Tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương: ... Ebook Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương
79 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1531 | Lượt tải: 4
Tóm tắt tài liệu Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Không loại trừ bất cứ một doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh lại không xem sản xuất kinh doanh có hiệu quả là điều kiện sống còn của doanh nghiệp co dù đó là doanh nghiệp công ích hay doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân. Hiệu quả được xem là phương thức hữu hiệu nhất để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Nếu các doanh nghiệp công ích hoạt động vì mục tiêu phục vụ cộng đồng thì doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh hay doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân lại vì mục đích bao trùm là tối đa hoá lợi nhuận. Trong chuyên đề này tôi chỉ đề cập đến doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh hay doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân khi phân tích các chỉ tiêu hiệu quả.
Rõ ràng muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiến tới hội nhập khu vực và quốc tế hiện nay, công ty phải có biện pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất –kinh doanh.
Thực tế đáng mừng là trong những năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh và đã được nhiều thành tựu trông thấy. Tuy không phải là công việc có thể giải quyết ngay được mà đòi hỏi thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp có hướng đích, sự phối hợp nhịp nhàng của nhiều bộ phận và để có được sự chyển biến tích cực thì cần phải có một thời gian dài.
Từ thực tiễn đó, cùng với sự chỉ dẫn của thầy giáo-Tiến sĩ Phạm Ngọc Linh, bác Đinh Tuấn Dũng-PGĐ công ty, và các cô chú nhân viên của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình-Hải Dương”.
Mục đích nghiên cứu của chuyên đề.
- Hệ thống hoá một số cơ sở lý luận về hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
- Phân tích thực trạng hiệu quả sản xuất-kinh doanh của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình.Từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Với mục đích đó chuyên đề được chia làm 3 phần:
Chương I: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất-kinh doanh, các chỉ tiêu đánh giá và các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương II: Thực trạng hiệu quả sản xuất-kinh doanh tại công ty trong thời gian qua.
Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh tại công ty.
Tuy nhiên, hiệu quả sản xuất-kinh doanh là phạm trù rộng lớn và phức tạp, trình độ bản thân có hạn nên chuyên đề của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót.
Vì vậy em kính mong nhận được ý kiến đánh giá đóng góp của thầy giáo và các cô chú tại công ty cổ phần giầy Cẩm Bình để giúp em nhận thức thấu đáo hơn về vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT-KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
I.KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP.
1.Khái niệm hiệu quả kinh tế.
Mặc dù còn nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn mục tiêu của doanh nghiệp, song có thể nói trong cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ( doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân) đều có mục tiêu bao trùm, lâu dài là tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu này doanh nghiệp phải xác định được chiến lược và kế hoạch kinh doanh trong mọi giai đoạn phát triển phù hợp với những thay đổi của môi trường kinh doanh; phải phân bổ và quản trị có hiệu quả các nguồn lực và luôn kiểm tra quá trình đang diễn ra là có hiệu quả. Muốn kiểm tra tính hiệu quả của hoạt động thì phải đánh giá được hiệu quả sản xuất-kinh doanh ở phạm vi doanh nghiệp cũng như ở từng bộ phận của nó. Và mặc dù có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả sản xuất-kinh doanh phản ánh mặt chất lượng của hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp song lại khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Khái niệm hiệu quả sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp ở đây không phải là hiệu quả tài chính mà là hiệu quả kinh tế. Tức là ngoài việc quan tâm đến hiệu quả tài chính còn quan tâm đến tác động của hoạt động sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp đến nền kinh tế-xã hội nói chung. Điều này càng có ý nghĩa hơn bao giờ hết trong xu thế hiện đại ngày nay.
Trước khi đưa ra khái niệm về hiệu quả sản xuất-kinh doanh, cần tìm hiểu xem hiệu quả kinh tế nói chung cũng như hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất-kinh doanh là gì?
Đã có sự thống nhất quan điểm cho rằng phạm trù hiệu quả kinh tế phản ánh mặt chất lượng của hoạt động kinh tế, song rất khó tìm thấy sự thống nhất trong quan niệm về hiệu quả kinh tế. Có quan điểm cho rằng: “Hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không thể tăng sản lượng một loại hang hoá mà không cắt giảm sản lượng một loại hàng hoá khác. Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”(P.Samueleson và W.Nordhaus). Thực chất của quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn lực của nền sản xuất xã hội. Trên phương diện này, rõ ràng phân bố các nguồn lực của nền kinh tế sao cho đạt được việc sử dụng mọi nguồn lực sản xuất trên đường giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả và có thể (và cần phải) bổ sung thêm rằng quan niệm này đã đưa ra hiệu quả cao nhất (mức hiệu quả lý tưởng) mà mỗi nền kinh tế có thể đạt được, không thể có mức nào cao hơn. Một số quan điểm khác lại cho rằng hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ lệ giữa sự tăng lên của hai đại lượng kết quả và chi phí. Thực chất các tác giả có quan niệm như thế chỉ đề cập đến hiệu quả kinh tế của phần “tăng thêm” chứ không phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình kinh tế. Nhiều quan điểm khác đề cập đến hiệu quả kinh tế ở dạng khái quát, chẳng hạn rất nhiều quan điểm coi hiệu quả kinh tế được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trong từ điển kinh tế của Manfred Kuhn tính hiệu quả được xác định bằng cách lấy kết quả (tính theo đơn vị giá trị) chia cho chi phí kih doanh…
Từ các quan điểm trên, có thể phát biểu khái quát: “Hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (hoặc một quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực (nhân, tài, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định”. Từ đó có thể hình thành công thức tổng quát biểu diễn khái quát phạm trù hiệu quả kinh tế như sau:
H=K/C
Với H là hiệu quả kinh tế của một hiện tượng (quá trình kinh tế).
K là kết quả tu được từ hiện tượng (quá trình) kinh tế đó.
C là chi phí toàn bộ để đạt được kết quả đó.
Và như thế cũng có thể phát biểu ngắn gọn: Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế và được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó.
Quan điểm này đã đánh giá được tốt nhất trình độ lợi dụng các nguồn lực ở mọi điều kiện “động” của hoạt động kinh tế. Theo quan niệm như thế hoàn toàn có thể tính toán được hiệu quả kinh tế trong sự vận động và biến đổi không ngừng của các hoạt động kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô và tốc độ biến đổi khác nhau của chúng.
Từ định nghĩa về hiệu quả kinh tế ở trên có thể hiểu được hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh với việc làm rõ từng khái niệm hiệu quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh nói riêng và hiệu quả sản xuất-kinh doanh nói chung. Bởi lẽ trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp không chỉ tạo ra sản phẩm mà còn phải bán được các kết quả đó cũng như thu mua đầu vào… để phục vụ cho quá trình sản xuất.
Vậy hiệu quả sản xuất-kinh doanh là gì mà các doanh nghiệp lại luôn theo đuổi? Câu hỏi này sẽ được làm rõ trong phần khái niệm, bản chất hiệu quả sản xuất-kinh doanh và sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
2.Khái niệm hiệu quả sản xuất-kinh doanh
2.1.Khái niệm hiệu quả sản xuất.
2.2.Khái niệm hiệu quả kinh doanh.
Trước khi đi vào nội dung của khái niệm hiệu quả kinh doanh, cần điểm qua đôi chút về khái niệm và nhiệm vụ của hoạt động kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, chế biến, các hoạt động thương mại thuần tuý và các hoạt động cung cấp dịch vụ.
Hoạt động kinh doanh có thể được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
Theo tính chất của hoạt động chúng ta có hoạt động sản xuất (sản phẩm hoặc dịch vụ).
Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công nghiệp, thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính,…
Do hoạt động kinh doanh có nội dung rất rộng, trong đó sản xuất lại là một nội dung lớn nên trong chuyên đề này em đã tách nội dung sản xuất ra thành một mảng nội dung phân tích riêng để làm rõ hơn bản chất hiệu quả sản xuất-kinh doanh.
Hoạt động sản xuất-kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải vật chất cho xã hội và tạo ra lọi nhuận cho các chủ thể tham gia hoạt động sản xuất-kinh doanh. Bản chất của hoạt động này là tạo ra giá trị cho các loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị của sản phẩm và dịch vụ được tạo ra nhờ vào các giá trị sử dụng cho phép thoả mãn các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Những nhu cầu này có thể mang tính hữư hình (làm sạch quần áo, vận chuyển hàng hoá từ địa điểm này đến địa điểm khác,…) và cũng có thể là vô hình (mang lại danh tiếng cho người sử dụng sản phẩm hoặc dịch vụ,…). Dù cho hoạt động kinh doanh có phục vụ nhu cầu nào đi chăng nữa, thì nhiệm vụ cảu các đơn vị sản xuất kinh doanh là phải gia tăng giá trị cho sản phẩm và dịch vụ. Bởi vì giá trị gia tăng (đạt được khi gía trị đầu ra lớn hơn giá trị đầu vào) là nguồn gốc của mọi của cải vật chất xã hội.
II. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh
1.Yêu cầu cơ bản trong phân tích và đánh giá hiệu quả sản xuất và kinh doanh của doanh nghiệp.
Để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải có hệ thống các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế, một phương án kinh doanh chỉ được đưa ra xem xét về hiệu quả nếu nó được xây dựng trên cơ sở những quy định của nhà nước và đạt được những tiêu chuẩn sau:
- Phải tuân thủ sự quản lí vĩ mô của Nhà nước.-
- Phải kết hợp hài hoà 3 lợi ích: cá nhân, tập thể và nhà nước-
- Lợi nhuận doanh nghiệp thu được phải dựa trên sự hoạt động có hiệu quả, vận dụng linh hoạt các quy luật kinh tế.
- Mức thu nhập thuần tuý của doanh nghiệp (v+m) tính trên một lao động phải thường xuyên tăng lên. Tiêu chuẩn này đạt được càng cao càng chứng tỏ rằng hiệu quả kinh doanh, hiệu quả lao động được tăng lên.
Theo công thức xác định hiệu quả người ta sẽ luôn luôn xác định được một dãy các giá trị cụ thể về hiệu quả cho bất kì chỉ tiêu hiệu quả nào. Vì vậy vấn đề đặt ra là: trong dãy giá trị cụ thể đó thì giá trị nào được coi là không có hiệu quả. Chính vì vậy, người ta xem xét tới phạm trù là tiêu chuẩn hiệu quả.
Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới hạn, là “mốc” xác định ranh giới có hay không có hiệu quả, điều này có nghĩa là:
≥ tiêu chuẩn hiệu quả coi là có hiệu quả.
< tiêu chuẩn hiệu quả coi là không có hiệu quả.
Vì có nhiều chỉ tiêu hiệu quả cho nên cũng dẫn tới có nhiều tiêu chuẩn để phản ánh hiệu quả của mỗi chỉ tiêu.
Có nhiều phương pháp để xác định tiêu chuẩn hiệu quả. Trong thực tế thì người ta hay sử dụng phương pháp tính trung bình để tính giá trị trung bình của mỗi chỉ tiêu hiệu quả cụ thể của một ngành hoặc của nền kinh tế quốc dân được coi là tiêu chuẩn hiệu quả của chỉ tiêu đó.
2.Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất.
2.1 Hiệu quả sử dụng lao động
Lao động là nhân tố sáng tạo trong kinh doanh, số lượng và chất lượng lao động là nhân tố quan trọng tác động đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sử dụng lao động được biểu hiện ở các chỉ tiêu năng suất lao động, mức sinh lời của lao động và hiệu suất tiền lương.
2.1.1 Năng suất lao động
- Năng suất lao động bình quân của thời kì tính toán:
APN = (1)
Với APN: năng suất lao động bình quân của thời kỳ tính toán (hiện vật, giá trị).
Q: Sản lượng đo bằng đơn vị hiện vật hay giá trị.
AL: Số lao động bình quân.
Thời gian của một thời kỳ tính toán thường là một năm. Năng suất lao động năm chịu ảnh hưởng lớn của việc sử dụng thời gian lao động trong năm. Số ngày làm việc trong năm, số giờ làm việc trong ngày và năng suất bình quân của mỗi giờ. Vì vậy, năng suất lao động bình quân năm còn được tính cho các khoảng thời gian ngắn hơn.
Năng suất lao động bình quân/giờ
AGG = (2)
Với APG: Năng suất lao động bình quân giờ
N: số ngày làm việc bình quân năm
G: Số giờ làm việc bình quân/ca làm việc
2.1.2.Chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của lao động
Bên cạnh chỉ tiêu năng suất lao động chỉ tiêu mức sinh lời bình quân của một lao động cũng thường được sử dụng. Mức sinh lời bình quân của một lao động cho biết mỗi lao động tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận trong một kỳ tính toán xác định. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức cụ thể sau:
ΠBQ = (3)
Với πBQ : lợi nhuận bình quân do 1 lao động tạo ra trong kỳ tính toán.
L: số lao động làm việc bình quân trong kỳ
2.1.3.Chỉ tiêu hiệu suất tiền lương
Hiệu suất tiền lương phản ánh một đồng tiền lương bỏ ra có thể đạt được kết quả cụ thể nào đó. Kết quả có thể là doanh thu, lợi nhuận… nếu lấy kết quả tính toán là doanh thu sẽ có:
HW = (4)
Với HW : Hiệu suất tiền lương của thời kỳ tính toán
ΣTL: Tổng quỹ tiền lương và tiền thưởng có tính chất tiền lương trong kỳ.
Hiệu suất tiền lương tăng lên khi tốc độ tăng năng suất lao động lớn hơn tốc độ tăng tiền lương bình quân.
2.2.Hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu
2.2.1.Vòng luân chuyển nguyên vật liệu
SVNVL = (5)
Với SVNVL: số vòng luân chuyển nguyên vật liệu trong kỳ
NVLSD: Giá vốn nguyên vật liệu đã dùng
NVLDT: Giá trị nguyên vật liệu dự trữ của kỳ tính toán
2.2.2.Vòng luân chuyển vật tư trong sử dụng dở dang
SVSPDD = (6)
Với SVSPDD: số vòng luân chuyển vật tư trong sản phẩm dở dang
ZHHCB: tổng giá trị thành hàng hoá đã chế biến
VTDT: giá trị vật tư dự trữ trong kỳ tính toán
Hai chỉ tiêu trên có khả năng khai thác các các nguồn nguyên liệu của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu này có giá trị lớn phản ánh các doanh nghiệp giảm được chi phí kinh doanh cho dự trữ nguyên vật liệu, giảm bớt nguyên vật liệu tồn kho, tăng vòng quay của vốn lưu động. Tuy nhiên, nếu quá chú ý đến các chỉ tiêu này có thể dẫn đến thiếu lượng nguyên vật liệu dự trữ cần thiết.
Ngoài ra, để sử dụng NVL có hiệu quả người ta còn đánh giá mức thiệt hại mất mát nguyên vật liệu trong quá trình dự trữ, sử dụng chúng. Chỉ tiêu này được xác định bằng tỷ số giữa giá trị nguyên vật liệu mất mát trên tổng giá trị nguyên vật liệu sử dụng trong kỳ tính toán.
2.3.Chất lượng sản phẩm
Trong cơ chế thị trường, cùng với quá trình mở cửa hội nhập cùng thế giới đã tạo ra sự cạnh tranh về mọi mặt ngày càng gay gắt và quyết liệt. Sức ép của hàng nhập lậu, của người tiêu dung, của hàng nước ngoài buộc các nhà kinh doanh cũng như các nhà quản lý phải hết sức coi trọng vấn đề đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm ngày nay đang trở thành một nhân tố cơ bản để quyết định đến sự thành bại trong cạnh tranh, quyết định sự tồn tại và phát triển của từng doanh nghiệp nói riền cũng như sự tiến bộ hay tụt hậu của nền kinh tế nói chung.
3.Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh
3.1.Hiệu quả kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả kinh doanh của toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong thời kỳ xác định.
3.1.1.Các chỉ tiêu doanh lợi
Các chỉ tiêu doanh lợi thường được các nhà quản trị, các nhà tài trợ,… quan tâm xem xét. Đó thường là các chỉ tiêu cụ thể dưới đây.
-Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh :
DVKD (%) = (7)
Với :
DVKD(%): Doanh lợi của toàn bộ vốn kinh doanh của một thời kỳ
ΠR : lãi ròng thu được của các thời kỳ tính toán
TLW: Lãi trả vốn vay của thời kỳ đó
VKD:Tổng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
-Doanh lợi vốn tự có:
DVTC (%) = (8)
Với:
DTC: Doanh lợi vốn tự có của một thời kỳ tính toán
VTC: Tổng vốn tự có của thời kỳ đó
Nhiều nhà quản trị học cho rằng phải xem xét xem liệu chỉ tiêu doanh lợi vốn tự có có phải là mô hình lựa chọn kinh tế? Theo H.Hax thì tối đa hoá doanh lợi vốn tự có không phải là không có vấn đề. Thực chất, doanh thu bán của một thời kỳ tính toán cụ thể luôn là kết quả của việc sử dụng toàn bộ lượng vốn kinh doanh hiện có chứ không thể là kết quả riêng số vốn tự có của doanh nghiệp. Hơn nữa chỉ tiêu này còn có hạn chế nữa là nếu đánh giá hiệu quả kinh doanh thong qua chỉ tiêu này thì doanh nghiệp đi vay vốn càng nhiều hiệu quả kinh doanh sẽ càng cao.
-Doanh lợi của doanh thu bán hàng:
DTR (%) = (9)
Với:
DTR : doanh lợi của doanh thu bán hàng của một thời kỳ
TR: doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán đó
3.1.2.Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh theo chi phí.
