Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại trong điều kiện hiện nay

Mục lục Lời mở đầu. .................................................................................................. 5 Chương I: Tổng quan về gian lận thương mại ......................................... 8 I. GLTM, các hinh thức GLTM:................................................................ 8 1. Gian lận thương mại:................................................................................. 8 2. Sự cần thiết phải xác định một tội danh - tội GLTM:............................. 1

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại trong điều kiện hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
0 3. Các hình thức GLTM: ............................................................................. 11 II. Mối quan hệ giữa buôn lậu và GLTM: .............................................. 14 III. Tác động của GLTM:......................................................................... 15 1. Tác động tới toàn bộ nền KTQD: . ......................................................... 15 2. Tác động tới trật tự an toàn xã hội: ......................................................... 17 3. Tác động đến doanh nghiệp và người tiêu dùng:. ................................... 18 4. Tác động đến sự quản lý của Nhà nước ................................................. 19 Chương II: Thực trạng GLTM ở Việt Nam I. Tình hình GLTM ở Việt Nam: ............................................................. 20 1. Tình hình chung trong cả nước. .............................................................. 20 1.1. Tuyến biên giời Việt - Trung. .............................................................. 21 1.2. Tuyến biên giới Việt - Lào ................................................................... 22 1.3. Tuyến biên giới Tây nam ..................................................................... 22 1.4. Trên tuyến đường Bộ ........................................................................... 23 1.5. Trên tuyến đường Biển - Đảo .............................................................. 25 1.6. Trên tuyến đường hàng không ............................................................. 27 1.7. Tuyến đường Bưu điện......................................................................... 28 1.8. GLTM trong nội địa ............................................................................. 28 1.9. Đối tượng tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM....................... 30 1.10. Nhận định chung ................................................................................ 31 2. Thực trạng tại một số cửa khẩu và địa phương. Một số mặt hàng buôn lậu và GLTM phổ biến ...................................................................................... 32 2.1. Thực trạng tại một số cửa khẩu địa phương......................................... 32 2.2. Một số mặt hàng buôn lậu và GLTM phổ biến.................................... 41 II. Nguyên nhân và thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM................... 43 1. Thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM .................................................... 43 1.1. Những thủ đoạn qua đường chính ngạch ............................................. 43 1.2. Những thủ đoạn theo đường không chính ngạch ................................. 48 2. Nguyên nhân của tệ nạn buôn lậu và GLTM .......................................... 51 2.1. Nguyên nhân khách quan ..................................................................... 51 2.2. Nguyên nhân chủ quan......................................................................... 54 III. Chống GLTM - Kết quả và hạn chế ................................................. 57 1. Kết quả đạt được ..................................................................................... 57 2. Hạn chế.................................................................................................... 57 IV. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác chống GLTM.......... 61 1. Thuận lợi ................................................................................................. 61 2. Khó khăn ................................................................................................. 62 Chương III: Một số giải pháp chống GLTM ở Việt Nam ..................... 65 I. Quan điểm về chống GLTM ................................................................. 65 1. Quan điểm pháp chế XHCN ................................................................... 65 2. Quan điểm quần chúng ........................................................................... 