Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong giai đoạn hiện nay, ở nước ta đất đai là một trong những yếu tố quan trọng nhất của quá trình sản xuất nông nghiệp, đồng thời nó còn có vai trò đặc biệt đối với các ngành công nghiệp, dịch vụ và các ngành phi nông nghiệp khác. Do đó, giải quyết đúng đắn vấn đề ruộng đất trên cơ sở vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về địa tô, ruộng đất sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với ý nghĩa và vị

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3730 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trí quan trọng đặc biệt của đất đai, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, "vấn đề đất đai" luôn luôn được Nhà nước và nhân dân ta quan tâm, coi trọng. Hiến pháp ta quy định "đất đai là tài sản quốc gia, thuộc sở hữu toàn dân và do nhà nước thống nhất quản lý". Vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển sản xuất nông nghiệp theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hóa. Do vai trò quan trọng của đất đai nông nghiệp đối với phát triển kinh tế, Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIII (2000) đã nêu lên nhiệm vụ trọng tâm đối với ngành nông nghiệp của toàn tỉnh trong những năm trước mắt là: "Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết tập trung vào khu vực nông nghiệp và nông thôn, coi đó là định hướng chiến lược lâu dài để phát triển kinh tế hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân". Vì vậy, giải quyết tốt vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để thúc đẩy phát triển nông nghiệp hàng hóa đã có nhiều tiến bộ, hầu hết ruộng đất đã có chủ sử dụng cụ thể, nên việc đầu tư thâm canh và bảo vệ đất có hiệu quả hơn. Bên cạnh đó vẫn còn một số tồn tại cần phải giải quyết cả về lý luận và thực tiễn như: Nâng cao hiệu quả sử dụng đất; vấn đề tích tụ ruộng đất; giao đất giao rừng; vấn đề thu lợi ích từ việc sử dụng đất đai... Nhất là đối với một số địa bàn vùng sâu, vùng xa, một số đất trống đồi trọc chưa được khai thác đúng tiềm năng của nó. Với lý do trên tôi chọn đề tài: "Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình" để nghiên cứu nhằm góp một phần nhỏ bé tìm ra những giải pháp giúp cho việc giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân trong thời kỳ tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Quảng Bình. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Khi bàn về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân là một vấn đề hết sức phức tạp. Do tầm quan trọng và ý nghĩa thực tiễn của nó nên có rất nhiều công trình đã được thể hiện dưới nhiều góc độ nghiên cứu khác nhau. Trên các Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí Lý luận... và một số sách đã xuất bản thì có nhiều tác giả đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn đề ruộng đất. Trong số tác giả này phải kể đến: PGS.TS Nguyễn Đình Kháng - TS Vũ Văn Phúc, Một số vấn đề lý luận của Mác và Lênin về địa tô, ruộng đất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000; GS.TS Đỗ Thế Tùng, Quan điểm của Lênin về sở hữu tư liệu sản xuất trong nông nghiệp, Tạp chí Thông tin Nghiên cứu lý luận của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tháng 3/1990; ngoài ra còn một số bài viết của các tác giả: Nguyễn Sinh Cúc; Trần Ngọc Hiên,... Và gần đây nhất, vào tháng 5/2001 tại huyện Khoái Châu - Hưng Yên, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương đã phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề: "Chuyển đổi ruộng đất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn" và có đi sâu bàn đến "dồn điền, dồn thửa" ruộng đất nông nghiệp thực tiễn ở địa phương tại huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa. Riêng về phân tích đất đai nông nghiệp mới chỉ có một số tài liệu đánh giá đất của một số giảng viên của Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội. Cùng với những đề tài đi vào nghiên cứu "Tiềm năng đất đai nông nghiệp để phát triển kinh tế hàng hóa ở Phú Thọ" của thạc sĩ Nguyễn Tiến Khôi. Đối với Quảng Bình, những đề tài đi sâu nghiên cứu quan hệ ruộng đất để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng bình chưa có công trình nào đề cập đến. Do đó tôi mạnh dạn chọn đề tài "Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình" hy vọng góp một phần nhỏ của mình vào việc tìm ra giải pháp trong vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất để thúc đẩy nông nghiệp Quảng Bình ngày càng phát triển trên cơ sở phát huy nội lực của chính mình. 3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu của luận văn - Mục đích nghiên cứu: Xác định rõ cơ sở lý luận về đất đai, phân tích đánh giá những khả năng, những điều kiện khách quan, chủ quan để vận dụng vào chủ trương giao đất giao rừng thúc đẩy nền nông nghiệp Quảng Bình phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó luận văn có mục đích xác định những quan điểm và kiến nghị những giải pháp chủ yếu để thực hiện giải quyết giao đất giao rừng để thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hóa ở Quảng Bình. - Nhiệm vụ: + Làm rõ ý nghĩa lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và các chủ trương của Đảng ta đối với việc giao đất giao rừng cho người nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. + Khảo sát đánh giá việc thực hiện chủ trương giao đất giao rừng cho nông dân ở Quảng Bình, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp đối với việc thực hiện chủ trương này qua nghiên cứu thực tế ở tỉnh. - Phạm vi nghiên cứu: + Thời gian nghiên cứu: từ 1986 đến nay (2002). + Địa bàn nghiên cứu: chủ yếu là 7 huyện, thị xã ở tỉnh Quảng Bình. + Đề tài giới hạn việc nghiên cứu: giao đất, giao rừng (chủ yếu là nông - lâm nghiệp; trồng trọt và chăn nuôi). 4. Phương pháp nghiên cứu - Luận văn được trình bày trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng ta. - Tác giả dựa trên phương pháp nghiên cứu kinh tế chính trị, phương pháp duy vật biện chứng, lịch sử, lôgíc, sử dụng phương pháp điều tra. 5. Ý nghĩa của luận văn Tuy nghiên cứu trong một phạm vi về thời gian, không gian nhất định, song luận văn có một ý nghĩa phản ánh thực tế tình hình vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nền nông nghiệp hàng hóa ở địa phương. Từ đó có những đề xuất cụ thể, những kiến nghị giải pháp để giúp các cơ quan ban ngành trong tỉnh tham khảo hoạch định các chính sách nhằm phát triển kinh tế ngành nông nghiệp nói riêng kinh tế xã hội ở địa phương nói chung. 6. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm: 3 chương, 6 tiết. Chương 1 Ý NGHĨA CỦA VIỆC GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA 1.1. QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ GIAO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP HÀNG HÓA 1.1.1. Một số vấn đề lý luận của Mác và Lênin về ruộng đất Đất đai là tài sản quốc gia vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thay thế được của Nông - Lâm - Ngư nghiệp. Nó là cơ sở tự nhiên, là tiền đề trước tiên của mọi quá trình sản xuất. C.Mác đã từng chỉ rõ: "Đất là không gian, yếu tố cần thiết của tất thảy mọi quá trình sản xuất và mọi hoạt động của loài người" [33, tr. 473]. Trong sản xuất nông nghiệp ruộng đất không chỉ tham gia với tư cách là yếu tố thông thường, mà là yếu tố tích cực của sản xuất, là tư liệu sản xuất chủ yếu. Nó là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, nó xuất hiện và tồn tại ngoài ý muốn con người, vì vậy ruộng đất là tài sản quốc gia. Nhưng từ khi được con người khai phá, sử dụng trong quá trình lịch sử lâu dài, thì trong đất đai đã kết tinh lao động của nhiều thế hệ. Ngày nay, ruộng đất vừa là sản phẩm của tự nhiên lại vừa là sản phẩm của lao động. Do vậy, khi xét về mặt giá trị sản xuất, C.Mác đã nói: "Đất là tư liệu sản xuất cơ bản, phổ biến và quí báu nhất của sản xuất nông nghiệp" [33, tr. 324]. Vì loài người sử dụng đất trồng trọt tạo ra lương thực, thực phẩm, tận dụng đất đồi núi để chăn nuôi, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và khai thác lâm sản, sử dụng mặt nước để nuôi trồng thủy sản. Như vậy đất nông nghiệp tạo ra những điều kiện để con người sinh sống và phát triển. Trong quan hệ với lao động, ruộng đất vừa là đối tượng lao động vừa là tư liệu lao động. Khi con người sử dụng công cụ sản xuất tác động vào đất đai thay đổi hình dạng theo mục đích sử dụng của mình thì ruộng đất là đối tượng của lao động. Chính vì vậy, để có thể sử dụng có hiệu quả hơn hoặc cải tạo đất theo nhu cầu sản xuất, người ta phải khai thác hợp lý hoặc tác động vào các điều kiện sinh thái đất, như dựa vào yếu tố khí hậu thời tiết để tăng vụ, yếu tố địa hình và chế độ nước để qui hoạch hệ thống cây trồng, hoặc dùng các loại cây trồng khác nhau để bảo vệ và cải tạo đất v.v... Từ đó cho ta thấy đất đai là một điều kiện hết sức cần thiết cho sản xuất, nhưng tự nó không thể tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà cần có những điều kiện khác, trong đó có điều kiện quan trọng bậc nhất là lao động của con người. Đất đai cùng với lao động là hai cơ sở tạo ra của cải vật chất để cho con người và xã hội loài người tồn tại và phát triển. Điều này đã được C.Mác dẫn lời của nhà kinh tế học cổ điển W.Petty nói: "Lao động là cha, còn đất là mẹ của của cải vật chất" [29, tr. 68]. Ngoài ra, đất nông nghiệp còn tạo cơ sở cho sự ra đời và phát triển của nhiều ngành kinh tế khác. Như công nghiệp khai khoáng, vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến từ những sản phẩm được tạo ra từ đất với sự tác động của lao động con người. Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng, đất đai là điều kiện cần thiết để con người và các sinh vật sinh sống và phát triển. Đất chính là cơ sở tồn tại của nhân loại, là cội nguồn của hệ thống cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người, là nguồn tài nguyên tái sinh của sự sống của nhân loại, C. Mác đã từng nói: Đất là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau. Ở mỗi quốc gia đất đai đều được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau, riêng đất đai nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản giống nhau, được hiểu cụ thể: Thứ nhất: Đất đai nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt. Vì trong sản xuất nông nghiệp đất đai vừa là tư liệu lao động, vừa là đối tượng lao động. Đối với các loại đất chuyên dùng khác thì đất chỉ là đối tượng lao động, con người phải sử dụng tư liệu lao động để tác động vào tạo ra sản phẩm trong khai khoáng. Đối với đất đai nông nghiệp được coi là tư liệu lao động, bởi vì con người đã dùng nó làm vật dẫn truyền lao động của mình để tác động vào cây trồng. Đồng thời nó lại thể hiện là đối tượng lao động khi con người dùng công cụ, máy móc tác động vào ruộng đất làm thay đổi hình dạng và tính chất của nó. Chính sự biểu hiện hai mặt của loại tư liệu sản xuất này, nên đất đai nông nghiệp được coi là một loại tư liệu sản xuất đặc biệt. Mặt khác, đất đai đối với nông nghiệp, nó là sức sản xuất quan trọng nhất, thiếu nó thì không thể có quá trình sản xuất nông nghiệp. Thứ hai: Đất đai có vị trí cố định và diện tích giới hạn Các loại tư liệu sản xuất khác có thể di chuyển từ nơi này đến nơi kia, còn đất đai có vị trí cố định, không thể di chuyển theo ý muốn của con người. Trong mỗi quốc gia, mỗi vùng đất đai chịu ảnh hưởng của địa hình khí hậu thời tiết, điều kiện kinh tế, tình hình phân bố lao động, điều kiện giao thông... khác nhau. Chính những điều này giúp cho con người thực hiện trong việc thực hiện chuyên môn