Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của đề tàI
Sông không nguồn thì sông cạn, cây không có rễ thì cây sẽ héo,con ngươì không có thức ăn, nước uống thì không thể sống và tồn tại … Suy rộng ra trong đó kinh tế cũng vậy, mỗi ngành kinh tế đều phải có một yếu tố đặc trưng để tồn tại và phát triển. Bên cạnh các yếu tố về kiến thức, khoa học kỹ thuật, thì với các doanh nghiệp vốn là yếu tố quan trọng, cần thiết đầu tiên và bắt buộc phải có ở bắt kỳ một doanh nghiệp nào ngay từ khi bắt đầu tiến hành quá tr
32 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1373 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Giải pháp huy động vốn cho các Doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình sản xuất kinh doanh.Số lượng vốn ở mỗi doanh nghiệp vừa là chỉ tiêu đánh giá quy mô của doanh nghiệp, vừa thể hiện khả năng chiếm lĩnh thị trường và sức mạnh của doanh nghiêp. Trong quá trình hoạt động của mình, việc tăng lên không ngừng của vốn là một dấu hiệu tốt đẹp về mức độ phát triển sản xuất, về hiệu quả kinh doanh và cũng là một trong những mục tiêu lớn của tất cả các doanh nghiệp.
ở Việt Nam, từ cuối những năm 1980, đầu 1990, nhà nước đã thực hiện chính sách chuyển đổi và phát triển kinh tế từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong đó các thành phần kinh tế khác nhau, các loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ được bình đẳng, cùng tồn tại và phát triển trong điều kiện của thị trường. Từ đó cũng có sự chuyển đổi lớn về hình thức huy động vốn từ chỗ được nhà nước bao cấp là chủ yếu đến chỗ các doanh nghiệp đều phải tự thân vận động, tự quyết định số phận của mình. Nhất là trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, vấn đề tranh thủ các nguồn vốn huy động càng diễn ra quyết liệt giữa các doanh nghiệp. Hiện nay với cơ chế thông thoáng khuyến khích rất nhiều doanh nghiệp mới thành lập. Khởi nghiệp _ một chương trình mới xuất hiện cũng là một nguồn tìm kiếm vốn cho các doanh nghiệp trẻ khi mới bắt tay vào sản xuất kinh doanh. Hơn thế nữa, đối với các doanh nghiệp, không chỉ tồn mãi với số lượng vốn ban đầu khi hình thành mà trong quá trình sản xuất kinh doanh thường xuyên đòi hỏi phải được bổ sung không ngừng để đáp ứng nhu cầu về tái sản xuất mở rộng, về thanh toán, về dự trữ phát sinh ở mọi thời điểm
Vậy làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất tối ưu luôn luôn là một bài toán đặt ra cho bất kỳ một doanh nghiệp nào. Chính vì vậy mà đề tài: “ Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam “ luôn là một đề tài cấp thiết.
2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nhằm nghiên cứu vai trò của các doanh nghiệp, phân tích thực trạng về tình hình huy động vốn và sử dụng vốn của các doanh nghiệp trong thời gian qua tại Việt Nam đồng thời đánh giá các mặt tồn tại để từ đó đưa ra các giải pháp tạo vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu lý luận và thực tiễn vấn đề huy động vốn của các doanh nghiệp qua các phương pháp huy động gián tiếp: vay ngân hàng, thuê tài chính… Cho đến phương pháp huy động trực tiếp: phát hành cổ phiếu.
Phạm vi: chỉ được nghiên cứu các hoạt động của thị trường có liên quan trực tiếp đến vấn đề tạo vốn cho các doanh nghiệp nói chung. Trong đó chú trọng phương thức huy động vốn qua thị trường chứng khoán.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề án sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh,….xem xét giải quyết các vấn đề một cách hệ thống, khách quan.
5. Nội dung nghiên cứu.
Đề án được chia làm 2 phần lớn:
Phần I: Lý luận chung về vốn.