66 3. Quan điểm toàn diện và đồng bộ ............................................................ 67 II. Một số giải pháp chống GLTM ở Việt Nam ...................................... 67 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật ................................................................ 67 2. Về kinh tế ................................................................................................ 68 3. Cải cách thủ tục hành chính .................................................................... 68 4. Về tổ chức điều hành............................................................................... 70 5. Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức giác ngộ nâng cao đời sống cho nhân dân ...................................................................................................... 71 6. Tăng cường phối hợp giữa cán bộ ngành trong công tác chống buôn lậu và GLTM.......................................................................................................... 72 7. Xây dựng lực lượng chống buôn lậu và GLTM trong sạch .................... 74 8. Trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho lực lượng chống buôn lậu và GLTM ..................................................................................................................... 75 9. Kiểm tra sau thông quan ......................................................................... 76 10. Đẩy mạnh sản xuất trong nước ............................................................. 76 11. Một số giải pháp cụ thể cần được thực hiện ......................................... 77 III. Kiến nghị ............................................................................................. 80 1. Kiến nghị về xã hội hoá công tác đấu tranh chống GLTM..................... 80 2. Kiến nghị hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống GLTM....................... 81 Kết luận ...................................................................................................... 83 Tài liệu tham khảo .................................................................................... 85 -----o0o----- LỜI NÓI ĐẦU Kinh tế thị trường và những đặc trưng của nó cũng như sự tự do kinh doanh trong kinh tế thị trường đã mở ra những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thúc đẩy quan hệ giao thương buôn bán giữa các quốc gia phát triển một cách mạnh mẽ. Việt Nam là một đất nước phát triển đi lên từ một nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém không đủ điều kiện cần thiết cho nền kinh tế phát triển. Trước tình hình đó Nhà nước ta đã chuyển hướng phát triển kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý điều tiết Vĩ mô của Nhà nước theo định hướng XHCN. Cơ chế kinh tế mở đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong tiến trình hội nhập với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới đồng thời thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Việt Nam có thể nhập máy móc trang thiết bị, nguyên vật liệu... của nước ngoài kết hợp với các yếu tố năng lực sản xuất trong nước để phát triển sản xuất và đáp ứng nhu cầu trong nước. Tuy nhiên do sản xuất trong nước còn nhiều yếu kém các sản phẩm sản xuất phần nhiều có chất lượng thấp, giá thành và chi phí cao, khả năng cạnh tranh của sản phẩm với hàng hoá của nước ngoài thấp do vậy để bảo vệ sản xuất trong nước Nhà nước phải đặt ra hàng rào thuế quan. Mặt trái của chính sách này là làm cho tệ nạn buôn lậu và GLTM diễn ra một cách tràn lan ở hầu khắp các cửa khẩu, địa phương trong cả nước. Trước tình hình này ở nước ta đang đặt ra những vấn đề hết sức nóng bỏng và phức tạp. ở đây trên tuyến đường nào cũng có hàng lậu, hàng giả, điều này gây ra những khó khăn và thiệt hại nghiêm trọng cho cả sản xuất và tiêu dùng trong nước. Do vậy mỗi chúng ta phải có sự nhìn nhận đúng đắn và đầy đủ về vấn đề này để không tiếp tay cho gian thương và phối hợp cùng với cơ quan chức năng thực hiện công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM một cách có hiệu quả. Đối tượng nghiên cứu đề tài: Gian lận thương mại trong hoạt động kinh doanh và quá trình phát triển kinh tế. Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn trong lĩnh vực ngoại thương thông qua hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước cũng như trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nên em đã chọn đề tài: “Hiện trạng và giải pháp chống gian lận thương mại trong điều kiện hiện nay”. Nội dung chính của đề tài này gồm 3 chương: Chương I: “Tổng quan về gian lận thương mại” nêu lên một cách khái quát các khái niệm gian lận thương mại đồng thời nêu ra những tác động của buôn lậu và gian lận thương mại đối với kinh tế của Việt Nam. Chương II: “Thực trạng tình hình gian lận thương mại ở Việt Nam” phản ánh những khó khăn, thuận lợi, những thành tựu đạt được và những hạn chế tồn tại trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua. Chương III: “Một số giải pháp chống gian lận thương mại” đề cập đến công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại của các cấp, bộ, ngành, cơ quan chức năng của Việt Nam. Phương pháp mà em áp dụng cho việc xây dựng để tài này là sự kết hợp những kiến thức đã được tích luỹ trong quá trình học tập với việc phân tích những quan sát thu thập được trong thực tế; kết hợp giữa việc tổng hợp các tài liệu, sách báo với việc tham khảo ý kiến của một số chuyên gia trong ngành. Do trình độ và kinh nghiệm của bản thân còn hạn chế, nguồn tài liệu và thông tin còn hạn hẹp nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý chân thành của các thầy cô giáo, các bạn sinh viên và những người quan tâm đến những vấn đề mà em đặt ra trong bài viết này. Nhân đây, em xin bày tỏ sự cảm ơn chân thành tới Thầy giáo PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết, người đã trực tiếp hướng dẫn em tận tình trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện khoá luận này. Đồng thời, em cũng xin trân thành cảm ơn Cục Quản Lý Thị Trường Bộ Thương Mại đã giúp em có được những thông tin cần thiết, những tài liệu bổ ích và những ý kiến đóng góp quý báu để em có thể hoàn thành được bài viết này. Chương I:  TỔNG QUAN VỀ GIAN LẬN THƯƠNG MẠI I. GIAN LẬN THƯƠNG MẠI, CÁC HÌNH THỨC GLTM: 1. Gian lận thương mại: (Commercial Fraud) GLTM là những hàng vi dối trá, mánh khoé, lừa lọc trong Thương mại nhằm mục đích thu được một khoản lợi bất chính nào đó, mà lẽ ra những khoản lợi thu được này họ không được hưởng. Ví dụ: Hàng xấu nói là hàng tốt để lừa người mua nhằm mục đích bán được giá cao, bán được nhiều hàng. Hàng có thuế suất cao nhưng được chủ hàng che giấu, nguỵ trang và khai với cơ quan thuế là hàng có thuế suất thấp, hàng nhiều nhưng khai báo là hàng ít để trốn một phần hoặc toàn bộ số tiền thuế phải nộp Nhà nước. Hành vi gian lận này là chủ hàng (bao gồm hoặc người mua, hoặc người bán, hoặc cả người mua và người bán) lừa dối cơ quan Nhà nước có trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát hàng hoá. Hàng cấm, hàng Nhà nước quản lý và hạn chế lưu thông nhưng được chủ hàng dùng thủ đoạn qua mắt các cơ quan quản lý... Như vậy, GLTM trước hết phải là hành vi gian lận nói chung, nhưng hành vi gian lận này phải được thể hiện trong lĩnh vực Thương mại thông qua đối tượng thể hiện là hàng hoá, dịch vụ. Chủ thể của những hành vi GLTM là các chủ hàng, có thể là người mua, người bán, cũng có thể là cả người mua và người bán. Mục đích của hành vi GLTM là nhằm thu lợi bất chính do thực hiện trót lọt hành vi lừa đảo, dối trá. GLTM là một hiện tượng Xã hội mang tính lịch sử vì chỉ khi có sản xuất hàng hoá, khi các sản phẩm được mang ra trao đổi trên thị trường, có người mua, người bán nhằm thực hiện phần giá trị được kết tinh trong hàng hoá thì GLTM cũng mới xuất hiện. Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, thị trường ngày càng mở rộng, các sản phẩm đưa ra trao đổi buôn bán trên thị trường ngày càng nhiều, tính chất và chủng loại hàng hoá ngày càng đa dạng, phong phú, đa công dụng thì GLTM cũng càng tinh vi, phức tạp và mang tính toàn cầu. GLTM ở Việt nam ta không phải là vấn đề mới, từ xa xưa ông cha đã đúc kết hành vi GLTM thành câu “Buôn gian bán lận” để chỉ những mặt trái của việc buôn bán, để mọi người cảnh giác với thủ đoạn, mánh khoé, lừa dối khách hàng của các gian thương. Ngày nay thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, trong điều kiện thực tế của nước ta, Đảng ta đã khẳng định phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chấp nhận cơ chế thị trường, tất yếu phải chấp nhận cạnh tranh. Cạnh tranh là sự đấu tranh giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hoá nhằm giành cho mình điều kiện sản xuất và điều kiện tiêu thụ hàng hoá có lợi nhất. Nguyên nhân và động cơ của cạnh tranh là lợi nhuận. Trong cạnh tranh chắc chắn sẽ xuất hiện những hình thức và thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực, phi kinh tế. Đó là hành vi lẩn tránh sự kiểm soát của Nhà nước như đầu cơ, GLTM, trốn thuế, buôn lậu, lừa đảo, hối lộ, lấy cắp bí mật sản xuất, làm giẩm uy tín của đối thủ cạnh tranh... Nói như vậy để thấy rằng chấp nhận cơ chế thị trường ngoài những mặt tích cực, năng động thu được, chúng ta phải chấp nhận những mặt trái của nó, trong đó có vấn đề GLTM và hậu quả