hóa đối với nông nghiệp một cách thích hợp đối với từng vùng. Mặt khác, xét về diện tích thì đất đai có giới hạn. Trên phạm vi toàn cầu đất đai bị khống chế bởi bề mặt trái đất, ở mỗi nước diện tích bị giới hạn ở biên giới của mỗi quốc gia đối với tỉnh, huyện, xã thì diện tích bị giới hạn trong khuôn khổ địa giới của từng địa phương. Do đó con người muốn sản xuất nông nghiệp phải đầu tư thâm canh để mở rộng diện tích theo chiều sâu, còn việc khai hoang mở rộng diện tích chỉ để khai thác số đất đai chưa được sử dụng mà thôi. Thứ ba: Đất đai nông nghiệp gắn với điều kiện thổ nhưỡng, khí hậu, thời tiết, thủy văn ở từng vùng nhất định và do đó mỗi vùng chỉ thích hợp với từng loại cây, con nhất định. Sản xuất nông nghiệp luôn luôn gắn chặt với môi trường tự nhiên, đặc biệt là khí hậu thời tiết, nguồn nước, thổ nhưỡng là những tài nguyên tác động mạnh và thường xuyên đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp ở từng quốc gia. Ngay ở trong một nước, ở các vùng có điều kiện khác nhau, có thể cho năng suất tự nhiên khác nhau đối với mỗi loại cây trồng, vật nuôi nhất định. Vì vậy, khi giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa phải cần có quy hoạch đất đai, hướng dẫn đầu tư khoa học kỹ thuật để vận dụng trồng cây gì? nuôi con gì cho từng vùng thích hợp. Mặt khác ở nước ta, đã từ lâu người ta phải chia đất đai nông nghiệp thành 4 vùng lớn: Đó là đồng bằng, ven biển trung du và miền núi. Cách phân chia này chủ yếu căn cứ vào yếu tố địa hình, chưa thấy hết các yếu tố khác tác động vào sản xuất nông nghiệp. Do đó cần phải xem xét một yếu tố quan trọng khác đó là vùng sinh thái nông nghiệp. Về qui mô, phạm vi vùng sinh thái nông nghiệp được xác định rộng hay hẹp phụ thuộc vào những điều kiện đặc thù tương đối giống nhau về khí hậu, lượng mưa, độ ẩm, không khí, nhiệt độ, thổ nhưỡng v.v... Ngoài công tác điều tra nghiên cứu cơ bản, phân tích các yếu tố tự nhiên bằng những phương pháp khoa học hiện đại, chính xác, người ta còn giám sát các thảm thực vật, lấy đó làm tài liệu tham khảo trong việc xác định vùng sinh thái nông nghiệp. Khi nói đến việc sử dụng đất đai và giao quyền sử dụng đất đai một cách hợp lý, cần chú ý tới sự thích ứng của cây trồng, vật nuôi đối với các điều kiện tự nhiên và vùng sinh thái nông nghiệp. Trong đó điều kiện khí hậu, đất đai - địa hình, địa chất, thổ nhưỡng là những yếu tố quan trọng bậc nhất trong các điều kiện tự nhiên ảnh hưởng trực tiếp đến sức sản xuất của chính bản thân đất đai và điều kiện sống của con người. Thứ tư: Chất lượng đất đai phụ thuộc vào sự tác động của con người và sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Ruộng đất thường không đồng nhất về chất lượng do sự khác nhau giữa các yếu tố dinh dưỡng vốn có của nó. Độ màu mỡ của đất nói lên khả năng có thể cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng. Con người không những sử dụng độ màu mỡ tự nhiên của đất, mà còn có khả năng sáng tạo thêm độ màu mỡ nếu biết sử dụng nó một cách hợp lý. Ngược lại, nếu sử dụng không hợp lý thì làm giảm độ màu mỡ của tự nhiên. Thực tế này đã diễn ra một số vùng trung du và miền núi nước ta. Ở những vùng này, trước đây con người chỉ lợi dụng độ màu mỡ tự nhiên vốn có của đất để canh tác, không chú ý bồi dưỡng, cải tạo nên đất bị bạc màu, một số diện tích vốn có độ màu mỡ cao, nay bị kiệt quệ trở thành đồi trọc. Trong khi đó, ở một số nơi, khi giao quyền sử dụng ruộng đất hộ nông dân đã biết khai thác và cải tạo, bồi dưỡng cho nó làm cho độ màu mỡ của đất không ngừng tăng lên, từ đó năng suất cây trồng cũng thường xuyên nâng cao. Từ đó có thể khẳng định cho thấy chất lượng đất đai luôn phụ thuộc vào sự tác động của con người và tiến bộ khoa học kỹ thuật. Chính đất đai nông nghiệp có những đặc điểm cơ bản khiến nó không giống với bất kỳ một loại tư liệu sản xuất nào. Chẳng hạn: đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt; là tài nguyên có hạn chế về số lượng và không có khả năng tái sinh; đất đai có vị trí cố định trong không gian không thể di chuyển theo ý muốn chủ quan của con người... Từ những đặc điểm đó đã làm cho đất đai được đặt đúng với giá trị của nó từ nhiều đời. Ông cha ta từng nói: "Tấc đất tấc vàng" câu nói này đặc biệt đúng với các loại đất nói chung, riêng đối với đất nông nghiệp thì đất đai là tài nguyên đặc biệt quý giá và là tư liệu sản xuất đặc biệt..., như vậy đã là tư liệu sản xuất đặc biệt thì đất đai nông nghiệp cũng có những đặc tính cơ bản như mọi hàng hóa khác: Tức là có thể mua được bán được. Theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin thì giá trị của hàng hóa là lao động được vật hóa, nhưng khi nghiên cứu lý luận của C.Mác về địa tô, chúng ta thấy rằng về thực chất đất không có giá trị, vậy tại sao vẫn hình thành thị trường đất đai. Lý luận Mác-Lênin chỉ rõ: Giá cả ruộng đất là biểu hiện quan hệ kinh tế phát sinh chứ không phải biểu hiện bằng tiền của giá trị ruộng đất. Quan điểm này không hề mâu thuẫn với lý luận của C.Mác về giá trị và giá trị sử dụng của hàng hóa, giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị. Vậy xét về mặt lý luận chúng ta đặt câu hỏi: Tại sao đất lại "có giá". Nếu đất có giá trị thì ai là người có quyền sở hữu đất (chủ sở hữu được quyền định đoạt, tức là có quyền bán đất hoặc cho thuê đất), còn người phải trả tiền tức là người sử dụng đất đó với tư cách là một tư liệu sản xuất. Để làm rõ vấn đề nêu trên, cần sử dụng lý luận về quan hệ đất đai và địa tô của C.Mác. Do đó, trước hết chúng ta phải hiểu và thống nhất quan điểm của C.Mác. Thứ nhất: C.Mác nghiên cứu địa tô xuất hiện trong xã hội tư bản chủ nghĩa, khi mà trong xã hội đã có sự độc quyền kinh doanh về ruộng đất. Thứ hai: Địa tô phản ánh mối quan hệ thống nhất đối lập giữa ba giai cấp cấu thành cơ bản của xã hội tư bản chủ nghĩa- Người công nhân làm thuê, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và địa chủ. Quá trình nghiên cứu của mình, C.Mác đã chỉ ra địa tô không phải là một hình thái phân phối đơn thuần, quyền sở hữu ruộng đất tự bản thân nó không đảm nhiệm một chức năng nào trong các quá trình sản xuất. Việc địa chủ trở thành người cho thuê đất một cách thuần túy chính là do quan hệ sở hữu ruộng đất đã bị "cải tạo" theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đây có sự tách rời giữa quyền sở hữu ruộng đất và quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa. Khi đánh giá về vai trò của chủ nghĩa tư bản đối với sự phát triển nền nông nghiệp hàng hóa: Một là, biến nghề nông "thành một sự ứng dụng nông học một cách khoa học và tự giác" [33, tr. 244] và nhờ vào sự "hợp lý hóa nông nghiệp, việc hợp lý hóa này lần đầu tiên đã tạo khả năng kinh doanh nông nghiệp theo phương thức xã hội" [33, tr. 245]. Hai là, tách quyền sở hữu ruộng đất khỏi quyền kinh doanh trên ruộng đất, biến sở hữu ruộng đất thành sở hữu "thuần túy" kinh tế. Và dưới con mắt của nhà tư bản đi nữa thì cũng phải thấy đó là "một vật thừa vô dụng và phi lý". Theo phân tích như trên thì C.Mác đã đưa ra định nghĩa một cách chung nhất về địa tô tư bản chủ nghĩa như sau: "Địa tô là hình thái dưới đó quyền sở hữu ruộng đất được thực hiện về mặt kinh tế, tức là đem lại thu nhập" [33, tr. 246]. Dưới chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa đất đai nói chung: trong đó cụ thể là đất nông nghiệp nằm chủ yếu trong tay các địa chủ (chủ sở hữu ruộng đất - đất đai thuộc sở hữu tư nhân). Người thực sự canh tác ruộng đất là những người lao động làm thuê, nhà tư bản thuê đất của địa chủ để kinh doanh, coi nông nghiệp là một lĩnh vực đầu tư kinh doanh. Chính vì thế trong lĩnh vực này lao động của những nông dân làm thuê cho nhà tư bản cũng tạo ra giá trị thăng dư, tuy nhiên toàn bộ giá trị thăng dư này không rơi vào nhà tư bản, mà do tính đặc thù của kinh doanh nông nghiệp là phải sử dụng một loại tư liệu sản xuất đặc biệt là đất đai, đất đai này thuộc sở hữu của địa chủ, vì vậy nhà tư bản phải trả cho chủ đất, kẻ sở hữu ruộng đất, theo hợp đồng một khoản tiền (gọi là địa tô TBCN) để được sử dụng ruộng đất trong một thời gian nhất định. "Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch do công nhân làm thuê trong nông nghiệp tạo ra (tức bộ phận giá trị thăng dư sau khi trừ lợi nhuận bình quân của tư bản đầu tư vào nông nghiệp) và do nhà tư bản thuê đất nộp cho người sở hữu ruộng đất" [33, tr. 246]. Trong xã hội tồn tại sở hữu tư nhân về đất đai, đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản, không chỉ có đất đai được sử dụng vào sản xuất nông nghiệp mới phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất: Đất xây dựng, đất hầm mỏ cũng phải đem lại thu nhập cho người sở hữu chúng, đó là địa tô đất xây dựng, hầm mỏ. C.Mác đã chỉ ra rằng: Bất kỳ ở đâu có những sức tự nhiên bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu gạch cho nhà tư bản sử dụng những sức tự nhiên ấy thì số lượng lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản tạo ra cũng phải nộp cho kẻ sở hữu những lực lượng tự nhiên dưới những hình thức địa tô khác nhau. Nhìn một cách khái quát cho thấy: "Đặc trưng của địa tô là ở chỗ, cùng với những điều kiện khiến cho sản phẩm nông nghiệp phát triển thành những giá trị (những hàng hóa) và cùng với những điều kiện thực hiện giá trị của chúng, thì đồng thời quyền lực của quyền sở hữu ruộng đất là chiếm lấy một phần càng ngày càng lớn những giá trị đó, những giá trị, được sáng tạo ra mà không có sự tham gia đóng góp gì của nó cả, cũng càng phát triển, nghĩa là một phần giá trị thăng dư ngày càng lớn sẽ được chuyển hóa thành địa tô [33, tr. 276-378]. Từ sự phân tích nguồn gốc và sự hình thành địa tô tư bản chủ nghĩa, chúng ta khẳng định C.Mác đã hoàn toàn đúng khi đã đưa ra một hệ thống chỉ dẫn khoa học khi nghiên cứu địa tô tư bản chủ nghĩa. Kết luận của C. Mác dù đã gần 2 thế kỷ nhưng vẫn phù hợp với yêu cầu của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản ngày nay. "Thác nước, cũng như đất đai nói chung, cũng như mọi lực lượng tự nhiên, không có giá trị nào cả, vì không có một lao động nào được vật hóa ở trong đó, do đó nó cũng không có giá cả, vì theo lẽ thường, giá cả không phải cái gì khác hơn là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Giá cả đó chẳng qua là một địa tô tư bản hóa" [33, tr. 291]. Có thể kết luận rằng: Đất đai tự nhiên không có giá trị, nhưng được đầu tư (lao động quá khứ và lao động sống) thì đất có giá trị và biểu hiện bằng tiền của giá cả, giá đất về thực chất chính là địa tô mà đất đai mang lại trong một số năm nhất định, chính vì thế đất đai là một dạng hàng hóa đặc biệt, thị trường đất đai cũng là một thị trường đặc biệt (thị trường bất động sản). Nghiên cứu học thuyết về địa tô của C.Mác chúng ta thấy rằng: tính không tái sản xuất được và không di chuyển được đất đai chỉ tạo ra địa tô cho giai cấp giữ độc quyền ruộng đất chứ không hề ngăn cản đất đai trở thành hàng hóa, không hề ngăn cản hình thành thị trường đất vận động theo các qui luật khách quan của thị trường nói chung. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhưng khi còn sản xuất hàng hóa thì còn có thị trường đất đai. Ở Việt Nam do những thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội nên quan hệ đất đai cũng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Trước 1945 đất đai thuộc sở hữu của địa chủ phong kiến và tư bản thực dân, người nông dân sống trong cảnh làm thuê, cuốc mướn và nộp tô cho địa chủ, cường hào, quan lại và tư bản nước ngoài. Sau khi hòa bình lập lại 1954, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng tiếp tục sự nghiệp cách mạng của Đảng, toàn dân hào hứng tiến hành công cuộc cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng, hơn hai triệu gia đình nông dân được chia ruộng đất. Cầm tấm thẻ nhận ruộng, cắm trên mảnh ruộng được chia người nông dân sung sướng trào ra nước mắt. Đây là lần đầu tiên trong đời họ, chế độ sở hữu ruộng đất của những người nông dân được xác lập. Mơ ước ngàn đời nay đã được thực hiện. Người nông dân thực sự trở thành người chủ sở hữu chân chính ruộng đất của mình. Quyền sở hữu ruộng đất của người nông dân đã được khẳng định trong cương lĩnh ruộng đất của Đảng lao động Việt Nam lúc bấy giờ là xóa bỏ chế độ phong kiến, chiếm hữu ruộng đất của địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu của người nông dân. Trong sắc lệnh của Chủ tịch nước, cũng ghi: Người được chia ruộng đất có quyền sở hữu ruộng đất đó, chính quyền cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu ấy, xóa bỏ mọi khế ước cũ người được chia ruộng có quyền chia gia tài, cầm, bán cho ruộng đất mà mình được chia. Như vậy chỉ từ sau khi công cuộc cải cách ruộng đất hoàn toàn thắng lợi người nông dân mới thực sự trở thành người chủ chân chính có quyền sở hữu ruộng đất của mình. Những quyền sở hữu ấy cũng chỉ tồn tại được một thời gian không lâu. Từ 1959 trở đi sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp đã tiến hành tập thể hóa ồ ạt, nhanh chóng, ruộng đất và những tư liệu sản xuất chủ yếu khác của người nông dân chuyển thành sở hữu tập thể của hợp tác xã. Người nông dân lúc này trở thành người chủ sở hữu hình thức. Quyền sở hữu thực sự đất đai và tư liệu sản xuất, quyền sản xuất kinh doanh thuộc về tập thể và hợp tác xã. Đối với miền Nam lúc này sở hữu ruộng đất tập trung vào tay giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản thực dân và một số rất ít gia đình nông dân khi hình thành trang trại và sản xuất kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa. Sau 1975 đất nước ta đã hoàn toàn thống nhất, ruộng đất được điều cho các gia đình nông dân một cách hợp lý. Công cuộc cải tạo nông nghiệp Miền Nam cũng nhanh chóng được tiến hành đã biến toàn bộ đất đai ruộng vườn của nông dân thành sở hữu tập thể của hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Sự chuyển đổi hình thức sở hữu ruộng đất từ chỗ quyền sở hữu ruộng đất là của gia đình nông dân, sang chỗ sở hữu ruộng đất là của tập thể hợp tác xã đã bộc lộ dần những hạn chế, những cản trở làm cho sản xuất nông nghiệp ngày càng chậm phát triển, kinh tế nông nghiệp nông thôn ngày càng đứng trước những khó khăn bế tắc đòi hỏi phải được tháo gỡ. Đứng trước tình hình đó, ngày 18-1-1981 Ban bí thư Trung ương đã đưa ra chỉ thị 100 về khoán sản phẩm đến người lao động. Chỉ thị khoán 100 đến với người nông dân như làn gió mới thổi vào nông nghiệp đáp ứng kịp thời những yêu cầu đòi hỏi bức bách của sự phát triển nông nghiệp. Sức sản xuất trong nông nghiệp được giải phóng, lao động nông nghiệp được phát huy cao độ, tận dụng mọi nguồn lực và thời gian cho lao động sản xuất. Đồng thời quan hệ kinh tế mới trong sản xuất nông nghiệp ra đời và phát triển, nông thôn đã có bước chuyển mình, nông dân phấn khởi lao động sản xuất, quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển kích thích người lao động hướng theo phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa, làm quen dần tiền tệ với thị trường. Khoán 100 ra đời, đi vào nông nghiệp đã phát huy nhiều mặt tích cực khơi dậy sức sống cho nông nghiệp, nông dân. Song cũng còn bộc lộ những hạn chế đòi hỏi phải khắc phục. Do đó chỉ thị khoán 100 đã được nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện bằng Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và Nghị quyết Trung ương 6 của Trung ương chủ trương khoán sản phẩm cuối cùng đến hộ; lấy hộ gia đình nông dân làm đơn vị kinh tế tự chủ sản xuất kinh doanh. Với Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 6 của Trung ương, vai trò kinh tế của hợp tác xã sản xuất nông nghiệp lại có bước chuyển đổi quan trọng là ruộng đất thuộc sở hữu tập thể không còn thích hợp. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII đã chủ trương đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tách quyền sở hữu và quyền sử dụng để giao quyền sử dụng ruộng đất cho hộ nông dân. Cùng với sự ra đời của Hiến pháp 1992 và luật đất đai 1993 qui định, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và nhà nước thống nhất quản lý theo qui định chung, nhằm bảo đảm cho đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân còn thể hiện bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bởi vì đất đai là tài sản của cả dân tộc. Mỗi tấc đất của chúng ta từ biên cương đến hải đảo đều thắm đượm mồ hôi, xương máu của ông cha, của bao thế hệ nhân dân đã tạo lập và gìn giữ. Đất đai là tài nguyên quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt của công nghiệp; là địa bàn phân bố dân cư, là mặt bằng xây dựng các cơ sở kinh tế - văn hóa, an ninh, quốc phòng là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Xuất phát từ lợi ích của dân tộc, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nông nghiệp, tuy ruộng đất vẫn thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài. Nhà nước qui định bằng pháp luật vấn đề chuyển quyền sử dụng ruộng đất. Không thể tư hữu hóa ruộng đất, vì làm như vậy sẽ dẫn đến phân hóa lớn về giai cấp, cản trở việc qui hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng và các cơ sở vật chất khác, làm căng thẳng thêm vấn đề tranh chấp ruộng đất. Quan điểm cho rằng muốn phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp phải tư hữu hóa ruộng đất là hết sức sai lầm. Mà chỉ có quyền sử dụng ruộng đất, hay nói đúng hơn là cách sử dụng tư liệu sản xuất mới liên quan đến vấn đề sản xuất hàng hóa hay không. Nếu trao quyền sở hữu ruộng đất cho nông dân thì tất yếu dẫn đến tự do mua - bán đất. Như vậy sẽ xuất hiện bọn đầu cơ ruộng đất làm cho giá cả ruộng đất tăng lên và sự phân hóa giai cấp càng thêm nhanh chóng. Tuy nhiên không loại trừ việc cho phép chuyển quyền sử dụng ruộng đất khi một người nào tìm kiếm được nghề khác hoặc không có người thừa kế sử dụng ruộng đất. Người được quyền sử dụng ruộng đất phải trả cho người chuyển nhượng một khoản bồi hoàn hoa màu và chi phí cải tạo đất. Khoản bồi hoàn này không phải là giá cả ruộng đất mà thấp hơn giá cả ruộng đất. Bởi vì, giá cả ruộng đất theo đúng nghĩa của nó là địa tô tư bản hóa, nó không ngừng tăng lên theo mức độ tăng của địa tô và khan hiếm của ruộng đất. Để khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh, ứng dụng công nghệ mới nhằm thu địa tô chênh lệch II, cần giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài và qui định được quyền thừa kế. Tuy vậy, quyền thừa kế cũng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa việc bảo đảm đủ phần ruộng khoán cho tất thảy mọi hộ nông dân với việc duy trì qui mô ruộng đất canh tác tối ưu, nhất là qui mô nông trại. Trong điều kiện dân số tăng nhanh, bình quân ruộng đất tính theo nhân khẩu rất thấp, quyền thừa kế tất yếu dẫn đến làm tăng sự phân tán manh mún ruộng đất. Chỉ có thể khắc phục tình trạng ấy bằng khai hoang tăng vụ, thâm canh và tổ chức dịch vụ, phát triển các ngành nghề khác để rút bớt lao động ra khỏi trồng trọt, chứ không phải bằng cách tư hữu hóa và cho phép tự do mua bán, bán ruộng đất. Điều đó đúng với tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: "Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân được Nhà nước giao cho hộ nông dân sử dụng lâu dài" [8. tr. 116]. 1.1.2. Vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển nông nghiệp hàng hóa Ruộng đất là sản phẩm tự nhiên, có trước lao động, vì thế nó là tài sản của quốc gia. Khi con người xuất hiện khai thác và sử dụng ruộng đất vào cuộc sống, vào sản xuất những sản phẩm thỏa mãn nhu cầu của mình,lao động của nhiều thế hệ được kết tinh vào ruộng đất và ruộng đất trở nên có chủ sở hữu. Cùng với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, các chế độ sở hữu khác nhau về ruộng đất cũng hình thành và phát triển. Lịch sử đã trải qua những hình thái kinh tế xã hội khác nhau, với chế độ sở hữu ruộng đất khác nhau, nhưng theo C. Mác có ba loại sở hữu về ruộng đất. - Sở hữu ruộng đất của nhà nước. - Sở hữu ruộng đất của địa chủ, quan lại, nhà tư bản C.Mác gọi đây là "chế độ đại sở hữu ruộng đất được trên phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa" [33, tr. 532] - Sở hữu ruộng đấ._.t của người nông dân tự do hay sở hữu ruộng đất của người sản xuất nhỏ C. Mác gọi đây là chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ" [33, tr. 519]. Trong nền kinh tế thị trường, tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về ruộng đất, trong đó sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân lớn và sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là các hình thức cơ bản. Quá trình phát triển của lực lượng sản xuất ngày càng cao sản xuất ngày càng đa dạng hóa, xuất hiện nhiều hình thức sở hữu khác nhau về ruộng đất. Mặt khác, quyền sở hữu ruộng đất bao gồm hai nội dung: quyền chiếm hữu và quyền sử dụng. Hai mặt này có thể gắn với nhau trong một chủ thể sở hữu cũng có thể tách rời khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ phát triển nhất định. Sự tách rời giữa quyền chiếm hữu và quyền sử dụng là một quá trình. Lúc đầu khi nền kinh tế phát triển còn ở trình độ thấp, người chiếm hữu đồng thời là người sử dụng. Người nông dân tự do sở hữu ruộng đất, thì họ vừa là người chiếm hữu vừa là người sử dụng ruộng đất vào sản xuất nông nghiệp. Ngay trong thời kỳ đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, nhà tư bản với tư cách là người chiếm hữu tư bản đồng thời là người chủ kinh doanh. Vì vậy, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng gắn vào cùng một chủ thể kinh doanh. Song khi kinh tế phát triển, người sở hữu tài sản có thể trực tiếp sử dụng tài sản của mình đề kinh doanh, cũng có thể giao cho người khác sử dụng: địa chủ cho nông dân thuê ruộng đất, nhà tư bản sở hữu tiền tệ cho nhà kinh doanh vay tư bản để sử dụng... Trong những trường hợp như vậy, quyền chiếm hữu và quyền sử dụng tách với nhau. Đối với nước ta, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, tức là về mặt chiếm hữu đất đai thuộc sở hữu quốc gia, sở hữu của toàn dân tộc. Nhà nước ta đã từng bước tách quyền chiếm hữu và quyền sử dụng đất. Nhà nước giao đất cho người sử dụng đất ổn định lâu dài hoặc có thời hạn, giao đất có thu tiền sử dụng đất và giao đất không thu tiền sử dụng đất. Quan hệ đất đai đã dần dần ổn định, theo qui định của luật, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/CP ngày 27-9-1993 của Chính phủ quy định về giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và Nghị định số 02/CP ngày 15-01-1994 của Chính phủ ban hành quy định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Điều này có nghĩa đất đai thuộc quyền chiếm hữu toàn dân nhưng quyền sử dụng lại được trao cho các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế, trong đó chủ yếu là các hộ nông dân với tư cách là đơn vị kinh tế tự chủ. Các chủ thể sử dụng ruộng đất có các quyền thừa kế, thế chấp, chuyển nhượng, cho thuê và chuyển đổi. Tuy nhiên do đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân nên quản lý toàn bộ đất đai là chức năng của nhà nước. Nhưng tại sao quyền sử dụng ruộng đất lại được giao chủ yếu cho các hộ nông dân. Bởi vì: trước hết là do đặc tính sinh học của sản xuất nông nghiệp. Trong sản xuất nông