Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhoea – PED) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị

1. ĐẶT VẤN ĐỀ Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Dịch tiêu chảy cấp trên lợn hay còn gọi là PED (Porcine Epidemic Diarrhoea) thuộc nhóm Coronavirus gây ra. Hiện đang là một trong những vấn đề rất được quan tâm do lợn con không có kháng thể với bệnh này. Trên đàn lợn con dưới một tuần tuổi có những triệu chứng tiêu chảy gây chết nhanh và rất khó hồi phục, thiệt hại có thể đến 100% đàn. Bệnh đã gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi ở nhiều quốc gia trên thế giới. Về lịch sử, bệnh được phát hi

doc36 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 376 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Đề tài Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhoea – PED) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện lần đầu ở Anh. Năm 1976, một số nước Châu Âu khác cũng đã ghi nhận những ca bệnh này và đặt tên là “Epidemic viral diarrhea” (EVD). Năm 1978 đổi tên thành PED (Porcine Epidemic Diarrhoea) và được chính thức công nhận cho đến nay. Bệnh được ghi nhận ở nhiều nước như Anh, Bỉ, Nhật, Trung Quốc và nhiều nước Châu Âu. Hiện nay bệnh phân bố khắp nơi trên thế giới (Andreas Pospischil, Angela Stuedli, Matti Kiupel)[12]. Trong năm 2008 - 2009, hầu hết các trại chăn nuôi lợn của Việt Nam đã bị thiệt hại nặng nề do dịch tiêu chảy cấp. Bệnh xảy ra rất nhanh, trên toàn đàn lợn và gây chết gần như 100% lợn con theo mẹ. Năm 2010 bệnh vẫn tiếp tục xảy ra ở một số trại, thậm chí tái phát ở những trại đã từng xảy ra dịch trong năm 2009 (Nguyễn Ngọc Hải, 2011)[4]. Hiện nay, tình hình dịch bệnh ở lợn trở nên phức tạp và nguy hiểm hơn nhiều so với những năm trước đây. Mặc dù các chương trình phòng bệnh và các biện pháp hỗ trợ, trộn kháng sinh vào thức ăn được áp dụng hầu hết ở các trại nhưng bệnh vẫn xảy ra liên tục và gây thiệt hại to lớn cho người chăn nuôi lợn. Do vậy, việc cần thiết phải nghiên cứu, ứng dụng các phương pháp điều trị mới có hiệu quả cao hơn. Trước thực trạng đó, nhằm hiểu rõ hơn về một số đặc điểm biến đổi bệnh lý của bệnh PED gây ra cho lợn con, đồng thời có thêm cơ sở khoa học cho việc xây dựng các biện pháp xử lý, giảm bớt thiệt hại do dịch bệnh gây ra trên đàn lợn ở Việt Nam nói chung và ở Thanh Hóa nói riêng, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh lý của dịch tiêu chảy cấp trên lợn (Porcine Epidemic Diarrhoea – PED) tại tỉnh Thanh Hóa và giải pháp phòng trị”. 1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1. Mục tiêu tổng quát Nghiên cứu sẽ đưa ra những hiểu biết đầy đủ về đặc điểm bệnh lý làm cơ sở cho việc chẩn đoán và phòng trị bệnh có hiệu quả. 1.2.2. Mục tiêu cụ thể - Chẩn đoán xác định virus gây bệnh và xác định một số vi khuẩn kế phát bằng PCR và Hóa mô miễn dịch. - Xác định rõ các đặc điểm bệnh lý chủ yếu của lợn mắc bệnh - Thử nghiệm một số phác đồ và quy trình phòng, trị bệnh. 1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Lợn nuôi tại tỉnh Thanh Hoá. Thời gian tiến hành đề tài từ năm 2013 - 2017 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 2.1. Sinh lý tiêu hoá và hấp thu của lợn Tiêu hoá và hấp thu là giai đoạn đầu của quá trình trao đỏi chất. Nó thực hiện chức năng phân giải thành phần các chất có trong thức ăn thành những chất đơn giản mà cơ thể có thể hấp thu lợi dụng được; những chất đó được thu nhận vào máu và bạch huyết qua màng nhầy ống tiêu hoá. Nhờ có quá trình trên mà cơ thể nhận được toàn bộ chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình sinh trưởng và các hoạt động khác trong cơ thể. Trong thức ăn của lợn có chứa các chất dinh dưỡng cần thiết như gluxit, protein, lipid, khóng, vitamin,... - Tiêu hoá gluxit Gluxit chiếm tỷ lệ lớn trong khẩu phần thức ăn của lợn, nó có vai trò cung cấp năng lượng cho mọi hoạt động sống trong cơ thể và tham gia một phần vào