Phần II: Giải pháp huy động vốn cho các doanh nghiệp Việt Nam
phần I: Lý luận chung về vốn
I. Vốn, phân loại và vai trò của vốn.
1. Khái niệm: Vốn là gì ?
Trong lịch sử kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhiều cách hiểu khác nhau do đó cũng có nhiều quan niệm khác nhau về vốn:
Trong bộ “ Tư bản ” Các Mác đã khái quát phạm trù vốn qua phạm trù Tư bản. trong quá trình nghiên cứu sự chuyển hoá của tiền tệ thành thành Tư bản CacMac đã kết luận “ Như vậy là giá trị ứng ra lúc ban đầu không những được bảo toàn trong lưu thông mà còn thay đổi đại lượng của chúng, còn cộng thêm một giá trị thặng dư, hay đã tự tăng thêm giá trị. Chính sự vận động ấy đã biến giá trị đó thành Tư Bản ”
“ Vốn ” Tư bản là “ những tài sản có khả năng tạo ra tài nguyên và bản thân nó cũng được tái tạo ra ” là quan điểm của các tác giả trong cuốn “ Từ điển kinh tế thị trường” (KTTT)
Còn cuốn: “ Chú giải thuật ngữ kế toán Mỹ ” do các tác giả Hồ Văn Kim Mộc và Điêu Quốc Tín biên soạn cho rằng: Vốn là: “ Tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra tài nguyên và lợi tức ”
ở Việt Nam “ từ điển tiếng việt ” của viện ngôn ngữ viết: Vốn là “ Tổng thể nói chung những tài sản bỏ ra lúc ban đầu thường biểu hiện bằng tiền dùng trong sản xuất kinh doanh, nói chung trong hoạt động sinh lợi ”
Nhìnchung:
- Vốn là hình thái giá trị được biểu hiện bằng tiền.
- Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không phải tất cả tiền đều là vốn. Tiền chỉ được hình thành thành vốn khi nó được sử dụng và mục đích đầu tư hoặc kinh doanh.Tiền tiêu dùng hàng ngày, tiền dữ trữ không phải là vốn.
Trong nền KTTT, vốn cũng là một hàng hoá, nó trở thành hàng hoá với điều kiện: Vốn được sản xuất ra cho vay trong một thời gian nhất định và sẽ quay trở về tay người chủ sở hữu khi đến thời gian đáo hạn và khi quay về vốn sẽ đem theo một lượng giá trị lớn hơn, phần lớn hơn này được gọi là lợi tức.
Vốn được thể hiện bằng tiềm năng và lợi thế vô hình. Tiềm năng và lợi thế vô hình của một xí nghiệp, một quốc gia rất đa dạng như: Vị trí địa lý, bản quyền sáng chế, uy tín trên thị trường, tri thức của người lao động, lợi thế trong cạnh tranh …..
Tóm lại vốn là toàn bộ giá trị tài sản của doanh nghiệp ứng ra để tiến hành sản xuất kinh doanh. Giá trị của nó được coi là vốn.
2. Phân loại:
* Theo hình thức tồn tại:
Tiền mặt, tiền gửi ở ngân hàng, tài sản tài chính khác (chứng khoán: cổ phiếu, trái phiếu) đó là chỉ tiêu về mặt giá trị.
Về mặt hiện vật bao gồm: máy móc, thiết bị, hàng hoá, vật tư …
Vốn dưới dạng tài sản vô hình (vốn vô hình): bằng phát minh sáng chế, khả năng cải tiến kỹ thuật, lợi thế trong thương mại, đảm bảo uy tín trên thị trường, lợi thế trong sản xuất, cạnh tranh ….
* Theo đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển.
Vốn lưu động: tham gia vào toàn bộ chu kì sản xuất toàn bộ giá trị nằm trong sản phẩm. Kết thúc chu kì sản xuất bán sản phẩm mới thu hồi được vốn
Vốn cố định : máy móc thiết bị, nhà xưởng, dây chuyền sản xuất bị hao mòn. Từng phần giá trị vốn cố định được chuyển vào giá trị sản phẩm mà vẫn giữ nguyên trạng thái ban đầu.
3. Vai trò của vốn.
* Trong nền kinh tế hàng hoá, để tiến hành sản xuất kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định để hình thành nên những tài sản cần thiết cho doanh nghiệp như những tư liệu lao động, đối tượng lao động và trả lương cho người lao động để làm ra sản phẩm cung ứng cho xã hội và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Có thể biểu diễn mối quan hệ các luồng đầu vào và sản lượng được làm ra bằng hàm số sau : Y = f (K, L, R, T….)
Y: Sản lượng đầu ra (GDP hay GNP)
K: Vốn
L: Lao động
R: Tài nguyên
T: Tiến bộ kĩ thuật và công nghệ.