-Hiệu quả kinh doanh theo chi phí của một thời kỳ:
HCPKD (%) = (10)
Với:
HCPKD : hiệu quả kinh doanh tính theo chi phí kinh doanh
TR: Doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán
TCKD : chi phí kinh doanh của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ
Cần chú ý rằng trong những trường hợp không xác định được doanh thu bán hàng có thể sử dụng chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng của thời kỳ thay cho chỉ tiêu doanh thu bán hàng, chỉ tiêu chi phí kinh doanh của thời kỳ thay cho chỉ tiêu chi phí kinh doanh của sản phẩm tiêu thụ trong kỳ.
-Hiệu quả kinh doanh theo tiềm năng của một thời kỳ:
HTN (%) = (11)
Với:
HTN : hiệu quả kinh doanh tính theo tiềm năng
TCKDTT: chi phí kinh doanh thực tế phát sinh của kỳ
TCKDPĐ: chi phí kinh doanh phải đạt.
Chi phí kinh doanh phải đạt của một thời kỳ xác định thường được xác định trên cơ sở các mức tiên tiến (chi phí kinh doanh định mức) hoặc chi phí kinh doanh kế hoạch của thời kỳ đó.
Cần chú ý rằng các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được sử dụng để đánh giá hiệu quả kinh doanh ở phạm vi toàn doanh nghiệp cũng như từng đơn vị bộ phận trên trong doanh nghiệp. Các chỉ tiêu trên cũng được xác định dễ dàng, đặc biệt ở các đơn vị bộ phận hạch toán độc lập. Tiêu chuẩn hiệu quả tốt nhất của các chỉ tiêu trên là giá trị bình quân đạt được của ngành, của một khu vực hay của quốc tế trong một thời kỳ đánh giá.
3.2 Một số chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh bộ phận
3.2.1.Nhóm chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh
Để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
_Số vòng quay toàn bộ vốn kinh doanh.
SVVKD = (12)
Với:
SVVKD : số vòng quay của vốn kinh doanh
Số vòng quay càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng càng cao.
_ Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định được đánh giá bởi chỉ tiêu hiệu suất sử dụng tài sản cố định:
HTSCĐ = (13)
Với:
HTSCĐ: hiệu suất sử dụng tài sản cố định
TSCĐG: Tổng giá trị tài sản cố định bình quân trong kỳ.
Tổng giá trị bình quân của tài sản của tài sản cố định trong kỳ là tổng giá trị còn lại của tài sản cố định được tính theo nguyên giá của tài sản cố định sau khi đã trừ đi phần hao mòn tích luỹ đến thời kỳ tính toán.
TSCĐG = nguyên giá tài sản cố định – giá trị đã hao mòn
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng sinh lời của tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh.
(1/HTSCĐ): chỉ tiêu này cho biết giá trị tài sản cố định cần thiết để tạo ra một đồng lãi.
Phân tích chỉ tiêu hiệu quả sử dụng tài sản cố định để xác định tính hiệu quả và nguyên nhân của việc sử dụng không có hiệu quả TSCĐ. Thông thường, trước hết là do đầu tư TSCĐ quá mức cần thiết, đầu tư vào TSCĐ không dùng đến, sử dụng TSCĐ không hết công suất.
_Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động của một thời kỳ tính toán được xác định theo công thức:
HVLĐ = (14)
Với:
HVLĐ: hiệu quả sử dụng vốn lưu động
VLĐ: vốn lưu động bìn quân của thời kỳ tính toán
_Số vòng luân chuyển của vốn lưu động:
SVVLĐ = (15)
Với:
TR: doanh thu bán hàng của thời kỳ tính toán
VLĐ: số vòng luân chuyển của vốn lưu động tong năm
_Số ngày của vòng luân chuyển vốn lưu động
SNLVĐ = = 365 x (16)
Tuy nhiên các chỉ tiêu hiệu quả này cũng đang còn được nhiều nhà quản trị học tranh cãi.
_Hiệu quả sử dụng vốn tính theo lợi nhuận:
Chỉ tiêu này được xác định bằng tích số của tỷ suất lợi nhuận trong tổng giá trị kinh doanh với số vòng luân chuyển vốn lưu động.
HVLĐ = x (17)
3.2.2.Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Ngoài các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn cố định còn có thể đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định thông qua chỉ tiêu hệ số tận dụng công suất máy móc thiết bị.
Mmms = (18)
Mmms: hệ số tận dụng công suất máy móc thiết bị
QTt: sản lượng thực tế đạt được
QTK: sản lượng thiết kế
Cần chú ý rằng nhiều chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh tổng hợp được tính toán và sử dụng không chỉ ở phạm vi doanh nghiệp mà còn ở phạm vi các bộ phận nhỏ bên trong doanh nghiệp. Việc phân tích hệ thống chỉ tiêu này xuyên suốt các cấp khác nhau trong doanh nghiệp sẽ xác định được hiệu quả kinh doanh ở từng cấp, từng bộ phận.
II.CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ SẢN XUẤT-KINH DOANH
1. Các nhân tố bên trong.
1.1 Lực lượng lao động.
Người ta thường nhắc tới luận điểm: ngày nay khoa học kĩ thuật công nghệ đã trở thành lực lượng lao động trực tiếp, để tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp. Lực lượng lao động này bao gồm: lực lượng nghiên cứu và phát triển, lực lượng lao động sản xuất, lực lượng lao động quản trị. Cả ba lực lượng trên đều đóng vai trò quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Áp dụng kĩ thuật tiên tiến là điều kiện tiên quyết để tăng hiệu quả sản xuất của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, cần thấy rằng máy móc dù tối tân đến đâu cũng là do sự sáng tạo của con người mà có. Máy móc dù có hiện đại thì cũng phải phù hợp với trình độ sử dụng của người lao động.
Ngày nay, sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức là hàm lượng khoa học kết tinh trong sản phẩm( dịch vụ) rất cao. Nó đòi hỏi lực lượng lao động phải thực sự là lực lượng rất tinh nhuệ, có trình độ khoa học kĩ thuật cao. Điều này càng khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của lực lượng lao động đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2 Trình độ phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật.
Kĩ thuật công nghệ quyết định đến khả năng, năng suất, chất lượng, chi phí kinh doanh của một doanh nghiệp( quá trình sản xuất của một doanh nghiệp nào đó). Cơ sở vật chất kĩ thuật là nhân tố hết sức quan trọng, nó tạo ra tiềm năng tăng năng suất, chất lượng, tăng hiệu quả sản xuất. Chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp chịu tác động mạnh mẽ của trình độ khoa học kĩ thuật.
Cơ sở vật chất kĩ thuật công nghệ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như: trình độ sang tạo của lực lượng lao động, chịu ảnh hưởng của nhân tố chuyênr giao công nghệ ( chất lượng của hoạt động chuyển giao công nghệ), làm chủ kĩ thuật công nghệ.
Thực tế trong những năm chuyển đổi cơ cấu kinh tế vừa qua cho thấy doanh nghiệp nào được chuyển giao công nghệ sản xuất kinh doanh đã đạt được kết quả và hiệu quả kinh doanh cao, tạo được lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp cùng ngành và có khả năng phát triển. Ngược lại, những doanh nghiệp vẫn sử dụng công nghệ, máy móc thiết bị cũ hoặc được chuyển giao công nghệ lạc hậu, không thể tạo ra sản phẩm đáp ứng đòi hỏi của thị trường về cả chất lượng và giá cả nên sản xuất ở doanh nghiệp đó thường chững lại, đi xuống và trong nhiều trường hợp có thể nhìn thấy trước việc đóng cửa sản xuất do kinh doanh không có hiệu quả. Như vậy, sự phát triển cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật đóng vai trò quyết định đối với việc nâng cao năng xuất, chất lượng và hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế này đặc biệt quan trọng trong thời đại hiện nay khi mà kĩ thuật công nghệ phát triển nhanh chóng. Điều này đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải tìm được giải pháp đúng đắn nhất là đầu tư vào cơ sở vật chất kĩ thuật và ứng dụng tiến bộ kĩ thuật để làm cơ sở cho việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.3 Nhân tố quản trị doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng, quản trị đóng vai trò quan trọng đối với việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp.
Việc xác định một hướng đi đúng đắn là nhân tố đầu tiên và quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của một doanh nghiệp. Muốn tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải chiến thắng trong cạnh tranh, chiếm ưu thế về chất lượng, mẫu mã sản phẩm, giá cả và tốc độ cung ứng. Điều này phụ thuộc chủ yếu vào khả năng quản trị của doanh nghiệp. Bên cạnh đó việc khai thác và thực hiện phân bổ các nguồn lực sản xuất cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp. Thật vậy, ở mọi doanh nghiệp kết quả và hiệu quả hoạt động đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp và việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cá nhân và thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó.
1.4. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin.