cấu trúc hoá học của cơ thể. Gluxit trong thức ăn của lợn gồm các dạng: tinh bột, đường, chất xơ. Quá trình tiêu hoá gluxit chủ yếu là nhờ các enzym có trong dịch tiêu hoá và enzym của VSV. α -amilaza Tinh bột -----------------------> mantoza, mantotrioza, các loại dextrin (Enzym α -amilaza hoạt động trong môi trường có độ axit biến động rộng từ 3,8-9,4 trong sự có mặt của ion Clo) Enzym lactaza Lactoza ----------------------> galactoza + glucoza (Enzym lactaza do tuyến ruột tiết ra phân giải đường lactoza trong sữa. Enzym này có mức hoạt động cao nhất khi lợn ở tuần tuổi thứ 2 và3. Sau đó có hướng giảm đần) Mantaza Mantoza -------------------> 2 α. glucoza Sacaraza Đường sacaroza -----------------> glucoza + fructoza Men VSV Chất xơ ----------------------> glucoza, axit béo bay hơi Quá trình phân giải chất xơ xảy ra ở túi mù dạ dày và ruột già (chủ yếu ở manh tràng) nơi có sự tồn tại của VSV thông qua sự lên men. - Sự lên men trong đường tiêu hoá của lợn: Sự lên men trong đường tiêu hóa của lợn có ý nghĩa quan trọng trong quá trình tiêu hoá gluxit. Sự lên men được thực hiện nhờ hệ VSV. Qua quá trình nghiên cứu hệ VSV trong đường tiêu hoá của lợn người ta thấy rằng ở túi mù dạ dày lợn có chứa lượng lớn các loài VSV Lactobaccilus, Bifidobacterium và một lượng thấp hơn các loài VSV khác. Trong ruột già thì chứa hỗn hợp các VSV đa dạng hơn. Trong điều kiện bình thường 1g chất chứa ở manh tràng có từ 1-10 tỉ VSV. Trong đó có VK (cầu khuẩn háo iod) phân giải xenluloza. VSV phân giải tinh bột đường trong ruột già chu yếu là Clostridium butyrium, trực khuẩn gram (+) háo iod yếm khí. Ngoài ra có VK lactic và Enterococus. Ruột già lợn có hệ VSV phong phú là do nhiệt độ môi trường ổn định và thích hợp (38,5-390C), môi trường yếm khí và gần trung tính, pH = 5,8-7,5. Điều này có thể giải thích được vấn đề là lợn có khả năng tiêu hoá thức ăn thô xanh khá tốt. Quá trình lên men tiêu hoá chất xơ của VSV trong ruột già tạo ra axit béo bay hơi. Số năng lượng do axit béo cung cấp khoảng 5-25% nhu cầu năng lượng duy trì theo lượng chất xơ trong khẩu phần. - Tiêu hoá protein Protein được tiêu hoá là nhờ các enzym trong đường tiêu hoá. Tại dạ dày tiêu hoá protein chủ yếu nhờ có enzym pepsin và một số enzym khác như catepsin ... Pepsin trong dạ dày hoạt động được cần sự có mặt của HCl dạng tự do. Do đó lợn con mới sinh enzym pepsin chưa hoạt động ở dạng pepsinogen. Protein trong dạ dày được phân cắt thành các đoạn peptid. Khi xuống ruột non quá trình phân giải tiếp tục và triệt để tạo ra sản phẩm cuối cùng là các axit amin. Sự phân giải protein ở ruột non được thực hiện nhờ các enzym của tuyến tuỵ, tuyến ruột như trypsin, kimozin, elastaza, cacboxypeptidaza, dipeptidaza, nucleaza,... Chỉ có ít protein được chuyển xuống ruột già phân giải bởi VSV. - Tiêu hoá Lipid Chất béo trong thức ăn của lợn thành phần chính là triglyxerit ngoài ra có phospholipid, sterol, esterol. Các thành phần này được tiêu hoá do enzym của dịch tuỵ, dịch ruột tiết ra như Lipaza, phospholipaza, colesterolesteaza. Sản phẩm của quá trình tiêu hoá lipid là glyxerin và axit béo, cholesterol. Quá trình tiêu hoá lipid được thực hiện nhờ sự tác động của dịch mật. - Sự hấp thu các chất dinh dưỡng Quá trình hấp thu xảy ra khác nhau ở từng vị trí của đường tiêu hoá. + Tại xoang miệng hầu như không có sự hấp thu vì thức ăn lưu lại ở đây thời gian ngắn và chưa được phân giải đến dạng dễ hấp thu. + Tại dạ dày có sự hấp thu nước, glucoza, axit amin, chất khoáng tuy nhiên chỉ hấp thu một lượng nhỏ. + Tại ruột non nơi xảy ra quá trình hấp thu mạnh nhất vì trên niêm cạc ruột non có các vi nhung mao (200triệu/mm2 bề mặt niêm mạc) vì vậy làm tăng diện tích bề mặt niêm mạc lên hàng trăm lần. Lượng đường và protein đã được tiêu hoá hấp thu tại ruột non tới 85 và 87% tương ứng. Ruột non cũng là nơi hấp thu nước (75-85% tổng số) và muối khoáng chủ yếu. + Tại ruột già quá trình hấp