nghiệp, do trình độ sản xuất hàng hóa chưa phát triển ở mức độ cao như các lĩnh vực khác, hơn nữa do đặc thù của lĩnh vực sản xuất này. Cả con người với tư cách là chủ thể sở hữu người lao động, cả đối tượng sản xuất là cây con, cả công cụ lao động là con trâu con bò, và cả đất đai - tư liệu sản xuất đặc biệt là những thực thể sinh học, cơ thể sống, có quá trình sinh trưởng và phát triển, suy thoái theo các qui luật sinh học. Đặc tính sinh học này qui định sự tồn tại tất yếu của kinh tế hộ nông dân. Ở đây luôn luôn chứa đựng mâu thuẫn khách quan giữa tồn tại kinh tế hộ nông dân mang tính độc lập tương đối, bị qui định bởi tính sinh học với việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp gắn với quá trình tích tụ, tập trung và chuyên môn hóa. Chính đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã qui định sự tồn tại lâu dài của kinh tế hộ nông dân, kinh tế hợp tác và kinh tế nhà nước chỉ là sự bổ sung, định hướng, đa dạng hóa hình thức sở hữu và tổ chức sản xuất mà thôi. Thứ hai, sở hữu ruộng đất ở nước ta là sở hữu toàn dân, Nhà nước là chủ sở hữu, có quyền chiếm hữu, nhưng các chủ thể kinh tế, mà chủ yếu là kinh tế hộ nông dân lại được giao quyền sử dụng. Đây là một đặc điểm quan trọng của sở hữu ruộng đất, nó thể hiện mối quan hệ đặc biệt giữa nhà nước và nông dân, đồng thời cũng quy định vai trò quản lý nhà nước đối với đất đai, nhưng sự can thiệp vào quan hệ đất đai có thể với những mức độ khác nhau đối với từng loại đất; nhất là đối với đất nông nghiệp. Thứ ba, ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nông dân, phát triển nông nghiệp, nông thôn trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất. Tách người nông dân ra khỏi ruộng đất, làm cho họ không gắn bó với đất đai một thời gian đã dẫn nông nghiệp - nông thôn nước ta vào con đường trì trệ, chậm phát triển. Vì vậy, khi chính sách ruộng đất ra đời đã qui định trách nhiệm và quyền lợi của những người được giao quyền sử dụng đất. Các chủ sử dụng được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai lâu dài, ổn định, có thể tự mình sắp xếp, bố trí đất đai hợp lý để sản xuất ra những sản phẩm trong nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao. Việc giao quyền sử dụng ruộng đất cho các hộ nông dân và xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã và đang từng bước khơi dậy tính năng động, giải phóng sức sản xuất, khôi phục sự gắn bó lâu đời giữa người làm ruộng với ruộng đồng, giữa người lao động với tư liệu sản xuất, từng bước họ vươn lên làm chủ cuộc sống, góp phần vào thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Thứ tư, sự biến đổi về quan hệ ruộng đất cũng đã tạo ra cơ sở và động lực cho sự tự chủ của người nông dân. Đồng thời cũng là một yếu tố quan trọng vận động theo quá trình phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn hướng giảm dần tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với xu hướng đó là các ngành đều có tốc độ tăng trưởng phù hợp thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, giá trị hàng hóa lớn, trên cơ sở phát triển một nền nông nghiệp thâm canh và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Thực hiện quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân cũng góp phần quan trọng đối với việc chuyển đổi hình thức hợp tác xã hội kiểu cũ chuyển sang phát triển kinh tế hộ, phù hợp đối với đất đai của sản xuất nông nghiệp, từng bước hình thành hợp tác xã dịch vụ đa dạng trên cơ sở yêu cầu và tự nguyện của nông dân, tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước về nông, lâm nghiệp. Với việc thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân như đã phân tích ở trên, sẽ có nhiều tác dụng: - Khuyến khích các hộ nông dân đầu tư, thâm canh, làm tăng độ phì của đất, khai thác mọi tiềm năng của ruộng đất và làm cho người nông dân gắn bó thân thiết với ruộng đất. - Kích thích phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, thúc đẩy phân công lao động ở nông thôn. Khi công nghiệp và dịch vụ phát triển, nông dân dễ dàng chuyển sang làm nghề khác và tập trung ruộng đất vào những hộ làm tốt việc nhà nông. - Bảo đảm được quyền kiểm soát của nhà nước, đặc biệt là nội dung quản lý nhà nước về đất đai, nghiêm trị những hành vi hủy hoại ruộng đất, qui định chặt chẽ quyền sử dụng đối với đất đai khi xây dựng những công trình có liên quan tới đất đai và ruộng đất canh tác. - Tăng cường vai trò quản lý nhà nước về đất đai để cho người nông dân họ yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, sử dụng ruộng đất có hiệu quả. Kiểm soát nhà nước về thừa kế và sử dụng ruộng đất về tài sản về chuyển nhượng sử dụng đất sẽ hạn chế sự phân hóa và phân chia thành giai cấp đối kháng ở nông thôn. Quan hệ sở hữu nói trên sẽ thúc đẩy sự hình thành hộ nông dân - đơn vị kinh tế tự chủ kinh doanh hàng hóa và hình thức hiệp tác trong sản xuất theo hình thức mới. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực của vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài vẫn còn bộc lộ một số mặt hạn chế: Đó là việc sử dụng ruộng đất chưa cao, qui mô ruộng đất của mỗi hộ nông dân quá nhỏ bé, lại phân bổ không đồng đều giữa các hộ. Đất nông nghiệp của từng hộ quá phân tán, manh mún, cản trở quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn. Bình quân mỗi hộ có từ 9-10 mảnh. Miền núi, trung du phía Bắc bình quân 1 hộ có 15 -20 thửa, mỗi thửa có diện tích từ 150-300m2. Đồng bằng Bắc Bộ bình quân một hộ có 7 thửa cá biệt đến 25 thửa, mỗi thửa có diện tích từ 300 - 400 m2. Khu bốn cũ có từ 7 - 10 thửa, cá biệt có 30 thửa, diện tích từ 300 - 500 m2. Duyên hải miền Trung có từ 5-10 thửa, cá biệt có 30 thửa, diện tích từ 300 - 1000 m2. Tây Nguyên có từ 5 -10 thửa, cá biệt có 10 thửa diện tích từ 200 - 500 m2. Đông Nam Bộ có 4 thửa, cá biệt có 15 thửa và đồng bằng sông Cửu Long có 3 thửa, cá biệt có 10 thửa diện tích từ 3000 - 5000 m2 [28, tr. 25]. Trong khi đó dân số, nhất là số khẩu, số hộ trong nông thôn tăng nhanh, thì ngược lại diện tích lúa nước và rừng ngày càng suy giảm. Nếu tính từ năm 1980 - 1985 đất ruộng lúa mất khoảng 376.000ha, mỗi năm mất khoảng 75.000 ha, chiếm tỷ lệ 1,6%; từ năm 1986 - 1997, mỗi năm còn mất tới 20.000ha, chiếm tỷ lệ 0,5%. Đối với đất rừng, mỗi năm mất đi 445.000ha, chiếm tỷ lệ:4,8%. Những năm gần đây, khi thực hiện Nghị định 02/CP ngày 15/1/1994 (nay là 163/CP) về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, các hộ gia đình, các nhà sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Mặc dù diện tích rừng đã được bổ sung khá nhiều nhưng diện tích rừng vẫn suy giảm nghiêm trọng. Nguyên nhân chủ yếu là do lấy đất nông lâm nghiệp làm giao thông, thủy lợi, mở rộng đô thị, khu công nghiệp... không có quy hoạch, hoặc không theo qui hoạch. Hơn nữa trong quá trình chuyển đổi kinh tế, dưới tác động của nhiều yếu tố đã dẫn đến một số nông dân không có đất và thiếu đất, đặc biệt ở Đồng bằng sông Cửu Long. Nguyên nhân là do các hợp tác xã giải thể, một số hộ nông dân phải trả đất; nhiều hộ vì nhu cầu bức xúc hoặc hoàn cảnh khó khăn nên phải sang nhượng cho người khác. Không ít hộ do thiếu vốn, thiếu kinh nghiệm sản xuất nên làm ăn thất bát phải bán ruộng đi làm thuê. Có những người do lười lao động cờ bạc, rượu chè nên phải bán ruộng. Ở Miền Bắc, thực hiện Nghị định 64/CP, đất đai được chia hết một lần cho những người trực tiếp sản xuất nông nghiệp có mặt tại thời điểm chia, khi chết không rút ra, không chia thêm cho những trường hợp mới sinh, chỉ để lại 5% đất công ích. Trong khi đó dân số mỗi năm tăng thêm hơn 1 triệu người, số người không có công ăn việc làm ở thành phố, cán bộ công nhân viên chức về hưu mất sức cũng đòi có ruộng đất trong khi đất không còn để chia, dẫn đến tình trạng một bộ phận dân cư ở nông thôn không có đất hoặc thiếu đất canh tác. Từ những phân tích trên cho thấy cần phải giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa. Đây là một vấn đề đòi hỏi rất lớn nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu xã hội và sản phẩm nông nghiệp ngày càng tăng với quy mô ruộng đất trong nông nghiệp ngày càng có hạn. Đồng thời giải quyết tốt việc kết hợp phát triển sản xuất nông lâm nghiệp với việc giữ vững cân bằng sinh thái và bảo vệ môi trường, đáp ứng với yêu cầu của cơ chế thị trường, biến động đất đai thành hàng hóa đặc biệt, hình thành thị trường bất động sản. Do vậy, phải nâng cao năng lực hiệu quả quản lý nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý nhà nước về kinh tế và là chủ sở hữu đất đai, đại diện cho sở hữu toàn dân về ruộng đất trong quá trình thực hiện việc cấp giấy chứng nhận và giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân khi triển khai thực hiện Nghị định 64/CP. 1.2. GIAO QUYỀN SỬ DỤNG RUỘNG ĐẤT LÂU DÀI CHO NÔNG DÂN - MỘT CHỦ TRƯƠNG CHÍNH SÁCH LỚN CỦA ĐẢNG TA 1.2.1. Một số chủ trương của Đảng ta về giao quyền sử dụng đất cho nông dân Thực hiện công cuộc đổi mới, từ những năm cuối thập kỷ 80 đến nay, nông nghiệp và nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu nổi bật, góp phần tạo ra những bước chuyển biến quan trọng về kinh tế- xã hội, nhưng cũng đã xuất hiện nhiều thách thức mới về cục diện nông nghiệp và nông thôn. Một trong những thành tựu nổi bật, khởi sắc mới của nông nghiệp nước ta trong thập kỷ vừa qua là sức sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn đã được giải phóng. Từ một nền nông nghiệp công hữu với hai hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu là nông lâm trường quốc doanh và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, với cơ chế quản lý đặc trưng là kế hoạch tập trung quan liêu, mệnh lệnh, hành chính, đang chuyển dần sang nền nông nghiệp gồm nhiều thành phần kinh tế với nhiều hình thức kinh doanh, nhiều cách quản lý theo hướng sản xuất hàng hóa. Nông nghiệp và kinh tế nông thôn có nhịp độ tăng trưởng khá, nhiều vùng nông thôn bước đầu đã đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện. Mức sống về vật chất tăng lên, các điều kiện sinh hoạt như nhà ở, đồ dùng gia đình, kết cấu hạ tầng về giao thông, điện, thủy lợi, y tế, trường học... ở một số nơi phát triển vững mạnh. Những chuyển mình trong đời sống kinh tế - xã hội nông nghiệp - nông thôn nước ta do nhiều nguyên nhân, trong đó có chính sách ruộng đất của Đảng và Nhà nước ta. Bởi ruộng đất là mối quan tâm hàng đầu của người nhân dân. Sự phát triển nông nghiệp - nông thôn trước hết phụ thuộc vào mối quan hệ của người nông dân với ruộng đất và việc sử dụng có hiệu quả ruộng đất. Tách người nông dân ra khỏi ruộng đất, làm cho họ không gắn bó với đất đai đã dẫn đến nông nghiệp - nông thôn nước ta vào con đường trì trệ, chậm phát triển. Ngay sau ngày Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng và Nhà nước ta đã tổ chức triển khai trên thực tế mục tiêu cương lĩnh "Dân cày có ruộng". Năm 1955-1956, cải cách ruộng đất đã mang lại quyền và lợi ích cơ bản cho nông dân nói riêng, nhân dân lao động nói chung, tạo ra động lực to lớn góp phần vào thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Công cuộc hợp tác hóa và những đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp - nông thôn những năm gần đây, bằng những chính sách đổi mới của Đảng trên mặt trận nông nghiệp, bắt đầu chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, đến Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, Nghị quyết TƯ 5 (khóa VII) đã tạo ra động lực cho nông nghiệp - nông thôn phát triển. Năm 1993, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký lệnh công bố Luật đất đai -đạo luật quan trọng quy định chế độ quản lý và sử dụng đất đai, quyền và nghĩa vụ người sử dụng đất. Đồng thời cũng ra đời sau đó là các văn bản dưới luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bước đầu tạo điều kiện tiền đề cho việc xác lập ruộng đất là một yếu tố quan trọng vận động theo quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, đồng thời là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một trong những chủ trương chính sách lớn điểm Đảng ta là: Nghị định 64/CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về ban hành bản quy định về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân ổn định sử dụng lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp và một số quy định ban hành theo Nghị định 64/CP. - Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ ban hành quy định về giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, các hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp (chủ yếu nghiên cứu hộ gia đình và cá nhân). Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định cho nông dân là một vấn đề lớn trong quan điểm tư tưởng đối mới của Đảng mà Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VII đã khẳng định. Đồng thời cũng là một nội dung cơ bản và quan trọng nhất của chủ trương chung về giao quyền sử dụng đất đai cho người sử dụng mà luật đất đai đã qui định. Thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định, cho nông dân là sự tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa nội dung đổi mới sở hữu trong khu vực kinh tế nông nghiệp nói riêng và nội dung đổi mới sở hữu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói chung. Ở đây quan hệ sở hữu đã được chuyển đổi, đất đai từ sở hữu tập thể đã chuyển sang sở hữu toàn dân. Quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất được tách rời nhau cho hai chủ thể khác nhau. Quyền sở hữu là của nhà nước. Quyền sử dụng giao cho nông dân. Tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa nội dung đổi mới sở hữu trong khu vực kinh tế nông nghiệp là để tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế hộ gia đình, cho tăng cường kinh tế hợp tác, kinh tế tập thể nhằm tạo điều kiện thúc đẩy cho phát triển nông nghiệp nông thôn mới. Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân mà nội dung cốt lõi của nó là để cho người nông dân có toàn quyền sử dụng ruộng đất của mình một cách ổn định lâu dài trong những thời hạn hợp lý nhất định. Trong suốt thời hạn đó người nông dân có toàn quyền sử dụng, quyền hoạt động sản xuất kinh doanh, lao động canh tác trên mảnh đất của mình được giao. Quyền sử dụng ruộng đất lâu dài của người nông dân có nội dung rất phong phú: Đó là quyền sản xuất kinh doanh, đầu tư lao động, vật tư tiền vốn, khoa học kỹ thuật, quyền thâm canh tăng vụ... với mục đích là khai thác nguồn lực đất đai. Bên cạnh quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định của nông dân, Nhà nước còn quy định người nông dân có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê và góp vốn ruộng đất mà mình được giao. Thực chất nội dung của những quyền này là nằm ngay trong nội dung của quyền sử dụng ruộng đất lâu dài ổn định của người nông dân. Bởi vì những quyền này không phải là quyền chi phối trực tiếp đối với ruộng đất, mà nó chỉ chi phối trực tiếp đến quyền sử dụng ruộng đất của người nông dân mà thôi. Điều đó có nghĩa là người nông dân có quyền sử dụng ruộng đất được giao và có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê quyền sử dụng đối với ruộng đất của mình. Khi người nông dân đã thực hiện quyền chuyển đổi, chuyển nhượng thừa kế, thế chấp, cho thuê (quyền sử dụng đất của mình cho người khác), thì những người đó (người chấp nhận sự chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, chế chấp, cho thuê) mới là người có quyền sử dụng ruộng đất ấy. Từ một nước thiếu lương thực, qua 10 năm đổi mới, bằng một số chính sách đất đai phù hợp (Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP...) Đảng đã đưa nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp có gạo xuất khẩu đứng thứ 2 - 3 trên thế giới. Với những kinh nghiệm đó, trong những năm gần đây, vấn đề đất đai liên tục được nghiên cứu và đề cập đến trong các nghị quyết lớn của Đảng và trong hệ thống pháp luật của Nhà nước. Sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nghị quyết Trung ương 4 ban hành tháng 12/1997 đã giành một phần nội dung đáng kể cho vấn đề đất đai với chủ trương "thực hiện chính sách ruộng đất phù hợp với sự phát triển nông nghiệp hàng hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân". Nghị quyết T.Ư 4 đã chỉ ra các chủ trương cụ thể giúp mọi hộ nông dân sản xuất, nông nghiệp có đất sản xuất; khuyến khích khai thác đất hoang, đồi trọc để phát triển các trang trại, bổ sung thể chế để sử dụng và quản lý đất đai có hiệu quả cao. Tháng giêng năm 1998, Chính phủ ra Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg đề ra các biện pháp tích cực đẩy nhanh tốc độ giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nông nghiệp, khuyến khích gắn với việc đổi ruộng thành thành ô thửa lớn. Chỉ thị đã thúc đẩy nhanh quá trình giúp nông dân và nông thôn ổn định và phát triển sản xuất hàng hóa. Thực hiện chỉ thị đó Ngành địa chính đã cùng các địa phương trong cả nước phấn đấu nâng cao được tỷ lệ đất nông nghiệp được cấp giấy chứng nhận lên đến gần 65% trong đó nhiều tỉnh trước đây đã cơ bản hoàn thành công tác này; khoảng 600 xã đổi ruộng để có bình quân số thửa trên một hộ đạt 3-4 thửa. Đồng thời hạn chế được tình trạng nông dân chuyển nhượng trái phép ruộng đất để trở thành đất không có sản xuất; số nông dân nghèo ở các địa phương trọng điểm cũng từng bước được giảm dần. Tháng 10/1998, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết Trung ương 6 (lần 1) về nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 1999, trong đó chỉ ra một số nhiệm vụ quản lý đất đai để ổn định và phát triển kinh tế nông thôn. Tiếp đó Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 06/NQ/TƯ ngày 10-11-1998 về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn cũng như chỉ ra biện pháp khắc phục để đạt các mục tiêu. Trong đó, sự chậm chạp trong đổi mới chính sách đất đai, sự lạc hậu trong các quy định của hệ thống pháp luật đất đai cũng như những khuyết điểm trong việc triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật đó được Đảng ta coi là một trong những nguyên nhân chính cản trở sự phát triển của nông nghiệp và nông thôn. Nghị quyết đã chỉ ra một số chủ trương chính sách lớn. Để khuyến khích phát triển kinh tế hộ Nghị quyết tiếp tục nhắc nhở sớm hoàn thành giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ nông dân trong cả nước. Nghị quyết chỉ thị rà soát, tổ chức lại các nông lâm trường phải giao lại phần đất không sử dụng cho địa phương, để địa phương giao lại cho hộ nông dân sản xuất, không được để sự bất bình đẳng trong sử dụng đất giữa hộ nông lâm trường với hộ nhân dân địa phương sở tại. Bộ Chính trị nêu rõ "Nhà nước qui định giá đất một cách công khai". Nhà nước phải kiểm soát và quản lý chặt chẽ việc tích tụ đất đai, không để quá trình này để diễn ra một cách tự phát làm cho nông dân mất ruộng, trở thành bần cùng. Bộ Chính trị chỉ ra việc kết hợp các biện pháp kinh tế và hành chính để bảo vệ đất canh tác lúa nước, tăng cường khai hoang để mở rộng diện tích trồng lúa nước. Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa X đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật đất đai 1993, tập trung khắc phục những cản trở ách tắc trong quản lý và sử dụng đất đai, mở thêm khả năng cho nông nghiệp và nông dân và các tổ chức cá nhân khác phát huy cao độ nội lực của mình để một mặt tập trung sử dụng đất đai có hiệu quả cao nhất, mặt khác khai phá thêm ngày càng nhiều đất đai hoang hóa, đất trống đồi trọc đưa vào sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, hệ thống chính sách và pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn gần đây, nhất là chủ trương chính sách của Đảng ta về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân đã tạo ra hành lang pháp lý ngày càng phù hợp với nhu cầu khai thác và sử dụng đất đai để phát triển kinh tế-xã hội nói chung, phát triển sự nghiệp công nghiệp hóa và nông thôn nói riêng. 1.2.2. Tác động chủ trương của Đảng về giao quyền sử dụng đất lâu dài để phát triển sản xuất nông nghiệp Hiến pháp năm 1992 và Luật đất đai năm 1993 qui định, đất đai thuộc sở hữu toàn dân và Nhà nước thống nhất quản lý theo qui định chung, nhằm bảo đảm cho đất đai được sử dụng hợp lý và tiết kiệm đồng thời chủ trương của Đảng về giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân để phát triển sản xuất nông nghiệp theo tinh thần của Nghị định 64/CP ban hành ngày 27/9/1993 và Nghị định 02/CP (nay là 163/CP) về giao đất hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp đã thực sự đi vào cuộc sống, tạo ra những chuyển biến tích cực trên mặt trận nông nghiệp. Bởi vì đất đai luôn luôn gắn bó với người nông dân đầu tư xa xưa, là vấn đề mọi thời đại quan tâm. Ngày nay trong quá trình chuyển sang cơ chế mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước thì đất đai lại càng có vị trí quan trọng. Do đó với chủ trương này và quá trình hoàn thiện việc giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân và các thành phần kinh tế có điều kiện để khai thác đất đai ngày càng có hiệu quả. Trước thời kỳ Đảng ta thực hiện công cuộc đổi mới (từ năm 1986 trở về trước) hộ gia đình chưa được coi là đối tượng trực tiếp giao đất, giao rừng, mà đất có rừng và các loại đất canh tác đều được giao cho các lâm trường quốc doanh và hợp tác xã quản lý. Do những yếu kém về công tác quản lý của các lâm trường quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp, nên trong một thời gian dài đất đai không được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Từ năm 1987 theo tinh thần đổi mới cơ chế quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước, vấn đề giao đất, giao rừng cho hộ nông dân được bước đầu thực hiện. Đến khi có Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị về "khoán hộ", đã khẳng định việc giao đất canh tác cho các hộ xã viên là hợp lý, đồng thời đưa ra các phương thức sử dụng đất đai khoán thầu và đấu thầu... Nghị quyết đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, tạo ra những bước chuyển biến tích cực trên mặt trận nông nghiệp. Việc thừa nhận hộ nông dân là đơn vị tự chủ, được trao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, khiến cho kinh tế hộ nông dân trở thành nhân tố giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển sản xuất nông sản và nông thôn. Điều này có mặt tích cực, đất đai đã có người chủ cụ thể, trực tiếp - đó là các hộ gia đình nông dân. Từ đó làm cho kinh tế của từng hộ có tư cách pháp nhân, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh trên ruộng đất của mình. Nó là động lực kích thích các hộ nông dân đầu tư sức người, sức của để thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, khai hoang tăng vụ, phát triển ngành nghề trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Nó làm cho vị trí người nông dân từ chỗ lao động một cách thụ động theo sự quản lý, điều hành của hợp tác xã, trở thành người vừa tham gia lao động sản xuất, vừa là người tổ chức quản lý quá trình sản xuất của mình. Chính sách ruộng đất bước đầu đã phân định rõ vai trò và trách nhiệm của nhà nước, xóa bỏ dần việc nhà nước hóa trong hoạt động sản xuất kinh doanh có liên quan đến ruộng đất. Cũng từ đó mà tăng