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đặc biệt là công nghệ thông tin, nền kinh tế thị trường được coi như là nền kinh tế thông tin. Để đạt được thành công trong kinh doanh, doanh nghiệp phải cần rất nhiều thông tin chính xác về nhu cầu thị trường, về công nghệ kỹ thuật, về đối tác, đối thủ cạnh tranh cũng như những thông tin về kinh nghiệm thành công hay thất bại của các doanh nghiệp khác trong và ngoài nước, các chính sách kinh tế của Nhà nước và của các nhà nước khác có liên quan. Việc nắm bắt những thông tin chính xác, xử lý và sử dụng những thông tin đó sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như hoạch định các chương trình sản xuất ngắn hạn.
Do đó, thông tin,trao đổi và xử lý thông tin là một điều kiện quan trọng đem lại hiệu quả kinh doanh cao, tổ chức khoa học hệ thống thông tin nội bộ vừa đáp ứng nhu cầu thông tin kinh doanh vừa đảm bảo giảm thiểu chi phí kinh doanh cho quá trình tu thập, xử lý, lưu trữ và sử dụng thông tin dưới nhiều hình thức, đặc biệt là hệ thống thông tin quan trọng trong quản trị doanh nghiệp hiện nay- phù hợp với xu thế phát triển hệ thống thông tin nội bộ, cục bộ và cao hơn nữa là nối mạng trong nước và quốc tế.
1.5.Nhân tố tính toán kinh tế.
Hiệu quả kinh doanh được xác định bởi tỷ số giữa kết quả đạt được và hao phí nguồn lực để đạt được kết quả đó. Cả hai đại lượng trên của mỗi thời kỳ cụ thể đều khó đánh giá một cách chính xác.
Ta đã biết: Π = TR – TC
Kinh tế học đã khẳng định tốt nhất là sử dụng phạm trù lợi nhuận kinh tế vì lợi nhuận kinh tế mới là lợi nhuận “thực”, kết quả được đánh giá bằng lợi nhuận kinh tế sẽ là kết quả “thực”. Song muốn xác định được lợi nhuận kinh tế thì phải xác định chi phí kinh tế. Nhưng đến nay người ta vẫn chưa tính toán được chi phí kinh tế mà chỉ sử dụng phạm trù chi phí tính toán. Trên cơ sở đó chỉ xác định được lợi nhuận tính toán.
Hiện nay, chi phí tính toán được sử dụng có thể chỉ là chi phí tài chính và chi phí kinh doanh. Chi phí tài chính được tính toán nhằm phục vụ cho các đối tượng bên ngoài quá trình kinh doanh nên phải dựa trên nguyên tắc thống nhất. Chi phí kinh doanh phục vụ cho bộ máy quản trị ra quyết định, tiếp cận đem đến chi phí “thực” nên sử dụng nó sẽ xác định được lợi nhuận thực hơn. Đây là lý do mà phạm trù hiệu quả ở đây gắn với chi phí kinh doanh. Chỉ khi nào các doanh nghiệp triển khai tính toán và quản trị chi phí kinh doanh, khi đó mới có thể tính toán được hiệu quả kinh doanh tiếp cận tới độ chính xác cần thiết.
2.Nhân tố môi trường bên ngoài
2.1.Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý bao gồm luật, các văn bản dưới luật… Mọi quy định pháp luật về kinh doanh đều tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó việc tạo ra môi trường pháp luật lành mạnh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiến hành hàng loạt các hoạt động kinh doanh của mình bên cạnh việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế vĩ mô theo hướng không chỉ chú ý đến kết quả, hiệu quả riêng mà còn chú ý đến lợi ích của các thành viên khác trong xã hội. Hơn nữa, nó đảm bảo tính bình đẳng của mọi loại hình doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cạnh trah một cách lành mạnh. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng phải có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh mọi quy định của pháp luật khi kinh doanh. Đặc biệt, khi kinh doanh trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp phải nắm chắc luật pháp của nước sở tại và tiến hành các hoạt động kinh doanh trên cơ sở trên cơ sở tôn trọng luật pháp của nước đó.
Tính nghiêm minh của pháp luật thể hiện trong môi trường kinh doanh, thực tế mức độ nào cũng có tác động mạnh mẽ đến kết quả và hiệu quả kinh doanh. Kinh doanh sẽ đem lại hiệu quả tích cực nếu mọi thành viên đều tuân thủ pháp luật. Nếu ngược lại, nó sẽ dẫn đến những thiệt hại rất lớn về kinh tế, làm xói mòn đạo đức xã hội.
2.2.Môi trường kinh tế .
Môi trường kinh tế bao gồm các chính sách đầu tư, phát triển kinh tế, chính sách cơ cấu… là nhân tố bên ngoài tác động rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của từng doanh nghiệp. Các chính sách kinh tế vĩ mô này tạo ra sự ưu tiên hay sự kìm hãm phát triển của từng ngành, từng vùng kinh tế cụ thể, do đó tác động trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc ngành, vùng kinh tế nhất định. Bên cạnh đó, việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế làm tốt công tác dự báo để điều tiết đúng đắn các hoạt động đầu tư, hạn chế độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, việc đưa ra các chính sách thuế phù hợp với trình độ kinh tế và đảm bảo tính công bằng, tác động mạnh đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.3.Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng.
Các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng như hệ thống đường giao thông, thông tin liên lạc, điện nước cũng như sự phát triển của giáo dục đào tạo là những nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Ở những khu vực giao thông thuận lợi, điện nước đầy đủ, dân cư đông đúccó tình độ dân trí cao, doanh nghiệp có điều kiện phát triển phát triển tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Ngược lại, ở những nơi cơ sở hạ tầng yếu kém, kết quả kinh doanh sẽ không cao.
Trình độ dân trí cũng tác động rất lớn đến chất lượng của lực lượng lao động xã hội nên tác động trực tiếp đến nguồn lực của mỗi doanh nghiệp. Chất lượng của đội ngũ lao động lại là nhân tố bên trong ảnh hưởng quyết định tới hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ SẢN XUẤT – KINH ._.DOANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN CẨM BÌNH HẢI DƯƠNG.
I.Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của công ty
1.Tình hình chung
Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương trước đây là xí nghiệp dệt Hải Hưng trực thuộc sở nông nghiệp Hải Hưng, chuyên sản xuất các laọi khăn bông xuất khẩu, đến 01/10/2000 được sự cho phép UBND Tỉnh Hải Dương, công ty đã chuyển đổi thành công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương và hiện nay là sản xuất các loại giầy thể thao xuất khẩu, sản lượng hàng năm đạt trên tới 1.500.000 đôi/năm. Nguyên vật liệu chính là: da, giả da, vải lót, mút xốp, hoá chất…Sự đóng góp của công ty đối với nhà nước là rất to lớn.
+Với tổng số vốn hiện nay có: 24.600.Trđ
+Vốn cố định : 15.400.trđ
+Vốn lưu động : 9.200.trđ
+Tổng số cán bộ công nhân viên theo biên chế : 1.748 người
+Số cán bộ thực tế công nhân viên thực tế làm việc: 1.485 người
+Trong đó số lao động nữ chiếm 1.485/1.748 = 84,9% tổng số LĐ
+Lao động nam chiếm:263/1.748=15,1 % tổng số LĐ
Công ty được xây dựng nằm cạnh quốc lộ 5A nối liền với thành phố Hà Nội với thành phố Hải Phòng, thuộc địa bàn thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, nên rất thuận tiện cho việc nắm bắt các thông tin kinh tế cần thiết. Công ty với tổng diện tích nhà máy 56.206 m2. Phần đường đi bộ khoảng 9000 m2, diện tích đất trồng cây xanh tạo cảnh quan bóng mát chiếm tỷ lệ 10% tổng diện tích mặt bằng của công ty.
2. Quá trình phát triển của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình - Hải Dương
Giai đoạn I ( Năm 1988-1990 ):
Phương án sản phẩm của xí nghiệp là sản xuất kinh doanh hàng dệt khăn mặt, khăn tắm xuất khẩu sang các nước Đông Âu với quy mô nhỏ, công nghệ, thiết bị lạc hậu ( với hơn 200 máy dệt vải đã qua sử dụng từ những năm 1960 của nhà máy dệt 8/3 được cải tiến để dệt khăn mặt, khăn tắm ). Cùng một số máy chuẩn bị ( là máy thủ công, bán cơ khí) cán bộ công nhân cón rất hạn chế, tổng số lao động có 255 người, sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, trong khi đó vốn lưu động chỉ có: 177.000.000đ, vốn cố định chỉ có: 834.000.000đ.
Giai đoạn II ( Năm 1991-5/1995 ):
Sau khi các nước Đông Âu có biến động, mặt khác để phú hợp với cơ chế mới ( chuyển từ hành chính quan liêu bao cấp sang hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường). Từ năm 1991-5/1995 Công ty lại chuyển đổi từ sản xuất kinh doanh khăn mặt, khăn tắm xuất khẩu sang sản xuất kinh doanh mặt hàng may mặc quần áo xuất khẩu với tên gọi : “ Công ty dệt may Cẩm Bình” song vẫn trong vòng luẩn quẩn, vẫn không thoát ra khỏi những khó khăn của ngành may mặc nói chung vào thời điểm này, nhất lại là đơn vị lần đầu tiên chân ướt chân ráo bước vào ngành may mặc.