Trong nền KTTT các biến số trực tiếp tạo ra giá trị sản lượng (đầu ra) chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung cầu. Một số đầu vào thì ảnh hưởng tới mức cung, một số thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân bằng cung cầu _ do giá cả thị trường điều tiết sẽ tác động trở lại các luồng đầu vào dẫn tới kết quả sản lượng nền kinh tế. Xuất phát từ thực tiễn các nước chậm phát triển và đang phát triển cung chưa đáp ứng được cầu. Sự gia tăng sản lượng phải bắt nguồn từ việc gia tăng các yếu tố đầu vào sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai, nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ. Hàm số nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được t uỳ thuộc vào lượng các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ nhất định
Trong các yếu tố tác động đến kết quả sản xuất có bao nhiêu luồng đầu vào và vốn đóng vai trò như thế nào trong sự gia tăng sản lượng ?
Sự gia tăng sản lượng phụ thuộc vào sự gia tăng các yếu tố đầu vào theo quan hệ giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai, nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ. Nếu nhìn theo cách mở rộng hơn, nguồn vốn để tăng trưởng sản lượng trong một nước gồm nhiều loại vốn: vật tư kĩ thuật, tiền tệ, lao động, tri thức khoa học trong đó tiền tệ là nguồn vốn bao trùm nhất do những lý do sau:
Thứ nhất: Vốn sản xuất biểu hiện dưới hình thái tiền tệ cùng với các yếu tố sản xuất khác để tạo ra sản phẩm hàng hoá (đầu ra) trong điều kiện năng suất lao động không đổi thì tăng số vốn sẽ làm tăng sản lượng.
Thứ hai: lao động là một yếu tố sản xuất, yếu tố đầu vào trong sản xuất cũng giống như các yếu tố khác được tính bằng tiền trên cơ sở giá cả sức sức lao động được hình thành do thị trường quy định. Lao động không đơn thuần chỉ là số lượng (đầu vào hay thời gian lao động) mà còn bao gồm cả chất lượng sản phẩm của lao động _ gọi là vốn nhân lực. Đó là lao động với trình độ, tri thức học vấn và những kĩ năng, kinh nghiệm lao động sản xuất …. Do vậy những chi phí để nâng cao trình độ người lao động, kỹ năng, kĩ xảo là nguồn vốn tiền tệ đầu tư cho nhân lực và coi là đầu tư dài hạn cho đầu vào.
Thứ ba: đất đai, các nguồn tài nguyên khác cũng là những yếu tố đầu vào trong sản xuất. Nhưng do diện tích đất đai là hữu hạn, nó không phải là tài nguyên vô hạn nên làm thế nào để nâng cao hiệu quả sử dụng trên diện tích đất cố định là một vấn đề. Chúng ta cần phải luôn tìm cách đầu tư thêm để làm tăng thu nhập.Chính điều này đã làm cho vai trò của vốn càng được khảng định vì nhờ đó mà các tài nguyên và đất đai được khai thác một cách hiệu quả nhanh chóng.
Thứ tư: máy móc công nghệ, khoa học kĩ thuật mới cũng là yếu tố cần thiết để gia tăng sản xuất, nâng cao năng suất lao động một cách nhanh chóng.Tuy nhiên cũng cần phải có vốn, không có vốn thì không thể mua được máy móc công nghệ đó.
Hệ thống các yếu tố tác động đến sản lượng từng doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế là những tham số có quan hệ phụ thuộc lẫn nhau,thúc đẩy lẫn nhau đưa đến sự tăng trưởng kinh tế.Trong đó vốn là điều kiện đầu tiên, tiên quyết để mua công nghệ,thuê lao động.Phải có vốn để đầu tư cho phương tiện lao động để nâng cao năng suất lao động.Khi có được năng suất lao động sẽ tạo ra được nhiều sản phẩmvà đó chính là sự tăng trưởng kinh tế. Theo Mác “Sự tăng lên của sức sản xuất hay năng suất lao động, chúng ta hiểu, nói chung là sự biến đổi trong cách thức lao động,một sự biến đổi trong cách thức lao động, một sự biên đổi làm rút ngắn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá sao cho một số lượng lao động ít hơn mà lại có được một sức sản xuất nhiều giá trị sử dụng hơn.
* Vốn là điều kiện để cho doanh nghiệp có thể tồn tại và phát triển.Để đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục,doanh nghiệp phải thường xuyên thực hiện việc luân chuyển vốn của mình.
