Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông (THPT) dưới góc nhìn của thi pháp học

MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong thư chúc mừng gửi các thầy cô giáo và học sinh, sinh viên cả nước nhân dịp khai giảng năm học mới 2003-2004, chủ tịch nước Trần Đức Lương chỉ thị : “các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các đoàn thể chính trị xã hội và toàn thể đồng bào đồng chí quan tâm chăm lo hơn nữa sự nghịêp phát triển giáo dục, dành những điểu kiện tốt nhất cho việc học tập rèn luyện, phấn đấu cuả con em chúng ta” ( dẫn theo báo Tuổi Trẻ, ngày 1/ 9/2003 ). Chỉ thị cuả chủ tịch nước

pdf68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2938 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông (THPT) dưới góc nhìn của thi pháp học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã cho thấy sự quan tâm sâu sắc đến sự nghiệp giáo dục cuả Đảng và nhà nước ta. Trong bối cảnh ấy, việc dạy học nói chung, dạy Văn nói riêng trong nhà trường THPT đang diễn ra với những điều kiện thuận lợi như vậy. Cũng như các loại hình nghệ thuật khác , văn chương là hoạt động cuả con người nhằm chiếm lĩnh thực tại “theo qui luật cuả cái đẹp” (Mác). Trong dạy học Văn, giáo viên là chiếc cầu nối không thể thiếu để học sinh đến được với những giá trị đích thực cuả tác phẩm văn chương. Bằng tâm huyết, tri thức và khả năng sư phạm cuả mình, người thầy sẽ đem đến cho học sinh những điều mới mẻ, khơi gợi sự hứng thú và niềm yêu mến văn chương ở các em. Và cũng chính từ đây, các em sẽ lớn dần lên qua những giờ dạy Van hiệu quả ấy, bởi nói như Arixtốt “văn học nghệ thuật chân chính có khả năng thanh lọc tâm hồn con người”, khiến con người lớn lên Quan điểm giáo dục cuả chúng ta là giáo dục toàn diện nhằm nâng cao văn thể, mĩ ở mỗi con người. Môn văn học trong nhà trường cũng không nằm ngoài hướng đi ấy bằng việc cung cấp cho học sinh những kiến thức tổng thể về Văn học Việt Nam và Văn học nước ngoài. Trong quan hệ rộng mở đón chào những tinh hoa Văn học nước ngoài, Lỗ Tấn là một trong những nhà văn ngoại quốc được trân trọng, yêu mến , đồng cảm và học hỏi nhiều nhất ở Việt Nam. Ông là một nhà văn vĩ đại, chiến đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp của dân tộc, một nhà tư tưởng, một nhà giáo dục có uy tín, một nhà nghiên cứu dịch thuật góp nhiều công lao cho nền văn học hiện thực mới. Tác phẩm cuả ông luôn giúp ta khám phá ra những ý nghiã tích cực, đằm thắm, nồng nàn trong tình yêu thương và sự căm giận. Bởi thế văn chương Lỗ Tấn sống mãi trong nhịp đập trái tim của mọi dân tộc có cùng hướng đi. Có thể nói, di sản văn chương Lỗ Tấn để lại có một tầm vóc khổng lồ, bao gồm rất nhiểu thể loại khác nhau : tạp văn, kịch, thơ, truyện. Nhưng có lẽ đậm đà và thể hiện rõ phong cách, tư tưởng, tài năng và mục đích sáng tác cuả ông hơn cả là mảng truyện ngán . Ở thể loại này, dù dung lượng nhỏ, ít lời nhưng dồn nén, chất chứa bao suy tư trăn trở của nhà văn trên hành trình tìm đường cho dân tộc Trung Hoa đang héo úa, lụi tàn dưới sức nặng 4000 năm lịch sử cuả ý thức hệ phong kiến. Thiết nghĩ, việc đưa truyện ngan cuả Lỗ Tấn vào giảng dạy ở phổ thông là cần thiết bởi những tác phẩm cuả ông không chỉ có giá trị cao về mặt nột dung và nghệ thuật, mà còn vì tác giả của chúng là một tấm gương sáng cho lòng trung thành thuỷ chung với dân tộc Trung Hoa, một gương mặt tiêu biểu đại diện cho một thời đại thăng trầm trăn trở và vươn lên. Thực tế cho thấy ở phổ thông khi giảng dạy Văn học nước ngoài nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng, đa số giáo viên rất ngại dạy. Dường như trong chương trình,Văn học nước ngoài vẫn còn là vùng đất thiêng với cả giáo viên và học sinh. Phải chăng sự cách biệt về văn hoá, về ngôn ngữ là một rào cản khiến Văn học nước ngoài ít được chủ động đón nhận ở phổ thông? Có thể nói, giảng dạy Văn học nước ngoài nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng trong nhà trường không phải là một công việc đơn giản. Dạy thế nào cho hay, cho hấp dẫn lại càng khó khăn bội phần . Dạy Van trong nhà trường có những yêu cầu và nhiệm vụ khắt khe riêng, bởi văn học vừa là một khoa học , đồng thời cũng là bộ môn nghệ thuật đầy phức tạp. Thêm vào đó, cảm thụ và giảng dạy tốt những tác phẩm cuả Lỗ Tấn cũng không đơn giản chút nào bởi những truyện ngắn cuả ông được sáng tác dưới góc nhìn cuả một nhà báo, nhà tư tưởng, nhà văn hoá, nhà giáo, nhà văn, trong một bối cảnh đầy biến động cuả đất nước Trung Hoa, nên có những điều không phải một sớm một chiều chúng ta có thể giải mã hết được. Ơ trường phổ thông, học sinh được tiếp xúc nhiều với thể loại truyện ngắn nên việc giảng dạy sao cho thành công là điều hết sức cần thiết. Nó có tác dụng nâng cao trình độ thưởng thức, nâng cao phẩm chất đạo đức, nhân cách cho học sinh. Nghiên cứu thi pháp là nghiên cứu văn học trong tính thống nhất giữa nội dung và hình thức một cách có qui luật. Từ khi có văn chương đã xuất hiện nó rồi, chừng nào tác phẩm nghệ thuật ngôn từ còn hiện diện thì chừng ấy còn có thi pháp. Nghĩa là trong khoa học nói chung, phương pháp này không phải không quen thuộc, nhưng trong giảng dạy văn học nói chung, giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn nói riêng, có thể nói phương pháp này còn khá mới mẻ. Xuất phát từ những yêu cầu trên, xuất phát từ việc khảo sát thực tế giảng dạy ở phổ thông, cùng với những kiến thức tiếp nhận được từ bộ môn giáo học pháp, chúng tôi mạnh dạn đề xuất việc giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ơ trường Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi pháp học, không ngoài mục đích giúp giáo viên và học sinh có cái nhìn đầy đủ, toàn diện và chính xác hơn về những tác phẩm cuả Lỗ Tấn được dạy và học trong nhà trường phổ thông 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Nghiên cứu, tìm hiểu về nhà văn Lỗ Tấn, cũng như đề xuất những phương hướng khám phá vẻ đẹp trong các truyện ngắn của ông là một công việc khá lý thú nhưng cũng không đơn giản. Đề tài Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi pháp học, nói chung chưa có công trình nào đi vào nghiên cưú một cách trực tiếp, cụ thể và chi tiết. Tuy nhiên đối với một số truyện ngắn của Lỗ Tấn có trong khuôn khổ cuả đề tài này và những vấn đề liên quan trực tiếp đến phương pháp giảng dạy văn học nói chung thì cũng đã có khá nhiều công trình, bài viết cuả nhiều nhà nghiên cứu. Vì Lỗ Tấn là một nhà văn nước ngoài nên những tài liệu nghiên cứu về ông của các học giả nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc cũng sẽ không ít. Song do phạm vi đề tài, chúng tôi không thể khảo sát hết được những công trình ấy, mà chỉ chú trọng vào những công trình nghiên cưú chính của các tác giả trong nước có liên quan trực tiếp đến đề tài. Trên tinh thần ấy chúng tôi mạn phép chia những tác phẩm, những bài viết đã chọn lọc thành hai nhóm lớn theo góc độ phạm vi đối tượng nghiên cứu và phương pháp giảng dạy :  Nhóm thứ nhất : những bài viết, bài nghiên cứu về Lỗ Tấn và một số truyện ngắn cuả ông được giảng dạy ở phổ thông (Thuốc , AQ chính truyện, Cố hương). Chẳng hạn : Anh Đức có bài viết Lỗ Tấn , bậc thầy truyện ngắn, (Kiến thức ngày nay 9/1991). Lương Duy Thứ với bài viết Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn, in trong cuốn Phê bình, bình luận văn học (NXB văn nghệ TP.HCM), Lỗ Tấn , phân tích tác phẩm (NXBGD, 2004). Lê Nguyên Cẩn- Thế giới nhân vật dị dạng trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Lê Huy Tiêu Thuốc, sự hy sinh anh dũng của nhà cách mạng và sự ngu muội cuả quần chúng nhân dân in trong cuốn “Cảm nhận mới về văn hoá văn học Trung Quốc”,(NXB ĐHQGHN,2004). Nguyễn Tuân- Truyện ngắn Lỗ Tấn và phim truyện Trung Hoa in trong cuốn cuốn “ Lỗ Tấn , linh hồn dân tộc Trung Hoa hiện đại”,(NXBTrẻ, 2003). Phương Lựu - Lỗ Tấn , nhà lý luận văn học, (NXBGD,1998).Vương Phú Nhân- Lỗ Tấn, lịch sử nghiên cưú và hiện trạng, (NXB Thống Kê, 2004, Nguyễn Thị Mai Hương và Lương Duy Thứ dịch ) Ngoài ra còn một số luận văn về “Thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn” cuả Lê Huy Tiêu và “Thi pháp nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn” của Trần Lê Hoa Tranh  Nhóm thứ hai : những bài viết, giáo trình, công trình về phương pháp phân tích, giảng dạy tác phẩm văn chương và những vấn đề liên quan đến thực tế giảng dạy tác phẩm văn chương ở trường THPT. Chẳng hạn : Dạy học văn ở trường phổ thông, Nguyễn Thị Thanh Hương, NXBĐHQGHN, 2001. Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, Nguyễn Thị Dư Khánh, NXBGD. Phương pháp dạy học văn, Phan Trọng Luận , NXBĐHQGHN, 1998. Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường Phổ thông, Phan Trọng Luận NXBGD,1999. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể, Trần Thanh Đạm, NXBGD,1978. Phương pháp dạy học văn ở bậc trung học, Trịnh Xuân Vũ, NXBĐHQGTPHCM, 2002. Nhận xét chung : Những bài viết, công trình nghiên cưú về các tác phẩm của Lỗ Tấn cũng như phương pháp dạy học Văn nói chung khá phong phú và đa dạng. Mỗi công trình, bài viết đều có những đóng góp nhất định, giúp ích cho giáo viên trong quá trình giảng dạy cả về phương pháp luận và những ứng dụng thể nghiệm. Tuy nhiên, hầu hết các công trình, bài viết đều đi vào tìm hiểu, phân tích một tác phẩm cụ thể mà chưa chỉ ra một cách khái quát hướng giảng dạy tác phẩm truyện ngắn Lỗ Tấn như thế nào cho hiệu quả và hợp lý, cũng như những kiến nghị cụ thể cho việc giảng dạy Văn Học Trung Quốc ở trường phổ thông. Do đó trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã học tâp, kế thừa những thành quả của người đi trước với mong muốn mang lại hiệu quả tốt nhất cho sự nghiệp trồng người 3. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CƯÚ CỦA ĐỀ TÀI Việc giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường phổ thông có liên quan đến nhiều cấp học. Hiện nay, trong chương trình, học sinh được tiếp xúc với tác giả này bắt đầu từ lớp 9, trước đây trong chương trình cải cách là lớp 8. Tuy nhiên đề tài Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi pháp học chỉ nhằm nghiên cứu và đề ra phương hướng giảng dạy trong khuôn khổ nhà trường THPT, cụ thể là trong chương trình lớp 12 hiện hành (cải cách giáo dục và phân ban) vì các truyện ngắn này được dạy ở lớp 12, đồng thời chúng tôi cũng tham khảo thêm một số tác phẩm khác cuả Lỗ Tấn có liên quan để tiện so sánh. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng tiến hành dự giờ, khảo sát, phát phiếu điều tra tham khảo tình hình giảng dạy của một số giáo viên ở các trường THPT thuộc điạ bàn tỉnh Bình Thuận (THPT Phan Bội Châu, THPT Nguyễn Văn Linh, THPT Dân tộc nội trú, THPT Trần Hưng Đạo) Tên đề tài Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường Trung học phổ thông dưới góc nhìn cuả thi pháp học có tính chất nhấn mạnh vấn đề dạy và học truyện ngắn Lỗ Tấn . Tuy nhiên phạm vi đề tài còn bao gồm cả mong muốn nghiên cưú, tìm hiểu việc giảng dạy thể loại truyện ngắn nói chung (tất nhiên trong đó có cả truyện Việt Nam) 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  Phương pháp khảo sát thực tiễn: thống kê, điều tra, dự giờ các tiết dạy cuả giáo viên ở trường phổ thông, xem xét khả năng tiếp thu kiến thức và xử lý chúng cuả học sinh. Sử dụng phiếu tham khảo đối với giáo viên và học sinh để nắm được những thuận lợi, khó khăn trong quá trình dạy và học, những nguyện vọng và đề xuất của họ. Qua thực tế, chúng tôi sẽ rút ra những kinh nghiệm, cũng như những thiếu sót nhằm có cơ sở thực tiễn trong việc nêu thực trạng.  