MỤC LỤC
Mục lục i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt iii
Danh mục các bảng iv
3.3.3 .Đẩy mạnh cải cách 109
3.3.4. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội 111
3.3.5. Chăm lo bảo vệ tốt môi trường 113
3.3.6. Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến, vận động đầu tư vào các KCN 114
KẾT LUẬN 119
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT
Chữ viết tắt
Nguyên nghĩa
1
CNH
Công nghiệp hóa
2
CNXH
Chủ nghĩa xã hội
3
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
4
HĐH
Hiện đại
131 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp ở tỉnh Nghệ An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hóa
5
HĐND
Hội đồng nhân dân
6
KCN
Khu công nghiệp
7
KCX
Khu chế xuất
8
KCNC
Khu công nghệ cao
9
NGO
Viện trợ của các tổ chức phi Chính phủ nước ngoài
10
ODA
Hỗ trợ phát triển chính thức
11
UBND
Ủy ban nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
TT
Ký hiệu
Tên bảng
Trang
1
2.1
Quy hoạch sử dụng đất (giai đoạn 1) KCN Bắc Vinh
34
2
2.2
Quy hoạch sử dụng đất KCN Nam Cấm
37
3
2.3
Tình hình hoạt động của các KCN Nghệ An
38
4
2.4
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong các KCN Nghệ An
58
5
2.5
Các dự án có vốn đầu tư trong nước đầu tư vào các KCN Nghệ An
59
6
2.6
Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước trong các KCN Nghệ An
62
7
3.1
Dự kiến nhu cầu lao động tại KCN Hoàng Mai
91
8
3.2
Dự kiến cơ cấu sử dụng đất tại KCN Hoàng Mai
92
9
3.3
Tổng mức vốn đầu tư dự kiến cho đầu tư, xây dựng hạ tầng KCN Cửa Lò
93
10
3.4
Quy hoạch phát triển KCN, KCX đến 2010 của Nghệ An, khu vực Duyên Hải miền trung và cả nước
94
11
3.5
Tổng mức vốn đầu tư, xây dựng hạ tầng khu A, C khu công nghiệp Nam Cấm dự kiến đến năm 2010
95
12
3.6
Kế hoạch sử dụng nguồn vốn ngân sách cho đầu tư phát triển các KCN Nghệ An năm 2006
96
MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu
Để đất nước ta ngày càng lớn mạnh, thực hiện bằng được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của thời đại và để sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, phải năng động, sáng tạo nắm bắt tốt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm đổi mới toàn diện và mạnh mẽ theo con đường Xã hội chủ nghĩa.
Một trong những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm thực hiện được mục tiêu trên là phải thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX, góp phần xây dựng cho bằng được nền tảng của một nước công nghiệp. Bởi vì KCN, với việc tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và áp dụng mô hình quản lý đặc biệt, là một hình thức sản xuất công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, tạo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước và là một trong những giải pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển KCN đã mang lại bước phát triển mới vượt bậc của công nghiệp nước ta, tăng khả năng thu hút đầu tư, đẩy mạnh sản xuất tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo việc làm và từng bước phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư phát triển hạ tầng, hạn chế ô nhiễm do chất thải công nghiệp gây ra, làm cơ sở cho phát triển các đô thị công nghiệp, phân bố hợp lý lực lượng sản xuất và đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước.
Nghệ An là một tỉnh có nhiều lợi thế đầu tư phát triển nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, tỉnh Nghệ An đã chọn quy hoạch và phát triển KCN là mô hình phát triển trọng điểm kinh tế của địa phương và đã có nhiều chủ trương, cơ chế chính sách thu hút đầu tư thông thoáng, cởi mở. Đặc biệt những năm gần đây tỉnh đã có những chính sách và cơ chế mạnh để hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư như hỗ trợ đền bù giải phóng và san lấp mặt bằng, hỗ trợ hạ tầng trong và ngoài hàng rào dự án, đào tạo lao động... đã có tác dụng rất lớn thu hút được nhiều nhà đầu tư trong nước, ngoài nước đầu tư vào các KCN, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh, làm thay đổi hẳn cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của Tỉnh, chưa xứng đáng với sự quan tâm của Đảng, Chính phủ và chưa đáp ứng được mong muốn của Đảng bộ và nhân dân Nghệ An. Để sớm trở thành Tỉnh công nghiệp, cùng cả nước vững bước tiến lên trong thời kỳ CNH, HĐH. Nghệ An cần phải xem xét lại toàn bộ công tác phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN trong thời gian qua, tìm ra những nguyên nhân yếu kém, trên cơ sở đó có những giải pháp phù hợp nhằm làm tốt hơn nữa công tác phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN.
Từ trước đến nay chưa có một đề tài nào nghiên cứu về công tác phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An. Xuất phát từ những nhận như trên, tôi chọn đề tài "Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở tỉnh Nghệ An" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế. Hy vọng sẽ góp phần nhất định vào việc giải quyết những vấn đề cơ bản và cấp bách trong việc phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An.
2. Mục tiêu của đề tài
Hệ thống hoá các vấn đề có tính chất lý luận và thực tiễn về phát triển KCN, thu hút đầu tư vào các KCN.
Phân tích, đánh giá thực trạng công tác phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, phân tích những nguyên nhân của những tồn tại cũng như chỉ ra các vấn đề cần giải quyết để hoàn thiện và phát triển các KCN, tăng cường hiệu quả của công tác thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An.
Đưa ra các quan điểm, phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện và phát triển các KCN và nâng cao khả năng thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Các KCN và công tác thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Nghệ An, có tham chiếu, so sánh với một số địa phương điển hình, vùng Bắc Trung bộ và cả nước.
+ Thời gian: Giai đoạn 1996 - 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, kết hợp lôgíc với lịch sử, phân tích và tổng hợp để xây dựng các luận cứ cho từng vấn đề. Kết hợp phương pháp thống kê, phương pháp trừu tượng hoá, phương pháp phân tích tổng hợp, xử lý số liệu, so sánh để khái quát thành những luận điểm có căn cứ lý luận và thực tiễn.
Tác giả cũng kế thừa, sử dụng các kết quả nghiên cứu đã có, bổ sung và phát triển những căn cứ khoa học mới theo thực tiễn nghiên cứu của đề tài.
5. Những đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá và làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển KCN, phân tích vai trò của KCN trong hoạt động đầu tư phát triển.
- Phân tích, đánh giá về thực trạng phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An. Phân tích những nguyên nhân của những tồn tại cũng như chỉ ra các vấn đề cần giải quyết để hoàn thiện và phát triển các KCN.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An.
6. Kết cấu của luận văn
Tên luận văn: "Giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp ở tỉnh Nghệ An".
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư vào các KCN
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN ở tỉnh Nghệ An
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ VÀO CÁC KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm về đầu tư và Khu công nghiệp
1.1.1. Đầu tư
1.1.1.1. Khái niệm đầu tư
Luật Đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp tứ 8 (Từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2005) thông qua, quy định:
Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Phân loại đầu tư
Căn cứ vào hình thức đầu tư, có thể phân đầu tư ra làm hai loại:
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
- Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư thông qua việc mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu, các giấy tờ có giá khác, quỹ đầu tư chứng khoán và thông qua các định chế tài chính trung gian khác mà nhà đầu tư không trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Căn cứ vào nguồn hình thành vốn đầu tư, có thể phân đầu tư làm hai loại:
- Đầu tư trong nước là việc nhà đầu tư trong nước bỏ vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư tại Việt Nam.
- Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư.
1.1.1.3 Khái niệm vốn đầu tư
Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
1.1.2 Khu công nghiệp
1.1.2.1 Khái niệm Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao
Theo Luật đầu tư được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 8 (Từ ngày 18 tháng 10 đến ngày 29 tháng 11 năm 2005) thông qua thì:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Khu chế xuất là KCN chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Khu công nghệ cao là khu chuyên nghiên cứu phát triển, ứng dụng công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao, đào tạo nhân lực công nghệ cao, sản xuất và kinh doanh sản phẩm công nghệ cao, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo quy định của Chính phủ.
Đặc điểm của KCN:
- KCN có ranh giới địa lý xác định được phân cách bằng đường bao hữu hình hoặc vô hình, không có dân cư sinh sống.
- Là nơi hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp công nghiệp (hàng tiêu dùng, hàng công nghiệp chế biến, hàng tư liệu sản xuất) và hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp dịch vụ cho sản xuất công nghiệp. Các doanh nghiệp này sử dụng chung hạ tầng kỹ thuật và xã hội theo một cơ chế tổ chức quản lý thống nhất của Ban quản lý KCN.
- Được sự quản lý trực tiếp của Chính phủ. (từ quyết định thành lập, quy hoạch tổng thể, khung điều lệ mẫu, kiểm tra, kiểm soát..).
- Trong KCN có doanh nghiệp phát triển hạ tầng KCN, có trách nhiệm đảm bảo hạ tầng kỹ thuật và xã hội của cả khu trong suốt thời gian tồn tại KCN.
1.1.2.2 Các loại hình Khu công nghiệp
- Phân loại KCN theo quy mô: có 2 loại
+ KCN tập trung: có quy mô từ 50 ha trở lên.
+ KCN vừa và nhỏ: có quy mô nhỏ hơn 50 ha.
- Phân theo chủ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng KCN: có 3 loại.
+ KCN do doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài làm chủ đầu tư. Ví dụ: KCN Hà Nội - Đài Tư (Hà Nội).
+ KCN do liên doanh giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các doanh nghiệp trong nước. Đặc trưng của các KCN này là được xây dựng hiện đại có quy mô thường lớn hơn 100 ha, xuất đầu tư bình quân 1triệu usd/ha. Thường ở các KCN này khi xây dựng hoàn chỉnh mới cho các nhà đầu tư thuê xây dựng hạ tầng.
Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Nomura (Hải Phòng), KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Đà Nẵng (Đà Nẵng)...
+ KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư. Đặc trưng của các KCN này thường được xây dựng theo hình thức cuốn chiếu (xây dựng đến đâu cho các nhà đầu tư thuê sau đó mới tiếp tục xây dựng tiếp), xuất đầu tư của các KCN này bình quân 120.000 USD/ha
Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Tiên Sơn (Bắc Ninh), KCN Lệ Môn (Thanh Hoá), KCN Bắc Vinh (Nghệ An)...
- Phân theo mục đích phát triển KCN. Có các hình thức sau:
+ KCN nhằm thu hút đầu tư nước ngoài: Thường tập trung ở các thành phố lớn, các trung tâm kinh tế lớn của đất nước. Quy mô thường lớn hơn 100 ha.
+ KCN nhằm di dời các cơ sở công nghiệp trong các thành phố, đô thị lớn. Thường tập trung ở các thành phố lớn, có quy mô nhỏ hơn 100 ha. Đơn cử như KCN Phú thị (Hà Nội), KCN Thanh trì (Hà Nội)...
+ KCN gắn với ưu thế của địa phương. Thường có quy mô nhỏ hơn 100 ha, gắn với lợi thế của địa phương và chế biến các nông sản, thực phẩm do địa phương đó sản xuất ra. Điển hình ở Việt Nam có các khu: KCN Phú Khánh (Thái Bình), KCN Tâm Thắng (Đắc Nông)...
- Phân theo đặc điểm ngành công nghiệp:
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp chế tạo: Như KCN Phú Mỹ 1 (Bà Rịa-Vũng Tàu) tập trung các dự án về thép, phân bón, điện, khí.
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng: sản xuất các sản phẩm: may mặc, điện tử, da-giầy, xe máy, .v.v. Như KCN Biên Hoà II (Đồng Nai), KCN Đồng An (Bình Dương)....
+ KCN tập trung các ngành công nghiệp dịch vụ: chuyên sản xuất các sản phẩm phục vụ cho các ngành công nghiệp như: bao bì, đóng gói, .v.v. Như KCN Bình Đường (Bình Dương).
+ KCN gắn với nông nghiệp, nông thôn: gồm các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp, sản xuất các sản phẩm hỗ trợ cho nông nghiệp và nông thôn. Như KCN Phúc Khánh (Thái Bình), Tâm thắng (Đắc Nông) .v.v.
- Phân theo trình độ công nghệ hoá:
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ thấp và trung bình tương đương với trình độ công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp ngoài khu. Như KCN Bình Đường (Bình Dương), KCN Lê Minh Xuân (thành phố Hồ Chí Minh).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá so với các ngành công nghiệp trong nước nhưng chỉ đạt mức trung bình trong khu vực. Như KCN Nội Bài (Hà Nội), KCN Sài Đồng B (Hà Nội).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ khá so với khu vực. Như KCN Thăng Long (Hà Nội), KCN Vĩnh Lộc (thành phố Hồ Chí Minh).v.v.
+ KCN tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng công nghệ tiên tiến so với khu vực và thế giới như KCN Nomura (Hải Phòng).
