một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng 
Nam) trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975); đồng thời làm rõ những 
bài học kinh nghiệm phục vụ quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh Tổ quốc 
trên địa bàn Thành phố Hội An trong giai đoạn hiện nay. 
 Bốn là, trên cơ sở xử lý khối lượng lớn tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau, trong 
đó có nhiều tài liệu lần đầu tiên được công bố, luận án góp phần giúp nhận thức đầy đủ 
hơn về ĐTCT ở Hội An; cung cấp nguồn tư liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên 
cứu, giảng dạy lịch sử địa phương. 
6. Bố cục luận án 
 Ngoài phần mở đầu (5 trang), kết luận (4 trang), tài liệu tham khảo (14 trang), 
phụ lục (62 trang), nội dung luận án (136 trang) được cấu tạo bởi 4 chương: 
 Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu (12 trang) 
 Chương 2. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống 
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1954 -1965 (52 trang) 
 Chương 3. Đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong kháng chiến chống 
Mỹ, cứu nước giai đoạn 1965 - 1975 (40 trang) 
 Chương 4. Một số nhận xét về đấu tranh chính trị ở Hội An (Quảng Nam) trong 
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) (32 trang) 
 5 
 Chương 1 
 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài đấu tranh chính trị ở Hội An 
 ĐTCT là một đề tài hấp dẫn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu cả 
trong và ngoài nước khi tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu 
nước (1954-1975) của nhân dân Việt Nam nói chung và Hội An nói riêng. Liên quan 
đến nội dung luận án đã có khá nhiều công trình đề cập. Có thể chia các công trình 
nghiên cứu về ĐTCT vào một số nhóm sau: 
1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về đấu tranh chính trị ở miền Nam trong 
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) 
 Về ĐTCT và vai trò của ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 
(1954-1975) nhiều công trình đã đề cập, phản ánh, trong đó có thể và cần phải kể 
đến như: 
 Lê Duẩn (1976), Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa 
xã hội, tiến lên giành thắng lợi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. Công trình phân tích 
những vấn đề lý luận cơ bản về chiến tranh nhân dân và tổng kết kinh nghiệm của 
Đảng Cộng sản Việt Nam trong lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân về 
chỉ đạo ĐTCT. Về phương pháp cách mạng, Tổng Bí thư Lê Duẩn khẳng định: 
“Khái quát chung lại, có thể nói bạo lực cách mạng phải dựa vào hai lực lượng: 
Lực lượng quân sự, lực lượng chính trị, và bao gồm hai hình thức đấu tranh: 
ĐTQS, ĐTCT và sự kết hợp giữa hai hình thức ấy” [31, tr. 51]. 
 Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Khoa Lịch sử Đảng (1993), Lịch 
sử Đảng Cộng sản Việt Nam (2 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công trình đã 
đề cập đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ 
(1954-1975); phân tích âm mưu, biện pháp của Mỹ và CQSG đối với cách mạng miền 
Nam; điểm một số phong trào ĐTCT tiêu biểu như phong trào đòi thi hành Hiệp định 
Genève (1954-1956); đồng khởi (1959-1960); phá ACL (1961-1963); đòi tự do tín 
ngưỡng, bình đẳng tôn giáo (1963); chống “Hiến chương Vũng Tàu” (1964); chống 
chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ (1966), 
 Trong phần bài học kinh nghiệm, công trình đánh giá cao vai trò của ĐTCT đối 
với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước: “Phong trào ĐTCT của 
 6 
đông đảo quần chúng có sức tiến công và tạo ra thế uy hiếp địch rất to lớn; các đoàn 
thể quần chúng cách mạng thực sự là những đội quân ĐTCT chống địch ở khắp nông 
thôn và thành thị”; vì vậy“thường xuyên chú trọng việc xây dựng LLCT” là bài học 
lớn đối với cách mạng miền Nam thời kỳ 1954-1975 [75, tr. 145]. 
 Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng kết cuộc 
kháng chiến chống Mỹ - Thắng lợi và bài học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, chủ 
yếu đề cập những vấn đề lý luận về ĐTCT trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu 
nước (1954-1975) như cơ sở, vai trò, hình thức, nghệ thuật tiến hành và mối quan hệ 
với ĐTQS. Về vai trò của ĐTCT, công trình khẳng định: “ĐTCT của quần chúng cũng 
là một hình thức đấu tranh cơ bản có tác dụng quyết định trong tất cả các giai đoạn 
phát triển của cách mạng miền Nam và đối với thắng lợi của cuộc chống Mỹ, cứu 
nước” [5, tr. 153]; về sự kết hợp giữa ĐTCT với ĐTQS, công trình khẳng định rằng: 
“Kết hợp hai mặt ĐTQS và ĐTCT là vấn đề cơ bản có tính quy luật trong phương 
pháp cách mạng miền Nam, đồng thời là đặc điểm nổi bật tạo nên sức mạnh vô địch 
của chiến tranh nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược thực dân mới của đế 
quốc Mỹ” [5, tr. 154]. 
 Bộ Tư lệnh Quân Khu V - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1999), Một số kinh 
nghiệm chỉ đạo chiến tranh nhân dân địa phương ở Khu V trong kháng chiến chống 
Mỹ, cứu nước (1954-1975), NXB Quân đội Nhân dân (QĐND), Hà Nội. Công trình đề 
cập điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến ĐTCT cùng một số phong 
trào ĐTCT nổi bật như phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo năm 1963, 
phong trào chống độc tài, quân phiệt Nguyễn Khánh - Trần Văn Hương những năm 
1964-1965, phong trào chống chính quyền quân phiệt Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn 
Cao Kỳ năm 1966 ở địa bàn Quảng Nam, Đà Nẵng, Đà Lạt;... cùng với đó, chủ trương 
chỉ đạo ĐTCT của Liên Khu ủy V và kinh nghiệm ĐTCT của nhân dân Khu V cũng 
được tổng kết khá rõ. 
 Võ Nguyên Giáp (2006), Tổng tập luận văn, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 
Công trình tập hợp các bài viết của Đại tướng Võ Nguyên Giáp về chính trị, chiến 
tranh nhân dân,... Qua đó, nhiều vấn đề lý luận về ĐTCT, mối quan hệ giữa ĐTCT 
với ĐTQS đã được phân tích làm rõ. Cũng trong công trình này, Đại tướng Võ 
Nguyên Giáp đưa ra định nghĩa về ĐTCT: “ĐTCT ở đây nói theo nghĩa hẹp để 
 7 
phân biệt với ĐTVT, nghĩa là các hình thức đấu tranh của đông đảo quần chúng 
nhân dân không cầm vũ khí như bãi công, bãi chợ, bãi khóa, mít tinh, biểu tình, thị 
uy,... Dựa vào sức mạnh của chính nghĩa và lực lượng đoàn kết, có tổ chức của 
đông đảo quần chúng, các cuộc đấu tranh này thông thường được tiến hành trong 
điều kiện hợp pháp, nửa hợp pháp hoặc biến thế bất hợp pháp thành thế hợp pháp 
cách mạng, nhằm đạt mục đích nhất định về chính trị, kinh tế, văn hóa hoặc có khi 
cả về quân sự” [64, tr. 1060]. 
 Trần Văn Giàu (2006), Tổng tập, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. Bộ sách 
gồm hai phần. Trong đó phần thứ hai “Miền Nam giữ vững thành đồng” là bức tranh 
về cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta từ năm 1954 đến năm 1970 trên mọi 
mặt trận. Trong đó ĐTCT của nhân dân miền Nam gồm những phong trào tiêu biểu 
như đòi thi hành HĐ Genève (1954); phong trào đòi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn 
giáo năm 1963; phong trào chống Mỹ, chống Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ 
những năm 1965-1968; phong trào đòi thi hành HĐ Paris (1973)... Bên cạnh đó, tác 
giả phân tích đặc điểm đời sống kinh tế, xã hội ở đô thị miền Nam từ khi Mỹ thực hiện 
chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965); coi chính sách thực dân mới của Mỹ là 
nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bùng phát các phong trào ĐTCT, bởi “sự có mặt quân 
viễn chinh Mỹ ở miền Nam là một sự xâm phạm thô bạo chủ quyền độc lập của nhân 
dân ta, nó kích động mạnh mẽ tinh thần dân tộc của mọi tầng lớp nhân dân, kể cả binh 
sĩ và nhân viên ngụy quyền” [67, tr. 1733]. 
 Lê Cung (2008), Phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963, in lần 
thứ 4, Nxb Thuận Hóa, Huế. Có thể nói “đây là tác phẩm đầu tiên nghiên cứu có 
hệ thống và hoàn chỉnh về phong trào Phật giáo miền Nam Việt Nam năm 1963” 
[27, tr. 3]. Không những thế, những sử liệu và kiến giải của tác giả là cơ sở quan 
trọng giúp việc tìm hiểu, nghiên cứu về phong trào Phật giáo năm 1963 trên từng 
địa bàn cụ thể ở miền Nam thuận lợi hơn. 
 Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến 
chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) (gồm 9 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Công 
trình phản ánh một cách toàn diện và sinh động về nguyên nhân, diễn biến cuộc kháng 
chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) qua từng giai đoạn và các bước ngoặt quan 
trọng. Về ĐTCT, công trình đề cập đến các phong trào tiêu biểu của nhân dân miền 
Nam, từ phong trào đòi thi hành HĐ Genève, bảo vệ hòa bình (1954-1956), chống “tố 
 8 
Cộng” (1955-1959), đòi thi HĐ Paris 1973. Ngoài ra, ở tập 9 “Tính chất, đặc điểm, 
tầm vóc và bài học lịch sử”, công trình khẳng định vai trò to lớn của ĐTCT: “ĐTCT 
đã được nâng lên thành một nghệ thuật trong việc chống chính sách xâm lược thực 
dân mới của đế quốc Mỹ. Khi khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách 
mạng, chiến tranh và khởi nghĩa gắn quyện vào nhau thì ĐTCT mà hình thức cao là sự 
nổi dậy của quần chúng luôn ... trưởng đồng thời chịu trách 
 nhiệm với Chính phủ về mặt trật tự và an ninh trong thành phố, đồng 
 thời thay thế viên Bang tá củ chăm lo việc hành chính trực tiếp với tỉnh, 
 theo đơn vị một quận - hạt” [106, tr. 2]. 
 CQNĐD vẫn giữ nguyên tên gọi Hội An là Khu Hành chính Cẩm Phô có từ thời 
Pháp, thuộc quận Điện Bàn và được phân chia lại thành 9 xã mới gồm: Cẩm Hải, Cẩm 
Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An và Xuyên 
Long. Phiếu trình của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu Chính phủ tại 
 21 
Trung Việt ở Huế cho biết: “Trung tâm thành phố nằm ở hai dãy phố trong hai dãy 
phố Nguyễn Thái Học (Quảng Đông cũ) và Cường Đề (Chùa Cầu cũ) bề dài không 
quá nửa cây số, Các phường Sơn Phong, Cẩm Phô, các xóm Xuân Lâm, Đế Võng 
đều thuộc ngoại ô” [107, tr. 3]. 
 Tháng 7-1962, CQNĐD chia Quảng Nam thành 2 tỉnh: Quảng Nam và Quảng 
Tín2, Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam [112, tr. 69]. CQNĐD đổi tên Khu Hành chính 
Cẩm Phô thành quận Hiếu Nhơn (tức Hội An - TG chú thích) gồm các xã cũ: Cẩm 
Hải, Cẩm Hà, Cẩm An, Cẩm Châu, Cẩm Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An (nội ô) 
và Xuyên Long. Các cơ quan của tỉnh bao gồm: Tòa Hành chính Quảng Nam, Tiểu 
Khu Quân sự Quảng Nam và các ty, sở đóng trên địa bàn thị xã Hội An. Riêng cơ 
quan quận lỵ và Chi Khu quân sự Hiếu Nhơn đóng tại ấp Sơn Phô, xã Cẩm Châu, án 
ngữ trên con đường Hội An - Phước Trạch. 