của GLTM để tìm giải pháp quản lý, ngăn chặn thích hợp, hiệu quả. Buôn lậu về mặt lịch sử ở nước ta khái niệm này trước đây được hiểu là buôn bán những hàng hoá mà Nhà nước cấm hoặc Nhà nước quán lý (độc quyền) đến nay khái niệm này được luật hoá theo tội danh buôn lậu đó là: buôn bán trái phép qua biên giới các loại hàng hoá, tiền Việt Nam, ngoại tệ, kim khí quý, đá quý, các vật phẩm thuộc di tích lịch sử và văn hoá (theo Điều 153 Bộ luật Hình sự năm 2000 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). So với khái niệm GLTM thì khái niệm buôn lậu hẹp hơn, nhưng buôn lậu bao giờ cũng có yếu tố qua biên giới trong khi không phải tất cả các trường hợp GLTM đều có yếu tố này. 2. Sự cần thiết phải xác định một tội danh - Tội GLTM: Do quan niệm về gian lận chưa đúng nên còn có sự lẫn lộn giữa GLTM với buôn lậu hoặc lẫn lộn giữa GLTM với các hành vi vi phạm hành chính. Từ đó dẫn đến việc xác định tội danh của hành vi GLTM cũng không chính xác, phù hợp. Sau đây là một ví dụ: Điều 97 - Bộ Luật hình sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam có qui định tội danh buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới. Trong đó bao hàm các hành vi thuộc về hành vi GLTM như: không khai báo, khai báo gian dối, giả mạo giấy tờ, giấu giếm hàng hóa. Như vậy, khi phát hiện các hành vi GLTM như trên có thể vận dụng điều 97 về tội danh buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, tiền tệ qua biên giới để xử lý, để khởi tố hình sự. Mặt khác, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua ngày 20/3/1996 qui định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan. Cũng như qui định quyền xử phạt hành chính của các cơ quan Hải quan được thực hiện với các loại vi phạm hành chính sau: - Vi phạm các qui định về thủ tục Hải quan khi xuất cảnh, nhập cảnh, quá cảnh Việt Nam. - Vi phạm các qui định về giám sát, kiểm tra, kiểm soát Hải quan. - Buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hoá, hành lý, bưu phẩm, bưu điện, ngoại hối, tiền Việt Nam và những vật phẩm khác qua biên giới chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Những vi phạm hành chính cụ thể thuộc loại vi phạm hành chính trên đây mà Hải quan có quyền xử phạt được giải thích có thể là: không khai báo hoặc khai báo không đúng việc XNK hàng hoá, hành lý, tiền tệ, tự ý phá niêm phong Hải quan, phương tiện vận tải tự ý cập mạn tàu, thuyền và phương tiện vận tải hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu khác đang chịu sự kiểm tra, giám sát của Hải quan. Như vậy, khi xử lý các hành vi vi phạm GLTM cũng có thể áp dụng xử phạt vi phạm hành chính. ở đây một vấn đề nổi cộm là cùng một hành vi vi phạm như không khai báo hoặc khai báo không đúng... việc xử lý có thể áp dụng Điều 97 Bộ Luật hình sự và ghép vào tội danh; tội buôn lậu, nhưng cũng hành vi đó cũng có thể áp dụng Điều 12 NĐ 16/CP về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về Hải quan. Do đó việc xác định tội danh GLTM là một việc làm cần thiết nhằm xử lý đúng người, đúng tội, không để sót lọt hành vi GLTM. Buôn lậu cũng như GLTM nói chung là mặt trái của kinh tế thị trường để lại những hậu quả nguy hại về kinh tế xã hội như kìm hãm sản xuất kinh doanh trong nước, gây thất thu ngân sách Nhà nước, ảnh hưởng môi trường đầu tư nước ngoài, kèm theo những tệ nạn xã hội: tham nhũng, hối lộ... Vì vậy, muốn phát triển lành mạnh nền kinh tế - xã hội chúng ta phải tích cực chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả nhằm tạo môi trường sản xuất kinh doanh lành mạnh đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế. 3. Các hình thức GLTM: Các hình thức GLTM theo cách phân loại của tổ chức Hải quan thế giới (WCO). Trong nhiều năm, hiện tượng GLTM trong hoạt động thương mại quốc tế đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới và trở thành một mối đe doạ thực sự đối với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh chính trị của các quốc gia. Những hậu quả xấu của nó có tác động rõ rệt và nghiêm trọng đến mọi mặt của đời sống xã hội, đi ngược lại lợi ích của Nhà nước, làm tổn hại đến quyền lợi của nhân dân, phá hoại môi trường cạnh tranh lành mạnh của kinh tế thế giới, đồng thời gây tốn kém không nhỏ cho ngân sách của các quốc gia trong việc thực hiện các biện pháp phòng chống GLTM. Vì những tác hại nghiêm trọng của tệ nạn này, hội nghị chống GLTM do Hải quan thế giới triệu tập tại Brussel (Bỉ) với sự tham gia của đại diện Hải quan từ hơn 50 nước và tổ chức quốc tế. Hội nghị đã xác định các hình thức GLTM và đề ra các biện pháp cụ thể phòng chống tệ nạn này. Theo tài liệu số 36. 