1.1.2.3 Ban quản lý các Khu công nghiệp cấp tỉnh
Theo điều 27, Quy chế KCN, KCX, KCNC (Ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997 của Chính phủ) thì Ban quản lý KCN cấp Tỉnh là Cơ quan trực tiếp quản lý các KCN do Thủ tướng Chính phủ thành lập, có nhiệm vụ và quyền hạn:
- Xây dựng Điều lệ quản lý KCN trên cơ sở Điều lệ mẫu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành trình UBND cấp Tỉnh phê duyệt. Trường hợp Điều lệ quản lý KCN trên địa bàn liên Tỉnh thì Bộ kế hoạch và Đầu tư phê duyệt. Đối với Điều lệ quản lý KCNC thì do Bộ Khoa học và Công nghệ phê duyệt.
- Tổ chức xây dựng và quản lý thực hiện quy hoạch chi tiết, tiến độ xây dựng, phát triển KCN bao gồm: quy hoạch phát triển công trình kết cấu hạ tầng; quy hoạch bố trí ngành nghề tham gia phát triển công trình kết cấu hạ tầng ngoài KCN liên quan và khu dân cư phục vụ cho công nhân lao động tại KCN.
- Đôn đốc, kiểm tra việc xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN liên quan để đảm bảo việc xây dựng và đưa vào hoạt động đồng bộ theo đúng quy hoạch và tiến độ được duyệt.
- Hỗ trợ, vận động đầu tư vào KCN.
- Tiếp nhận đơn xin đầu tư kèm theo dự án đầu tư, tổ chức thẩm định và cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án nước ngoài theo sự uỷ quyền của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; quyết định đầu tư cho các dự án trong nước theo sự uỷ quyền của UBND Tỉnh; tiếp nhận hồ sơ thành lập doanh nghiệp trong nước và các chính sách ưu đãi, để cấp có thẩm quyền cấp giấy phép. Phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu, cấp Chứng chỉ xuất xứ hàng hoá sau khi được uỷ quyền của Bộ Thương mại. Tiếp nhận hồ sơ xin cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài sau khi được uỷ quyền của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.
- Kiểm tra, thanh tra việc thực hiện giấy phép đầu tư, hợp đồng gia công sản phẩm, hợp đồng cung cấp dịch vụ, hợp đồng kinh doanh, các tranh chấp kinh tế theo yêu cầu của đương sự.
- Phối hợp với các Cơ quan quản lý Nhà nước về lao động trong việc kiểm tra, thanh tra các quy định của pháp luật về hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, an toàn lao động tiền lương.
- Quản lý hoạt động dịch vụ KCN.
- Thoả thuận với Công ty phát triển hạ tầng KCN trong việc định giá cho thuê đất gắn liền với công trình kết cấu hạ tầng đã xây dựng, các loại phí dịch vụ theo đúng chính sách và pháp luật hiện hành.
- Cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy chứng chỉ thuộc thẩm quyền hoặc theo uỷ quyền; cấp, điều chỉnh và thu hồi các loại giấy phép theo uỷ quyền.
- Được mời đại diện tham dự các cuộc họp của cơ quan Chính phủ và UBND cấp Tỉnh khi bàn về việc hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý KCN.
- Báo cáo định kỳ và hàng năm theo quy định của pháp luật về tình hình hình thành, xây dựng, phát triển và quản lý các KCN về UBND cấp Tỉnh, các Cơ quan Chính phủ có liên quan.
Ban quản lý các KCN Nghệ An được thành lập tại Quyết định số 107/1999/QĐ-TTg ngày 23 tháng 4 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ. Với chức năng nhiệm vụ được quy định tại Quyết định số 122/2001/QĐ-UB ngày 20 tháng 12 năm 2001 của UBND tỉnh Nghệ An.
1.2. Vai trò của KCN và thu hút vốn đầu tư vào các KCN ở Nghệ An
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Nghệ An
Vị trí địa lý: Nghệ An nằm ở trung tâm khu vực Bắc miền Trung trong tọa độ từ 18035'60'' đến 20035'00'' vĩ độ bắc; 103050'25'' đến 105040'30'' kinh độ đông. Phía bắc giáp tỉnh Thanh Hóa, phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh, phía tây giáp các tỉnh Xiêng Khoảng, Pô Li Khăm Xay và Hủa Phăn của nước cộng hòa dân chủ nhân dân Lào (có 420km đường biên giới), phía đông là biển Đông với bờ biển dài 82km. Là tỉnh rộng nhất cả nước với diện tích tự nhiên 16.480km2. Nghệ An có đủ ba vùng sinh thái: miền núi, trung du và vùng đồng bằng ven biển. Vị trí địa lý đó đã tạo ra sự hấp dẫn trước mắt và lâu dài cho các nhà đầu tư vào Nghệ An trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Diện tích đất tự nhiên: 1.648.729 ha, trong đó: Đất nông nghiệp 207.100 ha (có 13.500 ha đất đỏ bazan), đất lâm nghiệp 1.195.477 ha (trong đó diện tích đất có rừng: 745.557 ha, đất không có rừng: 490.165 ha) là tiềm năng để phát triển Nông, Lâm, Thủy sản trên quy mô lớn, tập trung tạo vùng nguyên kiệu cho công nghiệp chế biến các loại sản phẩm từ cây công nghiệp dài ngày, ngắn ngày, cây ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản..
Dân số: Trên 3 triệu người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 1,7 triệu người, số lao động được đào tạo chiếm gần 30%. Hàng năm nguồn lao động được bổ sung gần 3 vạn lao động trẻ có trình độ. Nghệ An là mảnh đất có truyền thống văn hóa, giáo dục. Con người Nghệ An nổi tiếng bởi sự hiếu học, cần cù, trung thực, đoàn kết, gắn bó. Giá nhân công rẻ, dễ tuyển dụng nên rất có lợi cho các nhà đầu tư.
Tài nguyên rừng: Tổng diện tích rừng của Nghệ An là 745.557 ha, với tổng trữ lượng gỗ: 50 triệu m3, trên 1.000 triệu cây nứa, mét. Có rừng nguyên sinh vườn Quốc gia Pù Mát diện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống diện tích 50.000 ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát triển trồng, chế biến lâm sản, vùng nguyên liệu giấy, du lịch sinh thái v.v..
Tài nguyên biển: Nghệ An có 82km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch, có trên 3.000 ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có khả năng phát triển nuôi trồng hải sản (tôm, cua, cá, mực, nghêu, sò…). Trữ lượng hải sản ước trên 80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương… Đây là những điều kiện thuận lợi để đầu tư các dự án nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy sản và du lịch biển có hiệu quả.
Tài nguyên khoáng sản: Nghệ An có trữ lượng một số loại khoáng sản khá lớn, bao gồm: Đá vôi trên 1 tỷ tấn (Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn); Đá xây dựng trên 1 tỷ m3 (Quỳnh Lưu, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Thanh Chương, Nghĩa Đàn, Anh Sơn). Đất sét làm nguyên liệu xi măng 300 triệu tấn (Quỳnh Lưu, Đô Lương, Anh Sơn); 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ Châu); Đá Bazan 260 triệu m3 (Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp). Trên 54 triệu m3 đá đen (Con Cuông, Đô Lương); 160 triệu tấn đá Granite (Tân Kỳ); Sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu tấn (Nghi Lộc, Đô lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con Cuông); Than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); Vàng sa khoáng ở thượng nguồn sông Hiếu, sông Lam (Quỳ Châu, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn); thiếc (Quỳ Hợp). Đặc điểm lợi thế là các tài nguyên trên của Nghệ An tập trung thành những quần thể, nguyên liệu chính và nguyên liệu phụ ở gần nhau, có chất lượng cao, gần đường giao thông nên rất thuận lợi cho sản xuất xi măng, gốm sứ, bột đá siêu mịn, gạch lát, sản phẩm thủ công mỹ nghệ, phân vi sinh v.v..
Hệ thống cơ sở hạ tầng - xã hội:
- Hệ thống giao thông:
+ Đường bộ: Nghệ An nằm trên trục Quốc lộ (QL) 1A chạy theo tuyến đường Bắc - Nam dài 85km, qua các huyện ven biển và thành phố Vinh. Đường Hồ Chí Minh chạy ngang qua các huyện miền núi trung du là vùng nguyên liệu tập trung phong phú, dài 132km. QL7, QL46, QL48 chạy dọc từ cảng biển Cửa Lò, qua QL 1A, qua các xã miền núi cho đến cửa khẩu Nậm Cắn, Thanh Thủy, Thông Thụ sang nước bạn Lào. Tuyến giao thông miền tây Nghệ An dài 226 km nối 3 huyện miền tây với Thanh Hóa sẽ được đầu tư trong kế hoạch 2006- 2008. Các tuyến tỉnh lộ (365km), 5.930km đường cấp huyện tạo ra một mạng lưới giao thông liên hoàn nối các huyện, các vùng kinh tế trong tỉnh với nhau và toả ra cả nước cũng như các nước trong khu vực.
+ Đường sắt: Tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy xuyên suốt chiều dài của tỉnh. Nhánh đường sắt Cầu Giát - Thái Hòa (Nghĩa Đàn) nối đường sắt Bắc - Nam với vùng cây công nghiệp dài, ngắn ngày và vùng trung tâm vật liệu xây dựng của tỉnh. Ga Vinh là ga trung tâm của khu vực Bắc miền Trung.
+ Đường biển: Cảng Cửa Lò (cách thành phố Vinh 15km) có khả năng đón tàu 2 vạn tấn phục vụ xuất, nhập khẩu hàng hóa. Hiện nay Cảng đang được đầu tư nâng cấp, mở rộng công suất để đón tàu trên 3 triệu tấn/năm.
+ Đường không: Sân bay Vinh đã được nâng cấp và mở rộng để cho máy bay hiện đại loại lớn có thể lên xuống dễ dàng. Trong tương lai không xa sẽ trở thành sân bay Quốc tế (qua Lào, Thái Lan, Hải Nam - Trung Quốc).
+ Cửa khẩu: Có 2 cửa khẩu đi sang nước CHDCND Lào là cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn (Kỳ Sơn) và cửa khẩu quốc gia Thanh Thủy (Thanh Chương). Hiện Bộ giao thông vận tải sắp đầu tư tuyến đường giao thông: Thị trấn Kim Sơn (Quế Phong) đi Thông Thụ để mở thêm cửa khẩu Thông Thụ (Quế Phong), rất thuận lợi cho việc giao lưu với các nước phía tây.
- Hệ thống điện: Hệ thống điện lưới Quốc gia cung cấp cho Nghệ An bằng mạng lưới kết hợp 220KV và 110KV. Mạng 220KV nối từ thủy điện Hòa Bình qua trạm 220/110 KW Thanh Hóa vào Hưng Đông - Thành phố Vinh. Mạng 110KV đi từ Thanh Hóa qua trạm Quỳnh Lưu đế Nghĩa Đàn, Quỳ hợp. Ngoài ra còn có trạm 110KV từ trạm Hưng Đông đi các Huyện trong tỉnh. Hằng năm cung cấp khoảng 780 - 790 triệu KW và từ 1,5 đến 1,8 tỷ KW đến năm 2010. Nhiều công trình Thủy điện đang và sắp tới sẽ khởi công xây dựng như nhà máy thủy điện Bản Vẽ, Khe Bố, Nậm Cắn 1, Nậm Cắn 2, Bản Cốc, Nhạn Hạc và còn 7 - 8 nhà máy thủy điện vừa và nhỏ khác trên khu vực Sông Cả, Sông Hiếu, Sông Giăng đang kêu gọi đầu tư. Hiện tại, nguồn điện đảm bảo cung cấp điện ổn định cho sản xuất và sinh hoạt.
- Hệ thống cấp nước: Hiện tại nước cung cấp đủ cho các cơ sở sản xuất công nghiệp và nông nghiệp nhờ hệ thống sông ngòi, hồ, đập ở Nghệ An có nhiều và lượng mưa hàng năm tương đối cao so với cả nước. Riêng nước sinh hoạt đô thị và các KCN đều có hệ thống nhà máy nước đảm bảo đủ cung cấp. Nhà máy nước Đông Vĩnh công suất 60.000 m3/ngày, hàng năm cung cấp gần 18,5 triệu m3 nước sạch cho vùng Vinh và phụ cận, đang chuẩn bị nâng công suất lên 80.000 m3/ngày. Ngoài 13 Nhà máy nước ở các thị xã và thị trấn đang hoạt động, đến năm 2007 sẽ nâng công suất Nhà máy nước Quỳnh Lưu và xây dựng thêm 5 Nhà máy nước ở các thị trấn Yên Thành, Nam Đàn, Quế Phong, Tương Dương, Kỳ Sơn cùng với hệ thống nước sạch ở nông thôn đảm bảo đủ cung cấp cho 90% số dân và 100% cơ sở sản xuất công nghiệp.
- Hệ thống thông tin liên lạc: Cơ sở vật chất và mạng lưới Bưu chính viễn thông hiện đại, với đầy đủ các loại hình dịch vụ có thể đáp ứng nhanh chóng nhu cầu trao đổi thông tin, liên lạc trong nước và quốc tế.