 Đối với chính quyền cách mạng, để phù hợp với yêu cầu chỉ đạo kháng chiến, 
trong thời kỳ 1954-1975, các đơn vị hành chính có sự điều chỉnh. Năm 1952, tỉnh 
Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng hợp thành một đơn vị hành chính là QN - ĐN, Hội An 
thuộc QN - ĐN trong đó có các xã: Cẩm Hải, Cẩm Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm 
Thanh, Cẩm Nam, Cẩm Kim, Hội An và Xuyên Long. Tháng 11-1962, QN - ĐN được 
tách thành hai tỉnh Quảng Nam3 và Quảng Đà4, thị xã Hội An thuộc tỉnh Quảng Đà; 
năm 1964, theo chỉ đạo của Khu ủy V, thành phố Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Đà, 
trực thuộc Khu ủy V. Tháng 11-1967, Khu ủy V quyết định sát nhập tỉnh Quảng Đà và 
thành phố Đà Nẵng thành Đặc khu Quảng Đà [111, tr. 505]. 
 Sau khi đất nước thống nhất, hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Đà được sáp 
nhập thành tỉnh QN - ĐN (10-1975), Hội An thuộc tỉnh QN - ĐN. Đến tháng 10-
1996, kì họp thứ X, Quốc hội khóa IX quyết định tách tỉnh QN - ĐN thành hai 
đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Thị xã Hội An 
thuộc tỉnh Quảng Nam. 
2 Tỉnh Quảng Nam gồm 9 quận: Điện Bàn, Duy Xuyên, Đại Lộc, Đức Dục, Hiếu Đức, Hiếu Nhơn, Hòa Vang, Quế 
Sơn, Thượng Đức; 2 thị xã là Đà Nẵng và Hội An. Thị xã Hội An được chọn làm tỉnh lỵ. Tỉnh Quảng Tín gồm 6 
quận: Hậu Đức, Hiệp Đức, Lý Tín, Tam Kỳ, Tiên Phước, Thăng Bình. Thị xã Tam Kỳ được chọn làm tỉnh lỵ 
3 Tỉnh Quảng Nam (CQSG gọi là tỉnh Quảng Tín) gồm các huyện Quế Sơn, Thăng Bình, Tam Kỳ, Tiên Phước, 
Phước Sơn, Trà My. 
4 Tỉnh Quảng Đà (CQSG gọi là tỉnh Quảng Nam) gồm các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc, Duy Xuyên, 
Thống Nhất, thị xã Hội An và thành phố Đà Nẵng. 
 22 
 Từ tháng 1-1997 đến tháng 1-2008, Hội An là thị xã của tỉnh Quảng Nam, được 
công nhận là thành phố loại III trực thuộc tỉnh Quảng Nam ngày 29-1- 2008. Hiện nay 
(2020), thành phố Hội An gồm 7 phường: Minh An, Cẩm Phô, Sơn Phong, Tân An, 
Thanh Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cửa Đại và 5 xã gồm Cẩm Thanh, Cẩm Hà, Cẩm 
Nam, Cẩm Kim và Tân Hiệp. 
 Như vậy, Hội An là trung tâm của tỉnh Quảng Nam, Hội An trở thành “thị xã đặc 
biệt” kể từ sau năm 1954 cho đến tháng 9-1975. Tuy dân số không đông so với một số 
thị xã ở miền Nam, nhưng vẫn được gọi là thị xã do sự quan trọng về vị trí địa lý như 
đã nói ở trên. Về mặt hành chính hiện nay so với thời kỳ (1954-1975) có sự thay đổi. 
Có hai phường mới là phường Tân An, Minh An là một phần vùng đất của Cẩm Phô, 
Thanh Hà và Thanh Châu (trước đây thuộc huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam) và 
một xã mới là xã Tân Hiệp (tức địa bàn hành chính của đảo Cù Lao Chàm). Riêng xã 
Cẩm Hải không còn thuộc thành phố Hội An5. 
2.1.3. Truyền thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Hội An trước 1954 
 Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta tại Đà Nẵng. Phong 
trào chống giặc cứu nước của nhân dân Hội An diễn ra mạnh mẽ nhất là sau “Vụ biến 
kinh thành Huế” (đêm ngày 4, rạng ngày 5-7-1885, tức đêm 22, rạng ngày 23-5 năm 
Ất Dậu), vua Hàm Nghi xuất bôn và ban Dụ Cần Vương kêu gọi nhân dân đứng lên 
đánh Pháp. Khắp Bắc, Trung, Nam hưởng ứng Dụ Cần Vương, các văn thân, sĩ phu 
yêu nước Hội An đã đứng lên chống Pháp. Tháng 9-1885, Nghĩa hội Quảng Nam tấn 
công các cơ quan đầu não của tỉnh Quảng Nam, trong đó Nguyễn Duy Hiệu được giao 
nhiệm vụ chỉ huy cánh quân Hội An, Điện Bàn. Quan lại tỉnh Quảng Nam bỏ chạy, Nghĩa 
hội Quảng Nam lập chính quyền trong toàn tỉnh, bộ chỉ huy đóng ở Dương Yên (Quảng 
Nam) [1, tr. 22]. 
 Tháng 12-1885, Pháp tấn công Dương Yên, Trần Văn Dư bị bắt và bị giết, 
Nguyễn Duy Hiệu được cử làm Hội chủ Nghĩa hội Quảng Nam. Đầu năm 1886, 
Nguyễn Duy Hiệu xây dựng căn cứ ở thung lũng Trung Lộc cạnh bờ Bắc sông Thu 
Bồn, về sau được gọi là Tân Tỉnh. Tháng 10-1886, Pháp huy động lực lượng lớn 
tấn công vào Trung Lộc, Nguyễn Duy Hiệu phân tán nghĩa quân khắp các địa bàn 
trong tỉnh và phản công dồn dập làm cho quân Pháp bị nhiều tổn thất [1, tr. 22]. Sau 
đợt tiến công của quân Pháp vào Phước Sơn (tháng 7-1887) nghĩa quân thất bại, Nguyễn 
5 Tháng 10-1964 xã Cẩm Hải tách thành 2 xã là Điện Dương và Điện Hải thuộc Điện Bàn, Quảng Nam. 
 23 
Duy Hiệu bị đưa ra Huế xử chém tại pháp trường An Hòa vào ngày 1-10-1887. 
 Điểm nổi bật trong truyền thống yêu nước của nhân dân Hội An còn được thể 
hiện qua phong trào chống thuế năm 1908, do Châu Thượng Văn đứng đầu. Phong 
trào chống thuế nổ ra tại Đại Lộc (13-3-1908), hàng vạn người từ Đại Lộc kéo đến vây 
quanh tòa sứ Hội An. Công sứ ra lệnh nổ súng vào đoàn người biểu tình nhưng nhân 
dân vẫn kiên cường đấu tranh. Hưởng ứng phong trào chống thuế, nhân dân Hội An 
vừa là lực lượng trực tiếp tham gia đấu tranh, vừa tự cung tự cấp quần áo, thuốc men, 
lương thực, thực phẩm, sắp xếp nơi ăn ở cho cả vạn người đấu tranh chống thuế trong 
gần một tháng 
 Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930). Ngày 28-3-1930, tại Hội An, Đảng 
bộ tỉnh Quảng Nam được thành lập tại Xóm Da, ấp Xuân Lâm, xã Cẩm Phô, đánh dấu 
mốc lịch sử của nhân dân Quảng Nam bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đấu tranh dưới 
sự lãnh đạo của Đảng. Sau khi thành lập, Đảng bộ nhanh chóng phát triển tổ chức cơ 
sở Đảng và các tổ chức quần chúng. 
 Hưởng ứng cao trào (1930-1931) đỉnh cao là phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh, 
mở đầu bằng đợt đấu tranh tại Hội An nhân ngày kỷ niệm Quốc tế Lao động 1-5-1930. 
Khắp nơi tại thị xã Hội An, cờ Đảng được treo ở ngã tư các đường, trên “giếng máy”6, 
đầu chợ Hội An. Truyền đơn được rải trên các đường Quảng Nam7, đường cầu Nhật 
Bản8 và đường Quảng Đông9. Ở Kim Bồng, bờ Nam sông Thu Bồn, cờ búa liềm được 
treo trên cây đa ấp Vĩnh Hưng và truyền đơn được rãi từ ấp Vĩnh Hưng đến “Bến đò 
Phố”10 [1, tr. 40]. 
 Trong phong trào 1936-1939, thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về 
thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, nhằm đấu tranh chống chế độ phản động 
thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hòa bình,Thị ủy Hội An 
lập ra nhiều tổ chức quần chúng và các hội biến tướng theo ngành nghề,  hướng dẫn 
quần chúng đấu tranh với nhiều hình thức sôi nổi, phong phú như lấy chữ ký, đưa 
nguyện vọng, mitting, biểu tình. 
6 Giếng máy là giếng có sợi dây quay, nay loại giếng máy này không còn được sử dụng. 
7 Nay là đường Phan Đình Phùng và Trần Hưng Đạo (Hội An). 
8 Nay là đường Trần Phú và Nguyễn Duy Hiệu (Hội An). 
9 Nay là đường Nguyễn Thái Học (Hội An). 
10 Bến đò từ Kim Bồng sang chợ Hội An. 
 24 
 Khi Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) đi vào giai đoạn kết thúc, tạo những 
thời cơ vô cùng thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ngày 15-8-1945, Tỉnh ủy Quảng 
Nam nhận được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, mặc dù chưa nhận được lệnh khởi 
nghĩa của Trung ương, nhưng qua phân tích tình hình thực tế, Tỉnh ủy quyết định phát 
động quần chúng khởi nghĩa. Hội An là nơi giành chính quyền sớm nhất trong tỉnh 
(chiều 17-8-1945). 
 Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, ngày 23-9-1945, thực 
dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn mở đầu quá trình xâm lược nước ta lần thứ hai. Cùng 
với nhân dân cả nước, nhân dân Hội An vừa khẩn trương củng cố chính quyền cách 
mạng và ổn định đời sống nhân dân. Chỉ trong một thời gian ngắn, đội tự vệ của thị 
xã đã có đến 300 đội viên. Ngay sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Nam Bộ, 
Thị ủy, Ủy ban nhân dân và các đoàn thể Việt Minh phát động phong trào ủng hộ Nam 
Bộ kháng chiến. Nhiều cuộc mít tinh, biểu tình được tổ chức phản đối thực dân Pháp. 
Cùng với những đơn vị của tỉnh và cả nước chi viện cho miền Nam, tuổi trẻ Hội An 
gia nhập các đội quân lên đường “Nam Tiến”. Nhiều chiến sĩ đã dũng cảm hy sinh trên 
mặt trận cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. 
 Đầu năm 1946, với tư cách của những người làm chủ vận mệnh của mình, nhân 
dân Hội An lại sôi nổi bước vào cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội. trong thời gian vận 
động bầu cử, ta tổ chức các hoạt động tuyên truyền dự thảo hiến pháp, hướng dẫn thể 
thức bầu cử [1, tr. 123]. 
 Trước tình hình thực dân Pháp ngày càng lấn tới, đêm ngày 19-12-1946, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, nhân dân Hội An đã phối hợp với 
LLVT thị xã thành lập trung đội tự vệ chiến đấu tập trung. Đại đội Ngô Quyền của tỉnh 
cũng về đóng quân từ Phước Trạch lên Tân Thành. Tháng 1-1947, Tỉnh ủy họp mở rộng 
tại Ái Nghĩa chủ trương củng cố tuyến phòng thủ ở phía Nam, thực hiện “tiêu thổ kháng 
chiến” và tản cư. Với tinh thần “thà chết không chịu làm nô lệ”, dân quân tự vệ và nhân 
dân ở các khu phố được huy động vào nội ô đào phá các đường giao thông, đập phá 
công sở, trường học,... để chúng không thể dùng làm nơi đồn trú [1, tr. 129]. 
 Trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp, quân và dân Hội An đã đập tan nhiều 
cuộc hành quân càn quét của Pháp ra các vùng tự do, giữ vững vùng giải phóng. Trong 
chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954. Để thực hiện những nhiệm vụ của chiến dịch, Thị 
ủy chủ trương phải tích cực xây dựng lực lượng vũ trang nhất là dân quân du kích theo 
 25 
tinh thần “tinh binh, tinh cán, tăng thành phần chiến đấu, giảm thành phần cư quan”. 
Hòa chung khí thế của chiến dịch, những tháng đầu năm 1953, bộ đội và du kích các 
khu phố Hội An phối hợp đánh Pháp nhiều nơi. Quân cách mạng tập kích đánh đồn 
Cẩm Phô, diệt 3 tháp canh ở Xuyên Trung, Hà Trung, Gành, bức rút lô cốt Tư Quờn, 
quấy rối đồn Lai Nghi, tiêu diệt lực lượng quân Pháp tại Khu Hành chính Cẩm Phô. 
Được hoạt động quân sự hỗ trợ, ĐTCT của quần chúng ngày càng phát triển mạnh mẽ, 
đặc biệt là phong trào chống bắt lính diễn ra hết sức quyết liệt. Thị ủy xây dựng kế 
hoạch tổ chức cho thanh niên học tập làm theo khẩu hiệu “dứt khoát đấu tranh không 
chịu đi lính cho giặc”[1, tr. 200]. Ngày 19-7-1954, quân cách mạng đập tan cuộc hành 
quân quy mô của Pháp hòng tái chiếm cứ điểm Bồ Bồ11. Cố gắng cuối cùng của Pháp 
đã thất bại trên chiến trường QN - ĐN. Ngày 21-7-1954, Hiệp định Genève được ký kết, 
chấp hành chỉ thị của Trung ương, hoạt động quân sự ở Hội An tạm thời chấm dứt, phong 
trào cách mạng Hội An bước sang thời kỳ mới. 
 Tóm lại, trong suốt thời kỳ từ khi Pháp nổ súng xâm lược nước ta ở Đà Nẵng (1-9-
1858) đến HĐ Genève (1954), nhân dân Hội An đã cùng nhân dân cả nước tổ chức đánh 
giặc giữ nước, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo. Chính truyền thống yêu nước và cách 
mạng đã giúp nhân dân Hội An vượt qua mọi khó khăn, thử thách, tôi luyện cho nhân dân 
Hội An về sự kiên trung cách mạng để cùng với nhân dân miền Nam cũng như nhân dân 
cả nước đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1954-1975). 
2.2. Chính sách của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa ở Hội An giai 
đoạn 1954 - 1965 
 Như đã đề cập ở trên, ngày 21-7-1954, HĐ Genève ký kết chấm dứt chiến 
tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương, phân chia Việt Nam là hai miền lấy vĩ tuyến 17 
- sông Bến Hải, làm giới tuyến tạm thời; hai năm sau đó, cụ thể là tháng 7-1956, hai 
miền Nam - Bắc sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. 
 Tháng 8-1954, Hội đồng An ninh Mỹ ra kế hoạch viện trợ trực tiếp cho CQNĐD, 
trực tiếp huấn luyện quân đội Sài Gòn (QĐSG). Tiếp theo, tháng 11-1954, Mỹ cử 
tướng Lawton Collins, Quyền Tham mưu trưởng lục quân Mỹ và là Đại diện của Mỹ ở 
Ủy ban quân sự khối NATO (North Atlantic of Treaty Organization), sang miền Nam 
Việt Nam làm đại sứ. Ngày 17-11-1954, Collins đến Sài Gòn, mang theo một kế hoạch 
chiến lược gồm 6 biện pháp khẩn cấp: 1. Chỉ ủng hộ Ngô Đình Diệm và viện trợ thẳng 
11 Nay thuộc xã Điện Tiến, huyện Hòa Vang. 
 26 
cho Diệm, không qua Pháp; 2. Thành lập quân đội “quốc gia” cho CQNĐD (15 vạn) 
do Mỹ huấn luyện và cung cấp vũ khí; 3. Lập “quốc hội”, thực hiện “độc lập”; 4. Tiến 
hành “cải cách điền địa”, đẩy mạnh chính sách di cư từ miền Bắc vào miền Nam và 
thực hiện định cư cho số người miền Bắc di cư vào miền Nam; 5. Thay đổi các thứ 
thuế, dành ưu tiên cho hàng hóa và tư bản Mỹ vào miền Nam; 6. Đào tạo cán bộ hành 
chính cho CQNĐD [62, tr. 48]. 
 Với kế hoạch 6 điểm trên đây thực chất là Mỹ mượn tay Ngô Đình Diệm biến 
miền Nam Việt Nam đang trong vòng kiểm soát của Pháp, lệ thuộc hoàn toàn vào Mỹ. 
Từ đây, chính quyền Ngô Đình Diệm thi hành những chính sách phản động trên các 
lĩnh vực chính trị - quân sự, kinh tế - xã hội và văn hóa - giáo dục tại Hội An. 
2.2.1. Về chính trị - quân sự 
 Sau HĐ Genève (21-7-1954), Hội An vẫn giữ nguyên tên gọi là Khu Hành Chính 
Cẩm Phô thuộc Quận Điện Bàn, ở mỗi xã CQNĐD lập ra một “Hội đồng hương 
chính”. Mỗi Hội đồng có một ủy viên cảnh sát có quyền lực lớn nhất là trong việc bắt 
bớ, đàn áp nhân dân [1, tr. 217]. 
 Hệ thống chính trị của CQNĐD được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa “nhân 
vị” mà Ngô Đình Nhu là người chủ xướng. Chủ nghĩa nhân vị chủ trương: “Nhân vị ở 
trên gia đình, ở trên các đoàn thể, ở trên quốc gia và trên cả chủ quyền quốc gia, 
những việc ấy trước hết phải nhằm vào sự nảy nở nhân vị chứ không để đè bẹp nó” 
[153, tr. 24]. Theo Ngô Đình Nhu, chỉ có chủ nghĩa nhân vị mới bài trừ được lạc hậu 
và đẩy lùi được chủ nghĩa mác - xít. Ngô Đình Diệm khẳng định: “Chủ nghĩa nhân vị 
là linh hồn của chính thể Cộng hòa” [27, tr. 45]. 
 Từ năm 1957, Đảng Cần lao nhân vị (1954) biến thành Đảng Cần lao Thiên Chúa 
giáo, đảng viên hầu hết là người Thiên Chúa giáo. Ngoài Đảng Cần lao nhân vị, các tổ 
chức quần chúng vươn dài của Đảng như “Phong trào cách mạng quốc gia”, “Thanh 
niên Cộng hòa”, “Phụ nữ Liên đới” có cơ sở xuống tận xã, thôn. Nhân dân bị bắt phải 
vào các tổ chức này, khi vào phải đóng phí 10 đồng, hàng năm phải đóng phí 20 đồng, 
nhưng nhân dân thấy rõ những tổ chức này không đem lại lợi ích gì cho họ mà chỉ có 
đóng góp liên miên [115, tr. 8]. 
 Ngoài thủ đoạn trên, CQNĐD còn thực hiện biện pháp dã man hơn thông qua 
“phong trào xuất thú”. Theo tờ trình trích yếu “Kế hoạch bình định (án ngự hoạt động 
của đối phương) tỉnh Quảng Nam” của Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam viết:“Trong thời 
 27 
gian gần đây các khóa huấn chỉnh tố Cộng đã kéo dài một cách nặng nề, đã không 
đem lại kết quả gì cụ thể, do đó, cần phải đình chỉ và thay thế bằng một phong trào 
xuất thú rộng rãi” [123, tr. 11-12]. Tại Hội An, phong trào xuất thú được thực hiện 
bằng cách lập danh sách và bắt đảng viên ra trình diện xuất thú, ai chưa ra trình diện 
chúng dùng loa truyền thanh kêu gọi và cho đến từng nhà bắt đi. 
 Để triển khai các chiến dịch “tố Cộng” (đầu năm 1955), CQNĐD gấp rút kiện 
toàn bộ máy đàn áp. Tại Hội An, chúng cấu kết với những người phản động tại địa 
phương liên tiếp gây ra các vụ tàn sát đẫm máu. Dã man nhất là đêm 21 rạng sáng 22-
1-1955, Quốc dân đảng ở Duy Xuyên cấu kết với tay chân Ngô Đình Diệm bắt 38 cán 
bộ tại nhà lao Hội An dùng khăn bịt mặt, lấy đá đập vỡ đầu, rồi xẻo tai, khoét mắt, xâu 
từng chùm ba bốn người, bỏ vào bao tải rồi buộc đá và ném xuống đập Vĩnh Trinh 
(Duy Xuyên). Chưa đầy 3 tháng tiếp quản (từ tháng 10-1954), CQNĐD đã bắt tra tấn, 
giết hại trên 300 cán bộ trong tỉnh Quảng Nam trong đó có Hội An [112, tr. 369]. 
 Từ giữa năm 1955, CQNĐD lần lượt mở các chiến dịch “tố Cộng” trên toàn 
miền Nam, nhiều lần khẳng định đây là “quốc sách”. Trong các lớp “tố Cộng”, 
CQNĐD bắt đảng viên phải ly khai Đảng, “ở Quảng Nam chúng (tức CQNĐD - TG chú 
thích) tổ chức lễ ly khai toàn tỉnh ở Hội An, ngày 23-7-1955 tập trung 3.000 đảng viên 
xuất thú từ trước và người tình nghi bắt qui dự lễ có nhà báo và quay phim ngoại quốc từ 
Sài Gòn đến” [114, tr. 2]. Tay chân Ngô Đình Diệm quay phim rồi đem chiếu khắp nơi để 
lung lạc tinh thần nhân dân, cùng với việc sử dụng một số đảng viên qui hàng, viết bài đả 
kích chống lại cách mạng. 
 Ở Hội An tỉnh lỵ Quảng Nam, CQNĐD còn tổ chức các chiến dịch ngắn hạn 
như: Chiến dịch quét vi trùng Cộng sản với nội dung là: “Quét vệ sinh, giữ gìn sạch sẽ 
đường sá, nhà cửa, nhân dân vừa làm vừa hô hào quét cho sạch vi trùng Cộng sản”. 
Chính tài liệu của đối phương viết: “Chỉ tính riêng trong Chiến dịch Phan Châu Trinh (7-
1955), đã có 700 cuộc biểu tình tại Quảng Nam đã được phát động trong ngày 25-1-1955. 
Tỉnh lỵ Hội An đầy chật người, cờ, biểu ngữ và vang dậy những tiếng hô hoan hỷ: Mừng 
Tết độc lập, ủng hộ Ngô Thủ tướng” [118, tr. 6]; chiến dịch “chống phong trào lấy vợ” 
của Việt Cộng làm cho một số phụ nữ có chồng vốn đi theo cách mạng lâm vào tình 
trạng “vọng phu bất đắc dĩ” (tức chờ chồng vô thời hạn), đoạn tuyệt dứt khoát mọi 
tình cảm với cách mạng. 
 Tay chân Ngô Đình Diệm tuyên truyền những khẩu hiệu, phục vụ cho mục tiêu 
 28 
đánh bật lực lượng cách mạng ra khỏi quần chúng nhân dân, như “dung Cộng là phản 
quốc”, “tố Cộng là yêu nước”, “diệt Cộng là an dân” [4, tr. 179]; hay “thành khẩn là 
tự cứu, ngoan cố là tự sát” [103]; dã man nhất là thủ đoạn “tống tà Cộng sản”, chúng 
thay phiên nhau đánh để tống “tà ma Cộng sản” ra khỏi nạn nhân, “ai đánh nhẹ bị cho 
là đồng lõa với Cộng sản. Nhiều người chết đi sống lại nhiều lần, có người mang 
thương tật suốt đời” [112, tr. 383]. 