Giai đoạn III: (5/1995-30/9/2000):
Xuất phát từ những đặc điểm khó khăn trên, cộng với ngành sản xuất giầy lúc này đang có xi hướng phát triển trong cả nước. Nắm bắt thời cơ kịpp thời. Từ tháng 5/1995 Công ty lại một lần nữa mạnh dạn thay đổi phương án sản phẩm: Từ sản xuất kinh doanh mặt hàng may mặc quần áo xuất khẩu sang sản xuất kinh doanh giầy thể thao, giầy vải, dép, đế giầy cao su xuất khẩu các loại với quy mô từ nhỏ đến lớn.
Tóm lại: Qua mỗi một giai đoạn chuyển đổi là mỗi một khó khăn chồng chất đè năng lên đôi vai của từng cán bộ, công nhân viên, lao động công ty, bởi hàng trăm hàng ngàn người lao động sẽ mất việc làm, nếu một quyết định chuyển đổi sai? Như ông cha ta đã dạy “Sai một ly – đi một dặm”. Song, được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát của Tỉnh Uỷ - UBND tỉnh ngành chủ quản ( Sở Nông nghiệp ) cũng như sự giúp đõ của các ngành hữu quan trong và ngoài tỉnh cộng với tính quyết đoán của BGĐ Công ty (đứng đầu là đồng chí giám đốc Nguyễn Trọng Tiến ) cuối cùng đã lái con tàu vượt qua mọi thác ghềnh tới bến vinh quang.
Giai đoạn IV: (30/9/2000 đến nay)
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước về việc cổ phần hoá các doanh nghiệp, đồng thời được sự chỉ đạo trực tiếp của UBND tỉnh đến 30/9/2000, công ty lại là một trong những đơn vị đầu tiên của tỉnh đã mạnh dạn thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp ( theo quyết định số :2940/QĐ-UB ngày 25/9/2000 của UBND Tỉnh ) với lần thứ ba có tên gọi: “ Công ty cổ phần giầy Cẩm Bình” từ đó đến nay Công ty liên tục đầu tư quy mô sản xuất , nhập thêm nhiều máy móc hiện đại tiên tiến nhất hiện nay, từng bước khép kín dây chuyền công nghệ, mở rộng mặt bằng nhà xưởng, diện tích công ty ( từ 2,5 ha lên 05 ha). Từ chỗ chỉ có: 1.323 lao động(năm 2000) lên 1.830 lao động (năm 2004),triển vọng sẽ là 2000-2200 lao động năm 2005 giải quyết tích cực về công việc làm cho người lao động trong tỉnh nói chung và khu vực 2 huyện (Cẩm Giàng + Bình Giang) nói riêng, điều đó góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế thuộc địa bàn và hạn chế những tiêu cực những tệ nạn xã hội có thể phát sinh.Nhìn một cách tổng thể nhãn tiên,một điều thấy rất rõ cán bộ,CNVC,lao động Công ty luôn có việc làm ổn định, đời sống người lao động luôn được đảm bảo về vật chất lẫn tinh thần, thu nhập bình quân hàng năm của người lao động : trên 600.000đ/người/tháng, đó là mức thu nhập khá trong khu vực.Thêm một sự thật hiển nhiên là sau 03 năm cổ phần hoá,lợi tức được chia cho cổ đông là :15%,ngoài ra còn có tích luỹ để đầu tư mới từ 10323 triệu đồng (năm 2000)lên 9.300 triệu đồng(năm 2003).từ chổ nhà xưởng lúc đầu chỉ có:6.800m2 đến nay đã là :21.340m2.tiếp tục tăng cường mở rộng thị trường đối tác (kể cả trong và ngoài nước).do đó cán bộ,cvnc,lao động ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của đảng uỷ - HĐQT-BGĐ công ty,từ đó mang hết sức mình phấn đấu,xây dựng công ty ngày một không ngừng lớn mạnh.
-Tên doanh nghiệp :Công ty cổ phần giày Cẩm Bình-Tỉnh Hải Dương
-Tên viết tắt :Công ty cổ phần giày Cẩm Bình
-Tên giao dịch:Cam Binh shoes join-stock Company
-Địa chỉ:Thị trấn Lai Cách -Cẩm Giàng-Hải Dương
-Điện thoại(0320)786414-(0320)785416
-Fax(0320)786104
-Email: CamBinhShoes co.2001.hm@.vnn.vn
(Công ty cổ phần giày Cẩm Bình chính thức đi vào hoạt động từ ngày 06/10/2000).
II.Các đặc điểm kinh tế kĩ thuật có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
1. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường
a. Đặc điểm về sản phẩm
Sản phẩm của công ty cổ phần giầy Cẩm Bình là giầy thể thao xuất khẩu,dép sandal. Sản phẩm được sản xuất chủ yếu theo đơn đặt hàng của nước ngoài như Đài Loan, Hồng Kông, Đức, Mĩ, Ý…vì vậy các loại sản phẩm này đòi hỏi tiêu chuẩn khá cao, chất lượng phải đảm bảo, mẫu mã đẹp, sản xuất phải theo đúng yêu cầu của khách hàng. Đặc điểm của loại sản phẩm tiêu dùng này là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng trong việc quản lý. Đơn vị tính thường là đôi. Do yêu cầu của quản lý và theo đơn đặt hàng của khách hàng nên khi sản xuất xong sản phẩm thường được đóng thành kiện. Số đôi giầy trong một kiện và kích cỡ giầy, mầu sắc giầy đóng vào kiện hoàn toàn theo yêu cầu của khách hàng.
Về số lượng: Hàng tháng số lượng sản phẩm sản xuất của công ty nhiều hay ít căn cứ vào các đơn đặt hàng của khách hàng, các hợp đồng kinh tế đã kí kết với khách hàng và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó bộ phận kế hoạch sẽ lên kế hoạch sản xuất giầy trong tháng. Quá trình vận động của thành phẩm rất ngắn và nhanh kết thúc để có thể kịp thời gian giao hàng cho khách như trong hợp đồng đã kỹ kết.
Về chất lượng: Do công ty có dây chuyền sản xuất giầy tiên tiến, tương đối hiện đại, đạt tiêu chuẩn quốc tế nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng khá cao. Ngoài ra, nhiều loại nguyên vật liệu nhập về từ nước ngoài đề phục vụ cho sản xuất sản phẩm cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Công ty đã sản xuất được rất nhiều loại giầy khác nhau. Mỗi loại giầy chia thành nhiều loại giầy khác nhau. Giầy của công ty có hình thức mẫu mã khá đẹp và rất đa dạng. Chính vì vậy, nhiều loại giầy đã chiếm lĩnh được thị trường ngoài nước. Sản phẩm của công ty được bạn hàng tín nhiệm nên số lượng đặt hàng ngày càng nhiều.
Với đặc điểm sản phẩm của công ty như vậy nên để thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm thì nhất thiết cần phải tổ chức công tác tiêu thụ sản phẩm một cách khoa học, hợp lý, phải có các biện pháp thích hợp, kịp thời đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm nhằm đảm bảo thu hồi vốn nhanh và thu được nhiều lợi nhuận.
b. Đặc điểm tiêu thụ sản phẩm
Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty có đặc điểm rất riêng biệt, khác với nhiều công ty trong nước. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu sang các nước khác theo đơn đặt hàng của khách hàng.
Đối với thị trường xuất khẩu: Việc xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài do phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phụ trách. Công ty sẽ xuất giao hàng dựa trên các hợp đồng kí kết với nước ngoài. Công ty có quan hệ hợp đồng với một số Công ty khác ở các nước như: Đài Loan, Hông Kông, Trung quốc. Những công ty này đóng vai trò trung gian và công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình nhận được các đơn hàng của nước ngoài chủ yếu thông qua các công ty này. Theo như hợp đồng, Công ty sẽ xuất hàng cho bên trung gian và bên trung gian sẽ thanh toán tiền hàng cho công ty sau khi đã nhận hàng. Nguyên vật liệu để sản xuất sản phẩm do công ty mua trong nước nhưng cũng có trường hợp không mua được trong nước vì không có nên công ty phải nhập nguyên liệu từ phía các công ty trung gian. Có khi nguyên vật liệu dùng cho sản xuất phải nhập 70%-90% từ nước ngoài. Như vậy khi thanh toán tiền hàng, khách hàng sẽ bù trừ tiền nguyên vật liệu vào tiền hàng của công ty theo định mức đã tính. Trong trường hợp công ty không phải xuất hàng sang các công ty trung gian mà xuất thẳng sang các nước có đơn đặt hàng thì sau khi nhận được tiền hàng từ phía nước có đơn đặt hàng, công ty sẽ thanh toán hoa hồng cho bên trung gian theo phần trăm đã thoả thuận trong hợp đồng. Ngoài ra, công ty cũng có đơn đặt hàng trực tiếp từ phía các nước có nhu cầu mà không phải qua trung gian nhưng trường hợp này không nhiều.
