Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam

Lời mở đầu Sự cần thiết của đề tài. Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy thị trường chứng khoán là một bộ phận không thể thiếu được đối với sự phát triển đối với sự phát triển kinh tế của một nước, bởi vì nếu không xây dựng được một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả thì không thể thực hiện được việc huy động vốn một cách linh hoạt các nguồn vốn và không thể tiến hành đầ

doc43 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u tư có hiệu quả để phát triển kinh tế đất nước. Với vai trò là một kênh huy động vốn cho tiến trình công nghiệp háo hiện đại hoá đất nước, đáp ứng nhu cầu cải cách kinh tế mạnh mẽ trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay, thị trường chứng khoán tạo ra nhiều cơ hội đầu tư và kinh doanh kiếm lời cho các chủ thể trong nền kinh tế và cũng chính các chủ thể đầu tư là một bộ phận quan trọng trong quá trình luân chuyển vốn của mỗi quốc gia. Do đó mỗi quốc gia phải tự tạo ra cho mình những điểm hấp dẫn để thu hut các nhà đầu không chỉ trong nước mà còn phải thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Đối với thị trường chứng khoán mà nói, các nhà đầu tư nước ngoài là một bộ phận vô cùng quan trọng không chỉ vì nguồn vốn khổng lồ mà họ đầu tư vào hàng năm mà qua việc đầu tư của họ chúng ta còn có thể học hỏi được những kinh nghiệm quý báu từ những nhà đầu tư chuyên nghiệp này. Chính vì thế để tạo ra những điểm hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài chúng ta không chỉ khuyến khích đầu tư là đủ mà còn phải nghiên cứu xem đâu là những hạn chế đối với bộ phận các nhà đầu tư này để từ đó có những biện pháp cụ thể nhằm tạo điều kiện để họ dễ dàng hơn trong việc đầu tư vào Việt Nam. Để đưa ra những giải pháp tối ưu nhất chúng ta cần phải có sự kết hợp đồng bộ của nhiều bộ phận trong đó có UBCKNN, SGDCK, Bộ tài chính, các Cty niêm yết, các nhà đầu tư trong nước....chứ không thể là một lỗ lực của riêng ai. Đây là một vấn đề hết sức nhạy cảm và đòi hỏi trên cơ sở những cái cũ để tìm ra cái mới tốt hơn và hấp dẫn hơn cái cũ. Đó chính là lý do để em chọn đề tài “ Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam.” Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở thực trạng hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện cũng như các cơ chế, chính sách của Nhà nước tác động vào các chủ thể tham gia trên thị trường đặc biệt chú trọng đến những tác động đối với nhà đầu tư là người nước ngoài. Trên cơ sở mức độ của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua không phải là lớn, từ đó tìm hiều đâu là những nguyên nhân hạn chế bộ phận nhà đầu tư này để đưa ra những ý kiến đóng góp, những giải pháp cụ thể nhằm tạo cơ hội hơn cho họ tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu. Do mục đích của đề tài là làm thế nào để ngày càng thu hút nhiều hơn các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam nên đề tài chỉ tập trung vào nghiên cứu thị trường chứng khoán Việt nam là chủ yếu, trong đó có so sánh với hoạt động của thị trường chứng khoán của mốt số nước như Hàn Quốc, Trung Quốc. Phương pháp nghiên cứu. Đề tài sử dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, và so sánh. Từ việc tổng hợp những kiến thức lý luận, chúng ta có thể phân tích chúng qua những hoạt động thực tiễn của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như những ví dụ cụ thể, xem xét chúng qua nhiều mặt và so sánh chúng với các thị trường chứng khoán khác. Sau đó đưa ra những kết luận cuối cùng về những nhân tố mà chúng ta vừa nghiên cứu nhằm đảm bảo tính chính xác và khoa học. Em xin chân thành cảm ơn PGS. Lê Hoàng Nga người đã giúp em chu đáo và tận tình để em có thể hoàn thành đề tài này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 04 năm 2004 Người viết đề tài Nguyễn Thị