Phương pháp lịch sử xã hội : phương pháp này đặt ra yêu cầu đặt tác phẩm trong mối liên quan mật thiết với hoàn cảnh xã hội mà nó ra đời, lấy thời đại, tư tưởng, bối cảnh lịch sử làm cơ sở chính để tìm hiểu, phân tích, đánh giá những khiá cạnh được đề cập trong tác phẩm  Phương pháp phân tích, so sánh, qui nạp : để thực hiện mục đích cuả đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp này để tìm hiểu cặn kẽ, chi tiết những khiá cạnh nội dung tư tưởng, quan điểm sáng tác, hình thức nghệ thuật mà Lỗ Tấn muốn đề cập trong tác phẩm. So sánh, đối chiếu với các tài liệu, sách hướng dẫn dành cho giáo viên , học sinh, các ý kiến khác nhau xung quanh việc nghiên cứu, giảng dạy tác phẩm Lỗ Tấn ; quy nạp thành những vấn đề có ý nghiã phương pháp luận và thực tiễn  Phương pháp nghiên cưú liên ngành : vận dụng thành tựu nghiên cưú cuả nhiều ngành như nghiên cứu văn học, lý luận văn học, ngôn ngữ học…..đặc biệt chú trọng những thành tựu khoa học về phương pháp giảng dạy Văn học nói chung. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Với mục đích và ý nghĩa nâng cao hiệu quả trong việc cảm thụ và giảng dạy văn học nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng, nhất là trong tình hình bộ môn Ngữ Văn đang được toàn xã hội quan tâm như hiện nay, đề tài của chúng tôi mang tính chất học tập và thử nghiệm là chủ yếu. Tuy nhiên chúng tôi cũng hi vọng mong muốn góp một phần nhỏ trong việc giảng dạy văn học trong nhà trường nói chung- một bộ môn rất nhạy cảm với toàn xã hội hiện nay. Cụ thể, đề tài cuả chúng tôi góp phần : - Khảo sát, tìm hiểu thực tế việc giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường THPT - Một số giải pháp và ý kiến đề xuất cho việc giảng dạy và học tập tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng,Văn học nước ngoài nói chung nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Văn trong nhà trườngTHPT- một vấn đề có tính bức thiết 6. KẾT CẤU CUẢ LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và thư mục tham khảo, luận văn được chia làm 3 chương : Chương 1 : Văn học nước ngoài trong trường phổ thông hiện nay Chương 2 : Một số vấn đề về Lỗ Tấn và thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn Chương 3 : Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường THPT dưới góc nhìn của thi pháp học. CHƯƠNG 1 : VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG TRƯỜNG PHỔ THÔNG HIỆN NAY 1.1 VỊ TRÍ , VAI TRÒ CỦA VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG CHƯƠNG TRÌNH VĂN HỌC Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG 1.1.1. Một cái nhìn tổng thể về những tinh hoa văn học và những trường phái văn học tiêu biểu cuả Văn học nước ngoài Không phải ngẫu nhiên mà văn học lại được xem là một trong những bộ môn nghệ thuật đầy sức hấp dẫn bên cạnh những ngành nghệ thuật khác như hội họa, âm nhạc, điện ảnh…Dù xuất hiện sau một số lọai hình nghệ thuật ấy, song văn học nghệ thuật đã tạo được một chỗ đứng nhất định trong lòng công chúng. Có thể thấy đời sống của văn học ngày càng phát triển hết sức phong phú, sâu rộng và rất nhanh nhạy. Dẫu rằng hình tượng văn học không hiện hữu một cách trực tiếp như một số các ngành nghệ thuật khác, nhưng nó lại có sức hấp dẫn riêng qua việc bộc lộ với người đọc bằng cái nhìn bên trong thầm kín. Đó là tính chất tinh thần hay tính phi vật thể của hình tượng văn học. Nó tác động váo trí tưởng tượng và liên tưởng của người đọc. Nếu như hình tượng hội hoạ được xây dựng bằng đường nét, màu sắc; hình tượng điêu khắc được xây dựng bằng đường nét, hình khối; hình tượng âm nhạc được xây dựng bằng giai điệu, nhịp điệu….thì văn học sử dụng một chất liệu đặc biệt để kiến tạo nên những tác phẩm văn chương, ấy chính là ngôn từ. Cho nên văn học là một loại hình nghệ thuật ngôn từ là vậy. Với sức mạnh riêng cuả mình, văn học đã tái tạo, phản ánh quá trình vận động không ngừng cuả đời sống một cách đa dạng, phong phú, sinh động và hết sức sâu sắc Ơ trường phổ thông, học sinh bắt đầu làm quen với Văn học nước ngoài từ khi bước vào cấp II bằng những câu chuyện cổ tích của các nước Đức, Đan Mạch…Một thế giới lung linh đầy sắc màu huyền ảo đã được tái hiện trong những tâm hồn trẻ thơ, kích thích và khơi dậy trí tưởng tượng, óc sáng tạo ở các em. Dần dần lên những lớp cao hơn, học sinh sẽ được học một cách đầy đủ, khoa học hơn, những tác phẩm văn học của các nhà văn lỗi lạc, tiêu biểu cho các trung tâm văn học rực rỡ của loài người trong khoảng 3000 năm. Ơ phương Đông có thể kể đến các bậc thánh thơ : Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, các tiểu thuyết gia cổ điển : La Quán Trung, Bồ Tùng Linh, nhà văn nhà tư tưởng lớn thời hiện đại Lỗ Tấn , thi sĩ của những tâm hồn An Độ R. Tago. Ơ phương Tây không thể không nhắc đến hai bộ sử thi kinh điển của Hôme, những vở kịch nổi tiếng của Sếchxpia, Sile, tiểu thuyết lãng mạn của V.Hugo và bậc thầy của chủ nghiã hiện thực Banzắc, văn hào vĩ đai của Nga M.Gorky, nhà thơ lừng danh Puskin…Mỗi một nhà văn, nhà thơ đều là những đại diện xuất sắc cho nền văn học dân tộc mình. Tên tuổi và tác phẩm của họ đều đã được thử thách qua thời gian và tạo được một chỗ đứng riêng trong lòng hầu hết độc giả Việt Nam. Văn học là lịch sử tâm hồn của mỗi dân tộc, là diễn đàn để những “thư ký trung thành của thời đại”(Banzắc) nói lên tất cả những ước mơ, hoài vọng và khao khát của mình, vì thế nó là nhịp cầu hữu nghị giúp cho giao lưu văn hoá giữa các dân tộc diễn ra thuận lợi. Dù vô cùng đa dạng song văn học giữa các dân tộc đều có nét chung là hướng tới những giá trị nghìn đời của chân, thiện, mỹ, giúp cho con người sống tốt hơn, nhân ái hơn, bao dung độ lượng hơn, sống đúng nghĩa với chữ Người viết hoa. Và đó cũng chính là cái đích, là mục tiêu mà văn học nhà trường hướng tơí. Có thể nói những tinh hoa văn học thế giới là di sản tinh thần quý giá chung của cả nhân loại và là bộ phận không thể thiếu trong hành trang văn hóa của con người hiện đại. Với sự đa dạng về chiều rộng, sâu sắc về chiều sâu, Văn học nước ngòai đã cung cấp cho học sinh một cái nhìn đầy đủ và toàn diện về văn hoá cũng như con người của các dân tộc trên thế giới. Điều này góp phần bổ sung vốn văn học, văn hóa cho học sinh trên nhiều phương diện mà nếu chỉ riêng văn học Việt Nam thì có lẽ không đủ sức. 1.1.2 Đối sánh Văn học nước ngoài với Văn học Việt Nam Như trên đã trình bày, với sự đa dạng của văn học dân tộc các nước, cùng với sự phong phú về thể loại, nội dung chương trình Văn học nước ngoài trong trường phổ thông đã mở ra một cái nhìn nhiều chiều, giúp học sinh nhận ra và phát hiện những tinh hoa cũng như những thành tựu của văn học thế giới trong cái nhìn so sánh với Văn học Việt Nam Văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông bao gồm văn học của các dân tộc : Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Trung Quốc, Nhật , Nga, Ấn Độ, Hilạp…..Mỗi một nền văn học của một quốc gia, dân tộc do lịch sử hình thành và phát triển đều có những ưu điểm riêng của mình. Tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hoá, văn học của nhân loại là một trong những cách thức để một dân tộc tự làm phong phú thêm nền văn học của mình. Với ý nghiã đó, Văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông chính là cầu nối, là chìa khoá để học sinh Việt Nam khám phá những chân trời tri thức, những vẻ đẹp tiềm ẩn của Văn học nước ngoài mà văn học trong nước có thể chưa đáp ứng được, cũng như tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt giưã văn học các nước, đặc biệt là những nước có cùng một vùng văn hoá Mỗi một nhà văn khác nhau đều có một phong cách nghệ thuật khác nhau. Cũng như vậy, mỗi một dân tộc khác nhau cũng sẽ có một lối tư duy khác nhau. Tiếp cận với nhiều nền văn học chính là cơ sở để học sinh có điều kiện tìm hiểu cách đánh giá, nhìn nhận và giải thích các hiện tượng, sự việc của các nhà văn thuộc nhiều dân tộc trên thế giới. Chẳng hạn về phương thức sống, nếu người phương Đông trọng tĩnh, hướng nội, khép kín thì người phương Tây lại trọng động, hướng ngoại, cởi mở. Về ứng xử, phương Đông nặng về cộng đồng, trách nhiệm, thì phương Tây lại nghiêng về chủ nghiã cá nhân. Với thiên nhiên, phương Đông nghiêng về hoà đồng “thiên nhân tương dữ, thiên nhân tương hợp” thì người phương Tây lại thích chinh phục, khai thác, tận dụng “Văn học là nhân học” mục đích cuối cùng của văn học vẫn là vì con người, hướng về con người. Cho nên dù được thể hiện dưới góc độ nào chăng nữa thì con người vẫn là vấn đề trung tâm của văn học. Là một bộ phận của văn học thế giới, Văn học Việt Nam không thể đi khỏi quỹ đạo chung ấy, cho nên giữa những nền văn học Á, Au, học sinh vẫn tìm ra tiếng nói chung giữa các dân tộc. Đó là những vấn đề lớn lao của nhân loại như chiến tranh, hoà bình, quyền tự do cá nhân…Rõ ràng đấy là những nội dung lớn mà văn học Việt Nam cũng như văn học các nước không thể không đề cập đến. Và đó cũng chính là chất keo kết dính làm nên mối liên hệ mật thiết giữa văn học các nước, tạo nên sự tồn tại của những mối quan hệ sống động giữa các nền văn học của những nước khác nhau Tất nhiên, theo tiến trình lịch sử văn học, cùng một giai đoạn, một thời kỳ có những vấn đề Văn học nước ngoài đã đề cập đến nhưng điều đó vẫn còn khá mới mẻ với Văn học Việt Nam. Chẳng hạn như chủ nghiã nhân văn, vấn đề con người cá nhân đã xuất hiện trong văn học phương Tây từ thời phục hưng, trong khi đó do điều kiện kinh tế xã hội, thời kỳ này nội dung của Văn học Việt Nam vẫn bó hẹp trong phạm vi của chủ nghiã yêu nước Xét ở một góc độ nào đấy, văn học là lăng kính phản chiếu văn hoá cuả một quốc gia. Đến với văn học là đến với những miền văn hóa để khám phá những chiều sâu bí ẩn trong văn hóa cuả nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới. Mỗi một nền văn học đều mang trong mình những sắc thái văn hóa đặc thù về con người, đất nước, phong tục, tập quán lối sống. Đi vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật của các nhà văn chính là giải mã những “vùng đối tượng thẩm mỹ riêng” (Nguyễn Đăng Mạnh) mà các nhà văn thường phản ánh. Không phải ngẫu nhiên mà trong Văn học Việt Nam khi nhắc đến Sơn Nam là người ta nghĩ đến nhà văn của vùng đất Nam Bộ, Kim Lân thường được nhắc đến với cái tên “nhà phong tục Bắc Bộ”, Nguyên Ngọc- nhà văn của vùng đất Tây Nguyên anh hùng…cũng như học thơ Puskin, truyện ngắn của M.Gorky ta hiểu thêm về đất nước và con người Nga xinh đẹp ; học những tác phẩm của Lỗ Tấn chúng ta hiểu thêm cuộc sống của những người dân Trung Hoa những năm bị áp bức dưới chế đô phong kiến… Rõ ràng, hiểu phong cách nghệ thuật cuả một nhà văn cũng chính là biết thêm một nét văn hoá cuả một đất nước Văn học là tấm gương phản ánh cuộc sống, là tiếng nói đi từ trái tim đến trái tim, thông qua sự giao tiếp bằng con đường tâm hồn, văn học giúp con người xích lại gần nhau, sống trong niềm cảm thông và tình hữu nghị. Tiếp nhận văn học trên tinh thần đối thoại chính là tiền đề để đưa văn học dân tộc hội nhập với văn học thế giới. Văn học là nhịp cầu cho sự giao lưu, là cánh cửa của sự đối thoại là vì thế. Với cái nhìn bao quát và xuyên suốt lịch sử văn học của các dân tộc, chắc chắn học sinh sẽ tự rút ra cho mình những vấn đề bổ ích và lý thú, và cũng từ đó, vốn