thu tiếp tục nhưng ít. 2.2. Đặc điểm sinh lý của lợn con bú sữa Lợn con từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa (tách mẹ) có nhiều đặc điểm sinh lý đặc trưng và đòi hỏi phải có sự chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Nếu khi chăn nuôi, người chăn nuôi không nắm vững các đặc điểm sinh lý của lợn con sẽ không nuôi dưỡng và chăm sóc hợp lý chúng, dẫn đến sinh trưởng chậm, lợn không khỏe và chất lượng con giống kém, bệnh tật dễ dàng xảy ra. 2.2.1. Lợn con có tốc độ sinh trưởng phát triển nhanh Trong giai đoạn này lợn con sinh trưởng rất nhanh, tầm vóc và thể trọng tăng dần theo tuổi. Từ lúc sơ sinh đến lúc cai sữa, trọng lượng của lợn con tăng từ 10 đến 12 lần. So với các gia súc khác thì tốc độ sinh trưởng của lợn con tăng nhanh hơn gấp nhiều lần. Các cơ quan trong cơ thể lợn con cũng thay đổi và tăng lên nhanh chóng. Hàm lượng nước giảm dần theo tuổi, vật chất khô tăng dần, các thành phần hóa học trong cơ thể của lợn thay đổi nhanh chóng. Hàm hàm lượng sắt trong cơ thể lợn con mới sinh ra là 187 g % nhưng đến ngày thứ 20 giảm xuống còn 40,58 g % sau đó tăng dần lên 60 ngày bằng lúc mới đẻ ra. Một đặc điểm quan trọng nhất của lợn con theo mẹ là: Sản lượng sữa mẹ tăng dần từ khi mới đẻ ra tới ngày thứ 15. Tại thời điểm này sản lượng sữa cao nhất và ổn định cho tới ngày thứ 20 và sau đó giảm dần cho tới ngày thứ 60 là ở mức thấp nhất. Nhu cầu dinh dưỡng của lợn con ngày càng tăng, trong khi đó sữa mẹ sau 3 tuần tuổi giảm đi rõ rệt, dẫn tới lợn con thiếu dinh dưỡng nếu như không có thức ăn bổ sung thêm. Khả năng miễn dịch của lợn con trong giai đoạn này cũng có những đặc điểm đặc biệt. Lợn con mới đẻ trong máu không có gama - Globulin nhưng sau khi bú sữa có chứa hàm lượng gama - Globulin cao, khi đó hàm lượng kháng thể trong máu tăng lên một cách nhanh chóng. Sau 3 đến 4 tuần tuổi hàm lượng gama - Globulin giảm xuống, đến 5 tháng nó tăng lên, trong 100 ml máu có 65 mg globulin. Ngoài ra, hệ vi sinh vật trong đường ruột của lợn con (microflora) cũng là hệ thống ngăn ngừa các nhân tố gây bệnh xâm nhập vào đường ruột. 2.2.2. Bộ máy tiêu hóa của lợn con phát triển nhanh nhưng chưa hoàn thiện về chức năng Trong thời gian bú sữa trọng lượng bộ máy tiêu hóa lợn con tăng lên từ 10 - 5 lần, chiều dài ruột non tăng lên gấp 5 lần, dung tích bộ máy tiêu hóa tăng lên 40 - 50 lần, chiều dài ruột già tăng lên 40 - 50 lần. Tuyến tụy ở 30 ngày tuổi tăng lên gấp 4 lần, trọng lượng của gan gấp 3 lần so với khi sơ sinh. Lúc đầu dạ dày chỉ nặng 6 - 8 gam và chứa được 35 - 50 gam sữa, nhưng chỉ sau 3 tuần đã tăng gấp 4 lần và 60 ngày tuổi đã nặng 150 gam và chứa được 700 - 1000 gam sữa. Khả năng tiêu hóa của lợn con rất hạn chế. Theo A.V. Kavasnhixki dịch vị của lợn con dưới một tháng tuổi hoàn toàn không có a xít HCl ở dạng tự do, vì lượng a-xít này tiết ra ít và nó nhanh chóng liên kết với các niêm dịch. Ngoài sự thiếu HCl tự do còn có sự giảm axít trong dịch vị thức ăn liền với HCl làm cho hàm lượng HCl tự do rất ít hoặc hoàn toàn không có trong dạ dày của lợn con bú sữa. Vì thiếu HCl tự do trong dạ dày nên hệ vi sinh vật dễ lên men gây nên hiện tượng ỉa chảy ở lợn con. Trong dịch tụy của lợn lớn có tới 15 men để tiêu hóa các chất song ở lợn con chỉ có 2 men là Kimozin và Lipaza và sau một tuần tuổi lợn con có thêm một số men như Tripxin và Amilase, hoạt tính của các men cũng tăng dần theo tuổi, từ 1 - 28 ngày men Tripxin tăng gấp 20 lần, Amilasa gấp 30 lần, các men như Protease, Amilase, Elastase, Carbuaxipolypeptidasa, Kimotipxin cũng tăng dần theo tuổi của lợn con. Hàm lượng vật chất khô ở trong dịch tụy cũng tăng dần lên theo tuổi của lợn con. Dịch ruột do 2 tuyến Bruner và Liberkun tiết ra chứa đầy đủ các men tiêu hóa nhưng ở lợn con chưa có men Lactose, các men tiêu hóa khác có hàm lượng rất thấp không đủ khả năng để tiêu hóa các thức ăn nhân tạo. Dịch mật của lợn con trong các tuần tuổi đầu còn hạn chế, khả năng nhũ tương hóa mỡ của lợn con chưa có. Khả năng tiêu hóa các chất dinh dưỡng của lợn con: Lợn con trong 3 tuần tuổi đầu chỉ có khả năng tiêu hóa cazein, các đường, lipid của sữa, còn các chất khác từ các thức ăn nhân tạo thì chưa có. Qua nghiên cứu chúng ta thấy khả năng tiêu hóa của lợn con ngày càng tăng rõ rệt. Khi có khả năng hoạt động của các men trong dịch tụy mà điều quyết định là HCL tự do hoặc hóa men Pepsinogen để tiêu hóa Protít. 