Vân Chương 1. Tổng quan về thị trường chứng khoán Bản chất và chức năng của TTCK 1.1.1. Bản chất của TTCK: Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. Thực chất TTCK là nơi tập trung và phân phối các nguồn vốn tiết kiệm, là định chế tài chính trực tiếp và là quá trình vận động của tư bản tiền tệ, chuyển tư bản tiền tệ từ tư bản sở hữu sang tư bản chức năng. 1.1.2. Chức năng của TTCK: Có nhiều quan điểm về chức năng của TTCK theo nhiều tiêu thức và cách đánh giá khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung lại TTCK có những chức năng chủ yếu sau: Thị trường chứng khoán là công cụ huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. Với chức năng này TTCK cho phép các công ty hay Chính phủ có thể huy động vốn nhằm đáp ứng các nhu cầu đầu tư phát triển, mở rộng sản suất kinh doanh, tạo thêm việc làm, tăng sản lượng thông qua việc phát hành các loại chứng khoán trên TTCK. Thị trường chứng khoán là công cụ tăng tiết kiệm quốc gia Khi nền kinh tế phát triển, thu nhập quốc dân ngày càng tăng, người dân bắt đầu quan tâm tới các hình thức đầu tư tài chính như gửi ngân hàng, tiết kiệm, đầu tư chứng khoán. TTCK đưa đến cho công chúng những công cụ mới đa dạng, phong phú phù hợp với từng loại đối tượng đầu tư. Thị trường chứng khoán cung cấp khẳ năng thanh khoản cho các chứng khoán Thị trường chứng khoán có chức năng đánh giá giá trị tài sản của doanh nghiệp và tình hình của nền kinh tế. Công cụ lưu thông trên thị trường chứng khoán Hàng hoá trên TTCK bao gồm ba loại chủ yếu sau: Cổ phiếu: là một chứng thư xác nhận quyền sở hữu đối với tài sản và vốn của một công ty cổ phần, do đó nó được coi như là một tài sản thực sự. Người ta phân loại cổ phiếu thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo từng đặc điểm của mỗi loại như cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu vô danh, cổ phiếu đích danh,... Trái phiếu: Trái phiếu là một chứng thư xác nhận một khoản nợ của một tổ chức phát hành đối với người sở hữu (trái chủ), trong đó cam kết sẽ trả số tiền gốc kèm với số tiền lãi trong một thời hạn nhất định. Các chứng khoán phái sinh : Trên TTCK, bên cạnh các giao dịch mua bán chứng khoán vốn, chứng khoán nợ, còn có giao dịch mua bán các chứng từ tài chính khác như chứng quyền, chứng khế, quyền lựa chọn, các hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn. Các chứng từ tài chính này được ra đời từ các giao dịch chứng khoán và được quyền chuyển đổi sang chứng khoán mua bán. Do đó người ta gọi chúng là các chứng từ có nguồn gốc tài chính hoặc các chứng khoán phái sinh. Các chủ thể tham gia trên TTCK : + Chủ thể phát hành: là các chủ thể tham gia trên TTCK với mục đích là huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán và bán cho người đầu tư hoặc bán cho những người kinh doanh chứng khoán. Chủ thể phát hành bao gồm: Chính phủ, các doanh nghiệp và một số tổ chức khác theo quy định của pháp luật. + Chủ thể đầu tư: là những người có tiền nhàn rỗi, sử dụng tiền đầu tư vào TTCK bằng cách thực sự mua bán chứng khoán trên TTCK nhằm hưởng lãi và lợi nhuận. Có hai loại chủ thể đầu tư bao gồm chủ thể đầu tư là cá nhân và chủ thể đầu tư là các tổ chức. Trong đó các nhà đầu tư là tổ chức gồm có các quỹ tương trợ, các công ty bảo hiểm, các quỹ trợ cấp, các ngân hàng thương mại và các công ty chứng khoán. + Chủ thể trung gian chứng khoán: gồm nhà trung gian cá nhân và các tổ chức trung gian. Vai trò của họ là kinh doanh, môi giới và bảo lãnh chứng khoán, ngoài ra họ còn thực hiện các nghiệp vụ khác như tư vấn đầu tư, quản lý quỹ, giao dịch mua bán chịu chứng khoán. + Người quản lý và giám sát các hoạt động của TTCK: là một cơ quan chuyên trách theo dõi, hỗ trợ, kiểm soáTNDN chỉnh lý, điều hành hoạt động TTCK trong cả nước. + Các tổ chức có liên quan bao gồm: sở giao dịch chứng khoán; tổ chức thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán; tổ chức dịch vụ sang tên và đăng ký lại quyền sở hữu chứng khoán; trung tâm đào tạo và hành nghề chứng khoán; Hiệp hội đầu tư chứng khoán; Hiệp hội kinh doanh chứng khoán; công ty tín thác đầu tư chứng khoán; các tổ chức dịch vụ vi tính về chứng khoán. Cơ cấu của TTCK. Thị trường chứng khoán được tổ chức với các hình thức khác nhau, chủ yếu có hai loại bao gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành, làm tăng vốn cho nhà phát hành, thực hiện chứng khoán hoá cho nguồn vốn cần huy động. Thị trường thứ cấp là thị trường mua bán lại các chứng khoán đã phát hành ở thị trường sơ cấp, ra đời nhằm mục đích tăng tính thanh khoản cho chứng khoán và là nơi xác định giá chứng khoán. Nhà đầu tư và vai trò nhà đầu tư trên TTCK. Như đã nói ở trên, nhà đầu tư có thể là một pháp nhân hoặc một thể nhân, đây là một chủ thể đóng một vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của TTCK. Nhà đầu tư pháp nhân là một tổ chức được thành lập và hoạt động theo luật pháp, họ có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có tài sản độc lập và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi của mình. Họ bao gồm các quỹ đầu tư, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các tổ chức tín dụng, các công ty chứng khoán,...Họ là những người có vốn nhàn rỗi rất lớn và là những chuyên gia giỏi trong lĩnh vực đầu tư, vì thế mà các nhà đầu tư pháp nhân là những chủ thể quan trọng, quyết định quy mô và sự ổn đinh thị trường. Tuy mức độ tham gia là khác nhau và phương thức cũng khác nhau nhưng mục đích cuối cùng vẫn là bảo toàn và kiếm lời. Nhà đầu tư thể nhân bao gồm các cá nhân, các tổ chức kinh tế không phải là pháp nhân, các tổ chức chính trị xã hội, các doanh nghiệp tư nhân,...họ là nhà đầu tư đông đảo nhất và có nguồn tiết kiệm khá lớn, là chủ thể khá quan trọng và cũng là nguời đem lại sự sôi động cho thị trường. Những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư trên TTCK. Thị trường chứng khoán là sự phát triển bậc cao của thị trường tài chính, mà thị trường tài chính là một nhân tố không thể thiếu trong nền kinh tế thị trường, nó có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, văn hoá...TTCK là một thị trường hết sực nhạy cảm, mỗi sự biến động nhỏ của chính trị, xã hội, văn hoá.. đều có ảnh hưởng tiêu cực hoặc tích cực đến thị trường. Trong đó yếu tố kinh tế bao gồm: yếu tố lạm phát, giá cả hàng hoá, lãi suất, tỷ lệ thất nghiệp Yếu tố chính trị là những yếu tố như chiến tranh, diễn biến nội bộ của chính phủ một quốc gia, ...một khi chính trị không ổn định sẽ kéo theo hàng loạt các vấn đề về kinh tế của đất nước. Yếu tố văn hoá bao gồm nguồn gốc dân tộc, giáo dục, tín ngưỡng, môi trường tự nhiên. Yếu tố xã hội là những yếu tố như gia đình, bạn bè, công bằng xã hội, quyền công dân... Yếu tố thông tin là yếu tố hết sức quan trọng với tất cả các chủ thể tham gia TTCK, các nhà đầu tư chứng khoán cho rằng TTCK là thị trường của thông tin bởi mỗi thông tin đều có ảnh hưởng tới quyết định đầu tư của họ, không những thế nó còn ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả chứng khoán mà họ đang nắm giữ. Chương 2 Thực trạng tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt nam hiện nay Thực trạng hoạt động của TTCK Việt Nam trong thời gian qua. Những thành công Tính đến thời điểm hiện tại thị trường chứng khoán (TTCK) Việt nam đã đi vào hoạt động được hơn 3 năm, đó là một khoảng thời gian còn quá ngắn để đánh giá sự sống của một thể chế tài chính mới như TTCK, song điều ghi nhận được đầu tiên là, mặc dù với quá nhiều khó khăn trong một môi trường kinh tế vĩ mô chưa hoàn toàn thuận lợi, trước những thử thách mới của một thể chế tài chính mới lần đầu tiên xây dựng ở nước ta, nhưng với quyết tâm cao của Đảng và Chính phủ trong chỉ đạo xây dựng và phát triển thị trường, sự phối