 Tiếp tục cho chính sách “tố Cộng”, tháng 7-1959, CQNĐD tiếp tục mở lớp “tố 
Cộng” tại Cù Lao Chàm thuộc xã Cẩm An để khai thác các cơ sở Việt Cộng, lớp này 
kéo dài hàng tháng. Cụ thể, ngày 10-8-1959, CQNĐD mở 2 lớp tố Cộng ở Vĩnh Hà xã 
Cẩm Hà, sau đó dời lớp đến Thanh Thủy xã Cẩm Hải nhằm quản thúc những người 
kháng chiến cũ [69, tr. 2]. 
 Để giam giữ và tra tấn cán bộ, đảng viên và những người yêu nước bị bắt trong các 
chiến dịch “tố Cộng”, CQNĐD xây dựng hệ thống nhà tù. Nhà lao Thông Đăng12 ở Hội 
An được chúng mở rộng nhưng vẫn chật ních tù chính trị “phòng số 1 có diện tích 80m2 
nhưng địch giam hơn 160 tù nhân, các phòng giam số 3,4,5,6,7 và 8, mỗi phòng có diện 
tích 40m2 địch giam hơn 70 tù nhân. Riêng phòng giam số 2 có diện tích 120m2 nhưng có 
lúc địch giam trên 350 người, mỗi tù nhân ở không được 0,4m2” [117, tr. 51]. Tại nhà lao, 
tay chân Ngô Đình Diệm mở các khóa “cải tạo tư tưởng” cho đảng viên Cộng sản, 
CQNĐD “đã tổ chức một khóa đầu tiên cho các can nhân tại Lao xá thị xã Hội An13 vào 
ngày 5-1-1957, mỗi khóa chỉ có 200 người vì địa điểm học tập chật hẹp” [104]. 
 Đối với công nhân, để đánh lừa họ về một chế độ dân chủ và chính sách quan 
tâm đối với đời sống của công nhân, CQNĐD đã đưa ra khẩu hiệu “hữu sản hóa vô 
sản”. Ở Hội An, Liên hiệp Nghiệp đoàn Lao động Quảng Nam đóng tại Hội An được 
thành lập (1957), số lượng công nhân chiếm tỉ lệ nhỏ trong dân số, tuy nhiên các cuộc 
đấu tranh của công nhân có nhiều đóng góp trong các cuộc ĐTCT của nhân dân Hội 
An trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975). 
 Nhằm bắt lính cung cấp cho chiến trường, CQNĐD đã tiến hành “chế độ quân 
dịch” bắt đầu từ năm 1956, bằng cách bắt lẻ tẻ theo từng đợt. CQNĐD quy định ban 
12 Nhà lao Hội An là một trong những nhà lao lớn nhất trong hệ thống nhà lao ở miền Trung - Tây Nguyên do thực 
dân Pháp lập ra từ đầu thế kỷ XX. Đến đầu năm 1947, thực hiện chủ trương “tiêu thổ kháng chiến”, quân và dân Hội 
An đã phá hủy nhà lao này. Sau khi trở lại xâm lược, tại Quảng Nam, Pháp cho thiết lập lại nhà lao tại Hội An từ nhà 
thờ Thiên Chúa của một người làm thông phán tên Đăng nên gọi là nhà lao Thông Đăng. Đến năm 1958, CQNĐD xây 
dựng thêm một nhà lao gọi là nhà lao Xóm Mới nay thuộc phường Sơn Phong, Tp Hội An. 
13 CQNĐD còn gọi nhà lao Thông Đăng là lao xá Hội An. 
 29 
đầu độ tuổi quân dịch là 21, 20 tuổi. Sau đó, trong những năm 1972-1975, tuổi quân 
dịch là 18 tuổi: 
 “Năm nay (tức năm 1959 - TG chú thích) tiếp tục bắt số quân dịch 
 sinh năm 1938 (tức 21 tuổi - TG chú thích), ở Cẩm Thanh có hết thảy 65 
 người, đến nay còn 7 người chưa đi. Đồng thời đã bắt trình diện lãnh thẻ 
 trưng binh số quân dịch sinh năm 1939 và năm 1940, ở Cẩm Thanh số quân 
 dịch sinh năm 1939 là 63 người và sinh năm 1940 là 85 người” [69, tr. 6]. 
 Cuối năm 1959, CQNĐD bắt đầu triển khai chương trình lập “Khu trù mật” tại 
Hội An. Chính sách dồn dân vào các “Khu trù mật” làm cho việc sản xuất ngưng trệ và 
xáo trộn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống nhân dân. CQNĐD bắt nông dân các xã 
Cẩm Hà, Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Thanh, Cẩm Nam đi học tập hai ngày rồi ra lệnh 
trong một tuần lễ, các xóm lẻ tẻ phải dời đi, nếu ai trì hoãn bị quy là có liên lạc với cộng 
sản. Tuy vậy, do sự phản kháng của nông dân nên trong năm 1959 việc lập “Khu trù 
mật” chưa được tiến hành một cách phổ biến [69, tr. 15-16]. 
 Để đánh bại cách mạng bằng cả quân sự và chính trị, từ năm 1961 CQNĐD thực 
thi kế hoạch lập ACL được CQNĐD đưa ra rất sớm “tháng 8-1961, chương trình được 
triển khai rộng rãi trên quy mô toàn miền Nam với tên gọi chiến dịch xây dựng nông 
thôn. Đến ngày 17-4-1962, Quốc hội Sài Gòn thông qua Nghị quyết nâng chương trình 
ACL lên hàng quốc sách và tập trung mọi nỗ lực cho các mục tiêu đã đặt ra” [62, tr. 
125]. Tại Quảng Nam trong giai đoạn đầu được chia thành 2 đợt: “Đợt 1 từ 20-10-
1961 đến 31-3-1962: 131 ấp; đợt 2 từ 1-04-1962 đến 31-12-1962: 59 ấp” [124, tr. 1]. 
Số lượng ACL càng ngày càng tăng thêm trong những năm tiếp theo, chính tài liệu của 
VNCH ghi nhận: 
 “Ngày 10-6-1962, Ủy Ban xây dựng ACL kiểu mẫu đã họp phiên đầu 
 tiên để ấn định Chương trình Công tác của toàn ban. Tiếp đến ngày 20-6-
 1962, một phái đoàn gồm đại diện các Ty, Sở tại Hội An, đã đi quan sát Ấp 
 Thanh Nam, xã Cẩm Hà. Tại đây, từ ngày 21 đến 30 tháng 6 năm 1962 các 
 tiểu ban của ủy ban lần lượt tiếp xúc với chính quyền xã, ấp hoạch định một 
 kế hoạch và chương trình công tác tỉ mỉ [126, tr. 2]. Cuối năm 1962, 
 CQNĐD đã lập được 26 ACL tại Hội An với số dân là 31.486 người” [129]. 
 ACL là “một kiểu trại tập trung khổng lồ để chống phá phong trào cách mạng 
của nhân dân, chống chiến tranh du kích bằng cách tách lực lượng vũ trang ra khỏi 
 30 
quần chúng” [32, tr. 32]. Tại Hội An, ACL được lập ở các xã: Cẩm Châu, Cẩm Nam, 
Cẩm Kim và các thôn phía Tây xã Cẩm Hà. CQNĐD bắt nhân dân nộp tre làm rào, sau 
đổi thành cọc sắt và dây thép gai để xây dựng ACL. 
 Để bảo vệ ACL, CQNĐD “thường xuyên lo giữ gìn an ninh, trật tự tại thị xã Hội 
An. Thành lập và điều hành một ban tuần tiểu hỗn hợp để tăng cường bảo vệ an ninh 
cho thị xã Hội An, phối hợp giúp đỡ Hội Đồng thị xã Hội An tiến hành thiết lập 1 ACL 
kiểu mẫu tại thôn An Hội” [125, tr. 7-8] 
 Song song với công tác thực hiện ACL, ngày 19-10-1961, CQNĐD ban Sắc luật 
13/61, ban hành “tình trạng khẩn cấp”, bắt cán bộ các cấp cùng với thanh niên học 
tập, quán triệt về “nhiệm vụ của người thanh niên trong tình trạng khẩn cấp,...”, 
“thân thế và sự nghiệp của Ngô Tổng thống” [6]; ngày 16-5-1962, CQNĐD ban hành 
Sắc luật 10/62, bắt buộc các cuộc họp đều phải được phép hoặc khai báo trước nếu 
quá 20 người, dù là quan hôn tang tế [97, tr. 321]. 
 Đồng thời, CQNĐD cho thành lập tổ chức Phụ nữ Liên đới nhằm tuyên truyền, 
lôi kéo nhân dân về phía mình. Hồ sơ về hoạt động của Phong trào Phụ nữ Liên đới 
tỉnh Quảng Nam năm 1961-1963 viết: “Tại thị xã Hội An, Ủy Ban bán quân sự đã tổ 
chức lễ khai giảng khóa huấn luyện bán quân sự khóa III cho chị em phụ nữ, thành phần 
gồm có: Nữ công chức giáo sư, giáo viên, học sinh và thanh nữ cộng hòa. Tổng số khóa 
sinh được: 150 người chia làm 4 trung đội” [165, tr. 1]. 
 Bước vào năm 1963, phong trào Phật giáo diễn ra mạnh mẽ khắp miền Nam 
trong đó có Hội An. Nguyên nhân sâu ra của phong trào này chính là do chính sách 
phản dân tộc, chính sách kỳ thị Phật giáo hết sức nặng nề của CQNĐD trong suốt 9 
năm thống trị (1954-1963). Bị kẹp giữa hai gọng kìm quân sự và chính trị, mâu thuẫn 
nội bộ CQNĐD, nhất là mâu thuẫn Mỹ - Diệm phát triển đến đỉnh cao, không thể nào 
khắc phục được. Nhà Trắng buộc phải thực hiện chính sách “thay ngựa giữa dòng” 
ủng hộ nhóm tướng lĩnh trong QĐVNCH do Dương Văn Minh cầm đầu, tiến hành đảo 
chính lật đổ chế độ độc tài gia đình trị Ngô Đình Diệm (1-11-1963). 
 Sau “cuộc chỉnh lý” ngày 30-1-1964, lật đổ “Hội đồng Quân nhân Cách mạng”, 
Nguyễn Khánh vừa lên nắm quyền đã bộc lộ tính chất độc tài. Nhằm thâu tóm quyền 
bính vào tay mình, ngày 16-8-1964, Nguyễn Khánh cho ra đời “Hiến chương Vũng 
Tàu”, trong đó Nguyễn Khánh giữ chức Chủ tịch Việt Nam Cộng hòa và Chủ tịch Hội 
 31 
đồng Quân đội, Thủ tướng Chính phủ. Trước sự đấu tranh chống “Hiến chương Vũng 
Tàu” ngày 23-10-1964, Phan Khắc Sửu cử Trần Văn Hương lên làm Thủ tướng. 
 Ngày 31-10-1964, Trần Văn Hương giữ chức Thủ tướng, vừa lên cầm quyền, Trần 
Văn Hương đề ra đường lối: “Chiến tranh toàn diện phải được thực hiện không những 
trên mặt trận quân sự, mà còn về phương diện chính trị, kinh tế và xã hội nữa để chống 
lại Cộng sản và mưu toan của họ nhằm trung lập hoá xứ sở” [67, tr. 134]. 
 Tóm lại, về quân sự - chính trị, Mỹ và CQNĐD đều dồn sức cho mục tiêu 
“chống Cộng”, cố tạo được một vỏ bọc giả hiệu cho chế độ của mình, như “Cộng 
hòa”, “lý tưởng quốc gia”, “độc lập”, “quốc hội”, “hiến pháp”, “tự do nghiệp 
đoàn”,... nhằm đánh lạc hướng mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp, lũng đoạn và 
khống chế nhân dân Hội An, loại trừ ảnh hưởng cách mạng, triệt tiêu ý chí đấu tranh 
thống nhất đất nước theo HĐ Genève (21-7-1954). 