2.2.3. Khả năng điều hòa thân nhiệt kém Cơ thể lợn con thường sinh ra nhiệt năng, nhiệt năng có thể thải ra môi trường xung quanh, ngược lại sự thay đổi nhiệt độ môi trường lại ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới sự sinh nhiệt và tỏa nhiệt của cơ thể, hiện tượng đó gọi là trao đổi nhiệt giữa cơ thể lợn con với môi trường. Lợn con lúc mới sinh có khả năng điều hòa thân nhiệt kém, khi nhiệt độ ngoại cảnh là 55 - 75° F thì thân nhiệt của lợn con có thể bị giảm từ 3-12 0F sau 1 giờ và sau 1 giờ nữa thân nhiệt của chúng mới trở lại bình thường. Nếu nhiệt độ môi trường < 55°F thì sau 2 ngày lợn con mới điều hòa thân nhiệt của chúng trở lại bình thường, nếu nhiệt độ môi trường giảm xuống dưới 25°F thì sau 10 ngày thân nhiệt của lợn con mới trở lại bình thường. Qua thí nghiệm của Newland (1969) cho thấy rằng khi nhiệt độ khác nhau thì sinh trưởng của lợn con sẽ khác nhau. Khi ông tiến hành nuôi lợn con ở các nhiệt độ khác nhau (11,18 và 28°C), thì ở nhiệt độ 28°C lợn con có khả năng sinh trưởng nhanh nhất và ở nhiệt độ 11°C lợn con có khả năng sinh trưởng chậm nhất. Nhiệt độ cao hay thấp đều ảnh hưởng tới quá trình điều tiết thân nhiệt của lợn con. Nhiệt độ bên ngoài có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tỏa nhiệt và tốc độ sinh trưởng của lợn con. Nhiệt độ được coi như là 1 chỉ tiêu ảnh hưởng lớn đến đặc điểm, chức năng của cơ quan điều tiết nhiệt của lợn con. Nếu nhiệt độ thấp lợn con mất nhiều nhiệt và có thể dẫn tới chết. Vậy, trong tuần lễ đầu thân nhiệt của lợn con hoàn toàn phụ thuộc vào nhiệt độ của môi trường. Ở hai ngày đầu nhiệt độ từ 5 - 6°C lợn con có thể chết do lạnh và mất nhiệt. Sau 3 tuần tuổi, khả năng điều hòa thân nhiệt của lợn con có thể ổn định để đáp ứng với môi trường bình thường bên ngoài. Do lợn con có khả năng điều hòa thân nhiệt kém nên cơ thể dễ bị lạnh và phát sinh bệnh tật, nhất là bệnh ỉa phân trắng. Thân nhiệt của lợn con sau khi đẻ khoảng 38°C, sau 10 ngay tăng lên 39,5 đến 39,7°C va giữ ở mức đó. Trong thời gian này thân nhiệt lợn con có thể biến động trên dưới 1°C. Độ ẩm cũng là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng điều hòa thân nhiệt của lợn con. Nếu độ ẩm cao thì lợn con dễ bị mất nhiệt và có thể bị cảm lạnh. Độ ẩm thích hợp cho lợn con ở nước ta là 65 - 70% (Theo Tomer là 69,8%). Các kết quả nghiên cứu trong nước và nước ngoài cho thấy rằng khả năng chịu đựng va sự thích nghi của lợn con đối với môi trường bên ngoài còn thấp, làm cho khả năng sinh trưởng phát triển của lợn con bị hạn chế và có thể dễ nhiễm bệnh dẫn đến tỷ lệ nuôi sống thấp. Trong chăn nuôi, chúng ta thường sử dụng một số biện pháp kỹ thuật để hạn chế những tác động của các yếu tố nói trên đối với lợn con, nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi cũng như điều hòa nhiệt độ và ẩm độ ở tiểu khí hậu chuồng nuôi sao cho thích hợp với lợn con. 2.3. Vài nét về giải phẫu của dạ dày và ruột lợn 2.3.1. Giải phẫu dạ dày lợn Dạ dày lợn nằm phái bên trái xoang bụng. Đường cong lớn tựa lên mõm kiếm xương ức, thượng vị hướng về bên trái vòng cung sườn, hạ vị hướng về bên phải vùng cung sườn. Dạ dày lợn thuộc loại dạ dày đơn hỗn hợp. Khu vực không tuyến chỉ bao quanh lỗ thượng vị, ngoài ra có cái manh nang hay còn gọi là túi mù gần thượng vị dạ dày. Niêm mạc vùng có tuyến cũng chia làm 3 vùng: Vùng tuyến thượng vị gồm có cả túi mù và gần ½ dạ dày là tuyến thượng vị. Vùng này niêm mạc mỏng; Vùng tuyến thân