- Giáo dục và đào tạo: Đại học Vinh đào tạo đa ngành, bao gồm 30 chuyên ngành khác nhau với quy mô đào tạo 15.000 sinh viên/năm (dự kiến 30.000 sinh viên/năm vào năm 2020), 5 trường Cao đẳng: Kỹ thuật 3, Kinh tế - Kỹ thuật, Y tế, Sư phạm,Văn hóa nghệ thuật hàng năm đào tạo gần 10.000 sinh viên (trong đó trường Cao đẳng kỹ thuật 3 sắp tới sẽ được nâng cấp lên thành Đại học Kỹ thuật Công nghiệp). Bên cạnh đó còn có 3 trường trung học kỹ thuật, 7 trường đào tạo công nhân kỹ thuật và dạy nghề, cùng với nhiều trung tâm dạy nghề ở các Huyện, hàng năm đào tạo 22.000 đến 25.000 lao động kỹ thuật, có thể đáp ứng nhu cầu cung ứng nguồn lực lao động kỹ thuật cho các nhà đầu tư.
- Y tế: Hiện nay Nghệ An có mạng lưới bệnh viện tuyến tỉnh, huyện, các phòng khám đa khoa khu vực và mạng lưới trạm y tế xã, phường tương đối tốt. Tỷ lệ trạm xá xã phường có trình độ bác sỹ đạt 70%. Công tác phòng, chống dịch bệnh được quan tâm. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 41% năm 2000 xuống còn 28% năm 2005. Cơ sở vật chất và đội ngũ thầy thuốc cơ bản đáp ứng yêu cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho nhân dân, cho các nhà đầu tư.
- Hoạt động văn hóa - thông tin, thể dục thể thao: Từng bước đáp ứng được nhu cầu của nhân dân. Cuộc vận động phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" và việc xây dựng thiết chế văn hóa, thông tin thể thao đồng bộ được đẩy mạnh. Có 75% gia đình và 32% xóm, bản, khối phố, đơn vị đạt chuẩn văn hóa. Đã có 16/19 huyện, thành, thị có nhà văn hóa đa chức năng và sân vận động. Tổ chức thành công các ngày lễ lớn; đặc biệt là kỷ niệm 115 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với nhân dân cả nước.
Điều kiện kinh tế: Điều kiện kinh tế của địa phương là một trong những yếu tố thuộc môi trường đầu tư. Nó có ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư do nó có thể làm tăng khả năng sinh lãi hoặc rủi ro cho nhà đầu tư. Ở đâu mà điều kiện kinh tế phát triển nhanh, bền vững, tiềm năng phát triển kinh tế càng lớn thì càng thu hút lớn đầu tư.
Đảng bộ và nhân dân tỉnh Nghệ An bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV nhiệm kỳ 2001 - 2005 trong bối cảnh thuận lợi: Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Một số định hướng lớn do Đại hội XV đề ra được khẳng định rõ hơn sau khi có kết luận 20-KL/TW của Bộ Chính trị, ngày 02 tháng 06 năm 2003 về Nghệ An. Nguồn lực được tích lũy từ những năm trước, tạo thế và lực cho sự phát triển cao hơn. Những kết quả kinh tế Nghệ An đạt được trong giai đoạn 2001 - 2005:
- Kinh tế có bước phát triển khá nhanh và tương đối toàn diện: Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 đạt 10,3%/năm (vượt chỉ tiêu kế hoạch). GDP bình quân đạt 5,59 triệu đồng/người/năm, tăng hơn 2 lần so với năm 2000.
Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 44,3% năm 2000 xuống 34,2%; tỷ trọng ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 18,6% lên 30,4%.
Nông, lâm, ngư nghiệp có bước phát triển khá: Sản lượng lương thực tăng nhanh, vượt 1 triệu tấn. Đã hình thành các vùng cây công nghiệp tập trung (25.000 ha mía, 3.000 ha dứa, 27.000 ha lạc, 7.660 ha chè, 3.360 ha cao su, 2.503 ha cà phê…) gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu. Chăn nuôi phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, nhất là chăn nuôi đại gia súc (681 ngàn con trâu bò, gần 1,3 triệu con lợn, 12 triệu con gia cầm)… Sản lượng thủy sản tăng từ 39.000 tấn lên 62.000 tấn. Đặc biệt sản xuất được giống tôm, cá để cung cho nhu cầu trên địa bàn tỉnh. Thực hiện xã hội hóa nghề rừng gắn với công tác định canh định cư nên rừng được khoanh nuôi, bảo vệ và trồng mới tốt hơn, nhờ đó độ che phủ của rừng tăng từ 36% năm 2000 lên 47% năm 2005.
Công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng: Giá trị sản xuất công nghiệp tăng gấp 4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Một số sản phẩm tăng gấp nhiều lần so với đầu năm 2000 như: Bia, đường kính, xi măng, gạch nung…Tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp ngoài quốc doanh và làng nghề phát triển, góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm và dịch chuyển cơ cấu lao động trong nông thôn.
Đã khởi công xây dựng Nhà máy thủy điện Bản Vẽ, Bản Cốc, khảo sát đầu tư nhà máy thủy điện Khe Bố và nhiều nhà máy thủy điện vừa và nhỏ khác.
Dịch vụ có chuyển biến theo hướng đa dạng hóa. Ngành thương mại tiếp tục được tổ chức lại đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất và đời sống nhân dân. Tổng mức bán lẻ trên thị trường xã hội tăng 12,27% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất khẩu đạt 125 triệu USD; tăng 26,3% so với cùng kỳ; trong đó xuất khẩu hàng hóa 84,939 triệu USD. Hoạt động du lịch có nhiều khởi sắc, hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư. Khai thác du lịch khá; tổ chức tốt năm Du lịch quốc gia Nghệ An 2005 và đón trên 1,3 triệu khách du lịch, tăng 40%, doanh thu dịch vụ du lịch đạt 330.9 tỷ đồng, tăng 43,8% so với cùng kỳ.
Việc tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước được thực hiện tích cực, nhất là cổ phần hóa, nhờ vậy các doanh nghiệp đã hoạt động ổn định và hiệu quả hơn. Các loại hình kinh tế tư nhân phát triển nhanh, đóng vai trò ngày càng quan trọng trong tăng thu ngân sách của tỉnh. Số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh năm 2005 là 946 doanh nghiệp, tăng 13,7% so với cùng kỳ. Công tác kiểm tra sau đăng ký kinh doanh có nhiều tiến bộ.
Thu ngân sách hằng năm tăng khá, năm 2005 đạt 1.715,2 tỷ đồng, tăng 4 lần so với đầu nhiệm kỳ. Ngân sách Trung ương: 515,143 tỷ đồng, ngân sách tỉnh: 740,4 tỷ đồng, ngân sách huyện; 264,197 tỷ đồng, ngân sách xã: 195,477 tỷ đồng. Chi ngân sách đã có nhiều cố gắng đảm bảo đáp ứng các yêu cầu thiết yếu. Chi cho đầu tư phát triển ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng mức đầu tư xã hội.
Thu hút đầu tư có hướng chuyển biến tích cực: Tổng nguồn vốn huy động đầu tư trên địa bàn cả năm 2005 đạt 8.131 tỷ đồng, tăng 24,4% so với cùng kỳ. Trong 10 tháng đầu năm 2005 có 4 nhà đầu tư nước ngoài và 20 nhà đầu tư trong nước đăng ký đầu tư vào Nghệ An với số vốn 9,33 triệu USD và 10.974 tỷ đồng.
1.2.2. Sự cần thiết hình thành các khu công nghiệp ở Nghệ An
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi rõ: "Đường lối kinh tế của Đảng ta là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng Xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng b._.ước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng trưởng quốc phòng - an ninh."
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH ở Việt Nam. Các KCN, KCX thực sự có vai trò đóng góp rất quan trọng, kể từ khi hình thành và phát triển đến nay. Tuy thời gian phát triển chưa lâu, nhưng các KCN, KCX Việt Nam bước đầu đã khẳng định được vai trò của mình là một lực lượng công nghiệp mạnh, có đóng góp ngày càng to lớn trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Vai trò quan trọng và hiệu quả kinh tế của việc xây dựng và phát triển các KCN, KCX đã được Đảng và Nhà nước ta xác định rõ trong các Văn kiện quan trọng về đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nghị quyết Hội nghị giữa nhiệm kỳ khóa VII đã nêu rõ: "Quy hoạch các vùng, trước hết là các địa bàn trọng điểm, các khu chế xuất, khu kinh tế đặc biệt, khu công nghiệp tập trung". Nghị quyết Đại hội VIII đã cụ thể hóa: "Hình thành các khu công nghiệp tập trung (bao gồm cả khu chế xuất và khu công nghệ cao), tạo địa bàn thuận lợi cho việc xây dựng các cơ sở công nghiệp mới. Phát triển mạnh công nghiệp nông thôn và ven đô thị, ở các thành phố, thị xã, nâng cấp, cải tạo các cơ sở công nghiệp hiện có, đưa các cơ sở không có khả năng xử lý ô nhiễm ra ngoài thành phố, hạn chế việc xây dựng cơ sở công nghiệp mới xen lẫn với khu dân cư". Hội nghị Trung ương 4 (khóa VIII) đã xác định phương hướng phát triển KCN trong những năm tiếp theo là: "phát triển từng bước và nâng cao hiệu quả các khu công nghiệp". Đây cũng là những định hướng quan trọng của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển các KCN, KCX nhằm thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH đất nước. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII tại đại hội lần thứ IX của Đảng về Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2005 tiếp tục khẳng định "Quy hoạch phân bố hợp lý công nghiệp trên cả nước. Phát triển có hiệu quả các khu công nghiệp, khu chế xuất, xây dựng một số khu công nghệ cao, hình thành các cụm công nghiệp lớn và khu kinh tế mở".
Thực hiện đường lối đó, tỉnh Nghệ An đã chọn quy hoạch và phát triển KCN là mô hình phát triển trọng điểm kinh tế của địa phương. Đại hội đại biểu Tỉnh Đảng bộ Nghệ An lần thứ XIV, XV đã xác định: Phát triển các KCN tập trung ở một số vùng, thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò để tạo nên các cực tăng trưởng nhanh chóng trong phát triển công nghiệp. Tạo nên những địa điểm hấp dẫn đầu tư nhằm thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh đầu tư vào các KCN để hình thành các trung tâm công nghiệp, dịch vụ trên các vùng trong tỉnh.
Tận dụng và phát huy tối đa những lợi thế về vị trí, tiềm năng thiên nhiên ưu đãi; kế thừa phát huy truyền thống của quê hương cách mạng, cùng với cơ chế chính sách thông thoáng, Nghệ An đã tập trung khai thác nội lực, thu hút ngoại lực để tạo nên dấu ấn mới cho xứ Nghệ trong thời kỳ CNH, HĐH. Tư tưởng chỉ đạo của Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XVI là: Đoàn kết, đổi mới, quyết tâm đưa Nghệ An thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010, cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020; xây dựng Thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế - văn hóa của vùng Bắc Trung bộ; phấn đấu sớm đưa Nghệ An trở thành một trong những tỉnh khá nhất của cả nước.
Đó cũng là mong muốn của trung ương Đảng, Nhà nước và các bộ, ban, ngành TW, của đồng bào, đồng chí cả nước và là khát vọng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tỉnh Nghệ An. Để thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH phù hợp với xu thế thời đại, Đảng bộ Nghệ An đã lựa chọn con đường CNH, HĐH rút ngắn, phải đi tắt đón đầu bằng nhiều phương thức khác nhau, trong đó phát triển các KCN là một phương thức rất quan trọng.
1.2.3. Vai trò của Khu công nghiệp và thu hút đầu tư vào khu công nghiệp đối với phát triển kinh tế - xã hội của cả nước nói chung và của Nghệ An nói riêng
Vai trò của KCN được thể hiện qua việc làm thoả mãn hài hoà các mục tiêu của các nhà đầu tư và của nước, địa phương có KCN.
1.2.3.1. Vai trò kinh tế:
KCN, với việc tập trung đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và áp dụng mô hình quản lý đặc biệt, là một mô hình tổ chức sản xuất công nghiệp hiện đại, có hiệu quả, tạo sự hấp dẫn trong thu hút đầu tư trong và ngoài nước và là một trong những giải pháp quan trọng để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH đất nước.
Phát triển KCN đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công nghiệp, đẩy nhanh tốc độ, tạo ra những bước đột phá trong phát triển công nghiệp nói riêng và phát triển kinh tế xã hội nói chung. Riêng các KCN ước tính đã đóng góp hơn 1/4 giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc. Trong thời kỳ 2001 - 2005, tổng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN, KCX (kể cả trong nước và nước ngoài) đạt khoảng 44,4 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, giá trị xuất khẩu đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm - cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm), giá trị nhập khẩu đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm, nộp ngân sách tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45%/năm, thu hút khoảng 953 ngàn lao động trực tiếp tính đến cuối năm 2005 (tăng gấp 3,7 lần so với năm 2001).