cường quyền tối cao của nhà nước pháp quyền về quản lý đất đai, bảo hộ tài nguyên đất đai, bảo đảm ruộng đất được sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn. Việc giao quyền sử dụng cho các hộ nông dân và xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ đã từng bước khơi dậy tính năng động giải phóng sức sản xuất, khôi phục sự gắn bó lâu đời giữa người làm ruộng với ruộng đồng, giữa người lao động với tư liệu sản xuất, từng bước họ vươn lên làm chủ cuộc sống, góp phần vào thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự biến đổi trong quan hệ ruộng đất cũng tạo ra được cơ sở và động lực cho sự tự chủ của người nông dân, trên cơ sở đó góp phần dân chủ hóa đời sống kinh tế-xã hội ở nông thôn, xây dựng nông thôn mới. Sự biến đổi quan hệ ruộng đất trong những năm gần đây đã được quy định trong luật đất đai và các văn bản dưới luật có liên quan là cơ sở pháp lý, bắt đầu tạo điều kiện tiền đề cho việc xác lập ruộng đất là một yếu tố rất quan trọng vận động theo quá trình phát triển sản xuất hàng hóa, đồng thời là cơ sở quan trọng cho việc thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng giảm tỷ trọng nông lâm ngư nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu kinh tế nông thôn. Cùng với xu hướng đó là các ngành đều có tốc độ tăng trưởng phù hợp, thực hiện chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng mở rộng và tăng diện tích đất trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao, giá trị hàng hóa lớn, trên cơ sở một nền nông nghiệp thâm canh và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Việc thực hiện chính sách chủ trương giao đất giao rừng của Đảng và Nhà nước ta cũng góp phần quan trọng trong việc chuyển đổi hình thức hợp tác xã kiểu cũ chuyển sang phát triển kinh tế hộ, phù hợp với đất đai của sản xuất nông nghiệp, từng bước hình thành hợp tác xã dịch vụ đa dạng trên cơ sở yêu cầu và tự nguyện của nông dân, tác động mạnh mẽ đến việc đổi mới nội dung phương thức hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước về nông, lâm nghiệp. Từ khi thực hiện chủ trương chính sách giao quyền sử dụng ruộng đất (27/9/1993) và Nghị định 02/CP giao đất vào mục đích lâm nghiệp cho các tổ chức và hộ gia đình, cá nhân, nhìn chung nông dân phấn khởi, yên tâm đầu tư phát triển sản xuất, sử dụng ruộng đất có hiệu quả hơn, mặt khác khắc phục dần tình trạng bất hợp lý trong quan hệ ruộng đất, phát hiện và từng bước giải quyết những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, chiếm đoạt đất đai, giao đất bất hợp lý. Tuy nhiên, từ khi thực hiện chủ trương này, bên cạnh những mặt tác động tích cực, còn những mặt hạn chế nảy sinh. Nghị quyết Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 6 (lần 1) đã nêu: "Luật đất đai 1993 sau 5 năm thực hiện bên cạnh những mặt tích cực, đã bộc lộ một số điểm chưa thật phù hợp, chưa đủ cụ thể để xử lý những vấn đề mới phát sinh, nhất là trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất, làm cho quan hệ về đất đai trong xã hội rất phức tạp, không chỉ về mặt kinh tế mà còn ảnh hưởng đến cả xã hội" [17, tr. 28]. Được thể hiện trên một số mặt: Thứ nhất: Hiệu quả sử dụng ruộng đất chưa cao, được chứng minh từ thực tế là năng suất lúa ở nước ta so với các nước trên thế giới và khu vực còn thấp. Bình quân lúa thời kỳ sau cải cách ruộng đất là: 28,9 tạ/ha, thời kỳ 1960-1981 là 20,1 tạ/ha, thời kỳ 1993-1997 là 37,3-39 tạ/ha. Hiệu quả của một đồng vốn đầu tư vào nông nghiệp ở nước ta 1959 được 1,84 đồng, thời kỳ 1981-1987 được 2,5 đồng, thời kỳ 1994-1997 được 4,54 đồng. Trong khi đó Đài Loan làm ra 15.172 USD, Hà Lan: 16.000 USD. Bình quân 1ha đất nông nghiệp nước ta làm ra được 600USD/năm. Hiện nay năng suất lúa nước ta chỉ bằng 90% Inđônêxia, 60% Trung Quốc và Nhật Bản [53, tr. 24]. Mặt khác, đất lâm nghiệp nước ta còn khoảng 10 triệu ha đất trống, đồi núi trọc đất hoang hóa chưa khai thác. Nhưng trong khi đó lại có 1 triệu hộ nông dân với 6-12 triệu và nhân khẩu sống ở miền núi gặp nhiều khó khăn. Rừng bị tàn phá nặng nề do phát nương, làm rẫy, du canh du cư, đất bị xói mòn, môi trường bị lũng loạn, gây hạn hán, lũ lụt. Chính sách giao khoán, quản lý rừng chưa hợp lý làm cho nhiều nông dân không gắn bó với rừng và không sống được bằng nghề rừng. Thứ hai: Nước ta đất chật, người đông, bình quân diện tích đất tự nhiên thấp, khoảng 0,44ha/người, bình quân đất canh tác 0,08 ha/người, bình quân đất canh tác mỗi hộ nông nghiệp là 0,68ha. Đất đai lại phân bố không đều giữa các vùng, chẳng hạn vùng phía Bắc đất tự nhiên nhiều, nhưng diện tích đất canh tác có hạn, lại bị xói mòn, rửa trôi, điều kiện tự nhiên khó khăn vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ đất rộng, màu mỡ, phần lớn là ruộng đất mới khai hoang có giá trị kinh tế cao. Vùng Đồng bằng Sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long là ._.ảng Bình để góp phần phát triển kinh tế - xã hội của Quảng Bình. Do vậy, để cho nông nghiệp Quảng Bình ngày càng phát triển, thì một trong những yếu tố đầu tiên là khai thác sử dụng đất có hiệu quả, để đất hoang hóa phải có chủ sử dụng của nó lúc đó mới biến đất trở thành hàng hóa. Vì vậy, trong kế hoạch sử dụng đất từ 2001 - 2005 ở Quảng Bình trong thời gian tới được dự tính là: Đất nông nghiệp - lâm nghiệp chuyển qua sử dụng vào mục đích khác là: 2.905,3 ha. Trong đó: Nông nghiệp: 1.311,8 ha; lâm nghiệp 1593,5 ha. Do vậy, việc khai hoang mở rộng diện tích cũng như tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu, khoanh nuôi tái sinh rừng là nhu cầu cấp thiết, nhằm phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an toàn lương thực. Theo dự kiến trong 5 năm tổng diện tích đất khai hoang để phát triển nông - lâm nghiệp là: 22.820,0 ha. Đất nông nghiệp: 5.820 ha Đất lâm nghiệp: 17.000 ha - Đất trồng cây hàng năm: 2.500 ha, trong đó: + Đất trồng lúa: 500 ha + Đất trồng mía nguyên liệu: 2.5000 ha - Đất trồng cây lâu năm: 2.500 ha Trong đó: Đất trồng cao su: 2.000 ha - Đất nuôi trồng thủy sản: 820 ha - Đất trồng rừng: 17.000 ha Bên cạnh đó kế hoạch tăng vụ, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và khoanh nuôi tái sinh rừng; tăng từ 1 vụ lúa lên hai vụ lúa: 300 ha; đất trồng màu lương thực sang trồng cây công nghiệp hàng năm: 4.122,0 ha trong đó chuyển đổi đất trồng mía nguyên liệu: 2.900 ha và khoanh nuôi rừng tái sinh 50.000 ha. Nhìn vào số liệu dự toán khai hoang phục hóa một số diện tích nông - lâm nghiệp để đưa vào sử dụng, không những làm tăng thêm giá trị sản phẩm nông sản trong nông lâm nghiệp. Đáp ứng với yêu cầu chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Mặt khác cũng giúp cho việc điều chỉnh dần tình trạng bất hợp lý trong phân công lao động xã hội hiện nay. Nếu tính bình quân hiện nay đối với tỉnh Quảng Bình, gần 80% lao động tập trung ở khu vực nông thôn, chủ yếu hoạt động trên lĩnh vực nông nghiệp. Theo kết quả điều tra, tình trạng thiếu việc làm diễn ra thường xuyên đối với nông dân, bình quân thời gian dư thừa còn 70%. Bởi vì, do nông nghiệp phát triển thiếu cân đối, chỉ thiên về trồng trọt trong đó tập trung vào cây lúa là chủ yếu. Ngành nghề ở nông thôn về cơ bản chưa có định hướng cụ thể, chưa tìm ra được ngành nghề thích hợp do đó phần lao động vẫn tập trung vào nông nghiệp. Khả năng phát triển công nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở nông thôn cũng rất hạn chế, do nguồn nguyên liệu nhỏ bé về quy mô, phân tán, manh mún. Hầu hết các cơ sở chế biến hiện có tổ chức theo quy mô hộ gia đình, hoạt động có tính chất phục vụ sinh hoạt cho đời sống thường nhật của dân cư, khả năng phát triển thành cơ sở chế biến hàng hóa là rất khó. Chính vì vậy, việc khai khẩn ruộng đất để giao cho hộ nông dân sử dụng, đồng thời tập trung để phân vùng kinh tế trọng điểm là một yêu cầu rất lớn đối với việc giải quyết công ăn việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đồng thời hiện tại đất đai là một vấn đề cấp thiết đối với nhu cầu đời sống của con người trong sinh hoạt. Đáp ứng với yêu cầu tỷ lệ tăng dân số của địa phương. Theo tính toán dân số Quảng Bình năm 2000 là 807.697 người (30/12), tỷ lệ tăng dân số tự nhiên: 15,10%0 (sinh = 19,00%0, chết = 3,9%0). Phấn đấu giảm tỷ suất hàng năm để đến năm 2005 có tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 1,2% như mục tiêu Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XII, nhiệm kỳ 2001 - 2005 đã đề ra. Chính vì thế, khai khẩn đất đai để giải quyết lao động việc làm, phát triển nông nghiệp hàng hóa là một việc làm hết sức quan trọng đối với tỉnh nhà. Bên cạnh đó, việc sắp xếp lao động lại những nơi dân đông dân cư, cần phải đưa một bộ phận dân cư và lao động đi khai thác những vùng đất mới: Cụ thể ở Quảng Bình đang thực hiện mô hình làng thanh niên An Mã, đi xây dựng vùng kinh tế mới, phát triển vùng gò đồi phía tây huyện Lệ Thủy do tỉnh đoàn Quảng Bình đảm nhiệm đang phát triển tốt ở vùng đất mới. Hiện nay ở nhiều địa phương trong tỉnh đang tình trạng đất chật, người đông, song tập quán của người nông dân vẫn muốn quây quần trong những lũy tre làng, không muốn rời bỏ quê hương đi làm ăn sinh sống nơi khác. Do đó muốn bố trí một lực lượng dân cư và lao động đến những vùng đất mới, trước hết cấp ủy Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp phải mở cuộc vận động để người dân hiểu được việc này là tốt đẹp. Vừa phân bổ lại vùng dân cư trong toàn tỉnh, vừa mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho địa phương và cho mỗi gia đình. Đồng thời tỉnh phải quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho những vùng đất mới, như làm đường sá, trường học, trạm y tế, công trình thủy lợi, điện thắp sáng v.v... Có cơ chế chính sách đối với người đi xây dựng vùng đất mới như cho vay vốn, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi, miễn thuế một hai năm đầu cho những đất đai mới khai hoang, tạo đời sống dân cư được ổn định. Trong tình hình hiện nay, muốn tổ chức điều, chuyển một bộ phận dân cư và lao động nơi đông dân đến vùng đất mới thắng lợi. Ngoài việc quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện một số chính sách ưu đãi, tỉnh cần phải có quy hoạch những vùng dân cư dựa trên cơ sở đất đai để phát triển ngành nghề phù hợp. Đồng thời tỉnh phải có cơ quan chuyên trách theo dõi giúp đỡ những vùng đất mới từ khâu tổ chức, quản lý đến việc định hướng sản xuất tập trung theo vùng kinh tế hàng hóa, giải quyết khâu tiêu thụ sản phẩm, cung cấp vật tư cho sản xuất, nâng cao đời sống cho dân cư ở khu đất mới, biến những vùng đồi núi hoang vắng trở thành những tụ điểm dân cư ngày càng sầm uất, để thu hút thêm lao động ở vùng đồng bằng lên khai phá vùng sâu, vùng xa của tỉnh. Nói tóm lại, công tác khai hoang phục hóa để thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân là một trong những giải pháp quan trọng, nó vừa giải quyết trực tiếp trước mắt về khai thác tiềm năng sử dụng đất, vừa giải quyết công ăn việc làm cho xã hội; vừa thực hiện được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh đề ra từ 2001 - 2010. 