2.2.2. Về kinh tế - xã hội 
 Với âm mưu “Thiên Chúa giáo hóa” miền Nam, CQNĐD đã dụ dỗ, cưỡng bức 
tín đồ Thiên Chúa giáo di cư vào Nam. Bùi Văn Lương, Tổng ủy trưởng tị nạn của 
CQNĐD đã từng khẳng định:“Cuộc di cư của dân tộc Việt Nam là một cuộc di cư vĩ 
đại chưa từng có trong lịch sử nước nhà, nó đã làm cho thế giới kinh ngạc về chí 
cương quyết chống Cộng của đồng bào và đã làm sáng tỏ chủ nghĩa quốc gia” [27, 
tr. 73]. Số người di cư đến Hội An năm 1954 là 890 người [121, tr. 12]. 
 CQNĐD còn đặt ra đủ thứ thuế để khai thác cạn kiệt nguồn kinh tế trong nhân dân, 
các loại thuế nhân dân phải đóng góp trong 1 năm như: Thuế lợi tức, thuế điền, thuế thổ, 
thuế môn bài, thuế sản xuất, thuế tiêu thụ [170]. Thuế điền thổ tăng qua các năm, ví dụ 
năm 1958: Điền II 3 sào, thuế trong vòng 11 tháng đóng 9 đồng 30 năm nay (tức năm 
1959 - TG chú thích) đóng 9 đồng 37. Thổ II 1 sào, thuế trong vòng 11 tháng đóng 9 đồng 
50, năm nay đóng 9 đồng 57. Phụ thu thuế điền thổ cũng cao hơn, năm 1958, phụ thu 
41%, năm nay 60% và 1 phần 1.000 [69, tr. 3]. Mức thuế điền thổ năm 1958 so với năm 
1957 tăng lên 100% tại Quảng Nam trong đó có Hội An “ở Quảng Nam trung bình mỗi 
gia đình phải góp từ 200 đến 500 đồng” [11, tr. 23]. 
 Công nghiệp Hội An nhìn chung chậm phát triển, chỉ có vài cơ sở công nghiệp 
qui mô nhỏ, chủ yếu là các cơ sở đóng ghe, thuyền, các ngành thương mại, dịch vụ với 
nhiều tiệm buôn lớn nhỏ ở trung tâm thị xã Hội An, cơ sở sữa chữa, nhà hàng, khách 
sạn, công nghiệp chế biến, các nghề thủ công. Các ngành công nghiệp then chốt hầu 
 32 
như vắng bóng. 
 Về thương nghiệp, CQNĐD chỉ cho phát triển thương nghiệp vừa và nhỏ làm cho 
nền kinh tế Hội An phát triển què quặt, không đồng bộ. Việc kinh doanh gặp rất nhiều 
khó khăn do chính sách khống chế của CQNĐD về vốn liếng và việc đi lại. “Nếu vốn 
30.000 đồng là bị tịch thu, việc đi lại và vốn liếng bị hạn chế, những người buôn gánh 
bán bưng không được đi ra ngoài phạm vi xã mình, buôn bán phải xin giấy tờ, thuế má 
rất phiền phức, Do đó, việc sinh sống, làm ăn của nhân dân đang gặp khó khăn và 
hạn chế rất nhiều” [113, tr. 14]. 
 Về xã hội, do CQNĐD dùng biện pháp phong tỏa và hủy hoại kinh tế của cách 
mạng đã dẫn đến tình trạng thiếu thốn lương thực. Chính tài liệu VNCH ghi lại: 
“Phong tỏa và hủy hoại kinh tế địch (tức cách mạng - TG chú thích) do ta (tức 
CQNĐD - TG chú thích) tiếp tục được áp dụng hữu hiệu đã đặt địch (tức cách mạng - 
TG chú thích) trong tình trạng thiếu thốn quân lương” [124, tr. 1] cho nên chính sách 
này đã làm cho đời sống các tầng lớp nhân dân Hội An gặp nhiều khó khăn vì không 
thể buôn bán lớn cũng như luân chuyển hàng hóa các nơi đến Hội An, nhất là từ Sài 
Gòn. 
 Về công nhân, theo tài liệu của VNCH ghi nhận: “Công nhân khuân vác ở Hội 
An 210 người; thợ thuyền: thợ máy Hội An 100 người, công nhân xe hơi 87 người; 
công nhân kim khí 60 người, công nhân vận tải thuyền 30 người” [163, tr. 6]. Nạn thất 
nghiệp luôn là mối đe dọa thường xuyên của công nhân. Thêm vào đó, sự suy sụp của 
nền kinh tế kéo theo sự mất giá của đồng tiền khiến đời sống công nhân Hội An càng 
thêm khốn đốn: 
 “Tại Hội An năm 1957, công nhân vệ sinh bị bắt buộc phải làm tờ 
 cam đoan không lãnh lương theo quy định của Bộ Lao động ngụy (tức 
 CQNĐD - TG chú thích). Họ cũng không được quyền đòi tiền phụ cấp. 
 Hơn thế nữa khi xảy ra tai nạn lao động, chủ thầu không chịu trách 
 nhiệm bồi thường” [79, tr. 14]. 
 Bên cạnh đó, giá sinh hoạt cao trong khi đó lương công nhân trên thực tế lại 
giảm 50%, công nhân phải làm việc nhiều giờ hơn so với mức quy định là 8 tiếng một 
ngày, “Ở Hội An, công... Chí Trung (2005), Cư dân Faifo Hội An trong lịch sử, Trung tâm quản 
 lý bảo tồn di tích Hội An. 
153. Bùi Tuân (1956), Xây dựng trên nhân vị, Nxb Nhận thức, Huế. 
154. Quốc Tuệ (1964), Công cuộc đấu tranh của Phật giáo Việt Nam, tác giả xuất bản 
 Sài Gòn. 
155. Ủy ban Liên bộ đặc trách ACL (1963), Công văn số 0671/LB/ACL/TTK/TV, ngày 
 26-2-1963, gửi Tỉnh trưởng các tỉnh, V/v Việt Cộng chủ trương đánh phá ACL, 
 Ký hiệu: Tòa hành chính, H12, HS10. 
156. Uỷ ban Mặt trận Dân tộc Giải phóng (1963), Lời kêu gọi, TTLTQG IV, Kí hiệu 
 hồ sơ: TNTP 4240. 
157. Văn thư số 83, ngày 14-7-1963 của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng 
 hội Phật giáo Việt Nam, Kính đệ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, Tài liệu lưu tại 
 chùa Từ Đàm, Huế. 
158. Văn phòng Dân vụ/ Bộ Tư lệnh VICT (1964), Bảng kê các sự việc xảy ra tại tỉnh 
 Quảng Nam ngày 25, 27 và 28-8-1964, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTT 15050. 
159. Hoàng Thị Bích Vân (2006), Đảng bộ tỉnh Quảng Nam lãnh đạo phong trào 
 ĐTCT ở nông thôn từ 1961-1968, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị 
 Quốc gia Hồ Chí Minh. 
160. Viện Mác - Lênin - Viện Lịch sử Đảng (1985), Những sự kiện lịch sử Đảng, tập 
 3, Nxb Thông tin Lý luận, Hà Nội. 
 158 
161. Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1995), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu 
 nước 1954-1975, tập 2, chuyển chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
162. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu 
 nước (1954 - 1975), tập 3, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
163. Việt Nam Cộng Hòa, Bản khảo sát tình hình tỉnh Quảng Nam (Thi hành Công 
 văn số 1210SV/HC/8, ngày 15-2-56 của Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt), 
 TTLTQG IV, Ký hiệu hồ sơ: DICH 58. 
164. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Chủ tịch - Ủy ban Hành pháp Trung ương, Phiếu trình 
 Trung tá Trần Quang Lâm, số 125/UBHP/QV/2, ngày 23-7-1957, đề mục: Bản 
 phúc trình vấn đề trại giam ở Trung Phần, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: TNTP, 
 HS 300. 
165. Việt Nam Cộng Hòa, Phúc trình tháng 9-1963 của Ủy Ban Bán Quân sự Phụ nữ 
 thị xã Hội An tỉnh Quảng Nam, Hồ sơ về hoạt động của Phong trào Phụ nữ Liên 
 đới tỉnh Quảng Nam năm 1961-1963, TTLTQG IV, Ký hiệu hồ sơ: 2658. 
166. Việt Nam Cộng hòa (1963), Sắc lệnh số 11/TTP, ngày 3-2-1963 của Tổng thống 
 Ngô Đình Diệm, TTLTQG II, Kí hiệu hồ sơ: Đệ I CH 7621. 
167. Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Nha Tổng Giám đốc cảnh sát quốc gia, ngày 
 8-1-1965, số 00637/TCSQG/CSĐB/KH/1K, gửi Tổng trưởng Bộ Nội vụ Sài 
 Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của sinh viên, học sinh miền Trung chống Chính 
 phủ Trần Văn Hương, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 29546. 
168. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Thủ tướng, Phiếu trình Thủ tướng, Đề mục V/v tố giác 
 sĩ quan cấp cao tại tỉnh Quảng Nam, ngày 4-5-1968, cơ quan trình tỉnh Quảng 
 Nam, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 18732/26. 
169. Việt Nam Cộng hòa, Phủ Chủ tịch - Ủy ban Hành pháp Trung ương, Phiếu trình Trung 
 tá Chánh Võ Phòng số 125/UBHP/QV/2 đề mục: Tình hình Chính trị tại Vùng I - CT từ 
 ngày 10 đến ngày 13-3-1966, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15702. 
170. Việt Nam Cộng hòa, Bộ Thông tin Tâm lý chiến, Ty Thông tin Tâm lý chiến Tỉnh 
 Quảng Nam, Trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số 126 
 TT/TLC/QN/KH/M, ngày 21-5-1965, TTLTQG II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 2729. 
171. Việt Nam Cộng Hòa, Tòa Hành chính Quảng Nam, trích yếu về thực trạng của 
 các đảng phái chính trị và Tôn giáo tại Tỉnh Quảng Nam, ngày 2-3-1968, Ký 
 159 
 hiệu HS: PTTg 18732, TTLTQG II. 
172. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1956- 1957), (quyển thứ 6), 
 Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34. 
173. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1961- 1962), (quyển thứ 10), 
 Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34. 
174. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm (1963 -1964), (quyển thứ 11), 
 Viện Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34. 
175. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm 1967-1968, (quyển thứ 13), Viện 
 Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34. 
176. Việt Nam Cộng Hòa, Niên Giám Thống kê năm 1971-1972, (quyển thứ 15), Viện 
 Quốc gia thống kê, Ký hiệu HA 1780.5 A34. 
177. Sở Cảnh sát và Công an Cộng hòa Việt Nam, Ty Công an Quảng Nam. trích yếu 
 về bọn lưu manh rải truyền đơn ngày 31-12-1955 tại thị xã, TTLTQG II. 
178. Westmoreland C.William (1988), Tường trình của một quân nhân, Nxb Trẻ 
 thành phố Hồ Chí Minh. 
Tiếng Anh 
179. Jerrold Schecter (1967), The new face of Buddha, John Weatherhill, Tokyo. 
180. Avro Manhattan (1984),“Viet Nam why did we go?”, Chick publications, CA.. 
181. Stanley Karnow (1983), Vietnam, A History - The First Complete Account of 
 Vietnam at War, Viking Press, New York. 
182. The Pentagon Papers, Bantan Books Publisher, New York, 1971. 
183. F.M. Kali: What Washington Said, Harper and Row Publisher, New York, 1973. 
Nhân chứng: 
 184. Ông: Lê Công Cơ (bí danh Lê Phương Thảo) sinh năm 1941 tại Điện Bàn, 
 Quảng Nam. Chủ tịch Hội Liên hiệp SV-HS Giải phóng khu trung Trung bộ 
 (1963-1966), Bí thư Thành đoàn Đà Nẵng (1964-1965), Email: 
 lecongco@yahoo.com 
 185. Bà: Võ Thị Hóa, sinh ngày 20-10-1954, sống tại thôn 2, Cẩm Thanh, nguyên 
Chủ tịch xã Cẩm Thanh, thành viên đội ĐTCT Thiếu nhi thị xã Hội An (1968-1975). 