KCN, với cơ sở hạ tầng sẵn có và với những ưu đãi của Nhà nước nên rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, đóng vai trò quan trọng trong việc huy động các nguồn lực phát triển. Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những chiến lược quan trọng của nước ta. Trong giai đoạn 2001-2005 chúng ta dự tính cần thực hiện đầu tư 840.000 tỷ đồng. Với số vốn này, trong nước chỉ huy động được 2/3, còn 1/3 chúng ta bắt buộc phải thu hút từ bên ngoài. Như vậy, tính đến cuối năm 2005, tổng số có 2098 dự án đầu tư nước ngoài đăng ký đầu tư vào các KCN, KCX với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt khoảng 17,8 tỷ USD trong đó có 1287 dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh và 200 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Đến cuối năm 2005, tổng số vốn FDI thực hiện của các dự án trong các KCN, KCX đạt trên 9 tỷ USD, bằng khoảng 50% so với tổng số vốn FDI đăng ký. Trong thời kỳ 2001 - 2005, các KCN và KCX đã thu hút thêm được 1867 dự án đầu tư trong nước với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt trên 100 ngàn tỷ đồng nâng tổng số dự án trong nước đã đăng ký triển khai trong các KCN và KCX lên 2339 dự án với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt trên 136,7 ngàn tỷ đồng trong đó có 1201 dự án đi vào sản xuất kinh doanh và 350 dự án đang trong thời kỳ xây dựng cơ bản. Dự kiến đến cuối năm 2005, tổng số vốn đầu tư trong nước thực hiện của các dự án trong các KCN, KCX đạt trên 73,8 ngàn tỷ đồng, bằng khoảng 54% so với tổng số vốn đầu tư trong nước đăng ký.
Ở Nghệ An, tính đến cuối năm 2005 giá trị sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp KCN ước đạt 350 tỷ đồng, nộp ngân sách ước đạt 30 tỷ đồng, ước tăng 210% so với năm 2004, tạo việc làm cho 2.135 người lao động.
- Nhờ áp dụng nguyên lý tập trung theo chiều dọc trong xây dựng nhà máy ở KCN nên nguồn nguyên liệu tại chỗ được sử dụng tối đa và giá thành sản phẩm giảm đáng kể. Các KCN được trang bị đầy đủ cơ sở hạ tầng nên các nhà đầu tư khi đến các KCN sẽ giảm được rất nhiều chi phí ngoại doanh nghiệp như chi phí mua đất xây dựng nhà máy với giá cao, phí tự xây dựng nhà máy, đường giao thông, hệ thống điện. Nhờ có sẵn các doanh nghiệp cung cấp đầu vào và tạo đầu ra cho nhà máy do các nhà máy được tập trung vào một khu vực nên các doanh nghiệp giải quyết dễ dàng đầu ra, đầu vào với chi phí thấp nhất.
- Sự phát triển nhanh, có chất lượng của các KCN có tác động rất tích cực đối với sự chuyển dịch cơ cấu của một tỉnh, một vùng và của cả nước. Góp phần tăng trưởng kinh tế, tạo thêm năng lực sản xuất mới, tạo nguồn hàng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo điều kiện phát triển công nghiệp theo quy hoạch, tránh tự phát, phân tán, tiết kiệm đất đai, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tiết kiệm chi phí sản xuất.
- KCN là hạt nhân thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ, đẩy nhanh tốc độ đô thị hoá. Phát triển các KCN là nhân tố thúc đẩy tốc độ đô thị hoá và tác động lan toả tích cực trong việc CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Mặt khác, KCN là ²hạt nhân” trong chuỗi quy hoạch đô thị sẽ được hình thành trong tương lai với hệ thống kết cấu hạ tầng ngoài KCN có chất lượng cao, gắn với sự hình thành các khu dân cư, khu thương mại, dịch vụ và các khu phù trợ khác.
- KCN là nơi tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý các công ty tư bản nước ngoài. Để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới.
- Cơ chế quản lý ²một cửa, tại chỗ” trong KCN, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến các thủ tục xuất, nhập khẩu vật tư, hàng hoá cho sản xuất, thủ tục hải quan, thuế, tuyển dụng lao động... Trong khi đó, các doanh nghiệp công nghiệp ở ngoài KCN rất vất vả khi phải giải quyết các vấn đề nêu trên.
1.2.3.2. Vai trò xã hội
- Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động: Từ một nước nông nghiệp đang ở trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, nhu cầu việc làm rất lớn. Phát triển công nghiệp nói chung và các KCN nói riêng nhằm tạo ra nhiều việc làm, thu hút ngày càng nhiều lao động dư thừa ở khu vực nông nghiệp, góp phần nâng cao năng suất ở khu vực này. Tính đến hết năm 2005, các KCN, KCX Việt Nam thu hút khoảng 953 ngàn lao động trực tiếp (tăng gấp 3,7 lần so với năm 2001). Các KCN ở Nghệ An tạo việc làm cho 2.135 người lao động. Hiện nay, 1 ha đất KCN, KCX tạo ra khoảng 150 chỗ làm việc kể cả gián tiếp và trực tiếp, (trong đó lao động trực tiếp bình quân khoảng 81 người/ha).
Người lao động ở các KCN có nhiều cơ hội để phát triển so với việc họ thường nghỉ dài trong mùa nông nhàn, không có việc làm hoặc có việc làm nhưng thu nhập rất ít, bấp bênh. Họ được trực tiếp tiếp cận với công nghệ sản xuất hiện đại, phương thức quản trị kinh doanh tiên tiến và được đào tạo kỹ năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu công việc. Nhờ vậy, trình độ tay nghề và sức sáng tạo của người lao động được nâng lên rõ rệt, đồng thời họ cũng rèn cho mình tác phong làm việc công nghiệp, có hiệu quả và năng suất cao, góp phần làm lành mạnh hoá các quan hệ xã hội, tạo nên một thị trường lao động với đầy đủ yếu tố cung cấp và cạnh trạnh. Qua đó thúc đẩy sự quan tâm của xã hội đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo, làm chuyển đổi cơ cấu lao dộng và hình thành đội ngũ lao động lành nghề. Đối với Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm quan trọng vì lao động có chuyên môn và hàm lượng chất xám cao sẽ làm ra những sản phẩm có giá trị cao, đóng góp tích cực vào quá trình CNH, HĐH đất nước; đồng thời làm thay đổi cơ cấu lao động vốn chủ yếu là lao động nông nghiệp. Theo số liệu thống kê (năm 2004), hệ thống đào tạo nghề của Việt Nam hiện nay gồm 157 trường dạy nghề, 137 trường đại học, cao đẳng có đào tạo nghề, 148 trung tâm dạy nghề, 147 trung tâm xúc tiến việc làm và dịch vụ việc làm có dạy nghề. Ngoài ra còn có hàng trăm trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp và các trung tâm giáo dục thường xuyên có đào tạo nghề. Trên thực tế, một số KCN, KCX đã thành lập các cơ sở, trường dạy nghề tại địa phương nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo và cung ứng lao động cho các KCN, KCX khác như Trường dạy nghề Dung Quất (KCN Dung Quất), Trung tâm dạy nghề Việt Nam - Singapore (KCN Việt Nam - Singapore), Trường dạy nghề Nghi Sơn (KCN Nghi Sơn), Trường kỹ nghệ Thừa Thiên - Huế (KCN Phú Bài)...
Người lao động trong KCN, KCX thường xuyên có việc làm, thu nhập tăng và đời sống khá ổn định, giúp họ xoá đói giảm nghèo, giảm bớt các tệ nạn xã hội. Những năm gần đây người lao động ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi của Nhà nước, cũng như được đảm bảo các quyền lợi về lao động.
Đối với phát triển kinh tế - xã hội vùng. Trên cơ sở lợi thế của vùng, phát triển KCN vừa khai thác lợi thế của vùng và vừa tránh được đầu tư phân tán, phát huy được hiệu quả của vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch nên tiết kiệm và phát huy hiệu quả sử dụng đất và các nguồn lực khác, hình thành các đô thị mới, thực hiện văn minh, tiến bộ xã hội, giảm khoảng cách giữa các vùng nông thôn và thành thị. Phát triển KCN là giải pháp quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các vùng.
1.2.3.3 Bảo vệ môi trường
Do tập trung các cơ sở sản xuất nên có điều kiện thuận lợi trong việc kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. KCN là địa điểm tốt để di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm từ nội thành, phục vụ mục tiêu phát triển bền vững.
Phát triển KCN là phát triển công nghiệp theo quy hoạch, qua đó góp phần đẩy mạnh các hoạt động kinh tế xã hội theo định hướng bảo vệ môi trường và phát triển bền vững; ngăn chặn tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường.
1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An
- Hệ thống luật pháp: Hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN, các doanh nghiệp xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN, Ban quản lý các KCN đều phải tuân thủ quy định của pháp luật như: Quy chế KCN, KCX, KCNC, Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài, Luật lao động, Luật đất đai, Luật môi trường... Do vậy nếu các luật này được ban hành với nội dung cụ thể, đồng bộ và được sử dụng có hiệu lực thống nhất giữa các cơ quan thi hành luật thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trong KCN.
Về môi trường pháp lý cho việc thực hiện đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN thì Việt Nam còn phải tiếp tục hoàn thiện nhiều để tương đồng với các nước ASEAN. Chúng ta phải nhanh chóng ban hành các chính sách có liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN, nhằm tạo ra một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ cho hoạt động đầu tư vào các KCN cũng như sự vận hành nền kinh tế nói chung. Đó là việc ban hành các đạo luật còn thiếu và sửa đổi các đạo luật trái với thông lệ quốc tế.
- Về nhân tố lao động: Lao động là một trong những yếu tố đầu vào của sản xuất, chất lượng lao động và giá cả lao động cũng sẽ quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nghệ An là tỉnh có nguồn nhân lực dồi dào, có trình độ tiên tiến. Người dân Nghệ An cần cù, thông minh, chịu khó học hỏi, có ý thức tuân thủ kỷ cương kỷ luật lao động, không có đình công, bãi công tự do. Trong điều kiện sản xuất như hiện nay, về cơ bản người lao động Nghệ An đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương thấp hơn các tỉnh, thành phố lớn. Đây là một yếu tố hấp dẫn các nhà đầu tư.
- Về thị trường:
Nghệ An là một trong những thị trường lớn của cả nước (thị trường tiềm năng). Các nhà đầu tư cho rằng, với vị trí địa lý khá thuận tiện của Nghệ An, đầu tư vào đây không những là đã tiếp cận được nhu cầu của một thị trường hơn 3 triệu người ở tỉnh mà còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho thị trường khu vực Bắc miền trung và một số vùng của các nước Lào, Thái Lan.
- Về thủ tục hành chính:
Ban quản lý các KCN Nghệ An được uỷ quyền của các Bộ, ngành trung ương như Bộ Kế hoạch và Đầu tư uỷ quyền cấp Giấy phép đầu tư cho các dự án đầu tư nước ngoài, Bộ Thương Mại uỷ quyền quản lý hoạt động xuất nhập khẩu và thương mại của các doanh nghiệp KCN, Bộ Lao động thương binh và xã hội uỷ quyền quản lý lao động và cấp Giấy phép lao động cho lao động là người nước ngoài, Bộ tài chính uỷ quyền phê duyệt đăng ký chế độ kế toán cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Phòng thương mại và Công nghiệp việt Nam uỷ quyền cấp chứng nhận xuất xứ hàng hoá xuất khẩu và UBND tỉnh uỷ quyền phê duyệt các dự án đầu tư trong nước vào các KCN và thẩm định thiết kế kỹ thuật các dự án đầu tư. Khi nhà đầu tư có yêu cầu, Ban quản lý các KCN là đầu mối phối hợp để giải quyết các thủ tục một cách nhanh chóng, tiện lợi. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tạo ra một bước đột phá trong công tác xúc tiến kêu gọi đầu tư và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp KCN hoạt động hiệu quả. UBND tỉnh Nghệ An sẽ chỉ đạo các Sở, Ban ngành chức năng của tỉnh thực hiện đầy đủ việc uỷ quyền cho Ban quản lý các KCN đối với các lĩnh vực quản lý đã được Chính phủ và các Bộ, ngành trung ương quy định.
Tuy nhiên, từ trước đến nay cơ chế "một cửa, tại chỗ" và cơ chế phối hợp giữa Ban quản lý các KCN với các Sở, ban ngành thuộc tỉnh chưa thực sự được hiểu và thực hiện một cách thống nhất, thực tiễn hoạt động quản lý vẫn còn chồng chéo nhiều tầng, nhiều lớp. Cán bộ, chuyên viên Ban quản lý các KCN Nghệ An còn thiếu thông hiểu về pháp luật, thiếu kinh nghiệm chuyên môn trong việc xử lý các tình huống phát sinh và nhìn chung vẫn còn mang phong cách nông nghiệp.
- Các yếu tố liên quan đất đai, cơ sở hạ tầng:
Về giá đất: Giá thuê đất trong KCN sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyết định đầu tư của các nhà đầu tư (nhất là các nhà đầu tư trong nước). Do đó nếu các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, xem xét hỗ trợ các doanh nghiệp khi thuê đất trong KCN để đảm bảo giá thuê đất hợp lý thì cũng là một cách tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: cũng là một yếu tố tạo nên tính hấp dẫn của môi trường đầu tư. Nếu có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các doanh nghiệp có thể dùng nó để huy động vốn, thế chấp khi cần vay tín dụng.