hợp của các bộ nghành và các địa phương, sự lỗ lực của cơ quan vận hành TTCK, cùng các tổ chức trung gian và phụ trợ, các tổ chức niêm yết và công chúng đầu tư...TTCK Việt nam đã đang được giữ vững ổn định và từng bước phát triển. Một điều nổi bật và đáng chú ý là các nhà đầu tư có tổ chức trong và ngoài nước cũng như các nhà đầu tư cá nhân đã phần nào đó làm quen được với sự tồn tại vào hoạt động của TTCK Việt nam và đang dần tham gia vào hình thức đầu tư mới mẻ này. Do mới đi vào hoạt động được một thời gian ngắn nên TTCK Việt nam chưa thể trở thành kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế nước nhà, tuy nhiên TTCK đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, tạo dựng được nền móng ban đầu hết sức cơ bản cho sự phát triển cho thị trường trong tương lai, đồng thời đánh dấu được bước tiến mới trong quá trình phát triển TTCK Việt nam, thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Những thành công bước đầu có thể kể đến như sau: 2.1.1.1. Tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với TTCK Trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những sai lầm của các nước trên thế giới về việc quản lý TTCK trong buổi đầu mới thành lập, Việt Nam ta đã nhận thức rõ vai trò quan trọng và không thể thiếu của Nhà nước đối với TTCK ngay từ buổi ban sơ. Thực tế cho thấy, phần lớn các nước trên thế giới dù là các nước tư bản phát triển hay các quốc gia đang chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch tập trung sang cơ chế quản lý kinh tế thị trường, đều đã hình thành cơ quan quản lý Nhà nước về TTCK. Nước nào càng sớm có cơ quan quản lý, và quyền hạn của các cơ quan quản lý này càng độc lập và càng mạnh thì càng đảm bảo cho thị trường hoạt động an toàn và phát triển hiệu quả. Với đặc thù là thể chế tài chính bậc cao của nền kinh tế thị trường, TTCK không chỉ đòi hỏi một cơ chế vận hành thông thường mà cần phải có sự quản lý của Nhà nước ngay từ khi chuẩn bị hình thành và cả trong quá trình phát triển. Từ kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn phát triển kinh tế của đất nước, chúng ta đã nhận thức được rằng, bất luận một lĩnh vực hoạt động kinh tế nào cũng cần có sự quản lý của Nhà nước nếu không muốn nó đi chệch khỏi quỹ đạo hoặc định hướng đã đề ra.Trên tinh thần đó, Nhà nước ta đã chủ trương tổ chức cơ quan quản lý Nhà nước về Chứng khoán và TCK trước khi thị trường ra đời, là bước đi phù hợp và hiệu quả, thể hiện ý kiến chỉ đạo của Bộ chính trị ngày 22/6/2000: “ Phải chuẩn bị thật tốt, đảm bảo thành công khi xây dựng TTCK ở nước ta, tạo dựng và củng cố lòng tin của các nhà đầu tư và công chúng, làm tiền đề quan trọng cho sự phát triển ổn định và vững chắc của TTCK”. Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập ban nghiên cứu xây dựng thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 06 tháng 11 năm 1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt nam) với nhiệm vụ nghiên cứu xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo lộ trình được phê duyệt, đảm bảo đưa TTCK Việt Nam hoạt động và phát triển ổn định. Những thay đổi tích cực của văn bản pháp luật. Trên cơ sở các bài học thực tế về pháp luật trên TTCK của các nước đi trước, Viêt Nam đã sớm xây dưng khung pháp lý cho TTCK trước khi nó đi vào hoat động. Quá trình đó được đánh dấu bởi mốc quạn trọng là việc ban hành Nghị định 48/1998/NĐ-CP (sau đây gọi tắt là Nghị định 48/CP) ngày 11/07/1998 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Đây là cơ sở pháp lý căn bản cho việc ban hành các văn bản hướng dẫn hoạt động và phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và TTCK. Nghị định 48/ CP được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh TTCK Việt Nam chưa đi vào hoạt động các quy định mang tính nguyên tắc cho vận hành của thị trường được xây dựng chủ yếu dựa trên khung pháp luật