văn hóa, văn học của học sinh chắc chắn sẽ được nhân lên 1.1.3 Góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại Mục đích cuối cùng của quá trình dạy học văn chính là quá trình học sinh có sự chuyển biến, thay đổi về chất. Đến với tác phẩm văn chương là quá trình học sinh đi từ tri giác đến tái hiện bằng tưởng tượng. Từ những gì thu nhận được, học sinh sẽ khái quát, rút ra được vấn đề mà các nhà văn muốn thể hiện, cao hơn nữa là sự định giá tác phẩm, cuối cùng là khâu tự nhận thức về bản thân mình cũng như về cuộc đời, mà có người gọi ấy là sự thăng hoa về cảm xúc, về nhận thức Công việc của nhà văn là “ phản ánh tái hiện cuộc sống, nêu lên những hiểu biết về thế giới, nhận thức về thế giới và bày tỏ thái độ chủ quan của mình, nói lên ước mơ khát vọng của mình về thế giới, về cuộc sống” [23, tr 20]. Sức mạnh của văn học là ở chỗ khi phản ánh chân thực những mặt này hay mặt khác của cuộc sống, những hiện tượng biến cố xã hội, nó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề tư tưởng, chính trị, các vấn đề của cuộc đấu tranh giải phóng quần chúng, những vấn đề về số phận con người. Cho nên, giá trị của một tác phẩm văn học không phải chỉ ở tính hiện thực mà còn ở tầm tư tưởng của nó. Bởi vậy, nhà văn lớn cũng thường là những nhà tư tưởng lớn Văn học nghệ thuật là tiếng nói tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ. Mỗi một tác phẩm văn học đều chứa đựng những thông điệp mà nhà văn muốn gửi gắm. Cùng với văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài trong trường phổ thông với sự đa dạng của nhiều nền văn học từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim đã tạo nên những điển hình văn học đặc sắc với những giá trị riêng. Điều đó cũng góp phần xây dựng, bồi đắp và hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Có thể kể đến những nhân vật đẹp trong Văn học nước ngoài như Paven Coócsaghin, Quan Công, Lưu Bị, Xôcôlốp, Giăngvangăng… họ mãi là những hình tượng văn học độc đáo, vĩnh cửu. Bởi mỗi đứa con tinh thần của nhà văn đều là kết tinh của những trải nghiệm trước cuộc đời. Đôi khi một tác phẩm hay, một hình tượng nhân vật đẹp cũng có thể sẽ làm thay đổi cách sống cũng như quan niệm của học sinh về con người, về cuộc đời. Có thể nói cuộc đời của các nhà văn, nhà thơ có trong chương trình văn học nước ngoài là những tấm gương sáng. Họ là chiến sĩ, ca sĩ của tự do. Chân lý cuộc sống, các giá trị thẩm mỹ trong tác phẩm cuả họ đều được nung nấu, rút ra từ những trải nghiệm trong suốt cuộc đời phong phú của họ. Lòng trân trọng, sự tin tưởng mãnh liệt vào con người bừng sáng trong toàn bộ sáng tác của Gorky : “ tôi không biết còn có gì tốt đẹp hơn, phức tạp hơn, thú vị hơn con người. Con người là tất cả. Nó đã sáng tạo ra cả thượng đế”. Lỗ Tấn thì dùng văn chương chữa bệnh tinh thần quốc dân, phê phán phép thắng lợi tinh thần kiểu AQ. Còn nhân vật chính trong Số phận con người (Sôlôkhốp) đã thể hiện bản lĩnh kiên cường, vượt lên mọi đau khổ quá sức tưởng tượng với tâm niệm “là thằng đàn ông, anh là người lính, khi cần anh phải chịu đựng hết, gánh vác hết”. Sức mạnh của văn chương đã bồi đắp cho học sinh nhưng tình cảm cao đẹp và là ví dụ sinh động chứng tỏ sự gắn bó hài hòa giưã tình cảm cá nhân và lý tưởng sống của mỗi con người. Các nhà văn đã cần cù lao động nghệ thuật suốt đời, có thể nói, cuộc đời của họ là lời chú giải tuyệt vời cho sáng tác và sáng tác của họ là sự biện hộ tuyệt vời cho cuộc đời. Mỗi một nhà văn và những sáng tác của họ đều là những bài học sinh động , lý thú và bổ ích cho hành trang vào đời của mỗi học sinh. Quả không sai khi nói rằng văn học có tác dụng thanh lọc tâm hồn con người, nâng đỡ con người là vậy. Ngày nay, trước sự hối hả của nhịp sống hiện đại, điều này chẳng phải càng trở nên cần thiết hay sao? Khác với sự phát triển khoa học diễn ra theo tuyến tính, tiến bộ nghệ thuật và quá trình văn học không dựa trên sự phủ định triệt để các thời đại văn học và trào lưu văn học có trước. Chính vì vậy, nhiều kiệt tác văn học thế giới cho đến hôm nay vẫn có tác động thẩm mỹ mạnh mẽ và vẫn là những chuẩn mực nghệ thuật khó vượt qua được, nói như nhà văn Nga X. Sêđrin “ văn học nằm ngoài những định luật của băng họai. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết” 1.2. NỘI DUNG, CẤU TRÚC, THỜI LƯỢNG VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI TRONG SÁCH GIÁO KHOA VĂN Ở TRƯỜNG PHỔ THÔNG 1.2.1. Cấp trung học cơ sở Phân phối chương trình môn Ngữ văn (phần VHNN) gồm các bài sau : * Lớp 8 : 1. Cô bé bán diêm - cổ tích Andecxen ( 2 tiết ) 2. Chiếc lá cuối cùng - Ohenri ( 2 tiết ) 3. Trích đoạn : Ông Giuốc-đanh mặc lễ phục- Môlie ( 2 tiết ) * Lớp 9 : 1. Cố hương – Lỗ Tấn (3 tiết) 2. Sói và cưù trong thơ ngụ ngôn của La Phông ten ( 2 tiết ) 3. Rôbinxơn ngoài đảo hoang (1 tiết) 4. Bố cuả Ximông ( 2 tiết ) 5. Con chó Bấc ( 1 tiết ) 1.2.2. Cấp trung học phổ thông * Lớp 10 : 1. Sử thi Ôđixê – ( 2tiết ) 2. Sử thi Ramayana – ( 2 tiết ) 3. Thơ Đường với 4 tác giả : Lý Bạch ,Đỗ Phủ, Thôi Hiệu, Bạch Cư Dị ( 4 tiết ) 4. Tiểu thuyết :Tam Quốc Diễn Nghiã ( 3 tiết ) 5. Kịch Sếchxpia ( 3 tiết ) : - Romeo & Juliet - Hamlet * Lớp 11: 1. Kịch Sile : Am mưu và tình yêu ( 2 tiết ) 2. Hugo : - Biển đêm ( 2 tiết ) - Tiểu thuyết :Những người khốn khổ ( đọc thêm ) 3. Banzắc : Laõ Gôriô( 2 tiết ) 4. Puskin ( 2tiết ) : - Tôi yêu em - Con đường muà đông - Con đầm pích ( đọc thêm ) 5. Lép Tônxtôi : Chiến tranh và hoà bình ( 2 tiết ) 6. Mactuên : Những cuộc phiêu lưu của Tomxoyo ( 2tiết ) 7. Tago ( 2 tiết ) : - Bài số 28 - Thuyền giấy - Thượng đế là lao động ( đọc thêm ) 8. Prem Chanđơ : tiểu thuyết Gođan ( đọc thêm ) * Lớp 12: 1. M.Gorky : - Một con người ra đời ( 2 tiết ) - Trích đoạn : Tôi đã học tập như thế naò ( đọc thêm ) 2. Lỗ Tấn : - Thuốc ( 2 tiết ) - AQ chính truyện ( đọc thêm ) 3. Êxênin : - Thư gửi mẹ ( 2 tiết ) - Mai tóc xanh ( đọc thêm ) 4. Aragông : - Enxa ngồi trước gương ( 2 tiết ) - Bài ca của người hát trong ngục tù tra tấn ( đọc thêm ) 5. Hêminguê : Ông già và biển cả ( 2 tiết ) 6. Sôlôkhốp : - Số phận con người ( 2 tiết ) - Trích đoạn : Sông Đông êm đềm ( đọc thêm ) 7. Kaoabata : Thuỷ nguyệt ( đọc thêm ) 8. Amađo : Terêda ( đọc thêm ) 1.2.3 Nhận xét chung về Văn học nước ngoài và tác phẩm Lỗ Tấn ở phổ thông 1.2.3.1. Về Văn học nước ngoài - Chương trình Văn học nước ngoài trong trường phổ thông đã bao quát hầu hết văn học của các châu lục lớn trên thế giới : Châu Á (Nhật, Ấn Độ, Trung Quốc) Châu Âu (Anh, Pháp, Đức, Nga, Hylạp), Châu Mĩ (Mỹ, Braxin), với nhiều tác phẩm của các tác giả nổi tiếng, tiêu biểu cho từng nền văn học của từng dân tộc qua các giai đoạn, thời kỳ lịch sử. Điều này tạo cho học sinh có cơ hội được mở rộng tầm hiểu biết về văn học cũng như văn hoá của dân tộc các nước - Chương trình ở cả hai cấp đều có cấu tạo theo vòng tròn đồng tâm : từ dễ đến khó, từ những vấn đề đơn giản đến lớn lao, đòi hỏi chiều sâu của tư duy - Đa dạng phong phú về thể loại: sử thi, thơ, kịch, truyện ngắn, tiểu thuyết….Đây là cơ sở để học sinh có thể so sánh, đối chiếu với các tác phẩm trong nước có cùng thể loại - Nội dung chương trình được sắp xếp theo tiến trình văn học sử, đặc biệt là được xen kẽ, song song với văn học Việt Nam, không có tình trạng nhất bên trọng nhất bên khinh. Cách sắp xếp như vậy, học sinh vừa tiện theo dõi,vừa có điều kiện đối chiếu với văn học trong nước. - Với mục tiêu đem đến cho học sinh một cái nhìn tổng thể về những tinh hoa văn học tiêu biểu của thế giới, cũng như góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, Văn học nước ngoài trong sách giáo khoa đã có một vị trí tương đối thích đáng, cân đối trong tòan bộ cơ cấu chương trình : chương trình Văn học nước ngoài chiếm tỉ lệ gần 40% trong khung chương trình chung của môn Ngữ Văn - Những tác phẩm đưa vào chương trình đều là những tác phẩm nổi tiếng tiêu biểu cho từng giai đọan sáng tác của mỗi một tác giả. Với những bộ tiểu thuyết lớn học sinh sẽ được học những đọan trích tiêu biểu của tác phẩm, còn lại phần lớn học sinh được học trọn vẹn một tác phẩm (truyện ngắn, thơ) - Phần tiểu dẫn tương đối cụ thể, dễ hiểu. Tuy nhiên ở một số bài phần hướng dẫn học bài, nội dung một số câu hỏi đôi khi còn hàn lâm, chưa kích thích tư duy sáng tạo của học sinh, số lượng câu hỏi trong một bài cũng khá nhiều nhưng ít có chiều sâu, dễ gây nhàm chán - Số tiết (thời gian) phân bổ cho từng bài nhìn chung là hợp lý. Tuy nhiên đối với những tác phẩm khó, thời gian còn hơi ít so với nội dung cần truyền đạt. Điều này khiến cho không ít giáo viên, nhất là những giáo viên trẻ sẽ không có sự đầu tư._. hợp lý cho bài giảng, vì sợ không kịp thời gian trên lớp 1.2.3.2. Về tác phẩm Lỗ Tan Hầu hết với mỗi một tác giả, học sinh được học từ 1-2 tác phẩm tiểu biểu của nhà văn, nhà thơ ấy. Riêng với nhà văn Lỗ Tấn, học sinh đã được biết đến từ cuối năm cấp II với bài Cố Hương và lên cấp III (lớp 12), các em lại tiếp tục học 2 tác phẩm của nhà văn này (Thuốc và AQ chính truyện). Rõ ràng, không phải ngẫu nhiên mà những người biên sọan chương trình lại ưu ái nhiều với Lỗ Tấn như vậy. Có thể nói, Trung Quốc không những là một quốc gia gần gũi với chúng ta về mặt địa lý mà hơn nữa văn hóa, văn học Trung Quốc còn có nhiều điểm gần gũi với cách nhìn, cách nghĩ của người Việt Nam mà Lỗ Tấn là một trong những nhà văn tiêu biểu. Phải chăng vì lẽ đó mà văn chương Lỗ Tấn có một sức hấp dẫn đối với bạn đọc Việt Nam ? Như vậy có thể thấy so với những tác giả khác, tác phẩm cuả Lỗ Tấn được học khá nhiều ở phổ thông (3 tác phẩm) với thời gian là 6 tiết. Nhìn một cách tổng thể, số lượng tác phẩm cũng như thời lượng dành cho từng bài của nhà văn này trong chương trình như vậy có thể chấp nhận được. Tuy nhiên nếu có thể được, cần bổ sung thêm một truyện ngắn nữa ở phần học chính khóa (đặc biệt là ở những lớp nâng cao), để học sinh hiểu rõ thêm phong cách nghệ thuật của nhà văn này. 1.2.3.3. Kết luận chung : Có thể nói, cấu trúc, thời lượng, nội dung chương trình của Văn học nước ngoài trong chương trình phổ thông đã có sự đổi mới, điều chỉnh phù hợp với tâm lý học sinh qua từng lớp, cấp học. Học sinh phổ thông trong những giờ học Văn, thông qua các tác phẩm nghệ thuật đã bắt đầu hiểu cuộc sống và chính bản thân mình một cách sâu sắc hơn, đồng thời phát triển năng khiếu thẩm mỹ và đạo đức. Đó là kết quả của quá trình tìm tòi, nghiên cứu nghiêm túc của các sọan giả để đưa ra một chương trình học bổ ích, lý thú phù hợp với học sinh. Lỗ Tấn là một nhà văn lớn, là “ Gorki của Trung Quốc”. Các tác phẩm của ông không chỉ được dạy ở bậc đại học mà còn ở bậc phổ thông của nước ta. Bởi vậy nghiên cứu văn nghiệp của nhà văn này là một công việc hết sức cần thiết cho công tác giảng dạy của các giáo viên. CHƯƠNG 2 : MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LỖ TẤN VÀ THI PHÁP TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN 2.1. CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI VĂN HỌC CÁCH MẠNG TRUNG HOA CỦA LỖ TẤN 2.1.1. Bối cảnh xã hội Trung hoa thời Lỗ Tấn Trung Hoa là một đất nước không chỉ vĩ đại về tầm vóc, lãnh thổ mà còn là một dân tộc có nhiều đóng góp có giá trị cho sự nghiệp văn học thế giới. Tìm hiểu về văn hóa, văn học Trung quốc, chúng ta không thể bỏ qua thiên tài Lỗ Tấn Trước hết, một sự kiện chính trị xã hội có tác động to lớn đến xã hội phong kiến Trung Quốc bấy giờ là cuộc chiến tranh nha phiến (1840-1842), sau