Về quy hoạch: Quy hoạch phải nhất quán, có tính ổn định lâu dài. Nếu thay đổi quy hoạch thường xuyên thì sẽ gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh cơ sở hạ tầng trong việc tạo mặt bằng sản xuất. Do đó quá trình quy hoạch nếu được thực hiện công khai, dân chủ và nhất quán thì thuận lợi cho quá trình giải phóng mặt bằng và thu hút đầu tư.
Về cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng trong KCN bao gồm cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào. Cơ sở hạ tầng trong hàng rào bao gồm: hệ thống cấp thoát nước, hệ thống điện, hệ thống xử lý chất thải, hệ thống thông tin... tất cả các yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp KCN. Cơ sở hạ tầng ngoài KCN liên quan đến quá trình vận chuyển, tiêu thụ, cung cấp nguyên vật liệu... cho các doanh nghiệp KCN.
Vấn đề đặt ra là cơ sở hạ tầng trong và ngoài hàng rào phải đồng bộ với nhau, chất lượng phải đảm bảo, điều đó mới thúc đẩy nhanh tiến độ triển khai KCN và tạo thuận lợi cho doanh nghiệp cả sản xuất và tiêu thụ.
Các dịch vụ cho KCN: Một trong những yếu tố quan trọng làm hấp dẫn môi trường đầu tư của KCN là điều kiện cung cấp dịch vụ ở KCN. Vị trí của các KCN hầu như ở vùng ngoại ô thành phố, vì vậy muốn thu hút lao động (đặc biệt là các lao động tay nghề cao ở nội thành) thì dịch vụ ở KCN phải đầy đủ như dịch vụ nhà ở, trường học, chợ, ngân hàng... Giá các loại dịch vụ cho KCN phải hợp lý, bởi chi phí quản lý KCN và cước dịch vụ này là một trong những yếu tố tạo nên ưu thế cạnh tranh trong việc thu hút đầu tư vào các KCN.
- Các chính sách ưu đãi đầu tư:
Hệ thống các chính sách ưu đãi đầu tư là một trong những yếu tố rất quan trọng để thu hút các nhà đầu tư. Đó là những ưu đãi về thuế, về tiền thuê đất, về phương thức trả tiền thuê đất, về tín dụng... chính sách hỗ trợ ở KCN nào càng nhiều thì ở đó khả năng mời chào các nhà đầu tư càng lớn.
- Công tác xúc tiến đầu tư phát triển các KCN:
Xúc tiến đầu tư phát triển KCN Nghệ An là những hoạt động kinh tế - xã hội mà các chủ thể xúc tiến ở Nghệ An tiến hành nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc thu hút các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp, các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước đến Nghệ An để đầu tư phát triển các KCN. Hay nói cách khác, hoạt động xúc tiến đầu tư phát triển KCN Nghệ An là hoạt động Marketing trong thu hút đầu tư phát triển các KCN Nghệ An mà kết quả của hoạt động này chính là nguồn vốn đầu tư thu hút được.
i. Các kỹ năng xúc tiến đầu tư:
Có ba hoạt động xúc tiến đầu tư chính là: Các hoạt động xây dựng hình ảnh nói chung; Các hoạt động tạo ra đầu tư và Các hoạt động phục vụ đầu tư.
+ Xây dựng hình ảnh: Mục đích của các hoạt động xây dựng ấn tượng không phải là thu hút các công ty, những nhà đầu tư tiềm năng, mà là muốn gửi một thông điệp là Nghệ An đang chủ động tìm kiếm các nhà đầu tư và đang cống gắng tạo những điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư.
Các hoạt động xây dựng hình ảnh nói chung bao gồm: Quảng cáo trên các phương tiện thông tin hoặc website; Tham gia vào các hội chợ đầu tư tổ chức ở trong và ngoài nước; Cử các phái đoàn tìm kiếm cơ hội, kêu gọi đầu tư.
+ Các hoạt động tạo ra đầu tư: Mục đích chính của hoạt động này không nhằm thu hút các nhà đầu tư mà là muốn tạo sự hài lòng cho những nhà đầu tư đang có nhu cầu, hạn chế họ lựa chọn một tỉnh, thành phố khác để đầu tư và thuyết phục họ mở rộng quy mô đầu tư.
Các hoạt động tạo ra đầu tư bao gồm: Tổ chức các chiến dịch vận động thông qua thư, thư điện tử hoặc điện thoại; Tổ chức các hội thảo, diễn đàn về đầu tư cả trong nước và nước ngoài; Xác định các nhà đầu tư tiềm năng, thu thập thông tin về công ty và các vấn đề họ quan tâm về đầu tư; Xúc tiến đầu tư hướng tới các dự án có nhiều tiềm năng và tìm ra các nhà đầu tư được quan tâm.
+ Các hoạt động phục vụ đầu tư bao gồm: Cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư (giai đoạn trước khi được cấp giấy phép đầu tư); Thực hiện các quy trình xin và cấp giấy phép đầu tư; Các dịch vụ sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
ii. Cơ quan xúc tiến đầu tư:
Chủ thể xúc tiến đầu tư phát triển KCN Nghệ An là các cơ quan, tổ chức thực hiện Marketing các yếu tố của Nghệ An tới các nhà đầu tư nhằm phát triển KCN. Các yếu tố này có thể là hạ tầng cơ sở, con người, hình tượng và chất lượng sống và các đặc trưng hấp dẫn của Nghệ An. Theo tôi, chức năng xúc tiến đầu tư phát triển KCN là công việc của mọi thành viên trong Tỉnh, bao gồm chính quyền, cộng đồng kinh doanh và mọi công dân Nghệ An. Họ tham gia vào việc hoạch định kế hoạch xúc tiến đầu tư phát triển KCN.
Ở Nghệ An, các cơ quan có chức năng xúc tiến đầu tư phát triển KCN bao gồm:
+ Ban quản lý các KCN Nghệ An có chức năng, nhiệm vụ chính:
. Xây dựng danh mục các dự án kêu gọi đầu tư vào các KCN Nghệ An.
. Xúc tiến, kêu gọi và thu hút đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh; Tư vấn, hỗ trợ và hướng dẫn các Nhà đầu tư nước ngoài và ngoại tỉnh tìm kiếm cơ hội đầu tư vào các KCN Nghệ An, tìm hiểu các cơ chế, chính sách, quy trình và thủ tục cấp phép đầu tư vào các KCN trên địa bàn tỉnh.
. Chủ trì làm đầu mối vận động, xúc tiến nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN tỉnh Nghệ An.
. Tư vấn, hỗ trợ, hướng dẫn và cung cấp thông tin cho các Sở, Ban, ngành, các địa phương và các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh nhằm tìm hiểu, lựa chon dự án, nhà đầu tư và các thủ tục liên quan đến công tác xúc tiến đầu tư phát triển KCN Nghệ An.
. Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nhà đầu tư như: Lập dự án đầu tư, hồ sơ xin cấp phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, đăng ký ưu đãi đầu tư, biên dịch, phiên dịch tiếng nước ngoài... Tư vấn triển khai dự án đầu tư: lập hồ sơ xin giao đất hoặc thuê đất, phương án đền bù, giải phóng mặt bằng, lập hồ sơ khảo sát thiết kế, thiết kế kỹ thuật, báo cáo đánh giá tác động môi trường, thủ tục hải quan… theo yêu cầu của nhà đầu tư.
+ Trung tâm xúc tiến đầu tư thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An có chức năng và nhiệm vụ chính là xúc tiến, kêu gọi và thu hút đầu tư trên địa bàn toàn tỉnh Nghệ An.
+ Công ty đầu tư phát triển KCN Bắc Vinh và Công ty phát triển KCN Nghệ An, có trách nhiệm vận động đầu tư vào các KCN Nghệ An trên cơ sở quy hoạch phát triển chi tiết đã được phê duyệt.
Nghệ An là tỉnh nằm ở trung tâm khu vực Bắc Trung bộ, có khu di tích lịch sử, văn hoá Kim Liên nổi tiếng, có đường sắt, đường quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh đi qua và 3 đường quốc lộ sang nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, có cảng biển Cửa Lò, sân bay Vinh. Với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên dồi dào, tốc độ phát triển kinh tế cao, tiềm năng lớn về công - nông nghiệp, thương mại, du lịch, môi trường chính trị ổn định, chính sách ưu đãi đầu tư thông thoáng, được sự quan tâm tạo điều kiện của các cấp bộ ngành Trung ương - Nghệ An thực sự là một "điểm đến" lý tưởng của các nhà đầu tư.
1.4. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và các địa phương trong việc thu hút đầu tư vào các Khu công nghiệp
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nước trong khu vực
- Kinh nghiệm của Đài Loan:
Đài Loan có nhiều điểm tương đồng với nước ta: điểm xuất phát là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, cây trồng chủ yếu là mía và lúa nước. Diện tích khoảng 36.000 km2. Năm 1949, Quốc Dân Đảng chạy ra đảo kéo theo 2 triệu người tị nạn nên tình trạng thiếu lương thực, nhà ở và việc làm hết sức nghiêm trọng vì dân số tăng nhanh... Thế nhưng, Đài Loan đã nổi lên như một hiện tượng "thần kỳ” mà cả thế giới khâm phục. Chỉ trong vòng 40 năm (1950-1990) GDP tăng gấp 29,75 lần, tăng bình quân 8,9 %/năm, cứ 8 năm nền kinh tế lại tăng gấp 2 lần... Do vậy, mặc dù dân số tăng nhanh (1952-1990) từ 8 triệu lên hơn 20 triệu người nhưng GDP bình quân đầu người vẫn tăng từ 148 USD năm 1952 lên 7.726 USD năm 1990. Dự trữ ngoại tệ đạt 76,7 tỷ USD năm 1986 (đứng thứ hai thế giới về dự trữ ngoại tệ sau Nhật Bản).
Để có được kết quả đáng tự hào như vậy, Đài Loan đã chọn cho mình một phương thức thích hợp để phát triển công nghiệp và tiến hành CNH. Với nhiều nguyên nhân, trong đó có sự giúp đỡ của Mỹ. Trong thập kỷ 60, Đài Loan đã bắt đầu chú ý nhiều đến việc phát triển công nghiệp. Mô hình KCN được xem là chiến lược tạo thuận lợi cho quá trình CNH nền kinh tế Đài Loan. KCN đầu tiên của Đài Loan bắt đầu được xây dựng ở Kulung năm 1960, đến năm 1991 ở Đài Loan đã phát triển hơn 95 KCN với tổng diện tích khoảng 13.000 ha. Phương tiện chủ yếu ở các KCN này là các nhà máy xây sẵn cho các nhà đầu tư công nghiệp thuê để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (dưới 200 người làm). Ban quản lý KCN cũng cung cấp cả kết cấu hạ tầng đồng bộ và phương tiện hỗ trợ cơ bản khác.
Điển hình ở Đài Loan có KCX Kaohsiung, là KCX đầu tiên được thành lập với diện tích 68,36 ha. Năm 1967, giá trị xuất khẩu của KCX này đạt 7,97 triệu USD, tính ra mỗi ha đất cho thu nhập là 117.210 USD. KCX này ra đời thúc đẩy sự phát triển chung của KCX ở Đài Loan. Tổng giá trị mỗi ha đất trong các KCX mang lại tăng lên nhanh chóng. Năm 1970, giá trị mỗi ha đất trong KCX mang lại 608.760 USD, lên tới 8.144.680 USD năm 1980 và năm 1990 là 18.809.450 USD. Năm 2000 là 63.414.330 USD.
Bài học chính có thể rút ra từ kinh nghiệm phát triển KCN của Đài Loan:
Muốn CNH- HĐH với tốc độ cao cần phát triển các KCN, KCX trên một diện rộng tuỳ thuộc vào khả năng, tiềm lực phát triển của mỗi tỉnh, thành phố. Phát triển các KCN phải tuân theo một quy hoạch thống nhất trên cả nước, đảm bảo tính liên hoàn, tương hỗ trong phát triển KCN, KCX, đồng thời đảm bảo mục tiêu của mỗi KCN là một tác nhân thúc đẩy mọi hoạt động kinh tế của mỗi vùng. Phát triển một KCN là phải gắn với việc hình thành và phát triển đô thị xung quanh KCN đó, cũng như vấn đề bảo vệ môi trường liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp trong KCN. Theo quy định hiện nay của Đài Loan, cứ 3 năm một lần phải tiến hành kiểm tra, đánh giá lại tính phù hợp quy hoạch KCN so với thực tế, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến môi trường. Việc khuyến khích đầu tư của Đài Loan được thể hiện bằng các quy định pháp luật đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước với tính ổn định cao, trung bình khoảng 7 năm mới có sửa đổi, bổ sung luật, trường hợp cần thiết phải điều chỉnh sớm cũng chỉ dừng lại ở những chi tiết mang tính kỹ thuật.