 186. Ông: Quảng Bá Hùng, sinh năm 1934, số nhà 460, đường Cửa Đại, TP. 
Hội An, nguyên là cán bộ lãnh đạo ĐTCT tại xã Cẩm Thanh (1954-1975). 
 160 
 PHỤ LỤC 
 Phụ lục 1: Bản đồ Thành phố Hội An năm 1954............................................. PL 1 
 Phụ lục 2: Bản đồ Hành chính Thành phố Hội An năm 2020 ......................... PL 2 
 Phụ lục 3: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, Kính gửi ông Tổng Trưởng Thông tin 
và chiến tranh tâm lý - Sài Gòn, về lễ “tố Cộng” ngày 24-7-1955 tại Hội An ........ PL 3 
 Phụ lục 4: Báo Quyết Tiến, cơ quan Ngôn luận của Đảng bộ Quảng Nam ngày 
1-10-1955, Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tục đấu tranh đòi hiệp thương .... PL 4 
 Phụ lục 5: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt 
ở Huế, trích yếu: Thành lập Thị xã Hội An, 18-11-1955 ................................................. PL 5 
 Phụ lục 6: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam gửi Đại biểu Chính phủ tại Trung Việt ở 
Huế, trích yếu: Ấn định lại sự quản trị các thị xã, thôn xã, ngày 22-11-1955 .......... PL 6-7 
 Phụ lục 7: Tổng trưởng Bộ Thông Tin và chiến tranh tâm lý, gửi Tổng Trưởng 
tất cả các Bộ, Đại biểu các tòa đại diện Nam Việt, Trung Việt, Cao Nguyên, trích yếu: 
Lập kiến nghị tố Cộng để đánh qua Giơ neo ............................................................. PL 8 
 Phụ lục 8: Chỉ thị chống cuộc bầu cử Quốc hội giả hiệu của địch (tức CQNĐD - 
TG chú thích) ........................................................................................................ PL 9-12 
 Phụ lục 9: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam gửi quận trưởng Điện Bàn, tiếp theo số 
1576 -VP-CT/M ngày 18-4-1956 của tỉnh Quảng Nam ..................................... PL 13-14 
 Phụ lục 10: Tỉnh Quảng Nam, Kế hoạch đối phó với âm mưu phá hoại của Việt 
Cộng và phiến loạn bản số 21, không ghi rõ ngày tháng ................................... PL 15-16 
 Phụ lục 11: Quốc gia Việt Nam - Kế hoạch chống âm mưu xúi giục dân chúng 
bạo hành (cho những vùng chưa phát khởi bạo hành) ............................................ PL 17 
 Phụ lục 12: Trích yếu về việc học sinh Phạm Dự bị bắn chết tại Quế Sơn (Quảng 
Nam), Tham chiếu phiếu trình số 0259 - BNV/ CT16M ngày 18-1-1964 của Bộ Nội vụ 
và công văn số 50 -TTP/ĐL/M ngày 17-1-1964 của VP Phủ Thủ tướng ........... PL18-19 
 Phụ lục 13: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Tổng Giám đốc cảnh sát Quốc gia gửi Tổng 
trưởng Nội Vụ Sài Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của Sinh viên, học sinh miền Trung chống Chính 
phủ Trần Văn Hương, số 00637/ TCSQG/CSĐB/KH/K ngày 8-1-1965. ............................... PL 20-26 
 Phụ lục 14: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Thông tin tâm lý chiến, Trưởng Ty Thông 
tin tâm lý chiến Quảng Nam gửi Thiếu tướng Tổng trưởng Bộ Thông tin tâm lý chiến 
tại Sài Gòn, trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số 
126TT/TLC/QN/KH/M, ngày 21-5-1965 ................................................................ PL 27 
 Phụ lục 15: Công điện số 1066/BTCM của Trưởng Ban tổ chức mít tính Nhân 
dân tại Hội An gửi Thiếu tướng CT/UBHP/TƯ, về việc tổ chức mít tinh toàn dân tại 
Hội An, ngày phát hành 1-6-1966 ....................................................................... PL 28-29 
 Phụ lục 16: Công điện số 935-CT/1/K, Tỉnh trưởng Quảng Nam gửi Bộ Nội Vụ, 
thông báo Tư lệnh vùng I- CT, về việc một số binh sĩ và thanh niên chiếm đài phát 
thanh Quảng Nam, ngày 17-3-1966 ................................................................... PL 30-31 
 Phụ lục 17: Công điện số I08/DV/DV/T/M giới chức gửi: Văn phòng dân 
vụ/VCTI, giới chức nhận: Đổng Lý VP/PCTUBHP/TU, về tình hình chính trị tại miền 
Trung, ngày 18-3-1966, ngày phát hành 19-3-1966 ........................................... PL 32-33 
 Phụ lục 18: Công điện (chuyển tay) số 2989/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các 
tỉnh miền Trung trong ngày 19 và 20-3-66, ngày phát hành 23-3-1966 ........... PL 34-35 
 Phụ lục 19: Công điện (chuyển tay) số 3063/Y6/E, diễn tiến tình hình tại Đà 
Nẵng và Quảng Nam ngày 22 và 23-3-66, ngày ra công điện 25-3-1966 .......... PL 36-37 
 Phụ lục 20: Công điện (chuyển tay) số 3094/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh 
miền Trung trong ngày 22, 23, 24 và 25-3-66, ngày phát hành 26-3-1966 ............... PL 38-42 
 Phụ lục 21: Công điện (chuyển tay) số 3379/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các 
tỉnh miền Trung ngày 2-4-1966, ngày phát hành 4-4-1966 ..................................... PL 43 
 Phụ lục 22: Đặc Khu Quảng Đà, Chỉ thị về “đợt nhập thị số 66 VK.25” ngày 25-
1-1968, Kí hiệu TL I-II-249 ............................................................................... PL 44-47 
 Phụ lục 23: Làng dừa Cẩm Thanh - Hội An một trong những căn cứ nuôi dấu 
cán bộ cách mạng trong những năm “tố Cộng” ...................................................... PL 48 
 Phụ lục 24: Bảng Thống kê các cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu tại Hội An 
(Quảng Nam) (1954-1975) ................................................................................. PL 49-62 
Phụ lục 1: Bản đồ Thành phố Hội An năm 1954. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208. 
 PL 1 
Phụ lục 2: Bản đồ Hành chính Thành phố Hội An năm 2020. 
Nguồn: Trung tâm Hành chính, Thành phố Hội An. 
 PL 2 
Phụ lục 3: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, Kính gửi ông Tổng Trưởng Thông tin và 
chiến tranh tâm lý - Sài Gòn, về lễ tố C ộng ngày 24-7-1955 tại Hội An. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
 PL 3 
Phụ lục 4: Báo Quyết Tiến, cơ quan Ngôn luận của Đảng bộ Quảng Nam ngày 1-10-
1955, Nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng tiếp tục đấu tranh đòi hiệp thương. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
 PL 4 
Phụ lục 5: Tỉnh trưởng Tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu chính phủ tại Trung Việt ở Huế, trích 
yếu: Thành lập Thị xã Hội An, ngày 18-11-1955. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, tên phông HS 208, ký hiệu hồ sơ Tòa ĐBCP 
tại TNTP. 
 PL 5 
Phụ lục 6: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam, gửi Đại biểu chính phủ tại Trung Việt ở Huế, 
trích yếu: Ấn định lại sự quản trị các thị xã, thôn xã, ngày 22-11-1955. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208. 
 PL 6 
PL 7 
Phụ lục 7: Tổng trưởng Bộ Thông Tin và chiến tranh tâm lý, gửi Tổng trưởng tất cả 
các Bộ, Đại biểu các tòa đại diện Nam Việt, Trung Việt, Cao Nguyên, trích yếu: Lập 
kiến nghị tố Cộng để đánh qua Giơ neo. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
 PL 8 
Phụ lục 8: Chỉ thị chống cuộc bầu cử Quốc hội giả hiệu của địch (tức CQNĐD - TG 
chú thích). 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. 
 PL 9 
PL 10 
PL 11 
PL 12 
Phụ lục 9: Tỉnh trưởng tỉnh Quảng Nam gửi quận trưởng Điện Bàn, tiếp theo số 1576 
-VP-CT/M ngày 18-4-1956 của tỉnh Quảng Nam. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, ký hiệu hồ sơ: 8538. 
 PL 13 
PL 14 
Phụ lục 10: Tỉnh Quảng Nam, Kế hoạch đối phó với âm mưu phá hoại của Việt Cộng 
và phiến loạn bản số 21, không ghi rõ ngày tháng. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, hồ sơ 2763, Ký hiệu hồ sơ Tòa ĐBCP tại TNTP. 
 PL 15 
PL 16 
Phụ lục 11: Quốc gia Việt Nam - Kế hoạch chống âm mưu xúi giục dân chúng bạo 
hành (cho những vùng chưa phát khởi bạo hành). 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, hồ sơ 2763, ký hiệu Hồ sơ Tòa ĐBCP tại TNTP. 
 PL 17 
Phụ lục 12: Trích yếu về việc học sinh Phạm Dự bị bắn chết tại Quế Sơn (Quảng 
Nam), Tham chiếu phiếu trình số 0259 - BNV/ CT16M ngày 18-1-1964 của Bộ Nội vụ 
và công văn số 50 - TTP/ĐL/M ngày 17-1-1964 của Văn phòng Phủ Thủ tướng. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Kí hiệu tài liệu: PTTg 15957. 
 PL 18 
PL 19 
Phụ lục 13: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Nội Vụ, Tổng Giám đốc cảnh sát Quốc gia gửi Tổng 
trưởng Nội Vụ Sài Gòn, trích yếu: V/v Hoạt động của Sinh viên, học sinh miền Trung chống 
Chính phủ Trần Văn Hương, số 00637/ TCSQG/CSĐB/KH/K, ngày 8-1-1965. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Kí hiệu tài liệu: PTTg 29546. 
 PL 20 
PL 21 
PL 22 
PL 23 
PL 24 
PL 25 
PL 26 
 Phụ lục 14: Công điện số 1066/BTCM của Trưởng Ban tổ chức mít tính Nhân dân tại 
Hội An gửi Thiếu tướng CT/UBHP/TƯ, về việc tổ chức mít tinh toàn dân tại Hội An, 
ngày phát hành 1-6-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 889 số 2155. 
 PL 27 
Phụ lục 15: Công điện số 935-CT/1/K, Tỉnh trưởng Quảng Nam gửi Bộ Nội Vụ, thông 
báo Tư lệnh vùng I - CT, về việc một số binh sĩ và thanh niên chiếm đài phát thanh 
Quảng Nam, ngày 17-3-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 159577/83. 
 PL 28 
PL 29 
Phụ lục 16: Công điện số I08/DV/DV/T/M, giới chức gửi: Văn phòng dân vụ/VCTI, 
giới chức nhận: Đổng Lý VP/PCTUBHP/TU về tình hình chính trị tại miền Trung, 
ngày 18-3-1966, ngày phát hành 19-3-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 889. 
 PL 30 
PL 31 
Phụ lục 17: Công điện (chuyển tay) số 2989/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh 
miền Trung trong ngày 19 và 20-3-66, ngày phát hành 23-3-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701. 
 PL 32 
PL 33 
Phụ lục 18: Công điện (chuyển tay) số 3063/Y6/E, diễn tiến tình hình tại Đà Nẵng và 
Quảng Nam ngày 22 và 23-3-66, ngày phát hành 25-3-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701. 