đó là những cuộc tấn công của liên quân Anh –Pháp (1851-1864), chiến tranh Trung –Pháp (1884-1885)….Trước tình hình đó, giai cấp thống trị Trung Quốc vẫn giữ tư tưởng mình là nước có nền văn minh lâu đời sẽ thu phục được thực dân nên đã không ngần ngại ký những hiệp ước nhục nhã dâng Trung Quốc cho bọn đế quốc phương Tây. Kể từ đó, chủ nghĩa tư bản phương Tây tràn vào Trung Quốc, giai cấp thống trị bản xứ liên kết với đế quốc phương Tây tăng cường đàn áp bóc lột dẫn đến tình trạng nhân dân Trung Quốc phải chịu cảnh một cổ hai tròng. Những sự kiện ấy, tuy xảy ra trứơc Lỗ Tấn khá lâu nhưng nó chính là những dấu mốc lịch sử quan trọng có sức lay động mạnh đến con đường sáng tác của ông sau này. Tiếp đó phải kể đến là cuộc cách mạng Tân Hợi 1911 do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Cuộc cách mạng đã lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm, xây dựng nước Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn được bầu làm đại tổng thống lâm thời. Tuy vậy, đấy vẫn là một cuộc cách mạng “thay thang chứ không thay thuốc”, không giải quyết được vấn đề gì cho xã hội, nghĩa là giai cấp nông dân vẫn bị bóc lột như thời phong kiến . Cuối cùng, đó là cuộc vận động Ngũ Tứ 1919, một cuộc cách mạng dân chủ kiểu mới đòi độc lập, chống đế quốc và phong kiến, đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp vô sản, chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng cộng sản Trung Quốc(1921) với khẩu hiệu biểu tình của thanh niên “ngọai tranh quốc quyền, nội trừng quốc tặc”. Cuộc vận động văn hóa mới của Ngũ Tứ diễn ra ở cả hai mặt : nội dung và hình thức. Cũng từ đây đánh dấu sự chuyển mình của văn học Trung Quốc : trung đại sang hiện đại Có thể nói, tất cả những sự kiện lịch sử trên đã tác động rất lớn đến văn nghiệp của nhà văn , nhà cách mạng Lỗ Tấn. Một nhà lý luận văn học phương Tây đã từng viết : khi một dân tộc bị mất quyền tự do về chính trị thì văn học là diễn đàn duy nhất mà ở đó dân tộc ấy có thể nói lên tất cả lòng căm thù và lương tri của mình . Và Lỗ Tấn đã thổi hồn dân tộc vào những trang viết của mình với tất cả lòng nhiệt tình của một nhà văn chân chính. 2.1.2. Con đường cứu nước của Lỗ Tấn và sự hình thành quan niệm sáng tác văn chương tích cực của ông Cuộc đời của nhà văn Lỗ Tấn trải dài trên hai giai đọan lịch sử : cận đại (1840-1911) và hiện đại (1911-1949). Đó là 80 năm lịch sử đầy biến động và đau khổ của nhân dân Trung Hoa. Với một trí thức yêu nước như Lỗ Tấn, ấy là một nỗi nhục, một niềm đau lớn. Thêm vào đó, cái tang ông thân sinh đã gây nên trong tâm hồn Lỗ Tấn một mối hòai nghi đối với nghề thuốc cũ và lòng tin vào khoa học. Một màn điện ảnh đã gieo vào khối óc cậu thanh niên du học cái ý nghĩ cải tạo tinh thần cho dân tộc. Từ nỗi đau riêng của cuộc đời đến nỗi đau chung của đất nước, Lỗ Tấn luôn nuôi trong mình một hy vọng mãnh liệt là làm sao có thể làm một cuộc cách mạng về xã hội, để những người dân bất hạnh đỡ khổ đau . Bởi vậy trong suốt cuộc đời nhà văn, ta thấy ông luôn trăn trở để tìm ra con đường ngắn nhất vực dân tộc mình dậy, vượt ra khỏi giai đọan lịch sử đau thương ấy. Chợt bỗng nhớ đến hai câu thơ của Chế Lan Viên : “ Ta là ai ?” như ngọn gió siêu hình. Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt. “ Ta vì ai ?” khẽ xoay chiều ngọn bấc Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh ( Hai câu hỏi ) Lỗ Tấn cũng vậy, luôn đau đáu một nỗi niềm : đâu là hướng đi của dân tộc Trung Hoa? Là một nhà văn thời Ngũ Tứ-thời đại trăn trở tìm đường của dân tộc Trung Hoa dưới ánh sáng của cách mạng vô sản, Lỗ Tấn vĩ đại trứơc hết vì ông đã biết quên tình riêng để hướng đến tình chung, cố nén nỗi đau của cuộc đời mình để hướng về nỗi đau lớn của dân tộc và hơn hết, còn vì ông đã sử dụng ngòi bút của mình làm vũ khí đắc lực tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Và cũng từ đây, nhà văn Lỗ Tấn đã hình thành cho mình một quan niệm, một cương lĩnh sáng tác rất tiến bộ. Văn học là tiếng nói đi từ trái tim đến trái tim. Hơn bao giờ hết, Lỗ Tấn nhận thấy chỉ có văn học và bằng văn học, ông mới có thể thức tỉnh được bao người dân Trung Quốc “đang ngủ mê trong một cái nhà hộp bằng sắt”, ông muốn tiếng nói từ trái tim ông phải hòa cùng nhịp đập với tiếng nói của đồng bào mình. Thế mới hiểu được vì sao nhà văn đã thao thức cả đêm ròng khi phải xa quê hương để dành trọn cả cuộc đời mình tìm “phương thuốc” chữa bệnh cho quốc dân cả về thể xác lẫn tinh thần . Như vậy, là kỹ sư tâm hồn của dân tộc, Lỗ Tấn đã dồn tất cả tâm huyết vào ngọn bút sắc như lưỡi kiếm vạch mặt kẻ thù, đưa chúng ra trước vành móng ngựa, đồng thời phanh phui, mổ xẻ mọi thói hư tật xấu của quảng đại quần chúng nhân dân đang mê muội và bị lợi dụng. Với một tư tưởng sáng tác như thế, chủ đề nổi bật trong tác phẩm của ông là các căn bệnh tinh thần cản trở con đường giải phóng dân tộc (ông gọi là liệt căn tính quốc dân , nghĩa là bệnh tật căn bản của quốc dân). Ở Lỗ Tấn, sức mạnh tinh thần đã được nhân lên gấp bội, vì ông vốn là nhà tư tưởng, nhà văn hóa của nước Trung Hoa thời cận đại. Ông đã hát cho đồng bào mình nghe bài hát lạc điệu của bản thân họ, chỉ cho họ thấy những bước đi sai nhịp trên con đường hành quân tiến về tương lai. Thái độ của Lỗ Tấn làm chúng ta nhớ đến Các Mác khi người chỉ trích sự lạc hậu của dân tộc Đức so với các dân tộc Châu Au vào giữa thế kỷ XIX : “ vấn đề là không được để cho người Đức có lấy một chút ảo tưởng và nhẫn nhục nào cả. Phải làm cho sự áp bức hiện thực trở nên nặng nề hơn bằng cách thêm vào đó ý thức về sự áp bức. Phải làm cho sự nhục nhã trở thành nhục nhã hơn bằng cách công bố nó. Phải làm cho nhân dân biết sợ bản thân mình để họ mạnh dạn lên” [Dẫn theo 8,tr 22]. Ý nghĩa lịch sử của chủ đề “ phê phán liệt căn tính quốc dân” trong sáng tác Lỗ Tấn càng trở nên sâu sắc, thấm thía vì nhà văn đã viết ra với thái độ tự phê bình. Ông nói : tôi mổ xẻ người khác nhưng phần nhiều là mổ xẻ chính mình, có lẽ đó là biểu tượng đẹp đẽ nhất về sứ mệnh cao cả của nhà văn. Quan niệm sáng tác : văn chương cải tạo tinh thần quốc dân là kim chỉ nam chi phối hầu hết các sáng tác của Lỗ Tấn . Tư tưởng ấy vừa mang màu sắc Cách mạng, vừa chứa đựng một sứ mệnh nhân đạo cao cả. Nhân đạo ơ chỗ ông đặt lên hàng đầu việc chữa bệnh cho những người bất hạnh trong xã hội cũ “ mỗi khi chọn đề tài,tôi thường chọn những người bất hạnh trong xã hội bệnh tật với mục đích lôi hết bệnh tật cuả họ ra để mọi người tìm cách chạy chữa”[38,tr45] , hay ở sự phơi bày “sự trụy lạc, cái giả dối và cái thốt nát” của xã hội thượng lưu đương thời. Còn màu sắc cách mạng thể hiện ở chỗ nó hướng đến giác ngộ quốc dân đồng bào để họ nhìn thấy được thực chất của xã hội mình mà xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn. Ca ngợi tính nhân đạo và cách mạng ấy trong quan niệm sáng tác của Lỗ Tấn, nhà văn Nguyễn Tuân của chúng ta từng viết : “ bao nhiêu là cuộc đời nhân dân lao động Trung Hoa úa héo đi như đám cỏ 4000 năm bị đè dưới đá tảng lịch sử. Lỗ Tấn viết truyện ngắn, đứng vào chỗ đám cỏ úa mà viết và muốn đem sinh khí của sự sống chân chất đến cho đám cỏ úa kia xanh tươi lại” [11,tr 20]. Ay chính là cái tầm cao của một nhà văn- cách mạng chân chính. Có thể nhận thấy, con đường dẫn đến sự nghiệp cầm bút của Lỗ Tấn trải qua rất nhiều thử thách, gian truân nhưng trứơc sau ông vẫn kiên cường hướng tâm hồn mình về dân tộc, cống hiến máu thịt, tâm huyết cho sự tồn tại và phát triển của quê hương. Lỗ Tấn nhận ra rằng , cách mạng không thể thuận buồm xuôi gió, khó tránh khỏi gập ghềnh thất bại và hi sinh. Nhưng để thực hiện cho bằng được mục tiêu giải phóng dân tộc, nước nhà giàu mạnh, “ cho dù gian nan cũng phải làm, càng gian nan càng cần phải làm” , Lỗ Tấn quả xứng đáng với danh hiệu “dân tộc hồn” mà quần chúng Thượng Hải đã thêu trên lá cờ đỏ phủ quan tài cho ông. Tuy nhiên, một cây đại thụ tỏa bóng gần như cả thế kỷ thì thông thường cũng rất đa diện, đa sắc, đa hương. Do đó, hiểu cho hết, cho đúng văn chương Lỗ Tấn cũng không phải đơn giản. Tầm cao, tầm rộng và tầm sâu của tư tưởng nhà văn không dễ gì nắm được đầy đủ. Do vậy, để giảng dạy tốt các truyện ngắn của Lỗ Tấn ở phổ thông, thiết nghĩ ngòai việc nắm được quan niệm sáng tác, chúng ta cũng cần phải tìm hiểu thi pháp truyện ngắn của nhà văn. Có thể đó sẽ là chiếc chìa khóa vàng để mở cánh cửa khám phá lâu đài văn chương Lỗ Tấn . 2.2. THI PHÁP TRUYỆN NGẮN LỖ TẤN 2.2.1. Về thuật ngữ thi pháp và thi pháp học 2.2.1.1. Thi pháp Thật khó có một định nghĩa hoàn chỉnh cho một hiện tượng luôn biến động. Hiện nay, thuật ngữ thi pháp và thi pháp học đã không còn xa lạ với những người làm công tác nghiên cứu khoa học nữa. Đã có rất nhiều quan niệm và cách trình bày khác nhau của nhiều tác giả về nội dung khoa học của các khái niệm này. Do vậy trong khuôn khổ luận văn, chúng tôi cũng chỉ mạn phép trình bày một cách ngắn gọn những cách hiểu , lý giải của những người đi trứơc về vấn đề này. Trong công trình Lý luận và văn học, GS Lê Ngọc Trà đã nêu lên nội hàm của khái niệm thi pháp là : hệ thống các phương tiện, cách thức thể hiện và tổ chức ý thức nghệ thuật trong sáng tạo văn chương [10,tr139]. Đặc điểm thi pháp như là hình thức bên trong của tác phẩm văn học thường gắn liền với những đăc điểm của bản thân ý thức nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy muốn nghiên cứu thi pháp của một tác phẩm hoặc sáng tác của nhà văn phải xác định cho được quan niệm về thế giới và tư tưởng xã hội của tác gia [10,tr143] Năm 1998, trong công trình Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, GS Nguyễn Văn Hạnh đã đưa ra một định nghĩa về thi pháp hết sức bao quát: thi pháp là nghệ thuật thi ca, nói một cách chặt chẽ và khái quát hơn là hệ thống những nguyên tắc chỉ đạo quá trình sáng tác và xây dựng tác phẩm văn học bao gồm những nguyên tắc nhận thức và thể hiện cuộc sống một cách nghệ thuật, theo qui luật của cái đẹp, qua việc lựa chọn đề tài, xác định và soi sáng các chủ đề, khai thác cốt truyện, xây dựng hình tượng, nhân vật, tính cách, sử dụng và sáng tạo loại thể, ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật khác, xuất phát từ quan niệm về bản chất và chức năng của văn học [23,tr71] GS Trần Đình Sử trong chuyên đề Một số vấn đề thi pháp học hiện đại , đã đưa ra hai cách hiểu về khái niệm thi pháp : một là hiểu thi pháp như là nguyên tắc, biện pháp chung làm cho văn bản, phát ngôn trở thành tác phẩm nghệ thuật…Hai là hiểu thi pháp như là những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật cụ thể tạo thành đặc sắc nghệ thuật của một tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu… Cả hai cách đều có chung mục đích khám phá các nguyên tắc phổ quát hoặc cụ thể, lịch sử làm thành nghệ thuật [39,tr 5] Theo tác giả Đỗ Đức Hiểu, trong cuốn Thi pháp hiện đại, thì “thi pháp là phương pháp tiếp cận, tức là nghiên cứu, phê bình tác phẩm văn học từ các hình thức biểu hiện bằng ngôn từ nghệ thuật, để tìm hiểu các ý nghĩa hiển hiện hoặc chìm ẩn của tác phẩm…”.