2. Đặc điểm về nguyên liệu, nguồn cung ứng.
2.1. Đặc điểm.
Một trong các điều kiện cần thiết để tiến hành sản xuất là đối tượng lao động. Nguyên vật liệu là những đối tượng lao động đã được thể hiện dưới dạng vật hoá: da trong doanh nghiệp đóng giầy, vải trong phân xưởng may …
Với doanh nghiệp sản xuất nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất để tạo ra sản phẩm. Xét về mặt hiện vật vật liệu chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất và khi tham gia vào sản xuất thì vật liệu được tiêu dùng toàn bộ và thay đổi hình thái vật chất ban đầu, giá trị vật liệu được dịch chuyển toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm mới tạo ra. Xét về mặt giá trị thì vật liệu là một bộ phận của vốn kinh doanh.
Chính vì những đặc điểm trên của vật liệu nên cần tăng cường công tác quản lý, công tác kế toán nguyên vật liệu đảm bảo sử dụng nguyên vật liệu một cách hợp lý, tiết kiệm và có hiệu quả nhằm hạn thấp chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cũng như việc sử dụng hiệu quả vốn kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong đó việc quản lý ngưyên vật liệu một cách khoa học và hợp lý là yêu cầu không thể thiếu đối với tất cả các doanh nghiệp.
Trong mỗi doanh nghiệp khi sản xuất đều phải chú ý đến từng khâu sản xuất của mình. Chính vì vậy, khi tiến hành sản xuất phải chú ý đến nguyên vật liệu nhất định để khi sử dụng phù hợp với đặc điểm sản xuất của doanh nghiệp để đạt được kết quả cao nhất. Nguyên vật liệu của công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình sử dụng chủ yếu là các loại da, chỉ, keo, sơn, dây giầy… mà công việc chủ yếu của công ty là chủ yếu sản xuất giầy theo đơn đặt hàng nên chí phí nguyên vật liệu để sản xuất chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng chi phí của việc sử dụng nguyên vật liệu ở công ty này là thường dùng bao nhiêu thì nhập bấy nhiêu và sử dụng hết. Vì công ty đã được cổ phẩn hoá nên việc tiêu thụ hàng hoá cũng đạt được lợi nhuận khá.
Việc thay đổi chi phí nguyên vật liệu cũng làm thay đổi giá của mỗi sản phẩm nên trong sản xuất ta không nên thay đổi nhiều, nguyên vật liệu ở công ty được nhập từ nhiều nguồn khác nhau: nhập từ nước ngoài như Hàn Quốc, Trung Quốc… Nhập trong nước. Nhưng việc nhập nguyên vật liệu ở công ty này từ nước ngoài thì chiếm một tỷ lệ rất lớn là 90% ( nguyên vật liệu chính ), còn trong nội địa chỉ chiếm có 10%. Chính vì phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài là chủ yếu nên trong sản xuất ta luôn phải chú ý đến việc chi phí về nguồn nguyên vật liệu nhập về. Và người quản lý phải có nhũng hiểu biết rất nhạy bén đối với thị trường mới đảm bảo cung cấp nguyên vật liệu cho công ty.
Công ty đang phấn đấu để có nhiều mặt hàng mẫu mã mới nên nguyên vật liệu cũng đóng vai tró khá quan trọng trong công ty. Hiểu được tầm quan trọng của nguyên vật liệu đòi hỏi nhà quản lý phải quản lý đúng đắn theo đúng quy trình, cung cấp đảm bảo cho công ty, không mất mát hư hỏng…
b. Phân loại:
Trong các doanh nghiệp sản xuất có rất nhiều cách phân loại nguyên vật liệu nhưng dựa vào quá trình sản xuất và công tác hạch toán để quản lý tốt nguyên vật liệu, công ty phải tiến hành phân loại sao cho phù hợp với đặc điểm tình hình sử dụng của công ty để phân loại. Nên công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình chỉ sử dụng một cách phân loại chủ yếu là dựa vào công dụng và đặc điểm tình hình của công ty. Theo đó, công ty phân loại như sau:
_Nguyên vật liệu chính: là đối tượng tham gia vào quá trình sản xuất chủ yếu cấu thành nên sản phẩm như: Các loại da. dây giầy, đế giầy…
_Nguyên vật liệu phụ: là những nguyên vật liệu phụ không trực tiếp cấu thành nên sản phẩm nhưng cũng rất cần thiết trong quá trình sản xuất như: giấy gói, chỉ, hoá chất…
_Nhiên liệu: là những thứ để cung cấp nhiệt lượng trong quá trình sản xuất như: dầu, than, xăng…
_Phụ tùng thay thế: là các loại chi tiết phụ tùng để thay thế khi máy móc hư hỏng như: mũi kim khâu, tụ điện,….
Trên đây là một số đặc điểm chính của việc sử dụng nguyên vật liệu của công ty.
Về tình hình cung ứng và hoặc tiêu thụ nguyên vật liệu: Công ty phải tìm các bạn hàng tin cậy để cung cấp đầy đủ số lượng và chất lượng cho công ty, có uy tín trên thị trường. Còn về chế độ quản lý sao cho tốt, phù hợp với công việc được giao. Do điều kiện của công ty có nhiều phân xưởng phải tiếp xúc với nhiều hoá chất độc hại nên cần phải trang bị bảo hộ tốt cho người lao động tránh gây độc hại.
Công ty cần từng bước đổi mới dây chuyền công nghệ để hạ thấp chi phí nguyên vật liệu cũng như sử dụng các loại vật liệu thấp hơn để sản xuất sản phẩm. Ngoài ra việc áp dụng công nghệ mới sẽ giúp công ty thay đổi mẫu mã của sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và tiết kiệm triệt để nguyên vật liệu, hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng khẳ năng cạnh tranh trên thị trường.
3. Đặc điểm cơ cấu tổ chức quản lý:
Do sự tác động mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, để tồn tại và phát triển theo xu hướng chung, Công ty đã chủ động cải tiến, chấn chỉnh bộ máy quản lý kinh tế gọn nhẹ và đạt hiệu quả cao. Công ty tổ chức quản lý sản xuất theo một cấp Ban giám đốc Công ty chỉ đạo sản xuất theo phương pháp trực tuyến. Bộ máy tổ chức sản xuất của công ty được khái quát qua sơ đồ sau:
Phân xưởng thêu
Phân xuởng may I
Phân xưởng may II
Phân xưởng gò II
Phân xưởng gò I
Phân xưởng đế
Phân xưởng chuẩn bị
Phòng Vật tư
phòng kế toán
ban cơ điện
phòng KCS,
kỹ thuật
phòng tổ chức lao động
phòng hành chính
Phó Giám Đốc kĩ thuật, phụ trách an toàn, hành chính
Phó Giám Đốc phụ trách sản xuất
Ban Giám đốc
Phòng KH
XNK
Hội đồng quản trị
Phân xưởngchặt
Việc nâng cấp tổ chức quản lý đã đem lại hiệu quả to lớn cho công ty nhất là khâu nhập nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm trực tiếp với khách hàng, qua nhiều khâu trung gian, giảm lao động gián tiếp thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế đứng vững trên thị trường cạnh tranh. Với cơ cấu tổ chức quản lý sản xuất trên mỗi phòng ban, phân xưởng đều có chức năng, nhiệm vụ cụ thể phục vụ tôt yêu cầu sản xuất kinh doanh của công ty và có mối quan hệ mật thiết giữa các phòng ban, phân xưởng, đảm bảo cho quá trình sản xuất liên tục, cân đối hiệu quả.
4. Đặc điểm về tổ chức sản xuất.
Công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình - Hải Dương tổ chức hoạt động sanr xuất kinh doanh hoàn toàn phù hợp với đặc điểm qui ttrình công nghệ sản xuất sản phẩm, công ty là đơn vị hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân, tổ chức sản xuất được thực hiện theo mô hình công ty bao gồm 8 phân xưởng:
_Phân xưởng chặt _Phân xưởng gò I
_Phân xưởng may I _Phân xưởng đế
_ Phân xưởng may II _Phân xưởng gò II
_Phân xưởng chuẩn bị _Phân xưởng thêu.
Cụ thể từng phân xưởng như sau:
Phân xưởng chặt:
Với tổng số công nhân 116 người, 01 quản đốc, 01 phó quản đốc, 01 kế toán thống kê, 01 kế hoạch điều độ sản xuất được chia thành 02 tổ sản xuất chính, mỗi tổ có 01 tổ trưởng, 01 tổ phó điều hành sản xuất. Nguyên liệu được lấy từ kho của công ty để chặt các chi tiết của đôi giầy và chuyển xuóng phân xưởng may tiếp tục chế biến.
Phân xưởng may I và May II.