Sơ đồ quá trình luân chuyển vốn của doanh nghiệp:
H-Tư liệu sản xuất
T - - - Sản xuất - - - H’ T’
H-Sức lao động
Quá trình nàybắt đầu từ một lượng vốn dưới hình thái tiền tệ được doanh nghiệp ứng ra sau đó lần lượt thay đổi hình thái,tương ứng với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp;từ hình thái tiền tệ chuyển sang hình thái hàng hoá là tư liệu sản xuất của sức lao động - hình thái sản phẩm dở dang - hình thái sản phẩm - hình thái tiền tệ,sau khi doanh nghiệp thực hiện xongviệc tiệu thụ sản phẩm trong dịch vụ của mình trên thị trường Như thế vốn của doanh nghiệp đã được thực hiện một vòng tuần hoàn và tiếp tục quá trình luân chuyển.
Lượng tiền thu được T’ phải > T ban đầu nghĩa là:t’=T+t,điều nàycó thể hiểu là trong sản xuất kinh doanh tiền đã đẻ ra tiền hay nói cách khác vốn bỏ ra để sản xuất kinh doanh phải bù đắp được vốn ban đầu đã bỏ ra và sinh ra lợi nhuận, đây là điều kiện cần thiết để việc sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.Đó cũng là mục tiêu mà tất cả các doanh nghiệp đặt ra khi bắt đầu tiến hành sản suất kinh doanh.Nếu không làm được điều này doanh nghiệp sẽ đi vào con đường thua lỗ, sẽ bị phá sản,sẽ tự xoá tên mình ra khỏi thị trường cạnh tranh.
Trước đây trong nền kinh tế bao cấp, các doanh nghiệp chỉ quan tâm chủ yếu đến việc hình thành vượt mức kế hoạch. Sự bao cấp tràn lan về vốn, sự can thiệp hành chính quá mức của các cơ quan chủ quản cấp trên vào quá trình sản xuất kinh doanh đã làm cho các doanh nghiệpkhông có điều kiện phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của dơn vị mình dẫn đến việc sử dụng vốn kém hiệu quả.
Trong điều kiện hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh cuả các thành phần kinh tế, vốn kinh doanh có tính chất quyết định đến sự thành công hay thất bại của các doanh nghiệp trên thị trường.
Vốn có thể giúp các doanh nghiệp chuyển bại thành thắng bằng việc quản lý và sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả.Một doanh nghiệp ít vốn nhưng nếu biết sử dụng một cách một cách khoa học, quay vòng hợp lý cũng sẽ đem lại lợi nhuận cao.
Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, khi doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết quả kinh doanh của mình, thì đồng vốn có vai trò quan trọng quyết định sự tồn tại và chiếm lĩnh ưu thế trong cạnh tranh.Do đó phải đòi hỏi phải có một nguồn vốn ổn định và đủ mạnh để không bị áp đảo hoặc thâu tóm bởi các thế lực cạnh tranh trên thị trường.
* Vốn còn có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình hội nhập quốc tế hoá.Xu thế của thời đại ngày nay, các quốc gia đều không thể đóng cửa hoạt động kinh doanh trong nội bộ, như thế là tự thu hẹp mình, tự đẩy mình vào ngõ cụt và tự làm tụt hậu mình. Mà hiện nay tất cả các quốc gia đều phải mở cửa giao lưu với các nước khác trong khu vực và cả thế giới nếu muốn học hỏi, tiếp thu những cái mới, những cái hiện đại đang thay đổi từng giờ từng phút. Muốn tham gia vào thị trường chung của khu vực và thế giới, muốn nhanh chóng hội nhập với nền kinh tế toàn cầu không có cách nào khác là chúng ta phải có vốn. Vốn là điều kiện cần thiết, không thể thiếu giúp chúng ta hoà nhập, hợp tác với kinh tế bên ngoài.
II. Nguồn hình thành vốn cho doanh nghiệp.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được để thành lập một doanh nghiệp và tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong mọi loại hình doanh nghiệp, vốn phản ánh nguồn lực tài chính được đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Trong quản lý tài chính các doanh nghiệp cần chú ý quản lý việc huy động và sử dụng luân chuyển của vốn, sự ảnh hưởng qua lại của các hình thái khác nhau của tài sản và hiệu quả tài chính. Nói cách khác, vốn cần được xem xét trong trạng thái vận động và mục tiêu hiệu quả của vốn có ý nghĩa quan trọng nhất
Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm cụ thể khác nhau mà mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức tạo vốn khác nhau. Đặc trưng các hình thức tạo vốn của các doanh nghiệp là một trong những nguồn gốc quyết định tới thế mạnh của từng loại hình doanh nghiệp trong điều kiện KTTT. Nhưng nhìn chung nguồn hình thành vốn cho doanh nghiệp từ ba nguồn sau: Vốn chủ sở hữu, vốn tín dụng, vốn các doanh nghiệp chiếm dụng lẫn nhau.