[2,tr 9] Còn với tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh trong tác phẩm Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, nói đến thi pháp chủ yếu “là nói đến quá trình sáng tạo những hình thức nghệ thuật của tác phẩm, là nói đến những phương thức, phương tịên, những thao tác nghệ thuật của nhà nghệ sĩ ngôn từ” [20,tr10] 2.2.1.2. Thi pháp học Thi pháp học là khoa học về thi pháp. Nhà lý luận V.Vinogradov định nghĩa : thi pháp học là khoa học về các hình thức, các phương tiện tổ chức tác phẩm nghệ thuật ngôn từ và các cấu trúc, các loại thể tác phẩm văn học. Còn Khravchenko thì quan niệm : thi pháp học như một môn khoa học nghiên cứu các phương thức và phương tiện thể hiện cuộc sống bằng hình tượng nghệ thuật, khám phá cuộc sống một cách hình tượng [dẫn theo1,tr10] GS Trần Đình Sử thì quan niệm thi pháp học là bộ môn nghiên cứu tất cả mọi phương diện của hình thức nghệ thuật, mọi nguyên tắc, phương diện tạo thành nghệ thuật cũng như sự vận động phát triển của chúng [39,tr 8] Cũng theo GS, nghiên cứu thi pháp cho ta nắm bắt được tính xác định của nội dung. Nó hạn chế tính chủ quan và những suy diễn có tính chất võ đoán tuỳ tiện, để nâng cao tính khoa học trong việc nghiên cứu lĩnh hội tác phẩm văn học…Nghiên cứu thi pháp là nghiên cứu một cách đọc tác phẩm, cách giải mã tác phẩm(….), cho phép ta hiểu đúng hiểu sâu tác phẩm văn học và cho ta thấy được quá trình phát triển của tư duy nghệ thuật, đánh giá được ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm trong lịch sử tiến hoá của tư duy. Đây là một cách giúp ta tiếp cận tác phẩm văn học trong tính thống nhất gữa nội dung và hình thức [39,tr13- 14] Tóm lại, có thể hiểu nhiệm vụ của thi pháp học là tìm ra cái lý của nghệ thuật. Có thể là những tồn tại nghệ thuật của một thời đại, một trào lưu, một tác gia, một tác phẩm…hay cũng chỉ có thể là những yếu tố nghệ thuật tạo thành tác phẩm như nhân vật , kết cấu, không gian, thời gian… Do vậy, trên tinh thần ấy, chúng tôi sẽ đi vào nghiên cứu , tìm hiểu một số phương diện trong thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn. 2.2.2. Những phương diện trong thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn Tác phẩm văn chương, nhất là những tác phẩm xuất sắc bao giờ cũng là những văn bản nghệ thuật đa nghĩa bởi tự nó đã chứa đựng những đại lượng nghệ thuật thẩm mỹ, những nguồn thông tin đa dạng. Tiếng nói của nhà văn qua tác phẩm là một tiếng nói đa thanh, nhiều giọng. Nhà văn hiện thực Nga I.Tuốcghênhép đã từng cho rằng hạnh phúc lớn nhất đối với nhà văn là được viết đúng sự thật, cho dù sự thật đó không giống với mong muốn của nhà văn. Và Lỗ Tấn chính là một trong những nhà văn như thế. Ông quan niệm rằng, viết văn là một quá trình gian lao, nó đòi hỏi nhà văn “thứ nhất là kiên nhẫn, thứ hai là nhận chân, thứ ba là nhẫn trường. Nhẫn trường là phải nỗ lực không ngừng, không được tự mãn với những thành tích nhất thời. Nhận chân là yêu cầu nhà văn phải thận trọng, có tinh thần trách nhiệm và thực sự cầu thị. Kiên nhẫn đòi hỏi nhà văn không được lùi bước trước những khó khăn nhất thời” [31,tr 121]. Rõ ràng với phương châm như thế, “danh thủ về truyện ngắn Lỗ Tấn” (Phađéep) đã để lại cho đời những tác phẩm văn chương có sức lay động ngân vang đến muôn đời. Lỗ Tấn suốt đời là một người tìm đường. Việc ông băn khoăn suy tính cho sự chuyển hướng nghề nghiệp của mình đã chứng minh cho quá trình quyết tâm tìm một con đường đúng đắn để cứu quốc gia, đồng bào. Plekhanov từng cho rằng : khi người nghệ sĩ nhắm mắt trước những biến cố của xã hội, thời đại đó, thì những giá trị thừa hưởng từ tư tưởng trong tác phẩm của họ sẽ bị suy giảm nghiêm trọng. Và tác phẩm của họ không tránh khỏi sẽ bị lãng quên. Sự vĩ đại của Lỗ Tấn nằm ở khả năng nắm bắt những khuynh hướng xã hội chính của thời đại ông, tiếp thu những tư tưởng tiến bộ và đánh giá chính xác bản chất của đấu tranh giai cấp trong xã hội Trung Quốc lúc bấy giờ mà tác phẩm của ông là tiếng vọng mang tính văn chương nhất. Là người thư ký trung thành của thời đại mình, người chiến sĩ của giới tinh thần, Lỗ Tấn đã kiên quyết dùng ngòi bút đấu tranh không khoan nhượng với tất cả những gì cản trở sự đi lên của dân tộc Trung Hoa. Ông đã tình nguyện trở thành người chiến sĩ tiên phong lãnh trách nhiệm khai phá, mở ra con đường văn học hiện thực vô sản như Chủ tịch Mao Trạch Đông đã từng phát biểu về ông “trên mặt trận văn hóa, Lỗ Tấn đại diện cho số đông của dân tộc. Ông là vị anh hùng xung phong vào trận địa kẻ thù một cách chuẩn xác nhất, nhiệt tình nhất” (Bàn về chủ nghiã dân chủ mới). “Nếu như nhà chính trị thường chú ý đến cái tất yếu, đến logic cái cần phải làm, thì nghệ sĩ lại quan tâm đến những gì xảy ra đằng sau cái logic ấy. Đối với nhà văn, quan trọng không phải chỉ mặt trước của tấm huy chương mà còn cả mặt sau của nó”[10,tr16] . Với Lỗ Tấn, nỗi lòng luôn trăn trở trước những mảnh đời đau khổ, những kiếp sống lầm than, đã khiến ông quyết định chọn truyện ngắn như là một vũ khí đắc lực phục vụ ý đồ sáng tác của mình. Nhà văn đã phả lên trang viết của mình những giá trị tinh thần to lớn, mang nhịp đập thời đại, trong đó ông là người chẩn bệnh và kê đơn chữa bệnh, trong đó ông vừa vạch ra các khuyết tật, lại vừa cảm thông an ủi và chỉ lối đi cho con người. Người đọc nhận ra sự phê phán của ông đồng thời lại xúc động do ông luôn nâng con người lên chứ không hạ thấp họ. Dường như khi căm giận ông thét to, nhưng khi đau đớn ngòi bút ông dừng lại nghẹn ngào giữa những hàng chữ. Ay chẳng phải là tấm lòng của một nhà nhân đạo lớn hay sao ? Về thi pháp Lỗ Tấn có rất nhiều vấn đề, song trong pham vi luận văn, chúng tôi mạn phép chỉ đề cập một số vấn đề mà theo chúng tôi cần nghiên cứu khai thác khi trực tiếp giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn. 2.2.2.1 Nhân vật Đối tượng của văn học là con người và cuộc sống nên truyện bao giờ cũng phải có nhân vật. Cảm hứng chủ đạo, tư tưởng chủ đề của một tác phẩm tự sự bao giờ cũng được thể hiện trước tiên ở hệ thống nhân vật của tác phẩm. Nhà văn Tô Hòai từng viết : nhân vật là nơi duy nhất tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong một sáng tác. Nhân vật là nơi biểu hiện tư tưởng tình cảm của nhà văn. Dù đi vào đề tài nào thì mối quan tâm chính của nhà văn vẫn xoay quanh vấn đề con ngừơi, số phận, đường đời của nhân vật trong những hòan cảnh, những tình huống khác nhau [35,tr 47]. Trong thế giới nghệ thuật của nhà văn thường có một số hình tượng tâm huyết nhất, cứ trở đi trở lại nhiều lần như một ám ảnh đối với nhà văn. Những hình tượng như thế càng có tính phổ biến bao nhiêu, càng có ý nghĩa tư tưởng sâu sắc và cơ bản bấy nhiêu. Và hình tượng nhân vật chủ yếu mà Lỗ Tấn muốn hướng tới ấy chính là người nông dân và trí thức. Hai lọai nhân vật này dường như chiếm hầu hết trong các sáng tác của nhà văn. Trong đó hơn phân nửa số lượng tác phẩm, ngòi bút Lỗ Tấn trăn trở suy tư trước số phận, đường đời của những người nông dân trong xã hội phong kiến Trung Hoa. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi cũng chủ yếu đề cập tới những nhân vật này (vì có liên quan trực tiếp đến các tác phẩm trong sách giáo khoa hiện hành). Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà ngòi bút Lỗ Tấn lại dành nhiều tình cảm ưu ái đối với tầng lớp này. Tuổi thơ nhà văn đã gắn bó với cuộc sống ở nông thôn, cùng nếm trải những nhọc nhằn của lũ trẻ ở đấy, do vậy ông đã hiểu được những nỗi thống khổ của người nông dân, ông đau đớn lo lắng khi phải chứng kiến những tai họa mà họ phải chịu đựng. Thêm vào đó vấn đề nông dân là một vấn đề chủ yếu của cách mạng Trung Quốc . Cho đến bây giờ Lỗ Tấn vẫn được coi là nhà văn hiểu sâu sắc nhất cuộc sống của người nông dân lao động Trung quốc dưới ách áp bức bóc lột của thế lực phong kiến . Đứng về phía nông dân nhưng Lỗ Tấn không nhìn sự vật bằng con mắt của họ. Cái nhìn của nhà văn sâu sắc hơn. Có thể nói, ở những nhân vật “nhỏ bé” của ông là kết hợp giữa sự đồng cảm với nỗi bất hạnh, sự phê phán những nhược điểm của người nông dân và ngợi ca những mặt tốt đẹp của họ. Nghĩa là ông vừa phủ định , lại vừa khẳng định để người dân biết đâu là thực đâu là ảo, như ông đã từng nói : “người trần lên tiên có lẽ cũng thích thật, nhưng nhìn thấy mãi cái đẹp không thay đổi rồi cũng thấy chán nản, nhạt nhẽo và mới biết rằng muốn tìm thấy sự thay đổi, sự ham mê thật phải trở về với cuộc sinh họat thực tại của con người”[13,tr 58]. Lỗ Tấn đã đứng ở tầm cao tư tưởng thời đại, thấy những căn bệnh đang hủy họai tinh thần, đạo đức dân tộc đã thẳng thăn vạch trần để cho họ không có lấy một chút ảo tưởng nào. Dưới ngòi bút của nhà văn, nông dân ít nhiều đều bộc lộ khuyết điểm của mình : ngu ngốc, lạc hậu, mê tín, vô cảm….Đó là một bức tranh về nông dân hết sức đen tối, nhược điểm nhiều hơn ưu điểm, song đó là cái nhìn rất trung thực “ Lỗ Tấn luôn nói về sự đau khổ của con người, đứng hẳn về phía họ, vừa bày tỏ mối thương cảm sâu sắc, vừa chẩn bệnh vạch ra các thói hư tật xấu của họ”[36,tr 45] chính là để thức tỉnh phần người trong con người họ, bởi theo Lỗ Tấn “muốn sửa chữa khuyết điểm thì phải nhìn thẳng vào khuyết điểm, cũng như một bác sĩ muốn cứu chữa cho bệnh nhân thì phải đem dao ra mà mổ xẻ, dù có đau cũng phải chịu” [38,tr 54] Nhân vật của Lỗ Tấn mới chỉ cảm thấy đau khổ mà chưa hiểu được nguyên nhân vì đâu. Cho nên viết về họ, nhà văn muốn chỉ ra tận gốc căn nguyên bất hạnh của cuộc đơi họ, thức tỉnh họ, để họ nhận ra con đường đi và tìm ra hướng đi cho mình. Có lẽ vì thế mà trong tác phẩm của nhà văn ít có những kết thúc vui vẻ. Nhà văn đã tự nhận “tác phẩm của tôi rất đen tối vì tôi cảm thấy hiện thực là đen tối”[dẫn theo 8,tr 158]. Bởi vậy, “khi thể hiện nỗi đau của kẻ bị áp bức, bóc lột, ông không dừng lại ở bề ngòai, ông giỏi nắm lấy cái mâu thuẫn có tính chất bi kịch trong tâm hồn họ. Ông không dừng lại ở nỗi đau khổ thể xác như đói rét, bị đánh đập…mà chủ yếu đi sâu khám phá những đau khổ tinh thần, những sầu não thương tâm, những dằn vặt đau đớn trong tâm hồn họ [12,tr 30]. Đó chính là khả năng cát ái của nhà văn. Chính vì thế mà nhân vật của Lỗ Tấn còn gọi là nhân vật tâm trạng, nhân vật này tiềm ẩn chiều sâu của sự tố cáo, nó khơi dậy lòng căm phẫn sâu xa đối với chế đô phong kiến, đúng như phương châm của Lỗ Tấn : cứu quốc trước hết phải chữa tâm bệnh. 2.2.2.2 Người kể chuyện Chúng ta đều biết, kết cấu của truyện và tiểu thuyết trước kia gần với truyện kể văn học dân gian, chủ yếu là kết cấu thời gian, không tùy thuộc vào diễn biến tâm lý nhân vật như trong truyện và tiểu thuyết hiện đại. Cũng như vật, cách dẫn chuyện trong truyện và tiểu thuyết trước kia hầu như do người dẫn truyện đứng ở vị trí khách quan kể và bình luận. Còn ở truyện hiện đại, người đọc không chấp nhận một người dẫn truyện như ngồi sau cánh gà nhắc tuồng, khuynh hướng tư tưởng, giá trị nghệ thuật phải do tự tác phẩm toát ra. Tài năng của nhà văn, độ chín của tác phẩm chính là ở đấy Người kể chuyện là người dẫn ra câu chuyện của tác phẩm, là người xem xét đánh giá các nhân vật và sự kiện được phản ánh trong tác phẩm. Đây là một lọai nhân vật vừa khách quan vừa chủ quan, nên vị trí của nó trong tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào động cơ và thái độ của tác giả. Người kể chuyện có thể xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, với những ngôi kể khác nhau, khi thì vô nhân xưng, khi nhập vai vào một nhân vật trong truyện, khi ở ngôi thứ nhất (xưng tôi), có khi ở ngôi thứ ba. Khi trình bày miêu tả sự việc, người kể chuyện thường gắn với một điểm nhìn nào đó. Điểm nhìn là vị trí quan sát của người kể khi thuật lại truyện (điểm nhìn bên trong, điểm nhìn bên ngòai, điểm nhìn thấu suốt). Có thể nói, vấn đề người kể chuyện và việc thay đổi