623 ngày 28/6/1995 của hội nghị nêu trên, GLTM gồm có 16 hình thức như sau: 1.1. Buôn lậu hàng hoá ( kể cả hàng bị cấm nhập khẩu và đặc biệt hàng thuộc Công ước Washington bảo vệ động thực vật quý hiếm và các quy định quốc gia về bảo vệ môi trường) qua biên giới hoặc ra khỏi kho Hải quan. 1.2. Khai báo sai. 1.3. Khai tăng, giảm trị giá. 1.4. Lợi dụng chế độ ưu đãi xuất xứ (kể cả chế độ hạn ngạch thuế). 1.5. Lợi dụng chế độ ưu đãi hàng gia công. 1.6. Lợi dụng chế độ tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập (đây là hàng hoá được miễn thuế XNK nhưng đã sử dụng sai mục đích,...). 1.7. Lợi dụng yêu cầu về giấy phép xuất nhập khẩu (như các loại giấy phép theo nhu cầu chuyên ngành như hàng cho an ninh, quốc phòng, y tế, văn hoá,...). 1.8. Lợi dụng chế độ quá cảnh (Ví dụ: hàng của Lào, Trung Quốc vận chuyển qua lãnh thổ Việt Nam). 1.9. Khai sai về số lượng, chất lượng hàng hoá. 1.10. Lợi dụng chế độ mục đích sử dụng, kể cả buôn bán trái phép hàng được ưu đãi thuế, thuế nhập khẩu dành cho những đối tượng sử dụng nhất định (Ví dụ: hàng cho đồng bào bị lũ lụt, cho các cơ quan ngoại giao, cho đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi để xoá đói giảm nghèo,...). 1.11. Vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại hoặc quy định bảo vệ người tiêu dùng. 1.12. Hàng giả, hàng ăn cắp mẫu mã. 1.13. Hàng giao dịch buôn bán không có sổ sách. 1.14. Yêu cầu giả, khống việc hoàn hoặc truy hoàn thuế Hải quan kể cả các chứng từ hàng đã xuất khẩu ( Ví dụ: làm giả chứng từ về hàng đã xuất). 1.15. Kinh doanh “ma”, đăng ký kinh doanh lậu liễm nhằm hưởng tín dụng trái phép. 1.16. Thanh lý có chủ đích (công ty kinh doanh một thời gian ngắn để nợ thuế nhiều rồi tuyên bố thanh lý để tránh nộp thuế, giám đốc công ty đó thành lập công ty mới ngay sau đó với cùng ý định. Vấn đề này còn gọi là “Hội chứng Phượng hoàng”. Cách phân loại này thể hiện cách nhìn khoa học và là kết quả nghiên cứu các vấn đề thực tiễn trong nhiều năm hoạt động thương mại quốc tế ở nhiều nước trên thế giới. Nó mang những nét chung của tình hình GLTM trong thương mại thế giới, trong đó có Việt Nam. Tình hình thực tế ở nước ta thời gian qua cho thấy, các thủ đoạn GLTM trong hoạt động thương mại quốc tế cũng chính là các hình thức mà tổ chức Hải quan thế giới đã xác định như đã nêu trên. Thái độ ứng xử đối với 16 hành vi này là thống nhất với nhau ở 2 cung bậc, tuỳ thuộc vào mức độ tác hại của hành vi đó mang lại cho xã hội mà xử lý hành chính hay xử lý hình sự. Đối với một số nước như Mỹ, Nhật, Pháp,.. bên cạnh việc áp dụng các công ước quốc tế xử lý 16 hành vi này theo luật Hải quan còn quy định trong luật hình sự các tội danh cụ thể tương ứng với những hành vi đó. Đối với nước ta thái độ ứng xử này với các hành vi diễn ra theo ba trường hợp: + Hành vi có tính chất không nghiêm trọng, giá trị tài sản buôn bán sai phạm không lớn thì xử lý hành chính theo pháp lệnh Hải quan và các nghị định của Chính phủ về quản lý XNK. + Một số hành vi trong số đó chưa được quy định trong pháp luật Việt Nam nên không xảy ra hoặc có thể xảy ra nhưng không bị xử lý như hành vi vi phạm đạo luật về diễn giải thương mại,... + Tất cả các hành vi có tính chất nghiêm trọng, hậu quả lớn đều bị xử lý dưới tội danh chung của Điều 97 (Bộ Luật hình sự nước cộng hoà XHCN Việt Nam) là buôn lậu. II. MỐI QUAN HỆ GIỮA BUÔN LẬU VÀ GLTM : Theo pháp luật Việt Nam, GLTM không phải là một tội danh trong luật hình sự nhưng các biểu hiện đặc trưng của nó lại trùng hợp với tội buôn lậu, một bộ phận của GLTM là buôn lậu và buôn lậu bao gồm cả GLTM. Cả hai khái niệm này vẫn thường đi đôi và gắn liền với nhau trong tiềm thức xã hội, chúng có phần nằm trong nhau nhưng không bao hàm tất cả, đặc biệt là GLTM ngoài buôn lậu còn bao gồm nhiều hình thức khác như buôn bán hàng giả, ăn cắp mẫu mã, khai báo sai về số lượng, chất lượng hàng hoá,... Buôn lậu là một hình thức của GLTM, nhưng khác với các hình thức GLTM là nó mang tính chất phức tạp và rất nghiêm trọng. Nó là trường hợp đặc biệt của GLTM. Nó bao hàm các hành vi dấu diếm để trốn tránh hoàn toàn hoặc một phần việc kiểm tra của Hải quan bằng mọi thủ đoạn và phương tiện khác nhau để thu lợi. Trong khi GLTM là việc làm trái quy định của pháp luật, chính sách hoặc lợi dụng sự sơ hở, không rõ ràng, không chính xác khoa học và đầu đủ của Luật pháp, chính sách và việc quản lý cơ sở của các cơ quan quản lý chức năng để thực hiện hành vi gian dối, lừa gạt qua cửa khẩu một cách công khai nhằm thu lời bất chính. Như vậy phạm vi của khái niệm GLTM rộng hơn khái niệm buôn lậu. III. TÁC ĐỘNG CỦA GLTM: 1. Tác động tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân: Sự ra đời của hàng rào thuế quan nhằm mục đích bảo hộ sản xuất