1. Vốn chủ sở hữu.
Để bắt đầu hoạt động khi thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải đầu tư một số vốn nhất định đó là vốn chủ sở hữu. Loại vốn này đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp, góp phần hình thành tài sản ban đầu của doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp nhà nước (thuộc sở hữu nhà nước) nguồn vốn tự có ban đầu chính là vốn đầu tư của ngân sách nhà nước.
Trong công ty tư nhân chủ doanh nghiệp phải có đủ số vốn pháp định cần thiết để xin đăng kí thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để thành lập doanh nghiệp.
Đối với công ty cổ phần, nguồn vốn do các cổ đông đóng góp là một yếu tố quyết định để hình thành công ty. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá số cổ phần mà họ nắm giữ. Tuy nhiên các công ty cổ phần cũng có một số hình thức khác nhau, do đó cách thức huy động vốn cổ phần cũng khác nhau.
Trong thực tế, vốn tự có của chủ doanh nghiệp thường lớn hơn nhiều so với vốn pháp định nhất là sau một thời gian hoạt động và mở rộng kinh doanh. Bao gồm cổ phần phát hành thêm hoặc ngân sách cấp thêm trong quá trình hoạt động, lợi nhuận tích luỹ, thặng dư vốn các quỹ ….
Cổ phần phát hàng thêm, ngân sách cấp thêm: doanh nghiệp có thể phát hành thêm cổ phần (thông thường hoặc ưu đãi), hoặc xin cấp thêm vốn ngân sách để mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp, chống đỡ rủi ro.
Lợi nhuận bổ sung vốn chủ sở hữu: Đối với các công ty cổ phần, lợi nhuận sau thuế sau khi bù đắp các khoản chi phí đặc biệt, thường được chia làm hai phần: một phần chia cho các cổ đông theo giá trị các cổ phần và phần kia để lại không chia phần không chia được tính vào vốn chủ sở hữu bổ sung dưới tên gọi “ lợi nhuận tích luỹ lại ” hay quỹ tích luỹ phần này về bản chất là thuộc sở hữu của các cổ đông, song được để lại tại doanh nghiệp nhằm mở rộng quy mô vốn chủ sở hữu
Một doanh nghiệp dù mạnh đến đâu cũng không thể tự mình trang trải được toàn bộ số vốn cho mình mà cũng phải đi vay mượn từ người khác. Do vậy mà vốn tín dụng là một nguồn vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp
2. Vốn tín dụng.
Vốn tín dụng là vốn của người khác, doanh nghiệp vay về sử dụng trong một khoảng thời gian như: tín dụng của các doanh nghiệp nước ngoài, tín dụng ngân hàng, tín dụng cảu cán bộ công nhân viên.
Có thể nói rằng nguồn vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân sự hoạt động và phát triển của các công ty, các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn tín dụng.
Có thể nói rằng: không một công ty nào có thể hoạt động mà không vay vốn ngân hàng hoặc tín dụng thương mại nếu công ty đó muốn tồn tại vững chắc trên thị trường. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng để đảm bảo nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.
Về mặt thời hạn, vốn vay ngân hàng có thể được phân loại theo thời hạn vay bao gồm: vay dài hạn (thường tính 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1 5 năm), vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Tiêu chuẩn và quan niệm về thời gian để phân loại trong thực tế không hoàn toàn giống nhau giữa các doanh nghiệp và có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại
Tuỳ theo tính chất và mục đích sử dụng, ngân hàng cũng có thể phân loại vay thành các loại như: vay đầu tư tài sản cố định, vay vốn lưu động, vay để phục vụ dự án. Cũng có nhiều cách phân chia khác nhau như: theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức đảm bảo của khoản vay.
Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại hay còn gọi là tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn hình thành một cách tự nhiên trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hat trả góp. Nguồn vốn tín dụng thương mại có ảnh hưởng hết sức to lớn không chỉ với các doanh nghiệp và cả đối vối toàn bộ nền kinh tế. Trong một số công ty, nguồn vốn tín dụng thương mại dưới dạng các khoản phải trả có thể chiếm tới 20% tổng nguồn vốn, thậm chí có thể chiếm tới 40% tổng nguồn vốn.
Nguồn vốn tín dụng thương mại là một phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt trong kinh doanh; mặt khác nó còn khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Các điều kiện ràng buộc cụ thể có thể được ấn định khi hai bên ký hợp đồng mua bán hay hợp đồng kinh tế nói chung. Tuy nhiên cần nhận thấy tính chất rủi ro của quan hệ tín dụng thương mại khi quy mô tài trợ vượt quá giới hạn an toàn.