các điểm nhìn khác nhau là rất có ý nghĩa. Nó giúp tác giả bộc lộ tư tưởng, tình cảm và những suy nghĩ của mình một cách sinh động : khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi đi sâu vào tâm lý nhân vật, khi mô tả một cách lạnh lùng khách quan, tạo ra cái nhìn nhiều chiều và tránh được sự đơn điệu cho giọng văn trần thuật. Bởi vậy, trong quá trình nghiên cứu, phân tích tác phẩm chúng ta không thể bỏ qua yếu tố này vì đây là một trong những đăc trưng cơ bản của truyện Có thể nói ở hai tập Gào thét và Bàng hòang , hình tượng nhân vật người kể chuyện xuất hiện rất đa dạng, có khi không đứng cùng một bình diện với các nhân vật khách quan của tác phẩm, mà chỉ đứng đằng sau tác phẩm khi ẩn khi hiện, có khi lại cùng một bình diện. Trong trường hợp này nhân vật người kể chuyện thường xuất hiện với tư cách “tôi” như các nhân vật khác trong truyện, cùng hóa thân, nhập vai vào nhân vật (Cố hương, Lễ cầu phúc, Khổng At Kỷ) Điều này khiến cho nhiều độc giả dễ nhầm lẫn ấy là tự truyện của nhà văn. Bởi thế mới có ý kiến nhận xét rằng : “đọc xong tác phẩm của Lỗ Tấn nhắm mắt lại có thể hình dung được bóng dáng Lỗ Tấn, chúng ta bắt gặp một nhân vật mang tư tưởng, tình cảm tác giả. Đó chính là nhân vật người kể chuyện”[12,tr 53]. Nhật ký người điên, Lễ cầu phúc, Cố hương, Khổng At Kỷ….là những truyện như thế. Hơn bất cứ nhà văn yêu nước nào ở Trung Quốc, điều Lỗ Tấn luôn nóng lòng chính là vấn đề lối thoát cho dân tộc Trung Hoa. Với động cơ chiến đấu, dùng tác phẩm văn học để tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội, lòng ưu phẫn của nhà văn hừng hực như lửa cháy, buộc ông không thể đứng ngoài cuộc mà phải trực tiếp nhập cuộc, phải trực tiếp gào thét để tư tưởng tình cảm được thể hiện trực tiếp hơn, cụ thể hơn, có sức lôi cuốn hơn. Dường như nhà văn muốn những lời tâm huyết của mình phải thực sự lay động, đánh động, thức tỉnh được hàng triệu người dân Trung Quốc trước những cơn mê ngủ kéo dài. Dường như tác giả muốn những câu chuyện của mình trở nên thật hơn, có sức thuyết phục hơn nên cố tình giả vờ kể về những gì mà bản thân mình đã từng chứng kiến, trải qua, với những tên người , tên làng thật cụ thể, hiển hiện ở ngòai đời. Chính tính cách của nhân vật người kể chuyện đã thấm đượm vào tác phẩm, qui định khuynh hướng chiến đấu của tác phẩm. Cho nên mặc dù truyện Lỗ Tấn phần lớn viết về những con người “bệnh tật”, những câu chuyện bi thảm, đau thương trong xã hội cũ, nhưng người đọc vẫn không thấy bi quan, mà ngược lại như được truyền thêm sức mạnh chiến đấu. Cũng chẳng phải Lỗ Tấn đã từng viết : văn chương là tiếng nói của lòng (cố ngôn tâm thanh dã ) đó sao ? Nhân vật người kể chuyện có tác dụng như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm, gắn kết các chuyện riêng lẻ với nhau thành một khối thống nhất, là người chiếu rọi, lý giải đối với các hiện tượng của thực tại. Nếu như ai đó cho rằng tuyệt đại đa số nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn đều là những nhân vật tiêu cực, bởi họ là những tàn tích của xã hội cũ, thì có thể nói nhân vật người kể chuyện chính là một nhân vật tích cực, chính diện, giữ một vị trí trung tâm trong tác phẩm. Sự khẳng định vị trí của nhân vật này giúp chúng ta hiểu sâu thêm tư tưởng nhà văn và ý nghĩa của tác phẩm. Đọc Lỗ Tấn, ấn tượng đầu tiên ấy là cái giọng văn bình thản đến lạnh lùng nghiêm khắc của người kể chuyện như nhận xét của GS Vương Phú Nhân :“Lỗ Tấn có 3 điểm rất đặc sắc, thứ nhất là lạnh lùng điềm tĩnh, thứ hai là lạnh lùng điềm tĩnh và thứ ba vẫn là lạnh lùng điểm tĩnh”[46,tr28]. Thế nhưng xét đến cùng, ẩn chứa đằng sau cái dáng vẻ lạnh lùng ấy là cả một khối nhiệt tình nóng bỏng. Về vấn đề này nhà văn Anh Đức viết : có một thứ nơi ông tôi gọi là bản lĩnh của sự kìm chế. Thọat tiên đọc truyện Lỗ Tấn , ta rất dễ có cảm giác ông lạnh lùng thản nhiên trứơc những cảnh nát lòng do chính ông phơi bày. Sự thực lòng ông nào có thế, lòng ông vô cùng đau đớn , chẳng qua ông dằn nén, giấu ém, cất biến mọi xúc động chủ quan(…..)Đây là mặt mạnh nhất của Lỗ Tấn. Và tôi nghĩ, đối với người cầm bút, ai mà bình tĩnh, ai mà nén giữ được mình, tất cả những người đó ắt sẽ mạnh. Văn chương vốn mang nét đặc thù khác hẳn các lĩnh vực tư duy thuộc kiến trúc thượng tầng chính là ở chỗ khi làm ra nó anh phải giấu mình. Vì cái nó cần là sức mạnh mang tính thuyết phục tự giác bằng lý lẽ con tim, chứ không bằng lý lẽ khối óc [11, tr 26] Nhà văn đã hóa thân vào nhân vật người kể chuyện, cùng khóc trước nỗi đau đớn của nhân vật, cùng mỉm cười khi họ được giải thóat, bởi “nghệ sĩ đích thực về một phương diện nào đó phải là một Jêsu về tinh thần. Nghệ sĩ có quyền sống sung túc nhưng anh không có quyền vật lộn đau xé._.g hết sức đánh vào mặt y luôn hai bạt tai, đau ran. Đánh xong y hình như đã hả dạ(…),y có cảm tưởng rằng y vừa mới đánh một đứa nào đấy. Thế là ngủ thẳng” [37,tr120]- một kiểu hành động vừa đáng thương lại vừa hết sức quái chiêu. Không bao giờ AQ tự thừa nhận sự hèn yếu của mình. Rõ ràng “AQ vẫn cứ muốn làm vua trên những đau khổ của mình một cách ngây thơ tuyệt vọng” [8,tr 242]. Và cái bửu bối gia truyền thần diệu mà AQ hay sử dụng để xoa dịu nỗi thất bại của mình là hay quên, đúng hơn là cố tình quên. Thật nguy hiểm.  AQ có tính tự cao, thích được xu nịnh, tâng bốc. Chỉ cần một câu nói bâng quơ “ AQ được việc thật” thì y như rằng anh ta rất sung sướng, đắc ý. Cho đến việc có một cái sẹo trên đầu mà anh ta cũng tìm đủ mọi cách để giấu biến đi bằng cách kiêng kỵ những từ ngữ có liên quan đến nó, nếu có ngừơi nào vô tình phạm huý thì “kẻ ít mồm ít miệng thì y chửi, kẻ yếu sức là y đánh”. Thật là một kiểu gàn dở.  Cố tình khoác lên mình những vinh quang ảo tưởng. Bị bắt giam, tự ru mình , vỗ về mình bằng ý nghĩ “người ta sinh ra ở trong trời đất, thì tất cũng phải có lúc bị giắt vào giắt ra ngoài một cái trại giam” [37,tr173]. Thậm chí, ký tên để chấp nhận cho người ta kết liễu đời mình nhưng điều AQ day dứt không phải là một sự tự vấn : nguyên nhân nào mình bị giết và ai là kẻ làm điều đó, mà anh ta lại hổ thẹn chỉ vì không vẽ được một cái vòng cho thật tròn trịa(!). Đến lúc sắp bị xử tử, anh ta hơi hoảng, song cái khoảnh khắc hiếm hoi ấy vụt tan biến khi anh ta tự trấn tĩnh mình bằng ý nghĩ lạ lẫm “người ta sinh ra trong trời đất trước sau cũng có thể có một lần bị chặt đầu” [37,tr174]. Nghĩa là cho đến tận lúc chết, AQ vẫn chưa được giác ngộ nên vẫn chưa tỉnh ngộ. Anh ta vẫn thả sức cho trí tưởng tượng bay bổng trong khi thân thể mình đang bị chà đạp, cùm kẹp một cách thảm thương.  Hậu quả của phép thắng lợi tinh thần. Bằng cách tạo ra những giấc mơ chiến thắng hoang tưởng cho dù thực tại vô cùng bi thương, AQ đã trở thành một nhân vật điển hình với những căn bệnh tinh thần mang tính phổ biến cho nhiều thời đại, nhiều giai cấp. Không thể cho rằng phép thắng lợi tinh thần là một phương thức phản kháng của những người yếu thế, không có thực lực. Cũng không thể xem đấy là một sự tự động viên, tự an ủi trứơc thất bại, kiểu như “thất bại là mẹ thành công” mà đấy chính là một thứ chủ nghĩa thất bại có khả năng làm tê liệt ý chí của con người, “sẽ giống như những con sâu xanh bị con tò vò chích cho một mũi thuốc tê, làm cho nó dở sống dở chết, mất hết ý thức phản kháng”[38,tr152]. Phải chăng căn bệnh này có nguồn gốc từ thói quen nhìn lại quá khứ huy hoàng của người dân Trung Quốc ? Văn minh cổ Trung Hoa đã qua rồi nhưng hào quang của nó vẫn còn. Sau chiến tranh thuốc phiện, chính triều đình Mãn Thanh đã không ngớt rêu rao : văn minh vật chất phương Tây cao thật nhưng văn minh tinh thần Trung Quốc còn cao hơn. Chính sự hoài niệm, nuối tiếc quá khứ, cộng thêm ý thức về việc yếu kém sức mạnh thực sự là nguồn gốc sâu xa của căn bệnh trên. Cho nên phép thắng lợi tinh thần là một căn bệnh hết sức nguy hiểm, là biểu hiện của tư tưởng đầu hàng, là kẻ thù của sự tiến bộ tạo ra một sức ỳ lớn, cản trở sự phát triển đi lên của xã hội. Một cá nhân lúc nào cũng chìm đắm trong chiến thắng tưởng tượng, cá nhân ấy không bao giờ có thể ngẩng cao đầu. Một đất nước lúc nào cũng phủ lên mình những ảo tưởng vinh quang, đất nước ấy cũng dễ trở thành nô lệ. Có thể nói, phê phán AQ với cả lòng đau xót, cay đắng và phẫn nộ cũng chính bởi Lỗ Tấn yêu đồng bào mình nhiều. Bởi nhà văn quan niệm “khi buồn người ta có thể sáng tác nhưng khi hững hờ thì không sáng tác được, sáng tác bắt rễ ở tình yêu” [38,tr197]. Một xã hội vào thời điểm giao thời, trăn trở tìm đừơng : cái cũ, cái lạc hậu chưa hoàn toàn bị mất đi, trong khi cái mới cái tiến bộ lại chưa kịp thích ứng, rất cần đến những nhà văn tâm huyết như Lỗ Tấn : dũng cảm phanh phui những nhược điểm của dân tộc mình với một tấm lòng đau đáu, xót xa * Kết luận Vậy thì AQ là một nhân vật đáng thương hay đáng giận ? Có lẽ là cả hai. Xây dựng AQ với một tính cách năng động, Lỗ Tấn không phiến diện một chiều. Ong phê phán những biểu hiện xấu trong tính cách AQ (kiêu ngạo, tự mãn, cơ hội, hiếp đáp kẻ yếu, quỵ luỵ kẻ mạnh…), đau xót khi thấy AQ- rộng ra là người dân Trung Quốc- kém giác ngộ, ngu ngốc, không phân biệt được phải trái, tốt xấu, đúng sai ; nhưng ông không thể không thông cảm với số phận bất hạnh của AQ, nghĩa là cảm hứng nghệ thuật ai kỳ bất hạnh, nộ kỳ bất tranh luôn thường trực trong Lỗ Tấn. Ông vừa gạt nước mắt, vừa vạch trần phê phán AQ. Song nhà văn cũng phát hiện ra khả năng cách mạng tiềm tàng của AQ, chẳng qua bị phép thắng lợi tinh thần trói buộc, nên anh ta tỏ ra ngơ ngác trước thời cuộc. Lỗ Tấn cũng đã từng khẳng định : nếu Trung Quốc không làm cách mạng thì thôi, chứ nếu có thì thế nào AQ cũng làm. (Vì sao tôi viết tiểu thuyết). Nghĩa là chỉ cần được phát động đầy đủ và lãnh đạo đúng đắn, AQ sẽ tự giải phóng được mình. 3.5.2.2. Không gian nghệ thuật và Thời gian nghệ thuật Không gian nghệ thuật cũng là không gian hiện thực, không gian đời thường. Một làng Mùi yên tĩnh nhưng u ám, khép kín, ngơ ngác xa lạ trứơc những biến động của thời cuộc. Một ngôi làng diển hình của Trung Quốc thời cách mạng Tân Hợi, với đầy rẫy những hủ tục, lề thói, với đủ mọi thành phần : từ những kẻ hạ lưu như bọn thanh niên vô công rồi nghề, những cố nông như cu D, Vương râu xồm, vú Ngò….đến tầng lớp thượng lưu như cụ Triệu, cụ Cử, cậu Tú, Tây giả. Chính thứ văn hoá lai căng cùng với những con người trong không gian hẹp ở làng Mùi đã góp phần sản sinh ra tính cách điển hình AQ. Phần lớn trong AQ chính truyện, tác giả sử dụng thời gian hiện thực gắn với những biến cố trong đoạn đời của nhân vật AQ (từ khi xuất hiện cho đến lúc chết) khi thì gấp gáp khẩn trương, khi thì từ từ đều đều phù hợp với những “thăng trầm” trong cuộc đời AQ. Thỉnh thoảng tác giả sử dụng thời gian tương lai khi kể về những giấc mơ quyền lực của AQ với mục đích châm biếm, phê phán. Điều đó chứng tỏ sự đa dạng trong bút pháp nghệ thuật của nhà văn . 