trong nước, bảo vệ an ninh trật tự xã hội và nền văn hoá truyền thống của dân tộc ta trong suốt thời gian qua, thế nhưng sự xuất hiện và phát triển của tệ nạn GLTM đã có ảnh hưởng không nhỏ tới toàn bộ nền kinh tế - văn hoá - xã hội. Tệ nạn GLTM ngày một gia tăng và với các thủ đoạn tinh vi xảo quyệt gây thiệt hại không nhỏ đối với nền kinh tế đất nước. Chẳng hạn, tệ buôn lậu trốn thuế qua các cửa khẩu hàng năm làm thất thu ngân sách Nhà nước, gây khó khăn trở ngại cho Nhà nước trong công tác kiểm tra, kiểm soát và quản lý hoạt động thu nộp thuế, gây thất thu thuế cho ngân sách Nhà nước. Tệ nạn GLTM tràn lan như một bệnh dịch ở hầu khắp các địa phương trong cả nước, từ đồng bằng đến miền núi, từ nông thôn đến thành thị, hầu khắp các cửa khẩu từ Bắc vào Nam các khu vực biên giới với Trung Quốc, Lào, Campuchia, đều có hoạt động của bọn buôn lậu và GLTM. Từ hoạt động xuất khẩu đến nhập khẩu, thương mại tiểu ngạch hay chính ngạch, bất cứ khi nào, nơi nào, lĩnh vực nào, tuyến đường nào cũng có tệ nạn, nhức nhối và nóng bỏng. Dân cư ở khu vực biên giới tiếp tay cho buôn lậu và gian thương vì làm thuê cho họ thì có thể được nhiều tiền hơn và như vậy họ bỏ bê ruộng vườn, không chịu làm ăn phát triển kinh tế vùng biên giới, kinh tế vùng biển vốn dĩ đã khó khăn nay lại càng khó khăn hơn. Buôn lậu và GLTM có tác động xấu đến sản xuất trong nước làm cho hàng hoá trong nước khó có thể cạnh tranh với hàng lậu, hàng giả với giá hạ hơn. Nó thậm chí làm cho sản xuất trong nước phải điêu đứng và kìm hãm sự phát triển sản xuất. Ví dụ: tình hình sao in các băng đĩa lậu, xà phòng OMO thì được các gian thương đổi lại thành TOMO để lừa người tiêu dùng, các hàng điện tử của Tàu được bày bán tràn lan trên thị trường với giá thành rẻ bằng chỉ bằng 1/4 so với giá hàng hoá trong nước sản xuất hay hàng nhập khẩu, tình trạng quay vòng tem hàng nhập khẩu đối với những hàng nhập khẩu buộc phải dán tem hàng nhập khẩu khi lưu thông trên thị trường .... Hơn thế nữa, thị trường Việt Nam có nhu cầu lớn và dễ tính trong tiêu dùng. Tuy sức mua của người dân còn hạn chế (do thu nhập) nhưng thị trường Việt Nam gần 80 triệu dân là một thị trường có nhu cầu lớn về tiêu dùng và đặc điểm là dễ chấp nhập hàng hoá rẻ, sính hàng ngoại và không cần quan tâm đến nguồn gốc nhập lậu hay GLTM và không cần hoá đơn, chứng từ khi mua bán hàng hoá. Mặt khác, sản xuất hàng hoá ở nước ta những năm qua tuy có mặt phát triển nhưng nhìn chung chưa thể cạnh tranh được về mẫu mã, chủng loại, chất lượng và giá cả. Có thể coi đây là một trong những nhân tố cơ bản dẫn đến hàng lậu và GLTM lấn át, chiếm lĩnh thị trường nước ta. Nhìn chung, tệ nạn buôn lậu và GLTM kìm hãm sự phát triển kinh tế đất nước, kìm hãm sự phát triển kinh tế dựa vào nội lực trong nước. 2. Tác động tới trật tự an toàn xã hội: GLTM với các hình thức khác nhau xuất hiện ở khắp mội nơi trong cả nước, sự xuất hiện và hoạt động của chúng đã gây rối loạn và xáo trộn về trật tự an ninh, an toàn xã hội. Chúng tổ chức buôn lậu thành đường dây từ khâu mua, vận chuyển qua biên giới đến tiêu thụ với sự tham gia của nhiều đối tượng khác nhau, trong đó có cả người nước ngoài, cán bộ Hải quan,... làm cho tình hình an ninh biên giới bất ổn, khó kiểm soát và xử lý phức tạp. Bọn buôn lậu và GLTM lôi kéo một bộ phận lớn quần chúng nhân dân khu vực biên giới cửa khẩu tham gia vào hoạt động buôn lậu và chống lại sự kiểm soát của Hải quan - cơ quan quản lý Nhà nước, lợi dụng sự kém hiểu biết của quần chúng, dùng đồng tiền để lôi kéo họ tiếp tay cho buôn lậu và GLTM, khi bị bắt thì họ chống trả quyết liệt bởi họ không hiểu, không biết những việc làm mà mình làm là trái với pháp luật, hoặc họ cố tình làm trái với quy định của Nhà nước để kiếm sống,... bọn gian thương và các lực lượng diễn biến hoà bình còn lợi dụng sự kém hiểu biết này để tuyên truyền văn hoá phẩm đồi trụy, tư tưởng cực đoan chủ nghĩa, lôi kéo họ chống lại chính quyền Nhà nước,... làm trật tự xã hội bị đảo lộn, tình hình chống buôn lậu và GLTM ngày càng phức tạp hơn, an ninh chính trị ở khu vực biên giới bị đe doạ nghiêm trọng. - Bọn buôn lậu và GLTM lôi kéo một bộ phận cán bộ Nhà nước tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM này làm suy đồi tư tưởng và làm mất tư cách đạo đức của những kẻ hám lợi bỏ qua tất cả để chạy theo đồng tiền, bất chấp luật pháp của Nhà nước để làm giàu cá nhân, gây mất lòng tin của quần chúng, mất ổn định về chính trị, an ninh và an toàn xã hội. - Một số mặt hàng mà pháp luật cấm như thuốc phiện, thuốc nổ, các sản phẩm văn hoá phẩm đồi trụy,... đã được bọn chúng đưa vào làm suy đồi các tư tưởng đạo đức của một số người không chỉ ở khu vực biên giới