Chi phí của việc sử dụng các nguồn vốn tín dụng thể hiện qua lãi suất của các khoản vay, đó là chi phí lãi vay. sẽ được tính tính vào giá thành sản phẩm hay dịch vụ. Khi mua bán hàng hoá trả chậm chi phí này có thể “ ẩn ” dưới hình thức thay đổi mức giá, tuỳ thuộc quan hệ và thoả thuận cụ thể giữa các bên. Trong xu hướng hiện nay ở Việt Nam cũng như trên thế giới các hình thức tín dụng ngày càng đa dạng hoá và linh hoạt hơn, với tính chất cạnh tranh hơn; do đó các doanh nghiệp cũng có nhiều cơ hội để lựa chọn nguồn vốn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp.
3. Vốn các doanh nghiệp chiếm dụng lẫn nhau.
Bên cạnh các nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay ngân hàng, các doanh nghiệp cũng thường xuyên tranh thủ vốn của nhau. Thông qua các hợp đồng kinh tế được kí kết giữa các doanh nghiệp vốn từ doanh nghiệp này được chuyển thành vốn của doanh nghiệp khác trong thời gian nhất định. Các doanh nghiệp kí kết hợp đồng mua bán nguyên vật liệu, sản phẩm … với nhau. Doanh nghiệp mua sẽ phải chuyển tiền cho doanh nghiệp bán. Cứ như vậy vốn được luân chuyển qua lại giữa các doanh nghiệp.
Trên đây đã khái quát được cơ bản phần nào những lý luận và vai trò vốn với các doanh nghiệp. Như vậy vốn là tiền đề cho mọi quá trình sản xuất trong xã hội. Đó là giá trị mà doanh nghiệp phải ứng ra cho hoạt động kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả kinh tế xã hội mong muốn. Tìm kiếm các nguồn vốn đểđáp ứng nhu cầu đó là một trong những mục tiêu hàng đầu của các doanh nghiệp trong thời gian hiện nay.
Phần II. GiảI pháp huy động vốn cho Doanh nghiệp việt nam
I. Thực trạng chính sách huy động vốn cho doanh nghiệp Việt Nam.
1. Chính sách huy động vốn của doanh nghiệp nhà nước.
Giai đoạn trước 1986: đây là thời kì bao cấp còn nặng nề. Nhà nước đã đầu tư cho doanh nghiệp nhà nước 100% cơ sở vật chât kỹ thuật. Vốn của doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ này dựa vào hai nguồn chính: ngân sách nhà nước cấp phát và vay vốn ngân hàng với lãi suất thấp.
Đến giai đoạn 1986 – 1990: Giai đoạn này,nhà nước đã xoá dần bao cấp đối với các doanh nghiệp nhà nước, đối với các cở sở, ngành sản xuất có hiệu quả, thời gian thu hồi vốn nhanh thì chuyển dần sang cơ chế đầu tư qua tín dụng nhà nước.
Giai đoạn từ 1991 đến nay: Nhà nước thực hiện không đầu tư cho các doanh nghiệp kể cả một số những doanh nghiệp trong ngành then chốt. Đối với những doanh nghiệp quan trọng được ưu đãi thì hằng năm được nhà nước giao chỉ tiêu kế hoạch vay vốn tín dụng đầu tư của nhà nước với lãi suất thấp. Bây giờ nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp đóng vai trò như một chủ đầu tư.
Nhờ đổi mới chính sách, thời gian qua doanh nghiệp đạt được một số thành tựu,sản xuất gia tăng, cơ chế thông thoáng, quy mô ngày càng được mở rộng. Tuy nhiên không phải là không có những tồn tại. Tình hình quản lý và sử dụng vốn cho khu vực kinh tế quốc doanh không khả quan do số vốn bình quân một doanh nghiệp là rất nhỏ. Số vốn của doanh nghiệp nhà nước lại càng trở nên nhỏ bé và mỏng manh hơn khi đối chiếu giữa vốn chủ sở hữu và tình hình công nợ của doanh nghiệp. Vốn đã ít, công nợ lại nhiều, số vốn phải trả của doanh nghiệp nhà nước thường cao hơn rất nhiều số vốn của doanh nghiệp.