vị (tuyến đáy) chiếm đại bộ phận ở đường cong lớn, niêm mạc tương đối dày và có màu hơi đỏ. Vùng tuyến hạ vị niêm mạc có màu vàng xám. 2.3.2. Giải phẫu ruột lợn * Ruột non Phần đầu của ruột non gọi là tá tràng, phần ruột này trong xoang bụng ở trạng thái cố định, vì có những dây chằng giữ chặt nối với gan và dạ dày cũng như với thành sau của xoang cơ thể. Phần còn lại của ruột non chỉ gắn vào thành sau của xoang cơ thể nhờ màng treo và do đó cơ thể chuyển động rất tự do. Thần kinh và mạch máu từ thành cơ thể vào ruột đi theo mảng treo ruột. Trong tá tràng có hai chất dịch rất quan trọng để tiêu hóa thức ăn: mặt từ gan và dịch tụy từ tuyến tụy. Ngoài ra trong thành ruột có những tuyến ruột rất nhỏ tiết ra dịch tràng chứa nhiều men. Ba thứ dịch trên trong ruột non hòa lẫn vào nhau và thực hiện quá trình tiêu hóa đã bắt đầu từ trong miệng và dạ dày. Cấu tạo: - Niêm mạc ruột non có nhiều nếp gấp, vòng hướng theo nhiều chiều, những nếp gấp này làm diện tích niêm mạc tăng gấp 2-3 lần. Niêm mạc còn có những phần kéo dài lồi lên như những cái lông gọi là lông nhung. Biểu mô phủ lên niêm mạc là biểu mô đơn trụ, có nhiều riềm hút. Mỗi tế bào có khoảng 3000 vi nhung để tăng diện tích hấp thu lên. Ở niêm mạc ruột non có lỗ đổ ra của tuyến ruột (thường gọi là tuyến lieberkuhn). Riêng ở tá tràng ngoài tuyến ruột còn có tuyến tá tràng (thường gọi là tuyến brunner). - Cơ: Gồm hai lớp cơ trơn, vòng trong và dọc ngoài. - Tương mạc là lớp áo ngoài do lá tạng của phúc mạc phủ lên. * Ruột già Ruột già hình thành từ đoạn saucuar ống tiêu hóa. So với các động vật có xương sống khác thì ở động vật có vú ruột già phát triển đặc biệt về đường kính cũng như độ dài. Tiêu hóa ở ruột già chủ yếu là hấp thu nước, phần còn lại thành phân. Ngoài ra ruột già còn lên sinh axits béo thấp và hấp thụ khí CO2, CH4, H2S ở ruột già còn nhiều loại vi khuẩn tổng hợp được vitamin B, K Cấu tạo: So sánh với ruột non thì ruột già có những đặc điểm cấu tạo tổ chức học như sau: - Tuyến ruột không có tế bào tiết dịch (paneth) - Lông nhung chỉ có ở thời kỳ phôi thai, còn thời kỳ trưởng thành thì không có. - Có nhiều nang kín lâm ba không tập trung thành mảng paye (Payer). - Áo cơ: hai lớp vòng trong, dọc ngoài nhưng lớp dọc ngoài thì tập trung thành từng băng cơ trơn chạy theo chiều dọc, tương đối dày, còn các chỗ khác thì chỉ còn lại một số ít sợi rải rác. Lớp vòng thường thắt lại từng đoạn. - Các mạch quản và thần kinh thì đơn giản, vì ruột già không có lông nhung, tuyến ruột thẳng. 2.4. Một số nguyên nhân gây tiêu chảy ở gia súc Hội chứng tiêu chảy rất thường gặp ở gia súc, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi (80-90%). Về bệnh nguyên của ỉa chảy thì rất phức tạp. Trong lịch sử nghiên cứu bệnh tiêu chảy, rất nhiều tác giả đã dày công tìm hiểu nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy. Tuy nhiên, tiêu chảy là một hiện tượng bệnh lý, có liên quan đến rất nhiều các yếu tố, có yếu tố là nguyên nhân nguyên phát, có yếu tố là nguyên nhân thứ phát. Vì vậy, phân biệt thật rạch ròi nguyên nhân gây tiêu chảy không đơn giản. Ngày nay, người ta thống nhất rằng, phân loại chỉ có nghĩa tương đối, chỉ nêu lên yếu tố nào là chính, xuất hiện đầu tiên; yếu tố nào là phụ hoặc xuất hiện sau, từ đó vạch ra phác đồ phòng bệnh hoặc trị bệnh cho có hiệu quả mà thôi. Nhìn chung, hội chứng ỉa chảy ở gia súc thường xảy ra do các nguyên nhân chủ yếu sau: 2.4.1. Điều kiện bất lợi của ngoại cảnh Điều kiện khí hậu thay đổi đột ngột, quá nóng, quá lạnh, mưa gió, ẩm ướt, kết hợp với chuồng trại không hợp vệ sinh, điều kiện nuôi nhốt, vận chuyển gia súc quá chật trộị, là yếu tố Stress ảnh hưởng trực tiếp tới cơ thể gia. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997)[7] cho biết: Khi gia súc bị nhiễm lạnh, ẩm kéo dài sẽ làm giảm phản ứng miễn dịch, giảm tác dụng thực bào, do đó gia súc dễ bị nhiễm khuẩn gây bệnh. 2.4.2. Chế độ nuôi dưỡng không đúng kỹ thuật Thức ăn kém chất lượng, ôi thiu, khó tiêu,là nguyên nhân gây ỉa chảy ở gia súc. Thức ăn thiếu các chất khoáng, vitamin cần thiết cho cơ thể, đồng thời phương thức chăn nuôi không phù hợp sẽ làm giảm sức đề kháng của cơ thể gia súc và tạo cơ hội cho các vi khuẩn đường tiêu hóa phát triển và gây bệnh Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997)[7]. 2.4.3. Nguyên nhân do ký sinh trùng Ký sinh trùng đường tiêu hoá là một trong những nguyên nhân gây ỉa chảy ở gia súc. Tác hại của chúng không chỉ cướp chất dinh dưỡng của vật chủ mà còn tác động lên vật chủ bằng độc tố, đầu độc vật chủ, làm giảm sức đề kháng, tạo điều kiện cho các bệnh khác phát sinh. Theo Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996)[6], chính phương thức sống ký sinh của giun sán đã làm tổn thương niêm mạc đường tiêu hoá nhờ đó các mầm bệnh dễ xâm nhập gây viêm ruột ỉa chảy. 2.4.4. Nguyên nhân do virus Ngoài hai vi khuẩn E.coli và Salmonella thường xuyên có trong đường ruột và được coi là những tác nhân gây bệnh quan trọng trong chứng viêm ruột ỉa chảy, còn có nhiều tư liệu nói về vai trò của virus. Sự xuất hiện của virus đã làm tổn thương niêm mạc ruột, làm suy giảm sức đề kháng của cơ thể và thường gây ỉa chảy ở dạng cấp tính với tỷ lệ chết cao. Theo Clarence M.Fraser và các cộng sự, 1991, Rotal virus là loại virus chủ yếu gây bệnh viêm ruột ỉa chảy ở ngựa con. Nó có khả năng lây lan rất nhanh, chúng có thể lây cho cả đàn ngựa con trong 3 - 5 ngày. Thường xảy ra với ngựa con dưới 2 tháng tuổi và có thể nhiễm với ngựa trưởng thành. Hiện tượng ỉa chảy xuất hiện sau 4 - 7 ngày hoặc sau vài tuần. Có thể chẩn đoán bằng cách quan sát dưới kính hiển vi điện tử hoặc làm phản ứng ELISA (phản ứng ELISA cho kết quả chính xác và nhanh nhất). Khoo Teng Huat (1995)[5] đã thống kê được ở lợn có 11 loại virus có tác động làm tổn thương đường tiêu hoá và gây viêm ruột ỉa chảy (Adenovirus type IV, Enterovirus, Coronavirus, virus gây bệnh dịch tả lợn và dịch tả trâu bò, Rotavirus,). Morgan J.(1990) cho rằng: Trên trâu, bò các tác nhân virus gây ra hội chứng ỉa chảy cũng chiếm tỷ lệ cao và với một tình trạng bệnh lý trầm trọng. 2.4.5. Nguyên nhân do vi khuẩn Ngày càng có nhiều tư liệu chứng tỏ rằng hệ vi khuẩn trong đường ruột, khi rối loạn tiêu hoá - môi trường thay đổi, sinh sôi, sản sinh độc tố tác động và niêm mạc ruột làm viêm ruột nặng thêm, bệnh càng trầm trọng. Trước hết là Escherichia coli một vi khuẩn xuất hiện rất sớm ở đường ruột người và động vật sơ sinh khoảng 2 giờ sau khi đẻ. E.coli thường ở ruột già, ít khi ở dạ dày và ruột non. Trong đường ruột động vật, E.coli chiếm khoảng 80% quần thể các vi khuẩn hiếu khí; đồng thời là một tác nhân gây bệnh không thể phủ nhận. Trong hệ vi khuẩn hiếu khí của đường ruột, Salmonella chiếm tỷ lệ khá cao và vai trò của nó đã được nhiều tác giả nói đến. Phan Thị Thanh Phượng (1988)[8], thông báo kết quả đã phân lập là Salmonella thường xuyên có trong đường ruột lợn và đều cho rằng: trong những điều kiện chăn nuôi, quản lý làm cho sức để kháng của cơ thể giảm, chính vi khuẩn Salmonella trở thành độc và phát triển mạnh mẽ gây viêm ruột ỉa chảy. Đa số các trường hợp ỉa chảy do kế phát E.coli và Samonella đều dẫn tới nhiễm trùng huyết. 2.4.6. Nguyên nhân do nấm (Candida spp) Nấm Candida thuộc họ Cryptococcaceae, là nấm men, hình cầu hoặc hình oval, thỉnh thoảng dạng hình ống, kích thước 3,5-6 x 6-10µm, sinh sản bằng mọc chồi. Candida có khoảng 300 loài, thường hội sinh ở một số cơ quan tiêu hóa, hô hấp và trên da, một số có thể gặp trong môi trường tự nhiên. Bệnh ở dạ dày - ruột (gastrointestinal candidiasis): có thể có nhiều ổ loét ở dạ dày, tá tràng, ruột, thủng ruột có thể dẫn tới viêm phúc mạc, có thể lan theo đường máu tới gan, các cơ quan khác. Sự phát triển và xâm nhập của nấm ở dạ dày hoặc niêm mạc ruột thường dẫn tới thải rất nhiều nấm ở phân, có thể phát hiện được ở phân.    