mà trong cả nước, tác động đến nhiều mặt khác của đời sống xã hội như gia tăng tội phạm, cướp của giết người để lấy tiền mua ma tuý, tuyên truyền tư tưởng cực đoan chống chính quyền, chênh lệch giữa kể giàu và người nghèo ngày càng lớn,... ảnh hưởng đến an ninh, an toàn xã hội, văn hoá truyền thống của dân tộc. 3. Tác động đến doanh nghiệp và người tiêu dùng: Trong điều kiện đất nước còn nghèo nàn, kỹ thuật lạc hậu, sản xuất trong nước còn gặp nhiều khó khăn, năng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm chưa cao, giá thành và chi phí sản xuất cao, các sản phẩm trong nước khó hoặc không thể cạnh tranh được với hàng lậu, gian lận cùng loại, nhiều doang nghiệp sản xuất phải đứng trước nguy cơ đóng cửa do không tiêu thụ được sản phẩm. Một số hàng có được do buôn lậu và gian lận thuế được bán với giá thấp (nhưng chất lượng cao hơn do được sản xuất với công nghệ hiện đại, chi phí cho sản xuất thấp,...) đã chiếm lĩnh thị trường nội địa làm cho doanh nghiệp phải điêu đứng và không bảo vệ được kế hoạch sản xuất kinh doanh của mình. Một số mặt hàng buôn lậu và gian lận có chất lượng kém nhưng mẫu mã đẹp giá thấp hơn nhiều so với giá của sản phẩm trong nước, làm cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh gặp nhiều khó khăn trở ngại trong cạnh tranh, tiêu thụ và cải tiến chất lượng sản xuất, hạ giá thành, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Buôn lậu và GLTM không chỉ tác động đến sản xuất trong nước mà còn tác động rất lớn đến người tiêu dùng trong nước. Một số khách hàng thích và ưu tiên dùng hàng ngoại, hàng rẻ, dễ bị lừa gạt vì trong số đó có những mặt hàng như dược phẩm thuốc bảo vệ thực vật,... không chỉ gây thiệt hại về vật chất mà còn gây thiệt hại cả về sức khoẻ, tính mạng cho cả người và động vật, thực vật, thiệt hại cả về ngắn hạn lẫn lâu dài do hàng hoá kém, quá hạn sử dụng, hàng giả,... không đảm bảo an toàn cho người tiêu dùng. Một số mặt hàng như ma tuý, chất kích thích,... không chỉ tác động đến sức khoẻ mà còn tác động đến đạo đức, lối sống của người tiêu dùng, làm suy đồi tư tưởng đạo đức và gây ra các tệ nạn khác như: trộm cắp, cướp giật, giết người,... Các mặt hàng như thuốc nổ, thuốc súng tác động đến tính mạng, an ninh chính trị quốc gia, gây rối loạn trật tự an toàn xã hội. Nhìn chung GLTM làm cho lưu thông hàng hoá bị rối loạn, trật tự thị trường bị đảo lộn, gây ra các cơn sốt về hàng hoá và giá cả, gây khó khăn cho công tác quản lý thị trường, quản lý hoạt động XNK. 4. Tác động đến sự quản lý nhà nước (đến cán bộ nhà nước): Do ý thức trách nhiệm chỉ đạo và tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh chống GLTM ở một số nơi, một số lúc còn chưa tốt, thậm chí còn nhận thức không đúng về cuộc đấu tranh này dẫn đến buông xuôi; cơ chế chính sách về hoạt đọng thương mại và đấu tranh chống GLTM còn chưa hoàn chỉnh thậm chí còn kẽ hở bị lợi dụng; việc phối hợp giữa các lực lượng chức năng còn nhiều bất cập, hạn chế; ở một số địa bàn trọng điểm lực lượng chức năng chống GLTM còn quá mỏng, cơ sở thiếu thốn và lạc hậu; nạn tham nhũng, bảo kê, và thiếu việc làm cũng là những nhân tố nuôi dưỡng tạo điều kiện cho GLTM tồn tại và._. phát triển... Chương II: THỰC TRẠNG GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM I. TÌNH HÌNH GIAN LẬN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM: 1. Tình hình chung trong cả nước: Việt Nam là một đất nước có địa hình phức tạp đồi núi chiếm phần lớn diện tích cả nước, có biên giới tiếp giáp Lào, Trung Quốc, Campuchia và các cửa khẩu trải dài từ Bắc vào Nam - nơi kiểm soát hoạt động kinh doanh XNK. Đặc điểm này của địa hình kết hợp với sự ra đời của hàng rào thuế quan và hệ thống thuế đối với hoạt động kinh doanh làm cho tình hình GLTM trong cả nước có những diễn biến phức tạp với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt, để trốn lậu thuế, tuồn hàng lậu qua cửa khẩu, chống lại sự kiểm soát của Hải quan, buôn bán và kinh doanh hàng giả,... Ở nước ta trong mấy năm gần đây tệ nạn GLTM phát triển tràn lan như một bệnh dịch kéo dài âm ỉ làm đau đầu các nhà chức trách trong việc tìm các giải pháp đặc trị chặn đứng căn bệnh này. Trên thực tế nạn GLTM xuất hiện khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam từ khắp các biên giơí phía Bắc đến biên giới Tây Nam, từ các cửa khẩu qua Trung Quốc, Lào, Campuchia đến các cửa khẩu quốc tế, từ nông thôn đến thành thị, từ xuất khẩu đến nhập khẩu, từ hoạt động thương mại chính ngạch đến hoạt động tiểu ngạch, từ đường bộ đến đường biển, đường hàng không và bưu điện... chỗ nào, lĩnh vực nào, tuyến đường nào GLTM cũng là những vấn đề nóng bỏng nhức nhối. Trên các tuyến biên giới phía Bắc, phía