Vấn đề nan giải nhất với các doanh nghiệp vẫn là vấn đề thiếu vốn. Các doanh nghiệp nhà nước quy mô vốn còn quá nhỏ nên muốn làm việc gì cũng khó khăn. Hầu hết các doanh nghiệp thiếu vốn trung và dài hạn nhưng tỉ lệ vốn vay trung và dài hạn thấp kể cả trong nước và ngoài nước.
Hơn nữa vốn huy động nhiều khi không được sử dụng đúng mục đích, khi vay vốn còn chưa tính đến chi phí sử dụng vốn vay vì do nhà nước vẫn còn chính sách ưu đãi về lãi suất nên sử dụng vốn vay kém hiệu quả do các doanh nghiệp còn chưa cố gắng, nỗ lực hết mình, còn dựa dẫm vào nhà nước.
Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước trong trạng thái thiếu vốn nghiêm trọng các doanh nghiệp nhà nước nhất là những doanh nghiệp nhà nướcđịa phương không có khả năng đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị hiện đại để nâng cao năng suất. Do vậy mà tình hình công nợ và khả năng thanh toán của khu vực doanh nghiệp này còn chưa được tốt. Các khoản nợ phải trả chiếm khoảng 70% - 80% vốn kinh doanh của doanh nghiệp và gần gấp hai lần số nợ phải thu.
Vấn đề bảo toàn và phát triển vốn ít được nhà nước coi trọng và chưa thực sự được quan tâm nhiều nên hậu quả với doanh nghiệp là vốn mất dần, thất thoát tài sản và hiệu quả sử dụng thấp.
2. Thực trạng về huy động vốn của kinh tế tư nhân.
Tốc độ phát triển của khu vực kinh tế tư nhân tăng lên nhanh chóng sau khi luật doanh nghiệp mới có hiệulực thi hành. Hàng loạt các doanh nghiệp mới được thành lập, tuy nhiên thành phần kinh tế này còn gặp nhiều khó khăn như vốn ít, máy móc thiết bị lạc hậu, cũng do vốn ít nên không có điều kiện nhiều để đầu tư hiện đại hoá, quy mô sản xuất nhỏ bé, thị trường tiêu thụ còn nhỏ hẹp. Chúng ta vẫn còn thiếu một khung pháp lý đồng bộ nhất quán phù hợp cho kinh doanh tư nhân phát triển.
Nhu cầu về vốn của khu vực kinh tế này là khá lớn nhưng còn nhiều hạn chế:
Từ vay tín dụng ngân hàng nhưng khó tiếp cận với nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt với ngân hàng quốc doanh do các điều kiện tín dụng còn rất ngặt nghèo.
Phát hành chứng khoán: phần lớn các doanh nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân chưa đủ điều kiện để phát hành chứng khoán.
Các doanh nghiệp tư nhân còn phải đi vay nặng lãi, vấn đề vốn đặt ra với các doanh nghiệp tư nhân là rất khó khăn.
3. Đánh giá các nguồn vốn phục vụ đầu tư phát triển cho các doanh nghiệp Việt Nam
3.1. Vốn ngân sách nhà nước.
Trước đây ngân sách nhà nước đã cấp vốn một cách tràn lan cho các ngành, khu vực kinh tế mà nhất là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhà nước cung ứng vật tư, tiền vốn cho các doanh nghiệp nhà nước, cơ chế phân phối vốn theo kiểu tập trung bao cấp. Mọi nhu cầu vốn đã được nhà nước đáp ứng nên các doanh nghiệp thường có tâm lý ỷ lại, không chịu cố gắng nâng cao năng suất, chất lượng mở rộng sản xuất nên đa số dẫn đến kết quả các doanh nghiệp sản xuất không có hiệu quả. Trong thực tế, nhiều khi nhà nước không đáp nhu cầu vốn cho doanh nghiệp làm cho ngân sách nhà nước luôn căng thẳng ở mức quá sức chịu đựng.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường đã dần dần xoá bỏ chế độ bao cấp vốn cho các doanh nghiệp qua ngân sách nhà nước. Các doanh nghiệp phải độc lập, tự chủ, không còn dựa dẫm quá mức vào ngân sách nhà nước cấp nữa. Vốn đầu tư của nhà nước chỉ tập trung vào những khâu xung yếu nhất nhằm ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, mở rộng các ngành, các vùng các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến cả quốc gia, dân tộc chủ yếu là đầu tư cho các công trình giao thông công cộng: xây dựng cầu,đường … trên cơ sở đó giải quyết các vấn đề xã hội và tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động, khắc phục nguy cơ bị quá tải khi nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao. Với mục đích đó vốn của nhà nước chỉ tập trung đầu tư cho:
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội: hệ thống điện, nước, giao thông, thuỷ lợi, giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học ….