Viêm đại tràng do nấm: biểu hiện lâm sàng nghèo nàn, có thể thấy mệt mỏi, đau bụng; rối loạn tiêu hóa, đi ngoài lúc lỏng lúc táo kéo dài; đầy bụng, sôi bụng; có thể có sốt.       Viêm phúc mạc (peritonitis): nấm xâm nhập theo catheter dùng trong thẩm phân phúc mạc hoặc thủng dạ dày - ruột do loét, viêm đại tràng, phẫu thuật hoặc u trong ổ bụng. Để chẩn đoán nấm ở hệ thống tiêu hóa, người ta có thể nội soi lấy chất nhày để nuôi cấy, sinh thiết và làm xét nghiệm mô bệnh học hoặc lấy phân để soi tươi, nuôi cấy, phân lập và định danh các chủng nấm bằng các phương pháp hiện đại. 2.4.7. Do nguyên sinh động vật (Cầu trùng- Eimeria spp) Bệnh gây ra bởi loài ký sinh trùng đơn bào (Eimeria). Chúng sống ký sinh trong tế bào thành ruột. Các noãn nang cầu trùng nhỏ chứa ấu trùng được thải theo phân ra ngoài. Sau 24 tiếng các noãn nang đó nở thành ấu trùng gây bệnh và có thể lan truyền sang con khác qua đường thức ăn, nước uống. Số lượng ấu trùng xâm nhập vào cơ thể sẽ quyết định mức độ của bệnh. Nếu kèm theo các tác nhân kích thích thì bệnh sẽ nặng hơn. Bệnh cũng tạo điều kiện thuận lợi cho các bệnh khác kế phát như viêm ruột v.v 2.4.8. Các tác nhân vật lý Cát, đất, cỏ ủ, thức ăn chứa axit lactic. 2.4.9. Thiếu dinh dưỡng Thiếu đồng trong trường hợp thừa Mo, thiếu Vitamin, thiếu sắt. 2.4.10. Do ăn uống Ăn quá nhiều, không tiêu hóa. 2.4.11. Các tác nhân hóa học As, Fe, Cu, NaCl, Hg, Nitrat, thuốc trừ sâu, 2.5. Các rối loạn bệnh lý của viêm ruột tiêu chảy Khi tác động vào cơ thể, từng nguyên nhân gây bệnh có quá trình sinh bệnh và gây ra hậu quả cụ thể. Tuy nhiên, khi hiện tượng ỉa chảy xảy ra cơ thể chịu một quá trình sinh bệnh và hậu quả có những nét đặc trưng chung, đó là sự mất nước, mất các chất điện giải, rối loạn cân bằng axít - bazơ (Becht J.L, 1986, Lê Minh Chí, 1995, tuỳ theo viêm ruột cấp hay mãn mà hậu quả có khác nhau. Cơ thể mất nước khi ỉa chảy Nước là thành phần cơ bản của cơ thể. Nó cần cho các phản ứng sinh hoá, quá trình trao đổi chất, hoạt động của các chất điện giải trong cơ thể (Vũ Triệu An, 1978)[1] . Nước cung cấp cho cơ thể qua thức ăn, nước uống và được thải ra theo phân, nước tiểu, hơi thở, mồ hôi. Quá trình hấp thu và mất nước trong cơ thể khoẻ mạnh thường ổn định (Rose R.J, 1981). Khi bị viêm ruột, cơ thể không những không hấp thu được nước do thức ăn đưa vào, mà còn mất nước do tiết dịch. Mặt khác do ruột bị viêm, tính mẫn cảm tăng, nhu động ruột tăng lên nhiều lần. Hơn nữa do tổ chức bị tổn thương niêm mạc tăng tiết cùng với dịch dỉ viêm, dịch tiết có thể tăng đến 80 lần so với bình thường. Gia súc ỉa chảy kéo theo lượng nước và chất điện giải bài xuất ra ngoài, cơ thể mất nước và chất điện giải với hàng loạt các sự biến đổi khác nhau (Vũ Triệu An, 1978)[1]. Vì lẽ đó, trong điều trị viêm ruột ỉa chảy, việc xác định mức độ mất nước và các biện pháp phòng chống mất nước luôn được chú ý hàng đầu. Tình trạng mất nước và chất điện giải * Mất nước ưu trương Nước mất nhiều hơn chất điện giải, ở khu vực ngoại bào thể tích nước bị giảm, đậm độ muối tăng (tức hằng số điện giải tăng lên) nên áp lực thẩm thấu tăng. Để lập lại cân bằng áp lực thẩm thấu giữa hai khu vực thì nước đi từ nội bào ra khu vực ngoại bào. Kết quả là cả hai khu vực nội và ngoại bào đều mất nước, đó là mất nước toàn bộ. Cùng với sự mất nước người ta thấy có sự di chuyển các chất điện giải như sau: K+ từ nội bào ra khu vực ngoại bào Na+ và H+ lại từ khu vực ngoại bào vào trong nội bào * Mất nước đẳng trương Nước và chất điện giải mất với một lượng tương đương. Trong trường hợp này, thể tích nước trong khu vực ngoại bào bị giảm nhưng đậm độ điện giải không thay đổi nên áp lực thẩm thấu không thay đổi. Trong nội bào vẫn giữ được trạng thái thăng bằng điện giải H+ nên không bị ảnh hưởng. * Mất nước nhược trương Các chất điện giải bị mất nhiều hơn nước. Trong trường hợp này thể tích nước ở khu vực ngoại bào bị giảm, nhưng vì mất nhiều muối nên đậm