- Kinh nghiệm của Thái Lan:
Thái Lan phát triển mô hình KCN từ năm 1970. Mô hình KCN của Thái Lan là Mô hình KCN tập trung tổng hợp, bao gồm KCN, KCX và các khu dịch vụ. Cho đến cuối năm 2000, Thái Lan có 55 KCN tập trung với tổng diện tích hơn 14 000 ha. Các KCN ở Thái Lan được phân bổ theo 3 vùng. Vùng I, bao gồm thủ đô Băng Kok và 5 tỉnh lân cận, có 11 KCN được thành lập với tổng diện tích gần 2800 ha. Vùng II, bao gồm 12 tỉnh tiếp theo có 19 KCN được thành lập có tổng diện tích 5300 ha. Vùng III, bao gồm 58 tỉnh còn lại, có 25 KCN được thành lập với tổng diện tích 5900 ha. Trong số các KCN thì KCN Maptaphut là KCN lớn nhất với diện tích là 1180 ha, bên cạnh đó cũng có các KCN có quy mô diện tích nhỏ vài chục ha.
Bài học chính có thể rút ra từ kinh nghiệm phát triển KCN của Thái Lan:
Các KCN ở Thái Lan được coi là khu vực được ưu tiên vì các nhà đầu tư trong và ngoài nước đều được Chính phủ cho hưởng một chính sách ưu đãi để nhằm hướng vào việc mở rộng ra ngoài Băng kok. Có KCN ở Thái Lan giống như một thị trấn hay là một thành phố công nghiệp. Môi trường trong các KCN được xử lý có hệ thống và đồng bộ, công nhân làm việc trong các KCN dần dần được đào tạo ngày càng nâng cao tay nghề, các công nghệ được tập trung ở một số KCN là điều kiện cho sự chuyển giao khoa học và công nghệ giữa các nhà công nghiệp. Cơ chế quản lý dịch vụ "một cửa” ở Thái Lan đối với KCN hoạt động có hiệu quả. Có đại diện của các Bộ, ngành tham gia và có cơ quan thường trú đóng tại các vùng, các KCN để giải quyết các thủ tục liên quan cho các nhà đầu tư.
Thái Lan tập trung đầu tư với kỹ thuật cao hình thành một số KCN, cơ sở hạ tầng được thiết kế và xây dựng theo công nghệ tiên tiến, hiện đại cùng với kế hoạch XTĐT mang tính chiến lược nhằm thu hút phát triển các ngành công nghiệp như chế biến thực phẩm, dệt, làm đồ trang sức.., chú trọng xây dựng các kết cấu hạ tầng như đường xá, cầu cống, bến cảng. Trong quá trình phát triển các KCN, Thái Lan rất chú trọng giải quyết việc ô nhiễm môi trường và hạn chế tập trung các KCN ở gần các trung tâm du lịch.
1.4.2. Kinh nghiệm của một số tỉnh trong nước
- Kinh nghiệm của tỉnh Nam Định:
Để khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương và thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển theo hướng CNH, HĐH, tỉnh Nam Định đã xây dựng KCN tập trung, cụm công nghiệp tạo bước đột phá trong phát triển công nghiệp với tốc độ nhanh, vững chắc và hiệu quả. Trong hoàn cảnh khó khăn thiếu vốn, không chờ đợi hỗ trợ từ ngân sách Nhà nước, tỉnh đã tiến hành xây dựng KCN Hoà Xá với nhiều cam kết mền dẻo và linh hoạt nên đã thu được thành công đáng khích lệ.
Công tác giải ph._.ng phát triển KCN của địa phương và của cả nước.
- Về xuất nhập khẩu: Tiến hành nhanh chóng các thủ tục xét duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu, thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá cho các doanh nghiệp.
Cần thường xuyên rà soát các dự án đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trong KCN để có biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai; xác định xem những khó khăn này là từ phía bản thân doanh nghiệp hay là từ phía các cơ quan chức năng để có biện pháp xử lý kịp thời.
- Tổ chức bộ máy của Ban quản lý các KCN:
Để hoàn thành những nhiệm vụ ngày càng tăng về số lượng và yêu cầu ngày càng cao về chất lượng, tổ chức bộ máy của Ban phải hợp lý, có tính chuyên môn cao, không chồng chéo chức năng nhiệm vụ giữa các bộ phận. Khắc phục những bất cập thiếu hụt về kiến thức và năng lực quản lý, điều hành đối với KCN cho đội ngũ cán bộ, công chức hiện có để điều hành, quản lý những thực thể gắn chặt với sản xuất, kinh doanh và sản phẩm kỹ thuật cao của các ngành công nghiệp có tầm quốc tế. Bổ sung, thay thế những người không đáp ứng được yêu cầu trong lĩnh vực này trong thời gian tới.
UBND tỉnh cần sớm phê duyệt đề án “Đổi mới tổ chức hoạt động Công ty phát triển Khu công nghiệp Nghệ An để đẩy nhanh tiến độ xây dựng hạ tầng các Khu công nghiệp của Tỉnh”.
3.3.4. Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật - xã hội
- Hạ tầng kỹ thuật:
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là thành phần cơ bản thúc đẩy sự phát triển và phân bố lực lượng sản xuất, trao đổi thông tin, giao lưu văn hoá giữa các vùng trong và ngoài nước. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải tạo tiền đề cho mọi hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, thu hút và tiếp thu được vốn đầu tư trong và ngoài nước.
Cơ sở hạ tầng là yếu tố quyết định hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với KCN, việc xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật trong KCN là để tạo môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có thể tiến hành xây dựng ngay nhà máy, xí nghiệp để sản xuất, tiết kiệm thời gian, tiền bạc, tập trung vào hoạt động sản xuất kinh doanh chính của mình. Vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ sở hạ tầng trong KCN thì sẽ nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu thiếu những yếu tố thuận lợi của các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như hệ thống giao thông, cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc, thì cho dù các công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào có thuận lợi đến đâu chăng nữa cũng không thể hấp dẫn nhà đầu tư. Xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào như điện, nước, thông tin liên lạc nên giao trách nhiệm tối đa cho các doanh nghiệp chuyên ngành. Công ty xây dựng cơ sở hạ tầng KCN tính toán nhu cầu của KCN, để các doanh nghiệp chuyên ngành lập phương án và có ý kiến cụ thể về các vấn đề liên quan. Nếu Công ty xây dựng cơ sở hạ tầng KCN cam kết tự bảo đảm cung cấp nước (khai thác nước và xử lý để cung cấp nước cho các doanh nghiệp trong KCN), điện (xây dựng nhà máy điện riêng cho KCN) thì phải có phương án cụ thể, nêu rõ nguồn vốn và thời gian thực hiện. Đường giao thông đến chân hàng rào KCN phải có các giải pháp cụ thể về kỹ thuật, vốn đầu tư, nguồn vốn, tiến độ, cơ quan chủ trì thực hiện.
- Hạ tầng xã hội:
Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các nhóm chức năng như hành chính, chính trị, thương nghiệp, dịch vụ các loại, văn hoá xã hội, giáo dục đào tạo, du lịch- nghỉ dưỡng - thể thao. Cụ thể, cơ sở hạ tầng là nhà ở, các công trình phục vụ như cơ sở y tế (bệnh viện, trạm y tế..), văn hoá (nhà văn hoá, nhà truyền thống, câu lạc bộ...), giáo dục (nhà trường, nhà trẻ, mẫu giáo..), thương nghiệp (chợ, cửa hàng, siêu thị...), dịch vụ công cộng (bưu điện, thư viện, các cơ quan hành chính..), cây xanh, công viên, mặt nước...
Phát triển KCN phải gắn liền với phát triển vùng, phát triển đô thị công nghiệp. Vì vậy, khi quy hoạch xây dựng các KCN phải đồng bộ quy hoạch xây dựng các cơ sở hạ tầng xã hội mà trước hết là khu dân cư, nhà ở, các cơ sở dịch vụ công cộng. Phát triển cơ sở hạ tầng xã hội không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt mà cần đáp ứng nhu cầu lâu dài.
Do vậy, quy hoạch phát triển các KCN phải gắn liền và phải tính đến khả năng cung ứng cơ sở hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào hiện tại cũng như tương lai. Không ngừng nâng cấp và hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Ngoài việc sử dụng một phần vốn từ nguồn ngân sách Tỉnh, cần tranh thủ sự ủng hộ của các cấp bộ ngành Trung ương, huy động các nguồn lực khác của xã hội để đầu tư cho cơ sở hạ tầng.
3.3.5. Chăm lo bảo vệ tốt môi trường
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường đối với mọi người dân, đặc biệt là các cơ sở sản xuất kinh doanh để họ nhận thức rõ trách nhiệm và tự giác thực hiện các yêu cầu bảo vệ môi trường.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường. Rà soát lại các văn bản hành chính liên quan đến công tác bảo vệ môi trường để điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp. Tăng cường công tác tanh tra, kiểm tra sau thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Nghiêm cấm việc nhập ngoại các dây chuyền, máy móc thiết bị, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng và đã lạc hậu. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường.
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo vệ môi trường, khuyến khích sự tham gia của mọi tổ chức, cá nhân, thành phần kinh tế, thực hiện các hoạt động dịch vụ bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng công nghệ xử lý môi trường.
Khi tiến hành đầu tư xây dựng KCN cần phải kết hợp đồng thời với công tác bảo vệ môi trường trong và ngoài KCN. Hướng xử lý tập trung vào:
- Hoàn chỉnh, nâng cấp, cải tạo các cơ sở hạ tầng của các KCN hiện có, giải quyết triệt để vấn đề thu gom và xử lý nước thải từ các KCN. Mỗi KCN phải có các trạm xử lý nước thải, tiến tới xây dựng hệ thống xử lý nước thải theo tiêu chuẩn tiên tiến, tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường và các tiêu chuẩn Việt Nam. Thực hiện có hệ thống công tác thu gom, vận chuyển và lưu giữ tạm thời chất thải rắn công nghiệp, chất thải nguy hại; nhanh chóng tìm ra biện pháp xử lý chất thải rắn công nghiệp và chất thải nguy hại. Thường xuyên tiến hành phân tích, giám sát chất lượng môi trường tại các KCN nhằm đảm bảo xử lý kịp thời các sự cố về môi trường.
- Nâng cao ý thức, trách nhiệm của các doanh nghiệp trong KCN trước và sau khi đầu tư vào KCN về vấn đề môi trường. Các dự án đầu tư vào KCN phải đăng ký đảm bảo về môi trường và phải hoàn thiện các công trình xử lý đảm bảo môi trường trước khi đi vào hoạt động.
- Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường đối với các KCN; có biện pháp thưởng, phạt thích đáng những doanh nghiệp vi phạm pháp luật về môi trường. Phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng với các doanh nghiệp và địa phương về bảo vệ môi trường.
3.3.6. Đổi mới và tăng cường công tác xúc tiến, vận động đầu tư vào các Khu công nghiệp
Xúc tiến, vận động đầu tư vào KCN là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý Nhà nước đối với KCN, đồng thời giữ vai trò quyết định sự thành công của KCN. Trong thời gian qua, Nghệ An làm chưa tốt công tác XTĐT vào các KCN. Việc XTĐT vào các KCN Nghệ An hiện nay đang là một vấn đề rất cấp bách. Để các nhà đầu tư biết được tiềm năng, cơ hội của các KCN Nghệ An, công tác vận động, XTĐT vào các KCN trong thời gian tới cần phải thực hiện tốt các công việc sau đây:
- Xây dựng hình ảnh tỉnh Nghệ An:
Có chiến lược xây dựng hình ảnh tỉnh Nghệ An nhằm tiếp thị một cách có hiệu quả tới các nhà đầu tư, nội dung chiến lược phải phản ánh được cái mà các nhà đầu tư đang tìm kiếm, nêu lên được tính đặc thù, thế mạnh, sự hấp dẫn của Nghệ An một cách trung thực, như: dân số, vị trí địa lý, tốc độ phát triển kinh tế, môi trường chính trị... Thu hút sự tham gia của nhân tài trong, ngoài nước và tạo nhận thức trong người dân về việc đóng góp xây dựng hình ảnh tỉnh Nghệ An. Mặt khác, Nghệ An cần tích cực góp phần vào sự thành công của việc xây dựng thương hiệu quốc gia, bởi nếu thương hiệu quốc gia trở nên hùng mạnh, thì mọi thương hiệu Việt được dễ dàng chấp nhận hơn trên thị trường thế giới. Đặc biệt, năm 2006 là năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 mà mục tiêu quan trọng nhất như văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 10 đã xác định là đưa đất nước vượt qua ngưỡng một nước thu nhập thấp, trở thành một nước có thu nhập trung bình thấp, đạt 1000 USD/người vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu đó và đạt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8%/năm là một thách thức lớn, đòi hỏi với việc tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư – kinh doanh, cần xây dựng một chương trình tiếp thị đầu tư quốc gia. Nhà nước phải mở đường và đồng hành cùng doanh nghiệp, các địa phương trong việc quảng bá thương hiệu, hình ảnh quốc gia trong tiếp thị đầu tư quốc tế. Yếu tố quyết định thành công là phải tăng cường khả năng cạnh tranh của nước ta trong việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình phát triển, Nghệ An đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhưng vẫn chưa có một chiến lược "tiếp thị" quy mô lớn để truyền tải thông tin này đến với các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Để hình ảnh Nghệ An đậm nét hơn, mọi người dân Nghệ An đều phải nhận thấy rằng mình có trách nhiệm trở thành sứ giả tiếp thị hình ảnh Nghệ An đến với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thời gian qua, Nghệ An cũng đã có những chiến lược nhằm quảng bá hình ảnh của mình, nhưng chưa đủ để các nhà đầu tư bết đến - một tỉnh có nhiều tiềm năng kinh tế, du lịch... Để tiếp thị tốt hình ảnh và thu hút được nhiều nhà đầu tư cần phải biết họ cần gì và tỉnh mạnh ở điểm nào. Hãy tiếp thị những thế mạnh của người Nghệ An, tạo ấn tượng cho các nhà đầu tư khi đến Nghệ An là con người Nghệ An luôn cởi mở, thân thiện, nhân hậu, hiếu khách, cần cù...