3.2.4. Hoàn thiện các chính sách nhà nước liên quan đến sử dụng đất đai để thực hiện tốt giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân Trước hết, phải thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần trong nông nghiệp. Thực chất là giải phóng mọi năng lực sản xuất, huy động mọi nguồn lực trong nông nghiệp, nông thôn để đạt được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững. Từ thực tiễn trong nông nghiệp ở Quảng Bình, việc khẳng định sự tồn tại và phát triển kinh tế nhiều thành phần trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, để tạo ra khả năng huy động nguồn lực tại chỗ, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Kinh tế hộ nông dân là đơn vị tự chủ đã khơi dậy đức tính cần cù, sáng tạo của người nông dân, tạo ra tính năng động của kinh tế hộ và hiện đang chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu các thành phần kinh tế. Việc nhận thức nhiều thành phần kinh tế và đa dạng hóa các hình thức sở hữu để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai phải bằng việc khuyến khích và bảo đảm sự bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, mọi hình thức sở hữu trong nông nghiệp, hướng họ mạnh dạn đầu tư để phát triển những ngành, lĩnh vực hoặc sản phẩm mà họ có tiềm năng và có đủ điều kiện để phát triển, không nên phân biệt đối xử dù dưới hình thức nào; cần phải: + Tổng kết các loại hình tổ chức kinh tế hợp tác. Tổng kết đánh giá tình hình phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã từ khi có Chỉ thị 68TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) và luật hợp tác xã. Chuyển đổi các hợp tác xã đủ điều kiện thì cho giải thể giải quyết tồn tại tại vướng mắc, tạo tiền đề cho việc thành lập mới cho hợp tác xã và kinh tế hợp tác kiểu mới phù hợp với tình hình trong giai đoạn hiện nay, vươn lên phục vụ đắc lực cho kinh tế hộ nông dân. + Tổng kết mô hình kinh tế trang trại, mạnh dạn giao đất, giao rừng khuyến khích phát triển kinh tế trang trại, hình thành các doanh nghiệp tư nhân sản xuất và chế biến hàng hóa nông phẩm. + Tăng cường vai trò của kinh tế nhà nước trong nông nghiệp: Xác định kinh tế nhà nước trước hết phải làm tốt dịch vụ đầu vào, đầu ra cho sản xuất nông nghiệp, nhất là các doanh nghiệp đóng trên địa bàn nông thôn phải có trách nhiệm hỗ trợ giúp đỡ và xây dựng mối liên kết với kinh tế hợp tác và hợp tác xã. Đồng thời làm tốt vai trò là đỡ cho nông nghiệp, nông thôn. + Khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp phát triển kinh tế trang trại, khai thác, sử dụng các loại đất trống, đòi trọc, để phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn trên cơ sở bảo đảm sự bình đẳng thật sự giữa các thành phần kinh tế. Hai là, phải thực hiện tốt chính sách ruộng đất: Trong hệ thống các biện pháp và chính sách đối với nông nghiệp, trọng tâm của vấn đề là người nông dân, nếu họ thiếu chủ động, không được giao quyền tự chủ, không có động lực sản xuất thì tất cả các hệ thống, các biện pháp khác đều kém hiệu quả, mà phát huy quyền tự chủ của nông dân ở khâu cơ bản nhất trong chính sách nông nghiệp là giải quyết tốt vấn đề ruộng đất. + Khẩn trương thực hiện việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài cho nông dân theo luật định với đầy đủ 5 quyền: Chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê. Để làm tốt việc giao đất cần hoàn chỉnh việc quy hoạch sử dụng đất đai (đất nông - lâm nghiệp) và quy hoạch ổn định khu dân cư, nhất là vùng đi xây dựng kinh tế mới. + Từng bước xác lập và hình thành hệ thống thị trường, tạo điều kiện cho quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất là tiền đề quan trọng để nông nghiệp chuyển sang sản xuất hàng hóa, tạo thế phân công lao động mới trong nông thôn. Quá trình vận động của cơ chế thị trường tất yếu diễn ra sự phân hóa của những người sử dụng đất. Một số hộ giàu lên nhờ biết kinh doanh ruộng đất. Một số hộ khác do có nghề sẽ chuyển sang kinh doanh công nghiệp, dịch vụ có lợi hơn nên đã giải phóng ra khỏi ruộng đất để kinh doanh chuyên nghề. Một số hộ thật sự không có năng lực để làm chủ và kinh doanh ruộng đất sẽ có thể trở thành người làm thuê và bắt buộc chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người khác sử dụng có hiệu quả hơn. Bản thân những hộ này không có kinh nghiệm sản xuất, làm ăn thua lỗ, chuyển sang làm thuê có thu nhập cao hơn, ổn định hơn. Sự chuyển dịch này là khách quan. Xét về mặt thuần túy kinh tế là có lợi. Đương nhiên chúng ta không khuyến khích xu hướng này, mà phải tạo điều kiện cho các tầng lớp dân cư vươn lên làm giàu cho bản thân và xã hội bằng các ngành nghề phi nông nghiệp và các chương trình xóa đói giảm nghèo. - Đối với những vùng đất mới (đất trống, đồi trọc) cần có chính sách khuyến khích mạnh để nông dân đầu tư vào sản xuất. Ở những vùng này không nên giới hạn quy mô sử dụng đất, không phân biệt các thành phần kinh tế, được phép mở trang trại và có chính sách miễn giảm thuế. Đây là giải pháp để nhanh chóng phủ xanh đất trống, đồi trọc, khai hoang, phục hóa đưa vào sản xuất. Chính sách đối với đất canh tác và thổ cư, cần giải quyết theo hướng đa dạng hóa các hình thức sở hữu, được tự do chuyển nhượng, thông qua quan hệ cung cầu trên thị trường có sự quản lý nhà nước. - Điểm quan trọng cần xử lý, quy định rõ hơn trách nhiệm của người sử dụng đã cải tạo, nâng cao năng suất đất đai. Nghiên cứu ban hành sớm các chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm nhờ kết quả đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng của nhà nước vì phần này không phải do người lao động tạo ra. Việc quản lý nhà nước về đất đai nên tập trung vào quản lý quy hoạch chung. Sớm khắc phục tình trạng tranh chấp đất đai diễn ra phổ biến như hiện nay. Ba là, chính sách thuế đối với nông nghiệp cần được cụ thể hóa vận dụng phù hợp nhằm mục tiêu chủ yếu là khuyến khích mọi thành phần kinh tế khai thác tối đa mọi năng lực sản xuất trong nông nghiệp, phát triển ngành nghề, tạo ra nhiều việc làm, chuyển nông thôn, nông nghiệp đi vào sản xuất hàng hóa. Thuế sử dụng đất nông nghiệp có nhiều tiến bộ so với thuế nông nghiệp trước đây, song so với yêu cầu sản xuất hàng hóa nông sản thì cần hoàn thiện các mặt sau: + Phương pháp tính thuế đã được thay đổi, nhưng chưa xóa bỏ được sự lệ thuộc vào cách tính hiện vật, chưa phù hợp với cách tính thuế đất trong cơ chế thị trường. Vì vậy, việc quy định cơ sở tính thuế bằng từng hạng đất nên thay lại cơ sở tính thuế sử dụng đất nông nghiệp theo giá đất và theo thuế suất. Việc tính thuế đất nông nghiệp theo giá đất sẽ tạo điều kiện đánh giá đúng giá trị kinh tế của đất đối với các vị trí, điều kiện tự nhiên và lợi thế của từng loại đất, đồng thời sẽ tác động thúc đẩy quá trình hình thành thị trường đất đai. + Nhằm khuyến khích nông dân đầu tư thâm canh và cải tạo đồng ruộng, có thể áp dụng chế độ miễn giảm thuế đối với những hộ tự bỏ vốn cải tạo và xây dựng đồng ruộng, mức giảm và miễn thuế bằng giá trị vốn mà họ bỏ ra để đầu tư, giảm thuế đối với các vùng cây, con gặp rủi ro khi giá thị trường biến động. Có thể áp dụng việc tính thuế bổ sung đối với các hộ sử dụng đất vượt hạn điền, nhưng đúng mục đích vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. + Việc giảm các loại thuế này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến ngân sách nhà nước, trái lại nó kích thích mở rộng sản xuất phát triển nguồn thu vào ngân sách nhà nước và củng cố mối quan hệ nhà nước với nông dân. Ngoài ra cần bác bỏ hoàn toàn các khoản thu bất hợp lý đối với nông dân và thực hiện đúng Luật ngân sách nhà nước mới ban hành tháng 3/1996. Do đó việc sử dụng đất nông nghiệp ở Quảng Bình vào tổ chức nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa, theo chiều sâu với mục tiêu: nâng cao tiềm lực, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, tiềm lực, hiệu quả đất nông nghiệp cần chọn giải pháp: phát huy đúng vai trò, giá trị các chủ thể sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần theo nguyên tắc: bố trí ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh nông nghiệp đúng với thế mạnh của mỗi chủ thể. 3.2.5. Tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với quyền sử dụng đất nông - lâm nghiệp Quản lý nhà nước về đất đai nói chung, đất lâm nghiệp nói riêng, những năm qua chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế. Trước hết là công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất. Quy hoạch tiến hành thường chậm, khi có quy hoạch thì việc công khai bị thiếu rộng rãi. Ở nhiều vùng nông thôn, kế hoạch sử dụng đất chưa được xây dựng, nhiều hộ nông dân sử dụng ruộng đất hầu như chỉ dựa vào tập quán và kinh nghiệm và canh tác của bản thân, việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sử dụng ruộng đất có rất nhiều hạn chế. Việc kiểm kê, đăng ký đất đai và lập sổ địa chính, địa phương chưa được tiến hành thường xuyên, đồng bộ; việc kiểm soát và điều tiết thị trường đất đai còn buông lỏng; chính sách thuế còn những vấn đề xem xét, bổ sung... Để tăng cường quản lý nhà nước về đất đai cần tập trung vào một số giải pháp: - Tổ chức thực hiện tốt về công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nói chung, đất nông lâm nghiệp nói riêng. Đây là một nội dung quan trọng trong 7 nội dung quản lý nhà nước về đất đai mà các cấp chính quyền phải thực hiện, nhưng thực tế còn nhiều hạn chế. Công tác quy hoạch sử dụng đất là căn cứ, cơ sở khoa học để quản lý, sử dụng đất có hiệu quả, nếu không sẽ dẫn đến tình trạng tùy tiện, tài nguyên đất bị thất thoát, phá vỡ quy hoạch của đất nước. Làm ảnh hưởng và gây hậu quả không tốt tới chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh từ 2001 - 2010. Để thực hiện tốt vấn đề này, hiện nay tỉnh đã có kế hoạch chỉ đạo Sở địa chính và các ban ngành có liên quan ở các cấp huyện, thị xã trong toàn tỉnh, giúp đỡ để thực hiện tốt công tác điều tra khảo sát đo đạc lập bản đồ địa chính và quản lý hồ sơ địa chính. Đồng thời phải có kế hoạch quản lý, bảo quản khai thác tốt các hồ sơ, bởi đây là tài sản của nhà nước, là công cụ để quản lý nhà nước về đất đai. Nhưng trên thực tế, các xã phường, huyện thị còn chưa quan tâm đến công tác này, gây thất thoát tài liệu và chưa sử dụng có hiệu quả, chưa có quy trình quản lý, bảo quản sử dụng thống nhất hồ sơ và tài liệu địa chính. Bên cạnh đó ở cấp xã, phường cán bộ địa chính thường không ổn định, mỗi lần thay đổi thường không bàn giao tài liệu đầy đủ, để thất thoát, lưu lạc, chưa có sự đầu tư cho công việc bảo quản hồ sơ sổ sách địa chính... Vì vậy, cần có quy định thống nhất trong việc quản lý hồ sơ địa chính nghiêm ngặt, xem đó như tài sản quý giá, trách nhiệm của mỗi cấp chính quyền phải tổ chức thực hiện tốt. - Phân công, phân cấp quản lý đất đai trong quá trình thực hiện còn nhiều vấn đề đặt ra cần sớm được chấn chỉnh: Thẩm quyền chưa rõ, còn nhiều vướng mắc trong quản lý, chấp hành luật pháp chưa nghiêm, chưa triệt để, còn thiếu điều kiện để thực hiện. Việc thực hiện chế độ báo cáo chưa nghiêm, nặng hình thức, chưa nói thẳng, nói thật, che dấu khuyết điểm. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã, phường báo cáo hội đồng nhân dân cùng cấp chỉ là hình thức, chưa có điều khoản pháp lý nào quy định rõ chế độ, trách nhiệm việc thi hành hoặc vi phạm, xử lý vi phạm đối với người quản lý. Điều đó dẫn đến buông lỏng quản lý đất đai, tạo kẽ hở cho việc vi phạm pháp luật như giao đất, cấp đất sai thẩm quyền, thu tiền sử dụng đất, thu hồi đất, cấp giấy chứng nhận... không đúng thẩm quyền. Đẩy mạnh thanh tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ về quản lý sử dụng đất. Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức việc thanh tra đất đai trong cả nước; Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức việc thanh tra đất đai trong địa phương mình nhằm phát hiện kịp thời các vi phạm, các bất hợp lý, trong quá trình phân phối và sử dụng đất. Đồng thời xác định giải quyết việc tranh chấp đất đai với ý nghĩa là nội dung của chế độ quản lý nhà nước đối với đất đai là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm giải quyết các bất đồng mâu thuẫn giữa các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân với nhau, tìm ra các giải pháp đúng đắn trên cơ sở của pháp luật nhằm phục hồi lại các quyền lợi bị xâm phạm, đồng thời truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với hành vi vi phạm pháp luật. - Chấn chỉnh tổ chức bộ máy và công tác cán bộ của các cơ quan quản lý về đất đai. Để thực hiện tốt các nội dung quản lý về đất đai, cần có bộ máy gọn nhẹ, đủ hiệu lực để làm việc có hiệu quả. Đối với cấp tỉnh, Sở Địa chính là cơ quan tham mưu cho ủy ban nhân dân tỉnh về công tác địa chính với bộ máy hiện nay có thể phát huy hết vai trò của mình. Tuy nhiên bộ máy làm công tác địa chính ở các huyện, thị chưa được củng cố, hoàn thiện, chưa thống nhất và đồng bộ, còn yếu và thiếu. Thậm chí hiện nay một số huyện, thị còn hạn chế về chuyên môn, thiếu kinh nghiệm trong quản lý, chưa có cán bộ đại học chuyên ngành. Cần có chính sách phù hợp để nâng cao hiểu biết chuyên môn nghiệp vụ cho số cán bộ này; hàng năm cần có kế hoạch đào tạo mới, bổ sung đội ngũ có trình độ quản lý chuyên môn hoặc cho đi đào tạo để nâng cao năng lực làm việc. Tránh những trường hợp không đào tạo cơ bản, không đủ sức đảm nhiệm được nhiệm vụ tham mưu cho chính quyền địa phương về quản lý sử dụng đất đai, dẫn đến vi phạm pháp luật. Mặt khác chưa có chính sách cụ thể quy chế bổ nhiệm, điều động, chính sách thỏa đáng, chế độ trả lương phù hợp để đội ngũ này yên tâm công tác, vươn lên học tập để hoàn thành nhiệm vụ. Bên cạnh đó cần kiên quyết đưa ra khỏi ngành những cán bộ không đủ phẩm chất, năng lực, vi phạm pháp luật, làm trong sạch và nâng cao năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ làm công tác địa chính. KẾT LUẬN Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện của Đảng, từ Đại hội VI đến nay, đất nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Kinh tế tăng trưởng chính trị ổn định, an ninh - quốc phòng được củng cố vững chắc, đời sống các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện. Niềm tin của quần chúng nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ngày càng được củng cố. Song cũng còn nhiều vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong đó có vấn đề giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định lâu dài cho nông dân. Luật đất đai 1993 và các văn bản dưới luật của Chính phủ đã giải quyết nhiều vấn đề vướng mắc trong quan hệ ruộng đất, từng bước giải quyết tốt các quyền của người sử dụng. Việc thực hiện đúng đắn đối với Nghị định 64/CP và 02/CP và các chính sách kinh tế - xã hội khác của Nhà nước đã góp phần thúc đẩy việc thi hành luật, làm cho người sử dụng đất gắn bó với đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất, đưa công tác quản lý đất đai từng bước đi vào nề nếp kỷ cương, đúng pháp luật, quan hệ đất đai chuyển dịch phù hợp với cơ chế thị trường, đất đai đang dần dần trở thành hàng hóa - hàng hóa đặc biệt. Từ nghiên cứu đề tài: "Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân để phát triển nông nghiệp hàng hóa ở Quảng bình" có thể rút ra một số kết luận: 1. Quảng Bình là một tỉnh có điều kiện tự nhiên khá phong phú, đa dạng trong những năm qua nhân dân Quảng Bình đã đầu tư nhiều công sức, tiền của để khai thác đất đai có hiệu quả, làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng đổi mới. Đặc biệt từ sau khi có chính sách của Đảng và Nhà nước giao đất, giao rừng cho hộ nông dân quản lý, sử dụng, thì đất đai càng được khai thác có hiệu quả hơn. 2. Khi chuyển sang cơ chế thị trường đất đai nông nghiệp càng có giá trị, đất đai cùng với lao động là cơ sở để phát triển kinh tế hàng hóa, đem lại nhiều lợi ích cho người lao động. Chính vì thế nông nghiệp càng có điều kiện phát triển. Trên địa bàn của tỉnh đã xuất hiện nhiều mô hình kinh tế làm ăn giỏi, đó là những hộ nông dân dám mạnh dạn nhận khoán đất hoang hóa, cằn cỗi để phát triển kinh tế trang trại, với nhiều hình thức kinh doanh đa dạng theo điều kiện tự nhiên của từng vùng. Có những trang trại đã biết tận dụng khai thác đất nông nghiệp đúng hướng có hiệu quả, thu lợi nhuận cao cho các hộ nông dân. Đặc biệt là quá trình đầu tư thâm canh trên những mảnh ruộng mà họ được giao. 3. Từ thực tiễn nghiên cứu để có thể khai thác, sử dụng tốt hơn tiềm năng đất đai khi được giao quyền sử dụng ruộng đất, cần phải nghiên cứu cho phù hợp: - Khi thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất giao cho hộ nông dân ở Quảng Bình là do quan niệm bình quân nên ruộng đất bị xé lẻ, manh mún rất khó cho việc đầu tư sản xuất theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Hiện nay việc dồn đổi ruộng đất ở nhiều cơ sở của tỉnh đang gặp khó khăn. Vì vậy, nên có chủ trương dồn đổi ruộng giữa các hộ nông dân, tỉnh làm điểm một số vùng để nhân rộng, để từ đó thúc đẩy nông nghiệp trở thành hàng hóa. - Ruộng đất vẫn chưa được khai thác có hiệu quả, nhiều hộ nông dân do thiếu lao động, tư liệu sản xuất, thiếu vốn, tri thức có hạn nên vẫn làm theo lối quảng canh. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất chưa trở thành phổ biến; nhiều hộ nông dân, kể cả lãnh đạo cơ sở chưa đổi mới cách nghĩ, cách làm, nên hạn chế đến khả năng khai thác sử dụng đất. - Trên địa bàn tỉnh vấn đề tiêu thụ sản phẩm còn gặp khó khăn, nên không khuyến khích nông nghiệp phát triển. Giá cả hàng hóa nông nghiệp so với một số hàng hóa công nghiệp, hàng hóa phục vụ cho nông nghiệp. 4. Khi thực hiện giao quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân, phải chủ trương động viên họ, khuyến khích họ để họ khai thác sử dụng đất đai có hiệu quả mới tác động mạnh đến việc sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp. Cần có những giải pháp đồng bộ như: quy hoạch đất đai phù hợp với phân vùng kinh tế, bố trí cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện tự nhiên trên địa bàn toàn tỉnh; góp phần phân công lại lao động nông nghiệp, nông thôn, giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dư thừa trong nông thôn, góp phần ổn định phát triển nông nghiệp bền vững, bảo đảm môi trường sinh thái, tạo điều kiện cho nông nghiệp hàng hóa phát triển. Tóm lại, sau khi nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy với khả năng và tầm nhìn có hạn, luận văn chưa thể lý giải hết về điều kiện đất đai nông nghiệp ở tỉnh. Những giải pháp đưa ra mới chỉ khái quát được vấn đề chung nhất, chưa phân tích được khó khăn và thuận lợi của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội để có biện pháp cụ thể giải quyết từng vùng. Vì vậy, với những kết quả ban đầu sẽ giúp cho công tác nghiên cứu tiếp theo của tỉnh có thêm cơ sở lý luận và thực tiễn để đi vào từng chuyên đề và hoạch định những chính sách. Đặc biệt là chủ trương giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân, để khai thác tiềm năng đất đai của Quảng Bình, phục vụ cho nông nghiệp phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Ban tư tưởng - Văn hóa Trung ương (1993), Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chi cục kiểm lâm Quảng Bình, Báo cáo tổng kết giao đất lâm nghiệp theo Nghị định 02/CP của Chính phủ. Nguyễn Sinh Cúc (1991), Nông nghiệp, nông thôn thực trạng và giải pháp, Nxb Thống kê. Cục thống kê Quảng Bình (2001), Niên giám thống kê năm 2000 tỉnh Quảng Bình, Nxb Thống kê, Hà Nội. Lê Duẩn (1981), Về quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. Bùi Huy Đáng - Nguyễn Điền (1998), Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Hội nghị lần thứ 2, Ban chấp hành Trung ương khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Một số Văn kiện của Đảng về phát triển nông nghiệp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ - khóa VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết của Bộ Chính trị về một số phát triển nông nghiệp và nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 (lần 1) Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Đề tài KX-08-02, Chính sách ruộng đất ở nô ng thôn. Nguyễn Điền (1998), "Một số vấn đề về ruộng đất trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp", Nghiên cứu kinh tế, (11). Trần Đức (1998), Mô hình kinh tế trang trại vùng đồi núi, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. Hội khoa học kinh tế Việt Nam (1999), Về chính sách đất đai hiện nay ở nông thôn, Hà Nội. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Trung tâm Thông tin tư liệu (3/1993), Vấn đề nông dân, nông thôn và nông nghiệp trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta, Tài liệu tham khảo. Nguyễn Đình Kháng - Vũ Văn Phúc (2000), Một số vấn đề lý luận của Mác và Lênin về địa tô, ruộng đất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I.Lênin (1975), Toàn tập, tập 5, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. Luật đất đai năm 1993 (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Luật đất đai (sửa đổi) 1998 (1998), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bùi Danh Lưu (1999), "Tiềm năng đất đai - Nguồn nội lực quan trọng", Tạp chí Cộng sản, (5), tr. 25. C. Mác (1963), Tư bản, quyển 1, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. C. Mác (1963), Tư bản, quyển 3, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 25, phần 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác (1971), Tư bản, "Góp phần phê nphán chính trị kinh tế học", Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nghị định 64-CP, ngày 27/9/1993, của Chính phủ Về việc giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích sản xuất nông nghiệp. Nghị định 02/CP, ngày 15/01/1994 của Chính phủ Về việc giao đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài vào mục đích lâm nghiệp. Vũ Oanh (1998), Nông nghiệp và nông thôn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hợp tác hóa, dân chủ hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Quảng Bình thời kỳ 1990 - 2000 xây dựng và phát triển (2000), Nxb Thống kê, Hà Nội. Dương Trung Quốc (2002), "Nhớ lời Bác dạy", Tạp chí Cộng sản, (14), tr. 27. Bùi Xuân Sơn (18/01/2000), "Chính sách đất đai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp - nông thôn", Báo Nhân dân. Sở địa chính Quảng Bình, Báo cáo tổng kết 1997. Sở địa chính Quảng Bình, Báo cáo tổng kết 1998. Sở địa chính Quảng Bình, Báo cáo tổng kết 1999. Sở Địa chính Quảng Bình (2000), Các văn bản mới quy định về quản lý đất đai của UBND tỉnh và hướng dẫn của ngành trong lĩnh vực giao đất và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tập II. Sở địa chính Quảng Bình (4/2000), Báo cáo tổng kết việc giao đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp theo tinh thần Chỉ thị số 10/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn Quảng Bình, Báo cáo tổng kết năm 1997, 1998, 1999, 2000. Lê Đình Thắng (1998), "Vấn đề quan hệ ruộng đất trong nông nghiệp - Thực trạng và giải pháp", Nghiên cứu kinh tế, (2), tr. 24. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (1/2000), Kế hoạch sử dụng đất đai 5 năm (2001 - 2005) tỉnh Quảng Bình. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (9/2000), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2001 - 2010. Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XIII (2001). PGS.PTS Hoàng Việt (1999), Vấn đề ruộng đất trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Vinh (1997), Nông nghiệp Việt Nam trong bước chuyển sang kinh tế thị trường, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS75.DOC
  • docDECUON~1.DOC
  • docMUCLUC~2.DOC
  • docTOMTAT~1.DOC
Tài liệu liên quan