 PL 34 
PL 35 
Phụ lục 19: Công điện (chuyển tay) số 3094/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh 
miền Trung trong ngày 22, 23, 24 và 25-3-66, ngày phát hành 26-3-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg 15701. 
 PL 36 
PL 37 
Phụ lục 20: Công điện (chuyển tay) số 3379/Y6/E, diễn tiến tình hình tại các tỉnh 
miền Trung ngày 2-4-1966, ngày phát hành 4-4-1966. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Ký hiệu hồ sơ: PTTg. 
 PL 38 
PL39 
PL 40 
PL 41 
PL 42 
Phụ lục 21: Đặc Khu Quảng Đà, Chỉ thị về “đợt nhập thị số 66 VK.25” ngày 25-1-
1968, Kí hiệu TL I-II-249. 
Nguồn: Tài liệu lưu trữ tại Ban tuyên giáo - Lịch sử Đảng, Thành ủy Đà Nẵng. 
 PL 43 
Phụ lục 22: Việt Nam Cộng Hòa, Bộ Thông tin tâm lý chiến, Trưởng Ty Thông tin tâm lý 
chiến Quảng Nam gửi Thiếu tướng Tổng trưởng Bộ Thông tin tâm lý chiến tại Sài Gòn, 
trích yếu: V/v thành lập các đoàn Võ trang Tuyên truyền, số 126TT/TLC/QN/KH/M, ngày 
21-5-1965. 
Nguồn: Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV, Ký hiệu hồ sơ: Tòa ĐBCP tại TNTP 208. 
 PL 44 
PL 45 
PL 46 
PL 47 
Phụ lục 23: Làng dừa Cẩm Thanh - Hội An, một tròn những căn cứ nuôi dấu cán bộ cách 
mạng trong những năm “tố Cộng”; Đội đấu tranh chính trị Thiếu nhi thị xã Hội An . 
Nguồn: Tác giả 
 PL 48 
Phụ lục 24: Bảng Thống kê các cuộc đấu tranh chính trị tiêu biểu tại Hội An (Quảng Nam) giai đoạn 
1954-1965 và 1965-1975. 
 Các cuộc đấu tranh Lực lượng tham Địa bàn 
Giai đoạn Nội dung đấu tranh Kết quả 
 tiêu biểu gia và lãnh đạo diễn ra 
1954-1965 1. Đấu tranh đòi Đòi thi hành Hiệp định Các tầng lớp nhân Nội ô thị xã Có thể nói rằng, tuy không 
 Mỹ và chính quyền Genève (21-7-1954), dân Hội An do Hội Hội An (đặc đòi Mỹ và chính quyền Ngô 
 Ngô Đình Diệm thi chống tổ chức trưng cầu Nông dân, Hội Phụ biệt là chợ Hội Đình Diệm thi hành Hiệp định 
 hành Hiệp định dân ý (23-10-1955), nữ, Thị ủy Hội An An), các xã Genève (21-7-1954) và ngăn 
 Genève (21-7- chống bầu cử Quốc hội lãnh đạo giáp ranh thị xã chặn được cuộc “trưng cầu 
 1954) (4-3-1956) như Cẩm Kim, dân ý” (23-10-1955) hay “bầu 
 Cẩm Châu cử Quốc hội” (4-3-1956) của 
 CQNĐD nhưng các cuộc đấu 
 tranh của nhân dân Hội An đã 
 cho thấy bộ mặt lừa bịp, dân 
 chủ giả hiệu, phủ nhận hòa 
 bình, thống nhất đất nước của 
 Mỹ và CQNĐD. Những cuộc 
 đấu tranh này đã nâng cao uy 
 thế của quần chúng, thể hiện 
 khát vọng cháy bỏng của các 
 tầng lớp nhân dân Hội An 
 hướng đến một nền hòa bình, 
 độc lập, tự do và thống nhất đất 
 nước. Góp phần kéo dài thời 
 gian để cách mạng chuẩn bị lực 
 lượng cho những cuộc đấu 
 tranh mới 
 PL 49 
2. Đấu tranh chống Đấu tranh chống Huấn Thị ủy Hội An, chi Nội ô Hội A, Trong những năm “tố Cộng”, 
“tố Cộng” chính “tố Cộng”, chống bộ Đảng tại nhà xã Cẩm Thanh, hàng nghìn quần chúng và cơ sở 
 đấu tố. lao Thông Đăng. Cẩm Nam, cách mạng trong toàn thị xã bị 
 Cẩm Châu và quản thúc, bắt bớ, giam cầm, tra 
 Cẩm Hà, nhà tấn. Những cán bộ thoát ly cuối 
 lao Thông cùng của Thị ủy Hội An bị 
 Đăng. CQNĐD bắt, hệ thống tổ chức 
 Đảng ở Hội An không còn 
 nhưng với tinh thần đấu tranh 
 bất khuất của nhân dân, tin 
 tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng 
 đã làm ngòi nổ cho các cuộc đấu 
 tranh tiếp theo. 
3. Đấu tranh đòi Đối với công nhân, đấu Liên hiệp Nghiệp Xã Cẩm Hà, Phong trài đã đạt được nhiều kết 
quyền dân sinh, tranh đòi như tăng lương, đoàn Lao động Cẩm Thanh, quả, công nhân được tăng 
dân chủ giảm giờ làm, khi có việc Quảng Nam, Cẩm Kim, Cẩm lương, giảm giờ làm 
 chính đáng xin nghỉ phép Thị ủy Hội An. Hà, Cẩm Châu, 
 phải có lương, lên thanh và Cẩm An, nội 
 tra lao động yêu cầu can ô thị xã Hội 
 thiệp. Ngoài ra, những An. 
 cuộc đấu tranh của công 
 nhân các nhà máy khác ở 
 Hội An chống chủ sa thải, 
 đòi tiền phụ cấp gia đình, 
 đòi thanh toán tiền công. 
 Đối các tầng lớp nhân 
 dân đấu tranh chống 
 cướp đoạt ruộng đất, 
 chính sách bóc lột nặng 
 PL 50 
 nề, chống CQNĐD dồn 
 dân lập “khu trù mật”. 
 Nhân dân đấu tranh 
 chống bắn phá làng mạc 
 hủy hoại hoa màu, đấu 
 tranh đòi trở vê quê cũ 
 làm ăn, đòi chính quyền 
 VNCH trả lại chồng, con 
 bị bắt đi lính, chống âm 
 mưu bắt lính trong 
 những năm 1961-1962, 
 có phong trào khai sụt 
 tuổi trong thanh niên, 
 học sinh, khai ốm đau. 
4. Đấu tranh Tổ chức các cuộc mít Thị ủy Hội An Tại ấp Thanh Năm 1963, toàn tỉnh có 310 
chống phá ấp chiến tinh để tuyên truyền cho Hậu xã Cẩm cuộc ĐTCT với 16.000 quần 
lược nhân dân hiểu rõ âm Hải, xã Cẩm chúng tham gia, phá trên 100 
 mưu, thủ đoạn của Mỹ Thanh, xã Cẩm ACL, trong đó Hội An phá 
 và CQNĐD trong việc Châu, Cẩm banh trên 10 ấp. 
 gom dân, lập ACL, kêu Nam và Cẩm 
 gọi nhân dân đấu tranh An. 
 chống phá ACL, rải một 
 số truyền đơn 
 Hoặc nhân dân tìm mọi 
 cách để chống phá ACL 
 như dây dưa không chịu 
 triển khai; viện lý do khó 
 khăn, ốm đau, mùa 
 màng, nhà nọ chờ nhà 
 PL 51 
 kia, đủ cây thì thiếu dây, 
 có dây thì cây sắp mục 
 hoặc tự giấu rựa rồi đổ 
 lỗi cho cách mạng cấm 
 rừng, thu rựa không cho 
 chặt cây; khi buộc phải 
 rào thì cắm cây nông 
 hoặc rào nhưng không 
 buộc dây, hoặc đốt rào 
 tre, kẽm gai,  
5. Đấu tranh đòi tự Phong trào đấu tranh cho Tỉnh hội Phật giáo Nội ô thị xã Các cuộc đấu tranh của Phật 
do tín ngưỡng, 5 nguyện vọng của Phật Quảng Nam Hội An giáo tại Hội An nói riêng và 
bình đẳng tôn giáo giáo, đấu tranh đòi thi miền Nam nói chung đã làm 
năm 1963 hành Thông Cáo chung, cho mâu thuẫn giữa Mỹ và 
 tổ chức lễ cầu siêu Tuần CQNĐD ngày càng gay gắt 
 Chung thất của Hòa và cuối cùng buộc Mỹ “bật 
 thượng Thích Quảng đèn xanh” cho nhóm tướng 
 Đức. lĩnh do Dương Văn Minh cầm 
 đầu làm cuộc đảo chính vào 
 ngày 1-11-1963, giết chết anh 
 em Diệm - Nhu, chấm dứt 9 
 năm thống trị của chế độ độc 
 tài gia đình trị Ngô Đình 
 Diệm. Sự sụp đổ của chế độ 
 Ngô Đình Diệm (1-11-1963), 
 là một tất yếu lịch sử. Khách 
 quan mà thừa nhận rằng, 
 phong trào Phật giáo Hội An 
 năm 1963 là một bộ phận của 
 PL 52 
 phong trào đô thị, của phong 
 trào cách mạng miền Nam 
 chống Mỹ và CQNĐD. 
 6. Đấu tranh chống Biểu tình để phản đối Thị ủy Hội An Nội ô thị xã Nguyễn Khánh làm “đảo 
 dư đảng Cần Lao, hành động của cảnh sát Hội An, xã chính toàn bộ”, giải tán 
 chống các chính viên Võ Đức Hưng giết Cẩm Hà, xã chính phủ Trần Văn Hương. 
 quyền độc tài sau chết học sinh Phạm Dự; Cẩm An, xã Tới ngày 16-2-1965, Nguyễn 
 cuộc đảo chính 01- biểu tình tuần hành qua Cẩm Châu, xã Khánh chỉ định nội các mới 
 11-1963 (từ ngày các đường phố trong thị Cẩm Thanh, xã do Phan Huy Quát làm Thủ 
 1-11-1963 đến xã phản đối “Hiến Cẩm Nam, xã tướng, ba ngày sau đó, 
 ngày 8-3-1965)và chương Vũng Tàu”; toàn Cẩm Kim. Nguyễn Khánh bị lật đổ và 
 đồng khởi đồng thể học sinh các trường phải lưu vong ra nước ngoài. 
 bằng cuối năm Trung, Tiểu học công, tư Nhằm tháo gỡ bế tắc, Mỹ 
 1964 đầu năm nhất loạt bãi khóa để thay thế chiến lược “Chiến 
 1965 phản đối chính phủ Trần tranh đặc biệt” bằng “Chiến 
 Văn Hương. tranh cục bộ”, trực tiếp đưa 
 “Đồng khởi” ở đồng quân tham chiến ở miền 
 bằng Nam (8-3-1965). 
 Chính quyền cách mạng 
 được thành lập ở 6 xã: 
 Xã Cẩm Hà, xã Cẩm An, xã 
 Cẩm Châu, xã Cẩm Thanh, xã 
 Cẩm Nam, xã Cẩm Kim 
1965-1975 1. Đòi thành lập lực lượng học sinh đã Thị ủy Hội An, Nội ô thị xã Cao trào đấu tranh đòi thành 
 chính phủ dân sự dùng xe Jeep của Ty Tỉnh hội Phật giáo Hội An lập chính phủ dân sự năm 
 điền địa Quảng Nam, có Quảng Nam 1966 diễn ra rất mãnh liệt trên 
 biểu ngữ và máy phóng địa bàn thị xã Hội An. Tuy 
 thanh, chạy khắp các ngã không giành được thắng lợi 
 đường thị xã Hội An rãi nhưng có một ý nghĩa hết sức 
 PL 53 
 truyền đơn và hô hào to lớn, người chiến thắng về 
 đấu tranh đòi các tướng mặt chính trị và tinh thần 
 lãnh Sài Gòn phải trả không phải Mỹ, Thiệu - Kỳ có 
 trung tướng Nguyễn nhiều súng đạn mà là Tăng 
 Chánh Thi về lại Vùng I Ni, Phật tử, sinh viên, học 
 – CT; một số thanh sinh và các tầng lớp nhân dân 
 niên, sĩ quan và binh yêu nước, trong đó có nhân 
 lính QĐVNCH chiếm dân Hội An. 