3.5.2.3. Người kể chuyện Cũng như Thuốc, người kể chuyện trong AQ chính truyện không xuất hiện một cách trực tiếp, mà dẫn truyện ở ngôi thứ 3, nghĩa là người kể chuyện cũng rất khách quan. Tuy nhiên, khi cần biểu lộ một thái độ rõ ràng, một tình cảm yêu ghét dứt khoát thì người kể chuyện cũng không ngần ngại xuất đầu lộ diện, đối thoại trực tiếp với độc giả. Chỉ có điều, nếu như trong Thuốc, ngôn ngữ của người kể chuỵên phần lớn thiên về đau xót, phẫn uất, ngậm ngùi, thì trong AQ chính truyện lại nghiêng về hài hước, châm biếm, đôi khi là giễu cợt. Chúng ta bắt gặp giọng điệu hài hước của người kể chuyện ngay từ cách giới thiệu lai lịch, tên tuổi của nhân vật AQ. Ngay cả khi kể về việc AQ bị cụ Cố nhà họ Triệu đánh, người kể chuyện cũng không dấu được cảm xúc khi nhận xét về uy thế tinh thần, uy thế chính trị tuyệt đối của giai cấp địa chủ ở nông thôn, cùng với thái độ phê phán người dân làng Mùi đã trở nên mê muội đến mức chỉ biết phụ hoạ giai cấp địa chủ: Theo lệ thường, ở làng Mùi, nếu tên Kèo đánh tên Cột, anh Ba đánh anh Năm thì xưa nay chẳng ai để ý đến cả. Nhưng có dính dáng đến một nhân vật “xù” như là cụ Cố nhà họ Triệu chẳng hạn thì mới có tiếng đồn. Lúc đó có tiếng đồn thì không những người đánh đã có danh giá mà luôn cả người bị đánh cũng nhờ đó mà lẫy lừng. Còn như nói đến sự phải trái thì nhất định là lỗi về AQ rồi, không cần phải bàn nữa. Tại sao vậy ? Thì chả lẽ cụ Cố nhà họ Triệu lại có thể có lỗi được hay sao ? [37,tr121] Phê phán thái độ “sợ người ác, nhưng lại bắt nạt người lành” để giải toả, tìm cách quên đi hiện trạng bị áp bức của AQ, người kể chuyện hết sức hài hước song cũng không kém phần phẫn nộ : ….rồi AQ véo một cái vào má cô tiểu. Bao nhiêu người trong quán lại cười ồ lên một thôi nữa.AQ đắc ý. Muốn cho bấy nhiêu “khán giả” được hài lòng y rán sức véo luôn một cái nữa thật mạnh vào má cô bé rồi buông tay. Sau khi lập được chiến công này, AQ quên cả Vương râu xồm, quên cả lãoTây giả rồi ; và hình như bao nhiêu nỗi bất bình, bao nhiêu điều xúi quẩy ngày hôm ấy đã rửa sạch sành sanh. Mà lạ lùng thay, lúc bấy giờ y nghe hình như người y nhẹ hẳn đi, nhẹ hơn hẳn lúc bị mấy ba-toong đánh đốp ! đốp vào dầu nữa. AQ hớn hở tựa hồ như bay bổng lên tít mãi trên mấy từng mây [37,tr127] Song đôi khi người kể chuyện cũng tỏ ra thương cảm, xót xa cho thân phận làm thuê của người nông dân AQ : muốn đem sức lao động của mình đổi lấy miếng cơm nuôi thân mà cũng không được, bị đồng loại tẩy chay, bị đẩy vào bứơc đường cùng mà phải làm liều, nên dường như người kể chuyện đã không ngần ngại nhập vai vào nhân vật để bộc lộ thái độ, tâm tư …..thế rồi, cũng như mọi hôm , sau khi ngủ dậy, AQ bước ra đi rong trên con đường làng. Bây giờ y không nghe da thịt buốt như lúc ở trần nữa, nhưng dần dần y lại cứ cảm thấy trên đời có cái gì là lạ thật. Tuồng như tất cả bọn đàn bà con gái làng Mùi từ hôm nay trở đi bỗng dưng đau nhau mà hổ ngươi. Cứ thấy mặt AQ ở đâu là chúng nó xô nhau trốn biệt vào tận trong cửa(….)Rồi đến những ngày sau, AQ càng thấy nhiều sự lạ lùng khác nữa. Một là lão chủ quán rượu nhất định không bán chịu cho y nữa. Hai là lão từ ở đền Thổ Cốc cũng nói lẩm bẩm như muốn ngỏ ý thúc giục y dọn đi chỗ khác. Ba là không nhớ rõ bao nhiêu ngày trời rồi nhưng đã khá lâu không hề có người nào gọi y đi làm nữa. Cửa hàng rượu không bán chịu thì nhịn đi cũng xong, lão từ muốn đuổi thì lần lữa còn có thể được, chỉ có điều không ai gọi đi làm thì chết đói” [37,tr 137-138] Như vậy có thể thấy, vai trò dẫn dắt của người kể chuyện trong AQ chính truyện khá linh động, đa dạng. Nhờ sự xáo trộn đan chéo giữa lời tác giả và lời nhân vật tạo nên vẻ đẹp hấp dẫn sinh động của lối kể chuyện, đồng thời soi sáng được tâm lý, tính cách nhân vật. Điều đó giúp cho câu truyện trở nên hấp dẫn người đọc hơn Tóm lại : qua hai tác phẩm Thuốc và AQ chính truyện, người đọc hình dung được một Lỗ Tấn yêu thương và căm giận, lạnh lùng khách quan nhưng đầy ưu ái sâu xa “một tài năng nghệ thuật độc đáo kết tinh giữa chiều sâu của nhà tư tưởng, nhiệt tình của nhà yêu nước và sự chắt lọc của cây bút cổ Trung Hoa” [12,tr 24]. Nhà văn đã tạo ra tác phẩm song tác phẩm cũng tạo ra nhà văn, nói như nhà thơ Đức H.Hainơ : cuộc đời của nhà thơ, giá trị của nhà thơ không nên tìm ở đâu khác, mà phải chính trong tác phẩm của họ. 3.6 MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT TRONG VIỆC GIẢNG DẠY VÀ HỌC TẬP TÁC PHẨM LỖ TẤN NÓI RIÊNG, VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI NÓI CHUNG Nhìn chung, văn chương Lỗ Tấn rất kén độc giả, bởi vậy, khi giảng dạy trong nhà trường phổ thông, đòi hỏi giáo viên không chỉ giỏi, vững về kiến thức, mà còn phải linh động về phương pháp mới có thể giúp học sinh cảm thụ tác phẩm một cách tốt nhất. Trong các giờ dạy Văn, Giáo viên cần cố gắng dựng lại hiện thực cuộc sống thời người nghệ sĩ (tác giả) từng sống, nghĩa là cố gắng hiểi đời để hiểu người. Hiểu người (tác giả) sâu sắc bao nhiêu thì mới tái tạo lại được tốt không khí tác phẩm, nhân vật, hình tượng trong các tác phẩm văn chương bấy nhiêu. Cho nên đối với bài tác giả Lỗ Tấn, giáo viên cần chốt lại cho học sinh những luận điểm cơ bản, quan trọng về quan niệm sáng tác của Lỗ Tấn cũng như bước ngoặt nào khiến nhà văn chuyển hướng nghề nghiệp. Bởi học sinh nắm chắc được vấn đề này thì khi đi vào phân tích tác phẩm sẽ hiểu tác phẩm dễ dàng hơn. Thời gian phân phối chương chương trình cho phần tác giả Lỗ Tấn và tác phẩm Thuốc là 2 tiết (không có thời gian cụ thể cho bài đọc thêm AQ chính truyện ), bởi vậy giáo viên cũng có thể linh động trong việc xử lý, bố trí thời gian : nên dành khoảng 20-25 phút để giới thiệu về tác giả, thời gian còn lại phân bố chủ yếu cho tác phẩm Thuốc và AQ chính truyện bởi 2 tác phẩm này có thể bổ sung soi sáng cho nhau, thậm chí nếu cần thiết (đặc biệt với những lớp nâng cao) giáo viên có thể giới thiệu thêm cho học sinh một số tác phẩm khác của Lỗ Tấn có liên quan đến nội dung cần giảng (Thị chúng, Sóng gió …) Nếu có điều kiện, giáo viên nên gợi ý, hướng dẫn cho học sinh tham khảo thêm một số bài tạp văn của Lỗ Tấn để hiểu rõ thêm truyện ngắn của ông, bởi giữa truyện ngắn và tạp văn có mối liên hệ khắng khít. Cứ mỗi một truyện ngắn ta tìm thấy ít nhất một bài tạp văn có liên quan (chẳng hạn đọc AQ chính truyện, nên tìm bài Vì sao tôi viết AQ chính truyện). Những bài tạp văn khi thì đề cập đến động cơ và quá trình thai nghén một số truyện nào đó, khi thì phát huy mở rộng chủ đề có sẵn trong truyện ngắn. Cho nên muốn hiểu thấu đáo truyện ngắn Lỗ Tấn không thể bỏ qua những bài tạp văn và ngược lại. Đó chính là chìa khóa để giải mã những truyện ngắn của nhà văn Nhìn chung so với Văn học Việt Nam, học Văn học nước ngoài cũng có phần khó hơn. Trong khi đó, thời gian cho Văn học nước ngoài trên lớp không phải là nhiều. Cho nên giáo viên , tổ chuyên môn và nhà trường cần kết hợp tổ chức một số hình thức ngoại khoá để các em được tiếp xúc nhiều hơn với bộ phận Văn học nước ngoài, chẳng hạn như tổ chức các buổi thuyết trình, thảo luận tại lớp để học sinh hiểu tác phẩm sâu sắc hơn, vừa tạo cho các em có thêm cơ hội trau dồi, rèn luyện năng lực ngôn ngữ, kỹ năng diễn đạt trước tập thể ; đố vui về tác phẩm , tác giả, sân khấu hoá một số trích đoạn trong các tác phẩm hoặc tổ chức các buổi chiếu phim để học sinh hiểu và nhớ tác phẩm tốt hơn (có thể tổ chức cho học sinh toàn trường) Cần đẩy mạnh dân chủ hoá học đường. Sau khi học xong một tác phẩm bất kỳ, giáo viên có thể phát cho học sinh một số phiếu tham khảo (về nội dung cũng như phương pháp giảng dạy của giáo viên , còn vướng mắc điểm nào…), hay cho học sinh viết những bài thu hoạch, cảm nhận của mình về các tác phẩm đã học để kích thích, phát huy năng lực tư duy độc lập của, vừa để giáo viên có thêm tư liệu cũng như kinh nghiệm trong các tiết dạy sau. Song song với việc bồi dưỡng năng lực văn học cho học sinh, giáo viên cũng cần hướng dẫn, rèn luyện thêm cho học sinh năng lực đọc, phương pháp đọc bởi tình trạng học sinh đọc sai, đọc không đúng ngữ điệu…vẫn còn rất phổ biến. Có đọc văn tốt thì mới “khơi gợi được sự đồng điệu trong tâm hồn, làm sống dậy những kinh nghiệm trong trí nhớ, hội tụ những nét hình dung về hiện thực thông qua con đường huy động, liên tưởng” [22,tr 43]. Muốn học giỏi văn phải bắt đầu bằng đọc văn. Bên cạnh việc thay đổi phương pháp giảng dạy, thì việc thay đổi cách thức ra đề trong kiểm tra, thi cử cũng là điều cần thiết. Thiết nghĩ trong các đề thi học kỳ, kiểm tra, cũng cần phải mở rộng thêm về Văn học nước ngoài (không nên bó hẹp trong phạm vi Văn học Việt Nam bởi như thế vô hình chung sẽ tạo cho học sinh tâm lý học lệch, nhất bên trọng nhất bên khinh). Cần xen kẽ hình thức thi trắc nghiệm song song với hình thức tự luận để kiểm tra năng lực cảm thụ văn học một cách đầy đủ, toàn diện nhất. Ngoài ra, thiết nghĩ Bộ giáo dục cũng cần nghiên cứu phân phối thời gian dành cho các tiết đọc thêm, bởi nếu không có thời gian cụ thể thì các bài đọc thêm sẽ mãi nằm lặng lẽ trên trang sách mà ít có học sinh nào tự đọc cả. Cuối cùng, người giáo viên muốn làm chủ việc giảng dạy phần Văn học nước ngoài cũng cần phải có tầm nhìn bao quát mảng này ở cả ba lớp của bậc Trung học phổ thông. Hơn thế nữa, còn phải thấy được diễn biến của chương trình qua những đợt chỉnh lý, cải cách, thâm chí cũng nên biết, trước khi vào Trung học phổ thông, học sinh đã được học gì về Văn học nước ngoài ở bậc Trung học cơ sở để thấy được mối liên quan giữa hai cấp học, từ đó mà có cách xử lý đối với từng bài giảng cụ thể KẾT LUẬN Lỗ Tấn đã để lại một di sản qúy báu được khẳng định bởi tính chiến đấu trong động cơ sáng tác, chiều sâu trong tư tưởng, sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật. Nghe tin Lỗ Tấn bệnh, bà Tống Khánh Linh đã viết thư cho ông : “đồng chí Chu, tôi vừa được tin anh ốm nặng, lo lắng vô cùng. Tôi khẩn cầu anh mau vào bệnh viện, bởi vì anh vào trễ một ngày là tăng thêm một ngày nguy hiểm. Sinh mệnh của anh đâu phải của riêng anh mà thuộc về Trung Quốc và cách mạng Trung Quốc…Trung Quốc cần anh, cách mạng cần anh…” [7,tr 838]. Lời của bà Tống Khánh Linh đã nói lên tâm tư của quảng đại quần chúng nhân dân và khẳng định vị trí của nhà văn đối với dân tộc Trung Quốc Tác phẩm Lỗ Tấn không chỉ chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử văn học, văn hóa Trung quốc, mà còn phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Tác phẩm của nhà văn đã trở thành nhịp cầu trao đổi, giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc và các nước. Dù ở thể lọai nào, tác phẩm của Lỗ Tấn cũng vì con người, vì số phận con người mà ông khổ công sáng tạo. Có thể thấy tính nhân bản, nhân văn, nhân đạo thấm đẫm các trang viết của Lỗ Tấn. Nhà văn vì con người ấy mãi mãi được độc giả khắp nơi trân trọng và yêu thương Với bạn đọc Việt Nam, Lỗ Tấn là một nhà văn khá quen thuộc và gần gũi (xét trên phương diện văn hoá và văn học). Nghiên cứu văn học Lỗ Tấn không chỉ thấy ở ông một nhà cách mạng chân chính, một nhà văn hoá tinh tường, một nhà văn uyên thâm, mà còn là một nhà tư tưởng, với những triết lý sâu sắc đậm chất nhân văn. Học Lỗ Tấn, bạn đọc Việt Nam càng có thêm cơ hội hiểu về văn hóa Trung Quốc nói chung, cũng như cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn nói riêng Dạy học Văn nói chung là nhằm đào tạo những con người có khả năng tư duy sáng tạo, có tâm hồn trong sáng , biết yêu cái đẹp và biết sống để hướng đến cái chân , thiện mỹ… Cũng vì thế, việc tìm ra những biện pháp, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng bộ môn Văn là vấn đề đòi hỏi sự quan tâm của rất nhiều ban ngành cũng như của xã hội. Qua thực tế khảo sát, dù rằng cũng chưa thật đầy đủ, song chúng tôi nhận thấy việc dạy và học tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng, văn học nước ngoài nói chung không phải là không gặp nhiều khó khăn, nhất là khi tình hình xã hội đang có nhiều thay đổi như hiện nay, nói như