kinh tế của Việt Nam vào thời điểm ban hành và tham khảo pháp luật về TTCK của các nước trên thế giới, đặc biệt là những TTCK mới nổi của các nước trong khu vực, chưa có cơ sở thực tiễn nên trong quá trình vận dụng nhiều quy định đã tỏ ra thiếu tính khả thi. Mặt khác xu thế phát triển của thị trường trong thời gian tới theo chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cũng đang đặt ra những yêu cầu mới về quản lý, vận hành thị trường mà Nghị định 48/CP không thể đáp ứng hết được. Trước những đòi hỏi thực tiễn và cấp thiết này, việc ban hành một Nghị định mới thay thế cho Nghị định 48/CP là yêu cầu khách quan trong điều kiện việc xây dựng luật Chứng khoán chưa thể thực hiện trong một sớm một chiều. Sau hai năm nghiên cứu và hoàn chỉnh dự thảo, ngày 28 tháng 11 năm 2003, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 144/2003/NĐ-Cp (gọi tắt là Nghị định 144/CP) thay thế Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 07 năm 1998 của Chính phủ về Chứng khoán và TTCK, đánh dấu một bước phát triển mới trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý cho TTCK Việt Nam. So với Nghị định 48/CP, Nghị định 144/CP có những thay đổi cơ bản và khá toàn diện. Nghị định 144/CP gồm 14 Chương và 118 Điều (trong khi Nghị định 48/CP gồm 11 Chương và 83 Điều) trong đó có 3 Chương mới là: Chương 3: Niêm yết Chứng khoán, Chương 4: Giao dịch chứng khoán và Chương 5: công bố thông tin. Một trong những điểm đáng chú ý của Nghị định 144/CP là sự mở rộng phạm vi quản lý đối với hoạt động phát hành chứng khoán ra công chúng. Nghị định 48/CP chỉ điều chỉnh đối với việc phát hành chứng khoán ra công chúng để niêm yết, do đó dẫn đến một thực tế là nhiều doanh nghiệp phát hành chứng khoán ra công chúng nhưng không nhằm để niêm yết hoặc chưa niêm yết thì không có sự thẩm định theo những tiêu chuẩn quản lý tối thiểu, dễ gây rủi ro cho các nhà đầu tư. Để khắc phục hạn chế của Nghị định 48/CP, Nghị định 144/CP đã tách biệt phát hành ra công chúng và niêm yết với những điều kiện và thủ tục riêng biệt. Có thể coi đây là một sự lấp một phần khoảng trống pháp lý đối với hoạt động phát hành ra công chúng của công ty cổ phần. Nhằm khuyến khích các công ty phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động vốn, tiêu chí về số lượng nhà đầu tư đã được thu hẹp xuống ít nhất 50 người ngoài tổ chức phát hành cho một đợt phát hành và điều kiện về mức vốn điều lệ tối thiểu của tổ chức phát hành cổ phiếu ra công chúng cũng giảm xuống còn 5 tỷ đồng (Nghị định 48/CP quy định ít nhất 100 người ngoài tổ chức phát hành và vốn điều lệ 10 tỷ đồng trở lên. Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn của các công ty cổ phần thành lập trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ cao, việc phát hành cổ phiếu của những công ty này không bắt buộc phải đảm bảo các điều kiện về vốn điều lệ và một năm hoạt động kinh doanh có lãi. Nghị định 144/CP cũng quy định thủ tục đăng ký phát hành chứng khoán ra công chúng thay cho cơ chế cấp phép phát hành như Nghị định 48/CP trước đây nhằm đơn giản hoá thủ tục cho TTCK niêm yết tập trung nhưng vẫn đảm bảo khẳ năng quản lý phát hành chứng khoán ra công chúng. Khác với thủ tục phát hành chứng khoán ra công chúng ,tồ chức phát hành muốn niêm yết, chứng khoán tại các TTGDCK phải được UBCK Nhà nước cấp giấy phép. Nghị định 144/CP bổ sung quy định nêu rõ trách nhiệm của tổ chức niêm yết, tổ chức tư vấn niêm yết và tổ chức kiểm toán đối với tính chính xác và đầy đủ của hồ sơ xin phép niêm yết; nghĩa vụ của công ty niêm yết nhằm nâng cao chất lượng của các bên tham gia trong việc hoàn tất hồ sơ, nâng cao độ tin cậy đối với công chúng đầu tư. Đặc biệt nhằm khuyến khích các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá niêm yết ngay để tăng cung hàng hoá cho thị trường, Chính phủ đã lới lỏng điều kiện niêm yết cho các