 Đài phát thanh Quảng 
 Nam để loan truyền lời 
 kêu gọi của Ủy ban 
 Quân dân đấu tranh 
 Quảng Nam;tại giảng 
 đường tỉnh Quảng Nam, 
 Giáo hội Phật giáo Việt 
 Nam thống nhất có buổi 
 học tập về bức thông cáo 
 2177 của Viện Hóa Đạo, 
 số người tham dự trên 
 1.000 người bao gồm 
 đoàn thể chuyên nghiệp 
 thanh niên và đồng bào 
 Phật tử thị xã Hội An; 
 học sinh, thanh niên lập 
 ra “Lực lượng thanh 
 niên tranh thủ cách 
 mạng” liên kết với công 
77 Đòi các tướng lĩnh bị cách chức phải được phục hồi chức vụ, tướng lĩnh phải trở về vị trí quân sự thuần túy, gấp rút bầu Quốc hội để thành lập Chính phủ dân sự, cải thiện đời 
sống nhân dân. 
 PL 54 
 nhân, thợ thủ công, phu 
 khuân vác, xích lô, tài 
 xế, tiểu thương, công 
 chức và Tăng Ni, Phật tử 
 xuống đường biểu tình 
 phản đối Thiệu - Kỳ. 
2. Đấu tranh chính Quần chúng ở các vùng Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Cuộc Tổng tiến công và nổi 
trị trong Xuân Mậu nông thôn biên chế Hội An và các dậy Tết Mậu Thân (1968) là 
Thân (1968) thành các tổ, tiểu đội, xã thuộc thị xã một đòn sấm sét, bất ngờ làm 
 trung đội, đại đội, tiểu Hội An cũng cho Mỹ và chính quyền 
 đoàn, từng cánh, từng như có sự phối VNCH choáng váng. Nhưng 
 mũi do cán bộ có kinh hợp của các xã do lực lượng của chúng còn 
 nghiệm lãnh đạo và chỉ thuộc Duy đông và mạnh, nên chúng đã 
 huy; Ở các nơi công Xuyên và Điện nhanh chóng tổ chức lại lực 
 cộng trong thành phố Bàn. lượng phản công lực lượng 
 như bến xe, bến đò, chợ, cách mạng ở cả thị xã và vùng 
 nhà thương, trường học nông thôn đồng bằng Hội An. 
 đều thành lập các tổ huy Vì vậy, cuộc Tổng tiến công 
 động quần chúng. trong và nổi dậy Tết Mậu Thân 
 nhân dân đã hoàn thành (1968), lực lượng cách mạng 
 cụ thể: Ở nội ô, nhân dân gặp không ít khó khăn và tổn 
 rất nhiệt tình hướng dẫn, thất. 
 giúp đỡ, dẫn đường cho 
 lực lượng biệt động của 
 ta vào nắm tình hình ở 
 vùng trung tâm thị xã. 
 Thị ủy Hội An tổ chức 3 
 lần đấu tranh “nhập thị” 
 quy mô lớn huy động 
 PL 55 
nhân dân toàn thị xã. 
Lực lượng ĐTCT phía 
Bắc thị xã Hội An chia 
làm 3 mũi: Mũi ĐTCT 
thứ nhất, từ Cẩm An và 
thôn Trà Quế (xã Cẩm 
Hà) tiến vào hồ Bà 
Thiên, Xóm Mới, Mũi 
ĐTCT thứ hai gồm: 
2.500 người của các xã: 
Điện Dương, Điện Hải 
cùng với nhân dân xã 
Cẩm Hà tiến vào nội ô 
theo hướng chùa Thanh 
Minh, Mũi ĐTCT thứ 
ba, từ Cẩm Châu tiến lên 
đến Sơn Phô. Lực lượng 
ĐTCT phía Nam thị xã 
Hội An tổ chức “nhập 
thị” bao gồm các xã: 
Bình Giang, Bình Đào, 
Bình Triều, Bình Dương 
(Thăng Bình), Xuyên 
Thái, Xuyên Thọ, Xuyên 
Tân, Xuyên Long, 
Xuyên Phước, Xuyên 
An (Duy Xuyên), Cẩm 
Kim và Cẩm Nam. 
Lực lượng ĐTCT phía 
Đông thị xã Hội An tổ 
 PL 56 
 chức “nhập thị” có xã 
 Cẩm Thanh tiến theo 
 đường Cồn Chài để vào 
 nội ô thị xã. Lực lượng 
 ĐTCT phía Tây thị xã 
 Hội An tổ chức “nhập 
 thị” có xã Điện Thành 
 và nhân dân một số thôn 
 phía Tây xã Cẩm Hà tiến 
 vào nội ô. 
3. Đòi dân sinh, Đấu tranh chống chính Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Một số mục tiêu đấu tranh đạt 
dân chủ quyền VNCH thực hiện Hội An và các được như chống dồn dân, đòi 
 lập ấp kèm dân, chống xã thuộc thị xã chồng con trở về, cải thiện 
 cày ủi, bắn phá ruộng Hội An như xã chế độ lao tù cho tù nhân,... 
 vườn, thôn xóm. Khi bị Cẩm Thanh, xã 
 chính quyền VNCH Cẩm Hà, 
 cưỡng bức, xúc tác vào Trường Lệ xã 
 các khu dồn dân, nhân Cẩm Châu, thôn 
 dân lại tiếp tục đấu tranh 1 xã Cẩm Kim, 
 đòi các quyền dân sinh thôn 4 xã Cẩm 
 như đòi trở về quê cũ Nam, nhà lao 
 làm ăn như khu dồn dân Xóm Mới. 
 Xóm Mới (Cẩm Châu), 
 Nam Diêu (Cẩm Hà). 
 Đồng thời các thôn 
 Trường Lệ, Cồn Chài, 
 Nam Diêu, Bộc Thủy nổ 
 ra nhiều cuộc đấu tranh 
 không cho lính của 
 PL 57 
VNCH và quân Đồng 
minh của Mỹ đóng tại 
nhà dân;đấu tranh tại 
quận Hiếu Nhơn chống 
xúc tác dồn dân, 9 lần tổ 
chức hình thức đi “chợ 
nhồi - đưa người từ vùng 
ngoại ô, ven thị xã Hội 
An vào giả vờ đi chợ để 
đấu tranh”, xuống 
đường biểu tình tố cáo 
tội ác Mỹ, chống 
QĐVNCH càn quét, 
gom dân, cướp phá hoa 
màu; Trong thanh niên, 
học sinh dấy lên phong 
trào chống quân dịch, 
chống quân sự hoá học 
đường; Các nhóm thanh 
niên, học sinh đi vào các 
xóm lao động phân phát 
những tờ báo tiến bộ, tổ 
chức những đêm văn 
nghệ lành mạnh, chống 
văn hóa đồi trụy, chống 
lối sống lai căng của 
Mỹ. Gia đình thương 
phế binh và gia đình 
binh lính của QĐVNCH 
cũng tham gia đấu tranh 
 PL 58 
 đòi giải quyết nhà ở, cải 
 thiện đời sống; đấu 
 tranh cải thiện chế độ lao 
 tù, tố cáo chế độ hà khắc 
 của nhà lao Xóm Mới 
 (Hội An), cử các đoàn 
 đến thăm hỏi tù nhân. 
4. Đấu tranh đòi thi Ở vùng đồng bằng do Thị ủy Hội An. Nội ô thị xã Hội Có 99 gia đình với 339 nhân 
hành Hiệp định cách mạng làm chủ, An, nhà lao khẩu tiếp tục trở về sống ở 
Paris nhân dân hăng hái may Xóm Mới, xã các vùng ven nội ô thị xã. Tại 
 cờ, vót chông hỗ trợ lực Cẩm An, xã xã Cẩm Thanh, có 15 gia đình 
 lượng vũ trang “giành Trường Lệ, xã với 43 nhân khẩu trở về vùng 
 đất cắm cờ”, chuẩn bị Cẩm Hà và xã cách mạng làm chủ. Cải thiện 
 nhân công sẵn sàng tiếp Cẩm Châu. chế độ lao tù cho tù nhân, 
 tế lương thực và vũ khí 
 cho lực lượng vũ trang. 
 Nhân dân ở vùng chính 
 quyền VNCH kiểm soát 
 và trong nội ô thị xã Hội 
 An mua vải, chỉ về may 
 hàng ngàn lá cờ Mặt trận 
 Dân tộc giải phóng miền 
 Nam Việt Nam gởi ra 
 vùng cách mạng làm chủ 
 để thực hiện “giành đất 
 cắm cờ”. . Khẩu hiệu đưa 
 ra là: “Xanh đồng đông 
 chợ - tức tập trung tăng 
 gia sản xuất và họp chợ 
 PL 59 
 thường xuyên”; đòi hòa 
 bình, ngừng bắn, đòi tự 
 do dân chủ, cải thiện đời 
 sống, giải quyết công ăn 
 việc làm, đi lại bình 
 thường giữa các vùng, đòi 
 trở về quê cũ làm ăn. tù 
 nhân đấu tranh đòi cải 
 thiện chế độ giam cầm 
 như đòi chính quyền 
 VNCH, mà cụ thể là 
 những người quản lý nhà 
 lao phải thực hiện đúng 
 chế độ như: 1.Tù nhân 
 được ăn no, không được 
 bớt cơm, bớt nước và 
 được tắm giặt, được ra 
 ngoài hít thở không khí, 
 được tắm nắng mỗi ngày 
 một lần; 2. Được quyền 
 hưởng tự do khi hết hạn 
 tù, không được gia tăng 
 hạn tù tái xét, 
5. Đấu tranh chính Vào 12 giờ trưa ngày 27- Đặc khu ủy Quảng Toàn bộ thị xã 5 giờ sáng ngày 28-3-1975, 
trị trong Xuân 3-1975, Ủy ban khởi Đà, Thị ủy Hội An. Hội An Hội An hoàn toàn giải phóng. 
1975 nghĩa thị xã phát lệnh 
 tổng tiến công và nổi 
 dậy giải phóng Hội An. 
 Hàng chục thuyền máy 
 PL 60 
của cơ sở được huy động 
lên Xuyên Tân, Xuyên 
Thái đón cán bộ và bộ 
đội về Cẩm Thanh và 
Cẩm Kim. Ngay trong 
chiều và đêm 27-3-1975 
nhân dân ở 12 khu dồn 
và trại tập trung đã nổi 
dậy truy đuổi ác ôn tay 
sai, làm chủ hoàn toàn 
các xã ngoại ô thị xã Hội 
An; 5 giờ sáng ngày 28-
3-1975 sau khi chiếm 
lĩnh các vị trí của địch, 
các cánh quân tiến về tòa 
hành chính Quảng Nam. 
Cờ Mặt trận dân tộc giải 
phóng phất phới tung 
bay trên dinh lũy kẻ thù. 
Toàn bộ hệ thống ngụy 
quyền, ngụy quân ở Hội 
An bị tan rã. Trong cuộc 
Tổng tiến công và nổi 
dậy giải phóng Hội An, 
lực lượng chính trị nội ô 
phân công thành từng 
đội, nhóm đón đã dẫn 
đường cho LLVT tiến 
quân vào những hang ổ 
trọng điểm của chính 
 PL 61 
quyền VNCH. Công 
nhân nhà đèn, nước giữ 
cho điện nước được đảm 
bảo để nội ô thị xã 
không bị mất điện, nước 
khi quân giải phóng tiến 
vào nội ô. 
 PL 62