nhà giáo Đỗ Kim Hồi : chất lượng học văn nếu có giảm sút , thì sự giảm sút đó sẽ là kết quả của một phức hợp những nguyên nhân cả trong lẫn ngoài trường [3, tr 24] Cho nên có thể nói trách nhiệm của các giáo viên dạy Văn hiện nay ngày càng hết sức nặng nề. Thực tế cho thấy, bên cạnh một số thuận lợi, ưu điểm thì những khó khăn và hạn chế trong quá trình lên lớp của các giáo viên cũng cần được nhìn nhận một cách khách quan. Đa phần giáo viên đều giảng dạy theo cảm tính và thiên về truyền thụ kiến thức hơn là cung cấp phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Giờ học Văn thực chất chưa tạo được không khí sinh động, tâm lý thoải mái cho học sinh mà vẫn còn nạng nề, chưa phát huy tối đa đặc trưng nghệ thuật của môn học này. Ngoài ra, việc kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học văn mang tính đặc thù của phân môn như giảng bình, so sánh , trực quan….cũng chưa được khai thác hiệu quả. Khả năng tạo ra dư âm cho học sinh sau khi kết thúc tiết học là một điều rất cần thiết song cũng chưa thấy được phát huy Với phương châm : bản thiết kế của người giáo viên phải được thi công ở cả hai phía người dạy- người học theo phương pháp tích cực, tự lực, để học sinh từ được học mà đi đến tự học được, luận văn “ Giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ở trường THPT dưới góc nhìn của thi pháp học” dẫu rằng đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hiểu thi pháp Lỗ Tấn để tìm ra phương hướng khai thác tác phẩm nhằm mục đích giảng dạy truyện ngắn nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng đạt hiệu quả tốt nhất , song chắc chắn cũng không thể tránh khỏi sai sót. Rất mong được sự đóng góp của quý thầy cô và các bạn bè đồng nghiệp. Chúng tôi cũng hy vọng rằng, trong thời gian tới, với sự đổi mới một cách đồng bộ và toàn diện về sách giáo khoa cũng như phương pháp giảng dạy, bộ môn Ngữ Văn trong nhà trường ngày càng phát huy được vai trò và ưu thế của mình, cũng như được toàn xã hội đón nhận và quan tâm PHỤ LỤC PHIẾU THAM KHAỎ Ý KIẾN GIÁO VIÊN ( Số lượng : 30 GV ) NỘI DUNG CÂU HỎI NỘI DUNG TRẢ LỜI SỐ LƯỢNG TỈ LỆ 1.Thầy, cô có nhận xét gì về nội dung chương trình văn học nước ngòai trong SGK hiện nay ? 2.Theo ý kiến thầy, cô, phần tác giả, tác phẩm Lỗ Tấn , SGK biên sọan như vậy đã hợp lý chưa, có cần bổ sung thêm nội dung gì không ?  Có lựa chọn vào chương trình nhiều tác giả tiêu biểu  Nhiều tác phẩm hay, có giá trị, có tác dụng tốt trong việc giáo dục HS  Thể lọai vừa đủ  Hơi nhiều  Có những tác phẩm khó , HS không cảm nhận được  Hợp lý  Chưa hợp lý, cần phải bổ sung thêm một truyện ngắn nữa 7 12 5 3 3 14 16 23.3% 40% 16.7% 10% 10% 46.7% 53.3% 3. Trong quá trình giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn , thầy, cô thường chú ý khai thác tác phẩm theo đặc điểm nào ?  Phong cách tác giả  Đặc điểm thể lọai 10 20 33.3% 66.7% 4. Thầy, cô thường gặp phải khó khăn nào trong quá trình giảng dạy truyện ngắn Lỗ Tấn ?  HS không thích học  Tác phẩm khó khai thác  Lúng túng về phương pháp giảng dạy  Phân phối thời gian không đủ  HS ít chịu đọc tác phẩm và sọan bài trứơc ở nhà 8 5 3 7 7 26.7% 16.7% 10% 23.3% 23.3% 5. Thầy, cô có sử dụng phương tiện nào để hỗ trợ  Không  Anh Lỗ Tấn 25 2 83.3% 6.7% cho việc giảng dạy tác phẩm Lỗ Tấn không ? Nếu có đó là phương tiện gì ?  Tài liệu khác 3 10% 6. Thầy, cô có nhận xét gì về phần hướng dẫn giảng dạy tác phẩm của Lỗ Tấn trong SGV hiện nay ?  Còn chung chung, chưa cụ thể  Tốt  Đôi chỗ còn khó hiểu 14 12 4 46.7% 40% 13.3% 7. Khi giảng dạy VHNN nói chung, tác phẩm Lỗ Tấn nói riêng, thầy cô có xem nhẹ hơn sovới giảng dạy VHVN không  Có , vì không thi  Không 19 11 63.3% 36.7% 8. Thầy, cô có tổ chức họat động ngọai khóa cho HS về phần VHNN không ?  Không  Cho HS thuyết trình trứơc lớp  Đóng tiểu phẩm 23 6 1 76.7% 20% 3.3% 9. Thầy, cô có hướng dẫn những công việc cụ thể cho HS chuẩn bị bài mới không ?  Có  Không, vì SGK đã hướng dẫn rồi 13 17 43.3% 56.7% 10. Để VHNN nói chung, VHTQ nói riêng, trong đó có tác phẩm của Lỗ Tấn hấp dẫn HS , theo thầy cô cần phải có những yêu cầu gì ?  Thư viện cần có đủ sách tham khảo  GV cần sưu tầm tư liệu để hiểu thêm về tác giả, tác phẩm  Tác phẩm dễ hiểu, gần gũi với tâm lý HS  SGV cần hướng dẫn kỹ hơn về phương pháp, nội dung giảng dạy 5 7 2 16 16.7% 23.3% 6.7% 53.3% PHIẾU THAM KHẢO Ý KIẾN HS ( Số lượng : 90 HS thuộc 3 khối 10,11,12 ) NỘI DUNG CÂU HỎI NỘI DUNG TRẢ LỜI SỐ LƯỢNG TỈ LỆ 1.Anh, chị có thích học  Thích  Không thích 34 37.8% VHNN không ? 56 62.2% 2.Giữa VHVN và VHNN, anh, chị thích học văn học nào hơn?  VHNN  VHNN  Như nhau 48 30 12 53.3% 33.3% 13.4% 3.Anh, chị có nhận xét gì về nội dung chương trình VHNN trong SGK hiện nay  Số lượng tác giả, tác phẩm còn ít  Số lượng tác giả, tác phẩm tương đối đầy đủ  Nội dung phù hợp với HS  Thời gian dành cho từng tác phẩm còn ít 2 55 20 13 2.22% 72.2% 22.2% 14.4% 4.Anh, chị có xem nhẹ phần VHNN không ? Vì sao ? 5.Anh, chị có thích học truyện ngắn của nhà văn Lỗ Tấn không ? Vì sao ?  Có, vì khó hơn VHVN  Có, vì VHNN không thi  Không  Thích, vì các tác phẩm của ông thường viết về người nông dân  Thích , vì tác phẩm của ông gần gũi với cuộc sống và tư tưởng của người Việt Nam  Thích, vì cảm phục tính cách nhà văn  Thích, vì truyện của nhà văn phản ánh được hiện thực cuộc sống của XHPK Trung Hoa, thức tỉnh ý thức của quần chúng  Không thích 28 48 14 17 33 22 16 2 31.1% 64.4% 4.5% 18.8% 47.8% 24.4% 17.8% 2.2% 6.Theo anh, chị, số lượng tác phẩm của nhà văn này trong SGK hiện nay như vậy đã đủ chưa ?  Đủ  Chưa đủ 53 37 58.8% 41.2% 7.Anh, chị cảm thấy học truyện ngắn của Lỗ Tấn có khó không?  Không khó, vì gần gũi với cách viết của các nhà văn Việt Nam  Không khó ,vì nội dung của các tác phẩm đều thể hiện lòng yêu 33 32 36.6% 46.6% thương con người  Khó, vì những vấn đề nhà văn đặt ra trong tác phẩm khác xa so với hiện thực ngày nay 25 27.7% 8.Ngòai hai tác phẩm của Lỗ Tấn trong SGK, anh, chị có tìm đọc thêm truyện ngắn nào khác của Lỗ Tấn nữa không ?  Có  Không 31 59 34.4% 65.6% 9.Anh, chị có đọc qua tác phẩm ở nhà trước khi đến lớp không ? Nếu có, tối đa mấy lần ?  Không  Có, 1 lần  Có, 2 lần  Có, 3 lần  Có, nhiều lần 1 52 31 5 1 1.1% 57.8% 34.4% 5.6% 1.1% 10.Sau khi học xong một tác phẩm( thơ, truyện ngắn ),GV có hướng dẫn cho anh ,chị phương pháp để phân tích một tác phẩm thơ /văn xuôi hay không ?  Không  Có 72 18 80% 20% DANH NGÔN LỖ TẤN (trích trong một số tác phẩm của Lỗ Tấn ) 1. Trên mặt đất vốn không có đường, người ta đi nhiều thì thành đường thôi. ( Cố hương ) 2. Đường là do con người dẫm nát chỗ chôn gai mà tạo ra (Tạp văn- Cảm nghĩ nhỏ ) 3. Người chết chỉ chết thật khi họ chết trong lòng người sống ( Tạp văn- Chỗ chết ) 4. Từ trong suối chảy ra là nước, từ trong huyết quả chảy ra là máu (Tạp văn- Cảm nghĩ nhỏ ) 5. Vẽ người tốt nhất là vẽ con mắt. Nếu vẽ cả bộ tóc, cho dù thật đến mấy cũng không ích gì ( Tạp văn- Cảm nghĩ vụn vặt) 6. Nhân vật của tôi thường là chắp vá, mồm miệng ở Sơn Tây, áo quần ở Bắc Kinh….tôi không chuyên chú lấy một người mẫu cố định nào ( Tạp văn – Tôi viết tiểu thuyết như thế nào ) 7. Khi buồn người ta có thể sáng tác nhưng khi hững hờ thì không sáng tác được, sáng tác bắt rễ ở tình yêu (Tạp văn- Cảm nghĩ nhỏ) 8. Tôi cũng giống như con bò, ăn vào toàn là cỏ nhưng vắt ra là sữa ( Tạp văn- Tôi viết tiểu thuyết như thế nào ) 9. Nhà văn đấu tranh cho hiện tại, đồng thời cũng là đấu tranh cho tương lai, bởi vì mất hiện tại thì làm gì có tương lai ( Tạp văn- Tựa thả giới đình ) 10. Muốn sửa chữa khuyết điểm thì phải nhìn thẳng vào khuyết điểm , cũng như một bác sĩ muốn cứu chữa cho bệnh nhân thì phải đem dao ra mà mổ xẻ, dù có đau cũng phải chịu (Tạp văn) TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Ngọc Chương (2003), Thi pháp tiểu thuyết và sáng tác của Ernest Hemingway , NXB ĐHQG TPHCM . 2. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn. 3. Đỗ Kim Hồi, Nghĩ từ công việc dạy văn, NXB GD. 4. Đường Thao- Lê Huy Tiêu (dịch), Lịch sử văn học hiện đại Trung quốc (T1) , NXB GD. 5. Hồ Sĩ Hiệp (1992), Bình luận văn học, NXB Tổng Hợp Khánh Hoà. 6. Hoàng Hữu Bội, Nguyễn Huy Quát (tuyển chọn), Một số vấn đề về phương pháp dạy- học văn trong nhà trường, NXB GD. 7. Lâm Chí Hạo (2002), Lỗ Tấn truyện, Lương Duy Thứ và Nguyễn Thị Hồng Minh (dịch), NXB Văn nghệ. 8. Lê Huy Tiêu, Cảm nhận mới về văn hoá, văn học Trung quốc, NXB ĐHQGHN. 9. Lê Huy Tiêu, Thi pháp truyện ngắn Lỗ Tấn, Luận án Phó Tiến Sỹ, Hà Nội 10. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB trẻ. 11. Lương Duy Thứ và Trần Lê Hoa Tranh (2003), Lỗ Tấn- linh hồn dân tộc Trung hoa hiện đại, NXB Tre. 12. Lương Duy Thứ (2004), Lỗ Tấn , phân tích tác phẩm, NXBGD 13. Lương Duy Thứ, Bác Hồ Với Văn Hoá Trung Quốc, NXB Trẻ 14. Lương Duy Thứ (2002), Bài giảng văn học trung quốc, NXB ĐH QG TP HCM 15. Lý Hà Lâm ( 1960), Lỗ Tấn, thân thế, tư tưởng, sáng tác, NXB GD 16. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB GD 17. Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, NXB GD 18. Nguyễn Khắc Phi (tổng chủ biên) (2005), Sách giáo khoa ngữ văn 9, NXB GD 19. Nguyễn Thanh Hùng (2000), Hiểu văn dạy văn, NXB GD 20. Nguyễn Thị Dư Khánh , Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, NXBGD 21. Nguyễn Thị Thanh Hương (2001), Dạy học văn ở trường phổ thông, NXBĐHQGHN 22. Nguyễn Trọng Hòan , Rèn luyện kỹ năng sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương, NXB GD 23. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học- vấn đề và suy nghĩ, NXB GD 24. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học, lý luận và ứng dụng, NXB GD 25. Phan Trọng Luận (1999), Thiết kế bài học tác phẩm văn chương ở nhà trường phổ thông, NXBGD 26. Phan Trọng Luận (chủ biên) (1998), Phương pháp dạy học văn, NXBĐHQGHN 27. Phan Trọng Luận, Cảm thụ văn học, giảng dạy văn học, NXB GD 28. Phan Trọng Luận (1998), Văn học- xã hội- nhà trừơng , NXB ĐHQG HN 29. Phạm Văn Đồng- Dạy văn là một quá trình rèn luyện tòan diện, TC NCGD, 18 30. Phùng Văn Tửu, Cảm thụ và giảng dạy văn học nước ngoài, NXB GD 31. Phương Lưụ (1998) , Lỗ Tấn , nhà lý luận văn học, NXBGD 32. Tập thể tác giả (2000), Sách giáo khoa Văn học lớp 12, Tập 2, NXB GD 33. Tập thể tác giả (2000), Sách giáo viên Văn học lớp 12, Tập 2, NXB GD 34. Tập thể tác giả , Văn học So Sánh, nghiên cứu và dịch thuật, NXB ĐHQGHN 35. Tô Hòai - Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, NXB Hội nhà văn 36. Trương Chính (dịch) (2000) , Tuyển Tập Lỗ Tấn, NXB VN 37. Trương Chính ( dịch), Tuyển Tập Truyện Ngắn Lỗ Tấn, NXB VH, 2004 38. Trương Chính ( dịch) (2003), Tạp Văn Lỗ Tấn, NXB Văn Hóa Thông Tin 39. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, NXB Bộ GD và ĐT, HN 40. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, TPHCM. 41. Trần Lê Hoa Tranh 2005), Thi pháp nhân vật trong truyện ngắn Lỗ Tấn, Luận án tiến sỹ, TP HCM. 42. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung quốc, NXBGD 43.Trịnh Xuân Vũ (2002), Phương pháp dạy học văn ở bậc trung học, NXB ĐHQG TPHCM 44.V.A.Nhikhonxki (1978), Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông, NXB GD 45.Vũ Tiến Quỳnh (biên soạn), Phê bình bình luận văn học, NXB Văn Nghệ TPHCM, 1995 46.Vương Phú Nhân (2004), Nguyễn Thị Mai Hương và Lương Duy Thứ (dịch), Lỗ Tấn, lịch sử nghiên cưú và hiện trạng, NXB Thống kê. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7104.pdf