doanh nghiệp này: chỉ cần hoạt động kinh doanh có lãi một năm trước khi xin phép niêm yết, thay cho điều kiện thông thường là 2 năm liên tục có lãi. Tại Nghị định 144/CP, giao dịch chứng khoán và công bố thông tin được tách riêng thành hai Chương độc lập. Chương IV “Giao dịch chứng khoán” quy định cụ thể nguyên tắc giao dich, phương thức giao dịch, các trường hợp tạm ngừng giao dịch, các giao dịch bị hạn chế, biên độ giao động giá giao dịch, trách nhiệm của nhà đầu tư trong giao dịch chứng khoán... Một điểm mới đáng chú ý trong Chương IV “Công bố thông tin ” của Nghị định 144/CP là việc bổ sung thêm công ty chứng khoán là đối tượng phải công bố thông tin mà trong Nghị định 48/CP không quy định. Về hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán các giao dịch chứng khoán, so với quy định tại Nghị định 48/CP, Chương V Nghị định 144/CP đã tách biệt rõ hơn nội dung từng loại nghiệp vụ cũng như điều kiện và thủ tục cấp, đình chỉ và thu hồi giấy phép lưu ký; quyền và ngiã vụ của tổ chức lưu ký; chế độ báo cáo về tình hình hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ chứng khoán và thanh toán các giao dịch chứng khoán. Chương này còn quy định các nội dung chính về tổ chức hoạt động và chức năng nhiệm vụ của trung tâm lưu ký là một tổ chức độc lập do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập để đáp ứng yêu cầu về dịch vụ liên quan đến hoạt động của thị trường trong thời gian tới. Liên quan đến quyđịnh về quỹ đầu tư (QĐT) chứng khoán và công ty quản lý quỹ (CTQLQ), Nghị định 144/CP đã có những thay đổi khá quan trọng để khuyến khích sự thành lập các QĐT và CTQLQ hiện nay. Hy vọng rằng những thay đổi trong Nghị định mới về QĐT sẽ khắc phục được những bất cập và khó thực thi trong quy định của Nghị định 48/CP, góp phần ra tăng lượng QĐT và CTQLQ thành lập trong thời gian tới. Điểm mới bổ sung tại Chương X “Tham gia của bên nước ngoài” là CTQLQ đầu tư nước ngoài muốn mở chi nhánh hoạt động tại Việt Nam phải được UBCKNN cấp giấy phép, đồng thời bổ sung thêm hình thức góp vốn, mua cổ phần của các tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài phù hợp với quy định tại quyết định số 36/2003/QĐ-TTg ngày 11 tháng 3 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam (trước đây Nghị định 48/CP chỉ cho phép công ty liên doanh với đối tác Việt Nam). Ngoài ra, quy định về các hành vi bị cấm tại Chương XI Nghị định 144/CP đã được cụ thể hoá hơn so với Nghị định 48/CP đặc biệt là nội dung của hành vi giao dịch nội gián và những người được coi là biết thông tin nội bộ; bổ sung quy định cấm pháp nhân lấy danh nghĩa cá nhân để mở tài khoản giao dịch chứng khoán nhằm tăng cường kỷ luật, hiệu quả giám sát và xử lý vi phạm trên thị trường. Có thể nói, việc ban hành Nghị định 144/CP đã đánh dấu một bước quan trọng trong quá trình hoàn thiện khung pháp lý trong hoạt động của TTCK Việt Nam, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu quản lý và phát triển thị trường trọng giai đoạn mới. Tuy nhiên, để Nghị định 144/CP nhanh chóng phát huy được tác dụng tích cực đối với hoạt động thị trường còn phụ thuộc vào các văn bản hướng dẫn các Nghị định cũng như sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý thị trường. Ngoài việc đưa Nghị định 144/CP vào áp dụng trên TTCK, hiện tại UBCKNN đang lỗ lực xây dựng và hoàn tất Luật chứng khoán trình Quốc Hội nhằm đưa vào áp dụng trong năm tới. Chính sách ưu đãi thuế trên TTCK Việt Nam. Các chính sách ưu đãi về thuế luôn là vấn đề mà các nhà đầu tư là tổ chức cũng như các nhà đầu tư cá nhân nói riêng trên TTCK hết sức quan tâm. Hiện nay, các văn bản pháp quy chủ yếu có liên quan về thuế được áp dụng trên TTCK Việt Nam bao gồm luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cùng các thông tư, văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành. Để thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước vào TTCK Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27 tháng 03 năm 2000 (gọi tắt là quyết định 39) ban hành các quy định tạm thời nhằm ưu tiên về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán. Theo tinh thần của các văn bản pháp quy này, các đối tượng được hưởng ưu đãi thuế tạm thời về thuế bao gồm: các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết và các cá nhân đầu tư chứng khoán. Để tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam, Bộ Tài chính đã có công văn số 4321/TC/TCT ngày 07/05/2002 để hướng dẫn cụ thể chính sách thuế đối với những đối tượng nhà đầu tư này. Nhìn chung, chính sách thuế trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu hoạt động đã góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ sự phát triển của thị trường, đáp ứng được định hướng phát triển của thị trường. Việc đưa ra các ưu đãi thuế kịp thời đã tạo thêm động lực và giảm đi những khó khăn cho các bên tham gia trên TTCK cả về phía công ty niêm yết cũng như các công ty chứng khoán đặc biệt là khuyến khích các nhà đầu tư cá nhân trong thời gian đầu tham gia thị trường. Những tồn tại cần giải quyết. Ngoài những thành công đạt được trong thời gian đầu, chúng ta không thể không nhắc đến những vấn đề còn tồn tại trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua. 2.1.2.1 . Về hàng hoá Hiện nay, hàng hoá trên TTCK Việt Nam còn rất nghèo nàn về số lượng và chủng loại, chứng khoán thường ghi danh, tính thanh khoản kém, do vậy hoạt động của TTCK sẽ kém phần hấp dẫn. Khi đưa ra quyết định đầu tư, việc làm đầu tiên của các nhà đầu tư là so sánh và phân tích các chỉ số kinh tế có liên quan đến các công ty niêm yết, trên cơ sở đó họ có thể đưa ra quyết định đầu tư vào loại cổ phiếu nào là tốt nhất. Mục đích của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận do vậy vấn đề mà họ không thể không quan tâm là đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Ngoài những điều kiện thuận lợi thuộc môi trường vĩ mô và vi mô ra, một TTCK với đa dạng chủng loại hàng hoá bao giờ cũng là điểm hấp dẫn khiến các nhà đầu tư cân nhắc lại quyết định đầu tư của mình xem nên đầu tư vào thị trường nào. Ngay từ buổi đầu đi vào hoạt động, một trong những vấn đề khiến các nhà tổ chức và quản lý TTCK Việt Nam luôn luôn trăn trở và quan tâm là làm thế nào để tăng số lượng hàng hoá cho thị trường một cách kịp thời và phù hợp với nhu cầu của các nhà đầu tư. Mấu chốt của vấn đề là việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra một cách chậm chạp, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, tính công khai thông tin về doanh nghiệp còn thấp do vậy niềm tin của các nhà đầu tư về chứng khoán chưa cao. Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều không mấy mặn mà với việc cổ phần hoá, khi bị buộc phải cổ phần hoá thì họ tìm mọi lý do để trì hoãn chính vì vậy nên hàng hoá trên TTCK không thể tăng nhanh. Hơn nữa sau khi cổ phần hoá, tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu giá cổ phần lần đầu của các công ty này chưa cao và chủ yếu tập trung ở các thánh phố lớn nơi có những công ty chứng khoán hoạt đông. Tính đến nay TTCK Việt Nam đã bước vào năm hoạt động thứ 4 nhưng mới chỉ có 23 loại cổ phiếu được niêm yết trong đó công ty niêm yết gần đây nhất là Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết chính thức lên sàn giao dịch vào tháng 3/2004. Hiện chỉ có 13 công ty chứng khoán do đó sự vươn rộng có hạn, khả năng thực hiện tốt các cuộc đấu giá cổ phần lần đầu sẽ là rất khó khăn chính vì vậy cần phải có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu, trái phiếu lần đầu ra công chúng nhằm tạo thêm hàng hoá cho thị trường. Ngoài ra Nhà nước cần chủ động lựa chọn một số các công ty làm ăn có lãi, đủ điều kiện niêm yết phải đăng ký giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán nhằm tạo sự sôi động cho thị trường. Việc công bố thông tin trên TTCK chưa được đảm bảo đúng quy định. Thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và các vấn đề tài chính của công ty niêm yết luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ nhà đầu tư nào khi tham gia vào TTCK. Thông tin có liên quan trực tiếp đến khả năng sinh lời, mức độ rủi ro hiện tại và tương lai của các cổ phiếu mà các nhà đầu tư nắm giữ chính vì vậy mà thông tin đòi hỏi phải đầy đủ, kịp thời và đặc biệt là phải chính xác. Tuy nhiên, theo nhận định của giới đầu tư, việc công bố thông tin hiện nay của các công ty niêm yết trên TTCK còn nhiều hạn chế, lượng thông tin còn ít, chủ yếu là các thông tin về tình hình tài chính hàng quý, năm theo định kỳ; các thông tin về tình hình hoạt động, chiến lược sản xuất kinh doanh, tiến độ thực hiện kế hoạch...của các công ty còn rất ít thậm chí các công ty thậm chí còn không cả công bố thông tin trong một thời gian dài. Vấn đề này trên thực tế đã làm nảy sinh những thông tin không chính thức được đưa ra thị trường nhằm mục đích phục vụ cho mục đích cá nhân của một số hoặc một nhóm những nhà đầu tư sở hữu số lượng lớn các cổ phiếu. Hậu quả của việc thu nhận những thông tin không chính thức đã dẫn đến một số lượng lớn các nhà đầu tư nhỏ do không có thông tin chính thức nên “mất phương hướng” đã đưa ra các quyết định mua bán của mình theo “tâm lý, phong trào” của thị trường và tất yếu dẫn đến thua lỗ hoặc mất đi cơ hội tăng giá chứng khoán mà họ đang sở hữu, dẫn đến những biến động giả tạo trên thị trường. Mặc dù trách nhiệm công bố thông tin của các tổ chức niêm yết đã được quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong quy chế công bố thông tin ban hành kèm theo Quyết định 42/2000/QĐ/UBCK1, nhưng trên thực tế các công ty chỉ công bố một cách chống đối và qua loa. Thêm vào đó là sự quản lý lỏng lẻo của các cán bộ quản lý thị trường về công bố thông tin của các công ty niêm yết. Nhiều khi cán bộ quản lý đã xác nhận là công ty niêm yết hoạt động tốt, năm sau lãi nhiều hơn năm trước nhưng để tìm hiểu một cách nghiêm túc thì lại cho ra kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng ta có thể thấy rõ tình trạng trên qua tình hình thực hiện chế độ công bố thông tin của một số công ty niêm yết như sau: Năm 2003 được coi là năm các công ty niêm yết vi phạm chế độ công bố thông tin nhiều nhất từ trước tới nay và điển hình là trường hợp của Công ty Bánh kẹo Biên Hoà (BIBICA) được coi là trường hợp nghiêm trọng nhất trong những năm qua. Theo kết luận của Thanh tra UBCK Nhà nước, những vi phạm của công ty BIBICA là: vi phạm chế độ báo cáo, chế độ công bố thông tin có hệ thống; bộ phận tài chính, kinh tế của công ty yếu kém, thiếu trách nhiệm nên không phản ánh kịp thời tình trạng tài chính theo quy định, Hội đồng quản trị, Ban điều hành chưa có biện pháp chấn chỉnh bộ máy quản trị tài chính...Theo quy định của Nghị định 22/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, mức phạt hành chính đối với công ty BIBICA là 20 triệu đồng. Nhưng sai lầm mà BIBICA gây ra không chỉ làm thiệt hại đến nhà đầu tư mà còn làm ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường. Vụ gần đây nhất là tháng 12/2003, Công ty cổ phần Viễn thông (VTC) đã khiến Trung tâm giao dịch và những đối tượng tham gia trên TTCK sửng sốt qua một văn bản giải thích rằng chỉ tiêu lợi chuận mỗi cổ phần (EPS) không cao như đã đăng trên Bản tin TTCK. Ngoài những trường hợp nêu trên còn rất nhiều các trương hợp vị phạm khác như Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Đồ hộp Hạ Long (Hạlong Cafoco)... tuy những trường hợp còn lại không nghiêm trọng bằng hai trường hợp trên nhưng cũng làm ảnh hưởng không ít đến thị trường và làm giảm ít nhiều n._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0009.doc