Có tổng số công nhân là 653 người, ở mỗi phân xưởng có 01 quản đốc, 01 phó quản đốc, 01 kế toán thống kê, 01 kế toán điều độ sản xuất. Trong phân xưởng tổ chức thành 26 tổ sản xuất, mỗi tổ là một dây chuyền sản xuất khép kín. Các tổ sản xuất nhận bán thành phẩm từ phân xưởng chặt bao gồm nhiều chi tiét nhỏ về may hoàn chỉnh mũi giầy ở cuối mỗi dây chuyền, mỗi tổ, cuối mỗi ngày số mũi giầy được thống kê và chuyển xuống phân xưởng gò để gò thành thành phẩm giầy.
Phân xưởng đế.
Với tổng số công nhân là 73 người được chia thành 4 tổ sản xuất, mỗi tổ có một tổ trưởng, 01 tổ phó và trong phân xưởng có mọt quản đốc, 01 phó quản đốc, 01 kế toán thống kê và 01 kế hoạch xưởng. Nguyên liệu chủ yếu từ cao su, hoá chất được lấy từ kho của công ty, đem về xưởng sản xuất thành đế giầy theo khuân mẫu có sẵn. Sau khi đế đã hoàn thành được chuyển xuống phân xưởng chuẩn bị mài hoặc gián để toạ ra 01 đôi đế thành phẩm.
Phân xưởng gò I.
Với tổng số lao động là 183 người, gồm 2 dây chuyền sản xuất có 01 quản đốc, 02 phó quản đốc, một kế toán và một kế hoạch xưởng, nhiệm vụ của phân xưởng là nhận mũi may của phân xưởng may, đế của phân xưởng chuẩn bị về lắp ráp hoàn chỉnh một đôi giầy để xuất khẩu.
Phân xưởng chuẩn bị.
Với tổng số lao động là 124 người, 01 quản đốc, 02 phó quản đốc, một kế toán và một kế hoạch sản xuất, đây là phân xưởng phục vụ cho các phân xưởng trong công ty bao gồm các công viêc: In, tẩy, mài đế…
Phân xưởng gò II.
Với tổng số lao động là 111 người bao gồm 01 quản đốc, 01 phó quản đốc, một kế toán và một dây chuyền sản xuất, công việc cũng như phân xưởng gò I tức là cũng lắp ráp đế và mũi giầy để thành giầy thành phẩm.
Phân xưởng thêu:
Bao gồm 51 công nhân trong đó có 01 quản đốc, hai kỹ thuật xưởng theo ca chuyên phục vụ tất cả các loại hàng thêu ( chi tiết thêu trên giấy ) của công ty.
5. Quy trình công nghệ và máy móc thiết bị sản xuất giầy của công ty.
5.1.Quy trình công nghệ.
Là quy trình công nghệ sản xuất dây truyền liên tục và khép kín, không bị gián đoạn về mặt thời gian,bao gồm nhiều giai đoạn công nghệ khác nhau, sản phẩm chủ yếu là giầy thể thao, dép Sandal xuất khẩu, đế cao su.Ngoài ra còn rất nhiều loại nguyên vật liệu phụ khác như: tấm trang trí, đệm đế, mút xốp, keo…Một số phải nhập từ hàn quốc, còn lại công ty tìm các nguồn nhập trong nước để tiết kiệm chi phí. Hiện nay công ty chỉ sản xuất giầy thể thao xuất khẩu. Quy trình sản xuất giầy thể thao của công ty được thể hiện qua sơ đồ sau:
SƠ ĐỒ KHÁI QUÁT QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT GIẦY THỂ THAO
(công ty cổ phần Gíầy Cẩm Bình)
Nguyên liệu
Bồi
Chặt
may
Thêu
gò ráp
Đóng hộp
Kho thành phẩm
Mũ giầy
Đế
5.2Đặc điểm máy móc thiết bị.
Trước đây, máy móc thiết bị của công ty con rất lạc hậu vì vậy mà năng suất lao động rất thấp. hiện nay, công ty đã nhập các loại máy móc thiết bị hiện đại nhất hiện nay, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh cung đã tăng lên gấp nhiều lần. Hằng năm, công ty cũng nhập vào các loại máy hiện đại tiên tiến để bắt kịp trình độ khoa học tiên tiến, bỏ các loại máy lạc hậu từ nhiều năm và không con sử dụng được nữa.Dưới đây là bảng một số loại máy móc thiết bị của công ty.
Bảng 1: máy móc thiết bị của công ty
Stt
Máy móc thiết bị
Nước sản xuất
Năm sử dụng
ĐVT
Số lượng
Giá trị còn lại
1
Máy may bàn 1 kim
Tiệp-Nhật
2001
cái
502
40%
2
Máy may bàn 2 kim
Tiệp-Nhật
2001
cái
120
40%
3
Máy trụ 1 kim
Tiệp-Nhật
2001
cái
130
50%
4
Máy trụ 2 kim
Tiệp-Nhật
2001
cái
20
60%
5
Máy chặt thuỷ lực
Đài Loan
2001
cái
10
70%
6
Máy ép thuỷ lực
Đài Loan
2002
cái
3
70%
7
Máy mài
Đài Loan
2003
cái
20
80%
8
Máy lạng
Nhật
2001
cái
6
90%
9
Hệ thống thiết kế 2D
Nhật
2003
Bộ
4
65%
10
Dây chuyền sản xuất giầy thể thao
Đài Loan
2001
Bộ
2
90%
11
Dây chuyền sản xuất dép, sadal
Đài Loan
2001
Bộ
2
80%
12
Dây chuyền bồi cắt vải
Đài Loan
2003
Bộ
2
70%
(Nguồn: tổng hợp trích khấu hao thiết bị năm 2004-Phòng tài chính kế toán)
6. Đội ngũ lao động.
6.1. tình hình sử dụng lao động:
_Tổng số lao động của công ty : 1748 người
_Số lao động nữ so với tổng số: 1.485 người.
_Trình độ chuyên môn bậc thợ:
+Đại học, cao đẳng:34 người
+Trung cấp: 24 người
Do tính chất của ngành Giầy mang tính mùa vụ, do vậy lao động chủ yếu trong ngành giầy là nữ, biến động lao động rất lớn.Phản ánh rõ hơn tình hình này bằng các số liệu của bảng sau:
Bảng 2:Số lao động và tốc độ phát triển lao động của công ty
Đơn vị tính: người
Năm
Tổng số lao động
Tốc độ phát triển
2000
1584
2001
1621
2,3%
2002
1523
-6%
2003
1698
11,5%
2004
1700
0,12%
2005
1748
2,8%
Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy qua các năm số lao động của Công ty tăng dần qua các năm. Riêng năm 2002, do cơ cấu chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp, công ty không có chính sách tuyển dụng, bên cạnh đó do không có việc làm nên số lao động giảm 6%. Với đặc trưng của ngành giầy là theo mùa vụ, những tháng trái vụ lao động không có việc làm, không có lương, lao động gián tiếp chiếm từ 5-6 % so với tổng lao động của công ty. Thời gian bình quân làm việc của công ty là 8 giờ/ngày và 22 giê/tháng. Tổng quỹ thu nhập của công ty tăng dần từ năm 2000 đến năm 2004 và đến năm 2005 chỉ đạt 61.54% so với năm 2004. Tình hình trích nộp quỹ BHXH cho đến năm 2005, công ty mới trích nộp đến tháng 6 năm 2004.
6.2. Cơ cấu lao động:
Biểu 1: Cơ cấu lao động của công ty phân theo chuyên môn.
Chú thích:
1-lao động gián tiếp 5.5%
2-lao động trực tiếp 94.5%
Khối gián tiếp:
Tổng số lao động gián tiếp trong công ty chiếm 95 người =5,5% tổng số lao động của công ty, đây là một con số nhỏ, chiếm thiểu số. Những người này đều có trình độ từ đại học và cao đẳng trở nên và họ nắm bắt điều hành tất cả mọi hoạt động trong công ty. Hiện nay, công ty đang tuyển thêm nhân viên có trình độ từ đại học và cao đẳng trở lên, và tiếp ttục đào tạo cán bộ công nhân viên có trình độ cao hơn để quản lý bộ máy của công ty ngày càng tốt hơn.
Lao động trực tiếp:
Tổng số lao động trực tiếp trong công ty là 1653 người chiếm 94,5 % tổng số lao động của công ty, đây là những người trực tiếp làm các thao tác sản xuất trong công ty đóng một vai trò rất quan trọng trong lực lượng sản xuất của công ty, còn lại các quản đốc, phó quản đốc, kế toán, kĩ thuật là những người trực tiếp quản lý tại các phân xưởng sản xuất.
*Nhận xét: với 94.5% lao động trực tiếp sản xuất và chỉ 5.5% lao động gián tiếp, có thể nhận định rằng tỷ lệ này là hợp lý,bộ máy quản lý không hề cồng kềnh, việc tinh giản bộ máy quản lý đã được công ty kể từ khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá và đến nay đã thu được kết quả nổi bật.