+ Luôn hoàn thiện, phát triển các phương tiện XTĐT. Thiết kế các tập giới thiệu, tờ rơi, các bản tin có chất lượng cao được cập nhật theo quý và phải chính xác. Duy trì và phát triển các website, thiết kế các website bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau; tạo các mối liên kết giữa các website của UBND tỉnh, Sở kế hoạch và đầu tư, Trung tâm XTĐT, Ban quản lý các KCN với các website của Bộ kế hoạch và đầu tư, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, Tạp chí KCN Việt Nam và các website mà các nhà đầu tư nước ngoài hay quan tâm.
Nâng cao hiệu quả hoạt động vận động đầu tư gián tiếp trên các phương tiện thông tin đại chúng bằng cách hợp tác với các cơ quan, hãng thông tấn, báo chí, truyền hình trong và ngoài nước để tăng tầng suất thông tin về môi trường và cơ hội đầu tư vào cá KCN của tỉnh Nghệ An. Kịp thời chuẩn xác thông tin, khắc phục tình trạng đưa tin sai hoặc cố tình bóp méo sự thật về KCN.
+ Thiết lập các cuộc đối thoại thường xuyên với các nhà báo, biên tập viên có tiếng của một số báo kinh tế. Phát hành các bản tin trên các tạp chí và báo về các dự án đầu tư mới có tầm cỡ, và danh mục các dự án thu hút đầu tư. Tổ chức các cuộc hội thảo và hội nghị về đầu tư, mời các nhà đầu tư thành công phát biểu về các dự án của họ, bởi các nhà đầu tư tiềm năng rất quan tâm đến kinh nghiệm của các nhà đầu tư hiện tại. Tiếp xúc trực tiếp với các công ty, các tập đoàn đa quốc gia có tiềm lực mạnh về tài chính, công nghệ để xúc tiến thực hiện một số dự án quan trọng được lựa chọn, đồng thời cam kết hỗ trợ thực hiện có hiệu quả các dự án này nhằm mở đường cho việc thu hút các công ty trực thuộc và hoặc có quan hệ kinh doanh với các tập đoàn nói trên đầu tư vào các KCN Nghệ An.
Mở rộng quan hệ hợp tác với các công ty tư vấn, XTĐT nước ngoài... để phối hợp vận động các khách hàng của họ đầu tư vào Nghệ An.
+ Cải thiện môi trường đầu tư:
Cần phải thiết lập nên một môi trường đầu tư tốt, minh bạch, tránh tình trạng chính sách thường xuyên thay đổi, gây nhiều khó khăn cho các nhà đầu tư. Cải tiến chất lượng hệ thống cơ sở hạ tầng. Xóa bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư tư nhân và quốc doanh. Giảm thiểu sự tham gia của chính quyền vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Để nhanh chóng lấp kín các KCN đã được thành lập và đạt được mục tiêu đề ra khi thành lập KCN trên địa bàn, đề nghị UBND Tỉnh, Ban quản lý các KCN, các Doanh nghiệp phát triển hạ tầng tăng cường vận động định hướng đầu tư vào KCN, hạn chế tối đa đầu tư phát triển sản xuất ngoài KCN.
+ Đối với thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích mạnh mẽ việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, công nghiệp phục vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn, các dự án ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, dầu khí, điện tử, vật liệu mới, viễn thông và các ngành mà Tỉnh có nhiều lợi thế cạnh tranh gắn với công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Dành ưu đãi tối đa cho đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những KCN, đẩy mạnh đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng trong và ngoài KCN bằng các nguồn vốn khác nhau để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của KCN. Có kế hoạch vận động các tập đoàn, các công ty lớn đầu tư vào các KCN, đồng thời chú ý đến các công ty có quy mô vừa và nhỏ, nhưng công nghệ hiện đại, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho người Nghệ An định cư ở nước ngoài đầu tư về tỉnh.
+ Đối với đầu tư trong nước, sau khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực, môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước ngày càng thuận lợi. Cần tăng cường vận động hướng dẫn để thu hút được sự quan tâm hưởng ứng của cộng đồng các nhà đầu tư đối với KCN, huy động thêm nguồn vốn đầu tư xã hội.
Để thu hút tốt đầu tư trong nước tỉnh Nghệ An phải tạo khung pháp lý nhất quán và ổn định, môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi và cạnh tranh bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện tốt cơ chế ²một cửa, tại chỗ”, bảo đảm các chế độ ưu đãi đầu tư đối với các dự án đầu tư được khuyến khích theo Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.
Tỉnh cần có chính sách thoả đáng để di dời các doanh nghiệp trong các thành phố Vinh vào KCN.
- Tổ chức công bố rộng rãi quy hoạch chi tiết, danh mục các dự án ưu tiên đầu tư và các chính sách khuyến khích đầu tư vào các KCN để các nhà đầu tư và người dân được biết.
Nâng cao chất lượng quy hoạch và Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài làm cơ sở thực hiện chương trình vận động thu hút đầu tư nước ngoài có hiệu quả. Quy hoạch thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần đặt trong tổng thể quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển từng lĩnh vực, ngành nghề, sản phẩm và địa bàn, kết hợp này xác định ngay từ đầu theo phù hợp với quy hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH trong từng thời kỳ.Quy hoạch phải minh bạch, ổn định, phải thực hiện đúng quy định của Nghị định 24/2000/NĐ-CP, theo đó Danh mục dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài vào KCN khi đã công bố thì được coi như đã thống nhất về chủ trương và phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ.
Cung cấp miễn phí các thông tin cần thiết cho các nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội đầu tư. Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân có công thu hút các nhà đầu tư đầu tư vào trong KCN. Tỉnh cần dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách Tỉnh cho công tác vận động XTĐT, xây dựng Quỹ XTĐT trên cơ sở ngân sách Tỉnh cấp kết hợp với huy động đóng góp của các tổ chức, doanh nghiệp.
- Duy trì và nâng cao chất lượng các cuộc đối thoại với với cộng đồng các nhà đầu tư nhằm kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc cho các doanh nghiệp đang xây dựng hoặc đang sản xuất kinh doanh, coi đó là giải pháp hữu hiệu nhằm xây dựng hình ảnh, tạo sức hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư mới.
Tiếp tục tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi giữa doanh nghiệp và cơ quan Nhà nước về kinh nghiệm thành công cũng như thất bại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam nói chung và Nghệ An nói riêng. Kịp thời khen thưởng các cá nhân, doanh nghiệp có đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển KCN ở Nghệ An.
- Tăng cường công tác nghiên cứu tình hình kinh tế, thị trường, đầu tư, chính sách của các tỉnh, thành phố, các tập đoàn và công ty lớn; đánh giá tiềm năng, thực trạng và xu hướng đầu tư của các công ty, tập đoàn xuyên quốc gia từ các nước và khu vực để có chính sách thu hút đầu tư phù hợp.
KẾT LUẬN
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Nghệ An lần thứ XV, cùng với sự hỗ trợ của Trung ương kết hợp với sự nỗ lực của nhân dân, kinh tế - xã hội của Nghệ An phát triển khá toàn diện. Năng lực các ngành kinh tế được nâng lên, hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị, nông thôn, miền núi không ngừng phát triển. Lĩnh vực xã hội, các hoạt động khoa học, giáo dục, y tế, văn hóa, thông tin, thể dục - thể thao có bước chuyển biến tích cực. Quốc phòng, an ninh được tăng cường. Đời sống nhân dân được cải thiện, xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Nhịp độ tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2001 - 2005 là 10,3% (vượt chỉ tiêu kế hoạch), cao hơn mức bình quân chung của vùng Bắc trung bộ (7,04%) và của cả nước. Kết quả này có sự đóng góp rất lớn của các doanh nghiệp đã đầu tư vào Nghệ An, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư vào các KCN. Chính vì vậy mà Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, UBND tỉnh rất chú trọng đến chính sách thu hút đầu tư vào các KCN, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư theo hướng phát triển bền vững kinh tế - xã hội. Góp phần xây dựng Nghệ An trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020; xây dựng Thành phố Vinh thành trung tâm kinh tế, văn hóa của vùng Bắc trung bộ; quyết tâm đưa Nghệ An sớm trở thành một trong những tỉnh khá của cả nước.
Tuy nhiên, để đầu tư vào các KCN ngày càng có hiệu quả thiết thực hơn, cần nghiên cứu một cách khách quan thực trạng, những cái được, cái chưa được trong lĩnh vực phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN. Kết hợp với việc nghiên cứu những kinh nghiệm trong việc phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN của các Tỉnh, Thành phố, để từ đó đưa ra được những biện pháp, chính sách nhằm tăng cường thu hút đầu tư vào các KCN Nghệ An, với phương châm "tất cả các nhà đầu tư vào Nghệ An đều là công dân Nghệ An - lợi ích, thành quả của các nhà đầu tư là niềm tự hào của tỉnh". Tỉnh Nghệ An cam kết sẽ dành cho các nhà đầu tư sự hợp tác thiện chí nhất, những điều kiện thuận lợi nhất để các nhà đầu tư sản xuất kinh doanh có hiệu quả và Nghệ An thực sự là "điểm đến lý tưởng của các nhà đầu tư".
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển mạnh mẽ của tiến bộ khoa học kỹ thuật, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc và lực lượng vũ trang Nghệ An quyết tâm thực hiện bằng được ước mong của Bác Hồ muôn vàn kính yêu đối với quê nhà và những lời căn dặn của Bác trong thư ngày 21/07/1969. Với việc phát huy sức mạnh tổng hợp của cả tỉnh cho phát triển và thu hút đầu tư vào các KCN, chắc chắn Nghệ An sẽ sớm trở thành tỉnh công nghiệp, tỉnh khá nhất của cả nước, cùng cả nước vững bước tiến lên trong thời kỳ CNH, HĐH, như kết luận 20-KL/TW ngày 02/06/2003 của Bộ Chính trị về Nghệ An.
Bằng những kết quả nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn đã cố gắng thực hiện mục đích nghiên cứu và đáp ứng yêu cầu đối với luận văn Thạc sĩ kinh tế. Hoàn thành luận văn này, tôi xin chân thành cảm ơn Trường Đại học Thương Mại; Bộ Kế hoạch và Đầu tư; một số cơ quan, ban ngành tỉnh Nghệ An và Tiến sĩ Trần Ngọc Hưng, người hướng dẫn khoa học trực tiếp, đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và có những đóng góp quý báu, thiết thực giúp tôi hoàn thành luận văn.
Do thời gian có hạn và trình độ, khả năng của tôi còn nhiều hạn chế, luận văn này chắc chắn sẽ có những thiếu sót, khiếm khuyết nhất định. Rất mong nhận được sự nhận xét, đóng góp bổ sung ý kiến của các Thầy giáo, Cô giáo, các bạn bè, đồng nghiệp và rất mong được sự thông cảm của mọi người.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2004), Đề án nâng cao năng lực của Ban quản lý các khu công nghiệp để đẩy mạnh tốc độ phát triển các khu công nghiệp Nghệ An đến năm 2010, Nghệ An.
2. Ban quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2004), Kế hoạch phát triển các Khu công nghiệp tỉnh Nghệ An năm 2005, Nghệ An.
3. Ban quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2005), Kế hoạch phát triển Khu công nghiệp tỉnh Nghệ An năm 2006 và định hướng đến năm 2010, Nghệ An.
4. Ban quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2006), Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ năm 2005 và phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2006, Nghệ An.
5. Ban quản lý các khu công nghiệp Nghệ An (2006), Báo cáo tình hình hoạt động của các khu công nghiệp và doanh nghiệp khu công nghiệp năm 2005, Nghệ An.
6. Ban thường vụ tỉnh ủy Nghệ An (2003), Nghị quyết 04 của BTV tỉnh ủy Nghệ An về phương hướng phát triển nhiệm vụ kinh tế - xã hội thành phố Vinh thời kỳ 2001 - 2010, Nghệ An.