Đầu tư vào các lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn, công nghệ mới đem lại lợi ích cho quốc gia
Đầu tư khai thác các loại tài nguyên, nhiên vật liệu quan trọng: dầu khí, than, thép, xi măng, phân bón ….
Đầu tư cho quốc phòng để sản xuất những sản phẩm thuộc lĩnh vực quốc gia
Đầu tư cho các dự án giải quyết việc làm, phủ xanh đất trống núi đồi trọc, đánh bắt hải sản, một số cơ sở công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản và dịch vụ xuất khẩu ….
Vốn đầu tư tập trung từ kênh ngân sách nhà nước bao gồm 2 phần: phần cấp phát trực tiếp từ ngân sách nhà nướcvà phần tín dụng đầu tư ưu đãi.
Ngân sách nhà nước chỉ cấp phát cho các công trình thuộc kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội không có hoặc khó có thể thu hồi vốn trực tiếp nhưng lại đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi.
Một phần vốn được chuyển thông qua hình thức tín dụng đầu tư với lãi suất ưu đãi: chính phủ cho vay với lãi suất thấp, ổn định với thời gian tương đối dài.
Hiện nay nguồn vốn huy động cho đầu tư phát triển qua kênh ngân sách nhà nước tỷ trọng đã giảm dần so với trước kia. Việc nhà nước đầu tư từ ngân sách chỉ nhằm vào những ngành mũi nhọn, các lĩnh vực mang tính chất định hướng cho chiến lược phát triển kinh tế chung tạo nền tảng cho tất cả các ngành, vùng ở giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hóa.
Đó mới chỉ là những ngành, vùng kinh tế trọng điểm được ngân sách nhà nước đầu tư, vậy còn rất nhiều loại hình doanh nghiệp khác, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, ngoài quốc doanh rất khó huy động vốn từ ngân sách nhà nước. Với các doanh nghiệp này huy động vốn qua ngân sách nhà nước không phải là một nguồn chủ yếu mà thông qua các nguồn khác.
3.2. Vốn tự bổ sung tích luỹ của các doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là một yếu tố không thể thiếu. Cạnh tranh giúp các doanh nghiệp nỗ lực phấn đấu hơn để tạo cho mình một hiệu quả sản xuất kinh doanh ngày càng cao. Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tạo ra được nhiều lợi nhuận thì mới có điều kiện tự bổ sung cho quỹ vốn của mình.
Hiện nay các doanh nghiệp làm ăn đang trên đà hiệu quả, với nhiều doanh nghiệp đang thành công trên thương trường nên nguồn vốn có được từ lợi nhuận để lại giữ một vai trò đáng kể trong việc huy động thêm vốn của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó cũng còn không ít các doanh nghiệp gặp khó khăn, làm ăn chưa có hiệu quả nên vốn từ nguồn này không đáng kể, các doanh nghiệp này chủ yếu dựa vào nguồn đi vay.
3.3. Thực trạng huy động vốn tín dụng ngân hàng.
Thông thường khi thiếu vốn hầu hết các doanh nghiệp đều nghĩ ngay đến việc đi vay. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng và vốn tín dụng thương mại là rất cần thiết, quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Hoạt động tín dụng ngân hàng trong việc cấp vốn cho doanh nghiệp: các ngân hàng đáp ứng được số lượng vốn lớn, thường xuyên cho doanh nghiệp. Với xu hướng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước giảm dần và cho vay các thành phần kinh tế khác đã tăng dần lên, thể hiện sự bình đẳng hơn về chính sách cho vay và sự quan tâm của nhà nước và phát hiện các thành phần kinh tế khác.
Tuy vậy, nhiều quy định tín dụng ngân hàng đã hạn chế việc cho vay với các doanh nghiệp. Hầu như chỉ có các doanh nghiệp lớn, có uy tín mới đủ điều kiện và khả năng để vay ngân hàng một cách dễ dàng. Nhưng đa phần ở nước ta là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, quy định về hạn mức cho vay còn hạn chế, khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của các doanh nghiệp tư nhân, các hộ nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Về điều kiện tín dụng: các ngân hàng thương mại khi cho doanh nghiệp vay vốn luôn luôn phải đảm bảo an toàn tín dụng, hạn chế các rủi ro thông qua một hệ thống các biện pháp bảo đảm tín dụng. Trước tiên ngân hàng phải phân tích hồ sơ xin vay vốn, đánh giá các thông ti._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35727.doc