Bảng 3: Cơ cấu lao động phân theo trình đọ học vấn
Loại lao động
số người
tỷ lệ
Đại học, cao đẳng
34
1,945%
Trung cấp
24
1,373%
Phổ thông
1690
96,682%
Nhận xét: lao động có trình độ chuyên môn cao của công ty rất ít, chỉ chiếm có 1,945%. Lao động tốt nghiệp trung cấp chỉ có 1,373% : một tỷ lệ quá thấp. Đại bộ phận là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Đây chính là điểm yếu lớn đối với doanh nghiệp gây khó khăn trong việc tiếp cận với công nghệ tiên tiến hiện đại. Vì vậy vấn đề đặt ra cho công ty trong thời gian tới là phải nâng cao tay nghề và trình độ chuyên môn cho lao động của công ty.
Bảng 4: Cơ cấu lao động phân theo bậc thợ
Loại bậc thợ
Số người
tỷ lệ(%)
Công nhân bậc 1/7
634
37,51
Công nhân bậc 2/7
452
26,75
Công nhân bậc 3/7
355
21
Công nhân bậc 4/7
127
7,51
Công nhân bậc 5/7
27
1,6
Công nhân không bậc
95
5,63
Tổng
1690
100
Nhận xét: Trình độ lao động phân theo bậc thợ của công ty cũng rất thấp. Công ty không có công nhân bậc 6 và bậc 7, bậc 5 cũng chỉ có 27 người chiếm 1,6%. Rõ ràng một thực tế đặt ra cho công ty là pải nâng cao hơn cữa trình lao động cho công ty trong thời gian tới để nâng cao năng suất lao động.
Bảng 5: Cơ cấu lao động theo giới tính
Loại lao động
Số người
tỷ lệ (%)
Lao động nam
263
14,7
Lao động nữ
1485
85,3
Tổng
1748
100
Nhận xét: tổng số lao động nữ so với tổng số lao động của công ty chiếm 85,3%, điều này cho thấy đa số lao động trong ngành Giầy của công ty là nữ, biến động lao động trong ngành là rất lớn, chưa thể khắc phục được, điều này đã tạo nên nhiều vấn đề phức tạp cho công ty cũng như cho xã hội. Đa số những lao động nữ này đều là lao động thất nghiệp ở nông thôn và họ xin vào các công ty làm việc, một phần do đặc thù của nghề nghiệp đòi hỏi sự khéo léo, bền bỉ mà công ty tuyển lao động nữ nhiều hơn nam.Hiện nay, công ty đã tuyển lao động nam ở một số các phân xưởng đòi hỏi công việc nặng phù hợp với nam giới, điều này cũng đã giảm thiểu tình trạng chênh lệch giữa số lao động nam và lao động nữ trong công ty.
c. Tính lương cho người lao động:
Kế toán căn cứ vào chứng từ ban đầu để tinh ra các bảng thanh toán lương của từng bộ phận, từng người lao động trong các bộ phận. Sau đó, căn cứ vào bảng thanh toán lương của từng bộ phận để tính ra bảng. Hoặc tập hợp thành bảng, tính ra lương của toàn đơn vị hay toàn doanh nghiệp.
_Căn cứ vào bảng thanh toán lương của toàn doanh nghiệp, kế toán phải tiến hành lập bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích theo lương.
_Căn cứ vào các phiếu nghỉ, hưởng bảo hiểm xã hội để tính ra bảng thanh toán BHXH để tính toán cho tững người lao động.
d. Trả lương:
Còn được tiến hành hàng tháng và thường được tiến hành vào hai kỳ. Kỳ một, tạm ứng lương cho cán bộ công nhân viên. Kỳ hai sau khi tính lương và các khoản trả cho công nhân viên trong tháng doanh nghiệp tiến hành thanh toán nốt sau khi đã trừ đi các khoản khấu trừ đến kì chi trả lương và các khoản thanh toán trực tiếp khác doanh nghiệp phải lập giấy xin rút tiền mặt ở ngân hàng về quỹ để chi trả lương đồng thời lập uỷ nhiệm chi để chuyển số tiền BHXH cho cơ quan BHXH. Việc chi trả lương của doanh nghiệp do thủ quỹ của doanh nghiệp thực hiện. Thủ quỹ căn cứ vào các bảng thanh toán lương, thanh toán BHXH để chi trả lương và các khoản khác cho công nhân viên. Khi nhận tiền thì công nhân viên phải ký tên vào bảng thanh toán lương, nếu vì một lý do nào đó công nhân viên chưa lĩnh thì thủ quỹ lập danh sách tên và số tiền của họ chuyển từ bảng thanh toán lương sang bảng kê thanh toán với công nhân viên chưa nhận.
e. Đối tượng các khoản trích theo lương:
Việc xác định đối tượng các khoản trích theo lương là công việc đầu tiên trong công tác hạch toán tiền lương trong công tác hạch toán tiền lương chi trả lương cho công nhân viên. Trong doanh nghiệp sản xuất, việc chi trả lương tuỳ theo từng đối tượng cá nhân, tập thể hết sức quan trọng.
Việc xác định đối tượng trả lương phải căn cứ vào hình thức trả lương, tuỳ thuộc vào trình độ lao động, tay nghề của người lao động với quy trình công nghệ sản xuất với các trình độ hạch toán kinh doanh kinh tế và quản lý doanh nghiệp:
_Tuỳ theo mức độ làm việc vủa người lao động.
_Trình độ trí óc mà họ bỏ ra phục vụ.
_Tinh thần làm việc có đúng và đủ thời gian làm việc quy định.
Phưong pháp xác định các khoản trích theo lương.
Tình hình thực tế các khoản trích theo lương của công ty giầy Cẩm Bình- Hải Dương.
Là doanh nghiệp chuyên sản xuất giầy thể thao xuất khẩu theo đơn đặt hàng . Vì vậy đối tượng trả lương cho lao động theo số lượng sản phẩm bán hàng với các đơn đặt hàng.
Tiền trả lương cho người lao động được tính theo tay nghề, sản phẩm mà họ làm ra, theo từng dây chuyền sản xuất. Mỗi dây chuyền có một chế độ lương khác nhau. Vậy hình thức trả lương phải theo quy trình sản xuất của phân xưởng mà công ty trả cho người lao động.
Hàng tháng doanh nghiệp phải trả lương cho công nhân viên đúng, đầy đủ, kịp thời.
Ngoài ra công ty còn trích tiền ăn ca, BHXH theo qui định của Nhà nước, chi phí điện nước, điện thoại bất thường, phí và các khoản lệ phí
7. Đặc điểm về tài chính:
Bảng 6: tóm tắt tài sản thời điểm 30/4/2005:
Tên tài sản
số tiền(đ)
số tuyệt đối
số tương đối
1. TSLĐ & ĐTNH
10.695.672.456
13.468.591.517
44.3%
2.TSCĐ & ĐTDH
13.468.591.517
10.695.672.456
55.7%
tổng
24.164.263.973
0
100%
Tên nguồn vốn
số tiền
số tuyệt đối
số tương đối
1. Nợ phải trả
19.489.413.452
4.674.850.521
80.65%
2.Nguồn vốn CSH
4.674.850.521
19.489.413.452
19.35%
tổng
24.164.263.973
0
100%
Công ty cổ phần Giầy Cẩm Bình có tổng nguồn vốn hiện nay là 24.600.000.000 đồng, theo hình thức 100% là cổ phần trong đó Vốn cố định là: 15.400.000.000 đồng, chiếm 62,6 % tổng nguồn vốn, Vốn lưu động là: 9.200.000.000 đồng, chiếm 37,4%. Từ năm 2001-2004 tổng nguồn vốn tăng 30%, năm 2005 đạt 24,1tỷ đồng
III. Phân tích thực trạng sản xuất kinh doanh và hiệu quả sản xuất kinh doah của công ty của công ty.
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong một số năm gần đây.
Trong quá trình phát triển đi lên, bằng nỗ lực phấn đấu của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty, quản lý tốt sản xuất kinh doanh, nắm bắt kịp thời diễn biến của thị trường, nên sản phẩm của cong ty sản xuất ra đến đâu tiêu thụ hết đến đó. Do vậy, luôn hoàn thành kế hoạch thu lợi nhuận nộp ngân sách nhà nước tích luỹ, không ngừng nâng cao uy tín sản phẩm trên thị trường cạnh tranh và trả mức lương thoả đáng cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Tình hình sản xuất của công ty có chiều hướng phát triển thuận lợi, liên tục doanh thu năm sau cao hơn năm trước, thể hiện qua bảng sau:
Bảng 7: số liệu thành tích năm 2001-2005:
Năm
Doanh thu
Lợi nhuận sau thuế
Nộp ngân sách
tỷ đồng
tốc độ pt
tỷ đồng
tốc độ pt
tỷ đồng
tốc độ pt
2001
64
3,1
2,3
2002
9._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28609.doc