độ cũng giảm. Nước từ khu vực ngoại bào là nơi có áp lực thẩm thấu thấp đi vào nội bào là nơi có áp lực thẩm thấu cao. Cả ba loại mất nước đều gây nên những hậu quả bất lợi cho cơ thể như trúng độc toan, kém đàn tính của da, rối loạn cân bằng các chất điện giải Những hội chứng xảy ra khi mất nước và chất điện giải. Như đã nêu trên, ở cơ thể khoẻ mạnh, nước chiếm khoảng 50 - 70% khối lượng cơ thể, được phân bố ở hai khu vực chính là trong tế bào và ngoài tế bào. Do đó, trong điều trị mất nước và chất điện giải do viêm ruột ỉa chảy chúng ta cần phải xác định được sự tăng giảm số lượng chất dịch trong mỗi khu vực đó. Thực tế, ta thường gặp hai trường hợp của sự mất cân bằng nước và chất điện giải: ♦ Sự mất nước ngoại bào Trong quá trình này, nổi bật nhất là mất muối và nước. Mất chất điện giải ngoại bào gây giảm thể tích khu vực này. - Dấu hiệu lâm sàng: + Tình trạng toàn thân sút kém, mệt mỏi. + Da nhăn, đàn tính của da kém. + Mạch yếu, hơi nhanh, hạ huyết áp. - Dấu hiệu phi lâm sàng: + Giảm thể tích huyết tương là đặc diểm chính của mất nước ngoại bào. + Hàm lượng Clo và Natri của huyết tương thường giảm. + Thường có dấu hiệu máu cô đặc, những dấu hiệu này có một giá trị rất lớn khi chúng biểu hiện: tăng thể tích hồng cầu, tăng hàm lượng Protein huyết tương. ♦ Sự mất nước tế bào Những rối loạn nước và chất điện giải của khu vực tế bào không được biết rõ ràng bằng rối loạn nội mô. Tuy vậy hiện nay người ta thiết lập được một số sự kiện chính xác. Sự mất nước tế bào đặc tính là giảm số lượng nước khu trú ở một khu vực. Trong trường hợp này mất nước là sự kiện chủ yếu. - Dấu hiệu lâm sàng: + Dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất là khát nước. + Thể trọng thường giảm nhiều. + Da không bị nhăn, không có dấu hiệu mất tính đàn hồi của da. + Mạch và huyết áp không thay đổi. - Dấu hiệu phi lâm sàng: Hàm lượng của các chất điện giải chính thường tăng. Tuy vậy phải nhận thấy rằng hàm lượng Clo huyết thanh có thể giảm thấp, còn hàm lượng Natri tăng cao. Rối loạn cân bằng điện giải Trong cơ thể, thăng bằng nước và điện giải hằng định một cách lạ lùng, mặc dù có sự thay đổi lớn do nhập vào thải ra nhiều yếu tố khác nhau. Sự cân bằng điện giải là do các ion Kali, Natri, Clo và axít Carbonic đảm nhiệm chính; trong đó ion Natri và Kali có vai trò quan trọng. Kali và Natri trong thức ăn được hấp thu vào cơ thể chủ yếu ở phần ruột non (80 - 90%), phần còn lại ở dạ dày, ruột già. Qua thành ruột, Kali theo dòng máu đến tận các dịch gian bào, sự trao đổi Kali giữa dịch gian bào và nội bào thực hiện qua màng tế bào. Dòng chuyển Kali và Natri là ngược chiều nhau cả về thời gian và số lượng ion. Kali và Natri được bài tiết ra ngoài theo phân, nước tiểu, mồ hôi . Cân bằng Natri Natri là ion chủ yếu của khu vực ngoài tế bào và liên quan chặt chẽ với các ion Cl- , HCO3 - trong cân bằng axít - bazơ. Nó có vai trò quan trọng trong việc duy trì áp lực thẩm thấu, liên quan đến trao đổi nước trong cơ thể. Thận có vai trò lớn trong việc điều tiết Na+ để duy trì dộ dự trữ kiềm trong cơ thể. Các rối loạn lâm sàng Thiếu hoặc thừa Natri thường xảy ra trong lâm sàng, các rối loạn chuyển hoá Natri và nước. Trong thực tế thừa Natri sẽ dẫn đến phù, thiếu Natri kèm theo mất nước. Tình trạng đó thường do ỉa chảy nặng trong các ca viêm ruột, khẩu phần thức ăn có lượng Natri thấp. Natri huyết giảm, dòng dịch thể vận chuyển mạnh đến kẽ tổ chức vào trong nội bào, máu cô đặc lại, huyết áp hạ và hậu quả là truỵ tim mạch, suy thận (Vũ Triệu An, 1978)[1]. Cân bằng Kali Trong cơ thể Kali chiếm khoảng 98%, Kali nằm trong nội bào, ở dạng kết hợp với Albumin hoặc với các Phospholipit. Ở dịch ngoại tế bào Kali, Natri ở dạng ion. Nhờ đó mà có thể thẩm thấu qua lại giữa trong và ngoài tế bào. Khi cơ thể mất Ka

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docde_tai_nghien_cuu_mot_so_dac_diem_benh_ly_cua_dich_tieu_chay.doc
Tài liệu liên quan