7. Ban Tuyên giáo tỉnh ủy Nghệ An, Thông tin nội bộ các tháng của năm 2005 và tháng 01, 02, 03 năm 2006, Nghệ An.
8. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2001), Tài liệu nghiên cứu văn kiện Đại hội IX của Đảng, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2004), Dự thảo Đề án điều chỉnh quy hoạch phát triển các khu công nghiệp tập trung ở Việt Nam đến năm 2010 với tầm nhìn 2020, Hà Nội.
10. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2005), Báo cáo Định hướng phát triển kinh tế - xã hội vùng Bắc trung bộ, Duyên hải trung bộ đến năm 2010, Hà Nội.
11. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban Kinh tế Trung ương, Tạp chí Cộng sản, UBND tỉnh Đồng Nai (2004), Phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Đồng Nai.
12. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001 - 2005 (Báo cáo của Ban chấp hành trung ương khóa VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng), Hà Nội.
13. Nguyễn Hồng Hải (2005), Thực trạng và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Vĩnh Phúc, Luận văn Thạc sĩ kinh tế, Trường đại học Thương Mại.
14. Trần Ngọc Hưng (2004), Các giải pháp hoàn thiện và phát triển khu công nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường đại học Thương Mại.
15. Trần Ngọc Hưng (2004), "Đổi mới và tăng cường công tác vận động xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp", Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, tháng 2 năm 2006, tr25-27.
16. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2005), Định hướng vận động đầu tư nước ngoài và ngoại tỉnh vào Nghệ An thời kỳ 2006 - 2010 có tính đến năm 2020, Nghệ An.
17. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2006), Đề cương chi tiết dự án: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Nghệ An đến năm 2020, Nghệ An.
18. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2005), Nghệ An tiềm năng và cơ hội đầu tư, Nghệ An.
19. Sở Kế hoạch và Đầu tư Nghệ An (2005), Danh mục dự án kêu gọi đầu tư vào Nghệ An giai đoạn 2005 - 2010, Nghệ An.
20. Nguyễn Hữu Thịnh (2005), Đổi mới tổ chức hoạt động công ty phát triển KCN nghệ An để đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng các Khu công nghiệp của tỉnh, Nghệ An.
21. Tỉnh ủy Nghệ An (1996), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV, Nghệ An.
22. Tỉnh ủy Nghệ An (2001), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Nghệ An.
23. Tỉnh ủy Nghệ An (2003), Tài liệu triển khai kết luận 20-KL/TW của Bộ chính trị về NGhệ An, Nghệ An.
24. Tỉnh ủy Nghệ An (2006), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghệ An.
25. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân - UBND tỉnh Đồng Nai (2005), Tổng kết quá trình xây dựng phát triển các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (1991 – 2004), Đồng Nai.
26. Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân - UBND tỉnh Nghệ An (2005), Nghệ An, thế và lực mới trong thế kỷ XXI, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Tổng công ty hợp tác kinh tế Việt Lào (2004), Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu B KCN Nam Cấm - Nghệ An, Phần thuyết minh, Nghệ An.
28. UBND tỉnh Nghệ An (1999), Nghệ An, tiềm năng và triển vọng, Nghệ An.
29. UBND tỉnh Nghệ An (2002), Đề án phát triển kinh tế đối ngoại tỉnh Nghệ An thời kỳ 2001 - 2005 có tính đến năm 2010, Nghệ An.
30. UBND tỉnh Nghệ An (2003), Quyết định số 08/2003/QĐ-UB ngày 23 tháng 01 năm 2003 của UBND tỉnh Nghệ An, Vv: Phê duyệt điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội thành phố Vinh thời kỳ 2001 - 2010, Nghệ An.
31. UBND tỉnh Nghệ An (2004), Quy định về phân cấp, ủy quyền và thực hiện một số cơ chế trong quản lý đầu tư và xây dựng trên địa bàn tỉnh Nghệ An, Ban hành kèm theo Quyết định số 48/2004/QĐ-UB ngày 15/08/2004 của UBND tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
32. UBND tỉnh Nghệ An (2004), Quy định về Quy trình tiếp nhận và xử lý hồ sơ dự án đầu tư ngoại tỉnh và đầu tư nước ngoài vào Nghệ An, Ban hành kèm theo Quyết định số 40/2003/QĐ-UB ngày 16/04/2003 của UBND tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
33. UBND tỉnh Nghệ An (2004), Quyết định số 16/2004/QĐ-UB ngày 02 tháng 03 năm 2004 của UBND tỉnh Nghệ An, Vv: Phân công thực hiện giám sát, đánh giá đầu tư trên địa bàn Nghệ An, Nghệ An.
34. UBND tỉnh Nghệ An (2005), Chính sách ưu đãi đầu tư của tỉnh Nghệ An, ban hành kèm theo Quyết định số 57/2005/QĐ-UB ngày 10 tháng 05 năm 2005 của UBND tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
35. UBND tỉnh Nghệ An (2005), Thông báo kết quả hội nghị tư vấn về xúc tiến thu hút vốn ODA, FDI và NGO vào tỉnh Nghệ An, Nghệ An.
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC DỰ ÁN KÊU GỌI ĐẦU TƯ VÀO TỈNH NGHỆ AN
GIAI ĐOẠN 2005 - 2010
TT
Dự án
Địa điểm
Quy mô đầu tư
Vốn đầu tư
1
2
3
4
5
1
Xây dựng cụm công nghiệp sợi – dệt – may
Nghi Lộc
10-15 ngàn tấn sợi/ năm và các s.phẩm sau sợi
40
2
Sản xuất máy cày, máy kéo nhỏ đa chức năng
KCN Nam cấm
2.000 sp/ năm
12
3
Nhà máy cán thép
KCN nam cấm
200.000 tấn sp/ năm
25 triệu
4
Xây dựng nhà máy chế biến thủy sản chất lượng cao
KCN Nam cấm, Hoàng mai
5.000 tấn sp/ năm
2 triệu
5
Trồng và chế biến chè
Thanh chương, Anh sơn
5.600 ha/ 10 tấn búp tươi/ ngày
11,4 triệu
6
Chế biến các sản phẩm từ lạc
KCN Nam cấm
40.000 tấn/ năm
5 triệu
7
Chăn nuôi chế biến thịt lơn, gà, vịt
Các huyện vùng lúa TNXP
1 triệu con lợn
35 triệu
8
Nhà máy chế biến thịt hộp
KCN Bắc Vinh
1.500 tấn/ năm
1,6 triệu
9
Nhà máy gốm cao cấp
Nghi Lộc
200.000 sp/ năm
50 tỷ đồng
10
Khu du lịch sinh thái vường Quốc gia Pù Mát
Tây Nghệ An
91.000 ha
6 triệu USD
11
Trung tâm Thương Mại Vinh
TP Vinh
10.000 m2
6 triệu USD
12
Trung tâm Thương Mại Hoàng Mai
Quỳnh lưu
6.500 m2
1,7 triệu USD
13
Trung tâm Thương Mại Cửa Lò
Thị xã Cửa Lò
10.000 m2
2,6 triệu USD
14
Khu Du lịch Núi quyết – Bến Thủy
TP Vinh
156,6 ha
25 triệu USD
15
Sản xuất và chế biến cà phê xuất khẩu
Nghĩa Đàn
4.000 ha
8 triệu USD
16
Chế biến ván gỗ nhân tạo từ tre, nứa, mét
Đô Lương
20.000 m3/ năm
5 triệu USD
17
Dây chuyền chế biến gỗ xuất khẩu
KCN Bắc Vinh
5.000 m3/ năm
2 triệu USD
18
Trồng và chăm sóc cam sạch bệnh
Tân Kỳ, Quỳ Hợp. Nghĩa Đàn
2.350 ha
6,15 triệu USD
19
Trồng và chăm sóc cà phê
Quế Phong
350 ha
0,95 triệu USD
20
Phát triển dâu tằm tơ Nghệ An
KCN Bắc Vinh
2.000 ha
5 triệu USD
21
Trồng và chế biến dứa
Tân Kỳ, Yên Thành, Diễn Châu
5.000 ha
6,5 triệu USD
22
Trồng tre, trúc lấy măng
Các huyện miền núi
1.000 ha
1 triệu USD
23
Trồng , chăm sóc cây sở
Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, Q.Phong, Tân Kỳ, Q.Lưu
17.102 ha
3,55 triệu USD
24
Sản xuất giấy đế
Con Cuông
300-500 tấn/ năm
1 triệu USD
25
Chế biến Lâm sản
Nghĩa Đàn
5.000 m3 sp/ năm
1,5 triệu USD
26
Nhà máy sản xuất gỗ ván dăm
Thanh Chương
1.000 m3
1,05 triệu USD
27
Trồng và chế biến chuối
Đô Lương
1.000 tấn/ năm
5,5 triệu USD
28
Xây dựng các vùng nuôi tôm công nghiệp
Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc
1.000 ha
6 triệu USD
29
Xây dựng khu nuôi thủy sản trên biển
Quỳnh Lưu, Cửa Lò
100 lồng
3 triệu USD
30
Nhà máy sản xuất nhựa dân dụng và công nghiệp
KCN Nam cấm
10.000 tấn sp/ năm
3 triệu USD
31
Nhà máy gạch chịu nhiệt Hoàng Mai
KCN Hoàng Mai
20 triệu viên/ năm
3 triệu USD
32
Nhà máy sản xuất nhôm định hình
KCN Bắc Vinh
5.000 tấn sp/ năm
1,3 triệu USD
33
Nhà máy giầy thể thao
KCN Bắc Vinh
1,2 triệu đôi/ năm
2,2 triệu USD
34
Nhà máy sản xuất các sản phẩm từ da thuộc
KCN Bắc Vinh
500.000 sp / năm
1,4 triệu USD
35
Khai thác và chế biến đá Marble
Tiểu KCN Quỳ Hợp
60.000 m2/ năm
1,3triệu USD
36
Nhà máy sản xuất đồ chơi trẻ em và dụng cụ thể thao
KCN Bắc Vinh
10 triệu sp đồ chơi
1 triệu dụng cụ thể thao
1,5 triệu USD
37
Khai thác và chế biến sợi cách nhiệt từ đá Bazan
KCN Hoàng Mai
10.000 tấn sp/ năm
2 triệu USD
38
Nhà máy sản xuất cồn
TP Vinh
10 triệu lit/ năm
1,7 triệu USD
39
Chăn nuôi chế biến thịt bò
KCN Bắc Vinh
1.500 tấn sp/ năm
2,5 triệu USD
40
Dây chuyền lắp ráp máy vi tính
KCN Cửa Lò
65.000 máy/ năm
4 triệu USD
41
Chế biến tinh dầu quế
Quỳ Châu
500 tấn tinh dầu/ năm
2 triệu USD
42
Nhà máy sản xuất xi măng trắng
KCN Nam cấm
150.000 tấn sp/ năm
108 tỷ đồng
43
Khai thác và chế biến gạch ốp lát Marble
KCN Nam cấm, Đô Lương, Quỳ Hợp
1 triệu m2/ năm
240 tỷ đồng
44
Nhà máy sản xuất gạch Cotto
KCN Nam cấm
1 triệu m2/ năm
60 tỷ đồng
45
Bông khoáng Bazan
KCN Nam cấm
5.000 tấn/ năm
139 tỷ đồng
46
Trung tâm Thương Mại Trường Thi
TP Vinh
7.500 m2
2 triệu USD
47
Trung tâm Xúc tiến TM và Hội chợ triển lãm Nghệ An
TP Vinh
30.000 2
150-180 tỷ đồng
48
Khu Thương mại quốc tế Nậm Cắn
Kỳ Sơn
7.700 m2
2 triệu USD
49
Trung tâm Thương mại và du lịch Phủ Quỳ
Nghĩa Đàn
17,5 tỷ đồng
50
Trung tâm thương mại Nghĩa Đàn
Nghĩa Đàn
6.000 m2
24 tỷ đồng
51
Khu Thương mại cửa khẩu Thanh Thủy
Thanh Chương
4.600 m2
1,3 triệu USD
52
Xây dựng sân gôn
Thị xã Cửa Lò
40 ha
1,3 triệu USD
53
Làng du lịch sinh thái văn hóa, lịch sử
KDL Cửa Lò
10 ha
2,4 triệu USD
54
Làng du lịh văn hóa dân tộc Việt Nam
KDL Cửa Lò
150 ha
70 triệu USD
55
Phát triển du lịch bãi biển Nghi Thiết
Nghi Lộc
5,2 triệu USD
56
Khu du lịch lịch sử Đền Cuông, Cửa Hiền
Diên Châu
2 triệu USD
57
Khu du lịch Giang Sơn
Đô Lương
150 ha
2 triệu USD
58
Dự án vui chơi giải trí khu vực Núi Chung
Nam Đàn
150 ha
10 triệu USD
59
Khu du lịch Quỳnh Phương, Quỳnh Bảng
Quỳnh Lưu
5 triệu USD
60
Sản xuất thuốc chữa bệnh cao cấp
TP Vinh
1 tỷ viên/ năm
4,5 triệu USD
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0053.doc