Tây và Tây Nam của nước ta tình hình GLTM diễn ra phức tạp và ngày càng tinh vi xảo quyệt. Điều đặc biệt nghiêm trọng là trong khi Việt Nam ngăn chặn thì phía nước ngoài lại khuyến khích, thực chất là họ muốn tiêu thụ hàng tồn kho ứ đọng của mình. Theo báo cáo của Ban Chỉ đạo 127 - TW: Năm 2002, tình hình buôn lậu, buôn bán hàng nhập lậu, gian lận thương mại vẫn diễn biến rất phức tạp trên tất cả các tuyến và địa bàn trọng điểm; phương thức và thủ đoạn buôn lậu ngày càng tinh vi hơn; sự chông trả người thi hành công vụ của các đối tượng tham gia buôn lậu diễn ra quyết liệt và trắng trợn. Đáng chú ý một số tuyến , địa bàn trọng điểm như sau: 1.1 Tuyến biên giới Việt - Trung: Trên tuyến này buôn lậu diễn ra tấp nập hối hả nhất là ở các khu vực cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh), Hữu Nghị, Tâm Thanh, Cao Lộc, Lộc Bình, Văn Lãng (Lạng Sơn), Chi Ma (Lạng Sơn),... Sau khi lực lượng Công an Trung Ương triệt phá ổ buôn lậu tại Hang Dơi và có sự chỉ đạo kiên quyết của Uỷ ban nhân dân Tỉnh, tình hình buôn lậu đã giảm nhưng trong tháng 11 và 12/2002 tình hình lại diễn biến phức tạp, hàng lậu được xé lẻ đi hai bên cánh gà cửa khẩu Chi Ma, Tân Thanh, đường 05, 06, Kéo Kham. Tại các chợ và trung tâm thương mại, hàng lậu vẫn được bày bán. Đã xảy ra tình trạng bọn cửu vạn tấn công Bộ đội biên phòng để giải vây hàng hoá bị thu giữ. Tại Quảng Ninh: Tình hình buôn lậu trên tuyến đường bộ đã giảm rõ rệt do lực lượng Quản lý Thị trường phối hợp với các lực lượng khác tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội địa nhưng việc vận chuyển hàng lậu trên biển bằng các tàu, thuyền đánh cá hoặc bè, mảng vẫn tiếp diễn, kết quả ngăn chặn còn hạn chế. Tại Lao Cai: Buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra với quy mô không lớn nhưng tính chất lại phức tạp vì mặt hàng đa dạng; phương thức, thủ đoạn hoạt động của các đối tượng buôn lậu rất tinh vi và thường xuyên thay đổi... 1.2. Tuyến biên giới Việt - Lào: Khu vực miền Trung tình hình buôn lậu chủ yếu ở khu vực cửa khẩu Lao Bảo (Quảng Trị), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lò Quỳnh Lưu (Nghệ An), Cửa Sót (Hà Tĩnh), Lý Hoá (Quảng Bình),... Tại Quảng Trị: Đầu năm tình hình buôn lậu tại Lao Bảo khá phức tạp. Do có sự chỉ đạo kiên quyết của các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân Tỉnh, tình hình buôn lậu giảm nhiều. Từ cuối tháng 10 đến cuối năm 2002, tình hình buôn lậu lại có chiều hướng gia tăng. Khu vực khuyến khích phát tiển kinh tế và thương mại Lao Bảo vẫn là một trong những “điểm nóng” về buôn lậu, lượng hàng nhập lậu qua đây tương đối nhiều (chủ yếu là thuốc lá ngoại, nước giải khát, rượu ngoại). Tại thị xã Đông Hà hàng không rõ nguồn gốc vẫn bày bán khá nhiều. Tại Hà Tĩnh: Tình hình nhập lậu đang có xu hướng gia tăng, hàng lậu đi qua 2 bên cánh gà cửa khẩu Cầu Treo và Trạm KSLH Nước Sốt nhằm tránh sự kiểm tra, kiểm soát. Sự chống trả các lực lượng chức năng của các đối tượng buôn lậu tại đây rất quyết liệt. Tại Nghệ An: Tình hình tại đây vẫn rất phức tạp, nhất là vùng biển Quỳnh Lưu, Cửa Lò nhưng buôn lậu đã giảm, trong những tháng cuối năm chưa thấy có dấu hiệu tăng lên. Ngoài ra, hàng lậu từ Cửa khẩu Cầu Treo qua đường Nam Đàn, Hưng Nguyên vẫn được các đối tượng buôn lậuđưa về Thành phố Vinh để tiêu thụ. 1.3. Tuyến biên giới Tây Nam: Khu vực này tập trung ở khu vực huyện Đức Huệ (Lonh An), Phước Chỉ (Tây Ninh), An Giang, Đồng Tháp khu vực này bọn buôn lậu và GLTM dùng rất nhiều thủ đoạn tinh vi như quay vòng tem nhập khẩu, sử dụng tem giả, quay vòng vỏ thùng hàng đã dán tem, chẻ nhỏ hàng từ xa để vận chuyển, thuê mướn nhà xưởng, xe công cụ của một số cơ quan, doanh nghiệp để làm kho trung chuyển, sử dụng hồ sơ chứng từ giả quay vòng nhiều lần, đặc biệt gần đây bọn buôn lậu còn dùng hình thức cưới xin vùng biên giới để vận chuyển hàng lậu. Đây là tuyến buôn lậu tập trung sôi động phức tạp từ lâu trong đó mặt hàng nhập lậu chủ yếu là thuốc lá ngoại, xe gắn máy “nghĩa địa”, quần áo si đa, đồ điện tử, hàng xa xỉ phẩm, đồ chơi trẻ em,... của Thái Lan, Nhật Bản, Tây Âu. Hàng xuất lậu chủ yếu là vàng, ngoại tệ, xăng dầu, nông sản thực phẩm làm cho hiện tượng chảy máu vàng, ngoại tệ ra nước ngoài ngày một lớn mạnh. Những hàng hoá này được đưa vào nội địa tiêu thụ phần nhiều là vào TP.HCM, đây là thị trường tiêu thụ rộng không chỉ hàng hoá ở Tây Nam mà còn có các mặt hàng nhập lậu từ biên giới phía Bắc được đưa vào như vải, quần áo, hàng điện tử, xe đạp, gạch men,... có nguồn gốc từ Trung Quốc. Mặt hàng chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong hàng nhập lậu là thuốc lá, lúc cao điểm có khi lên đến mức 1 triệu bao/1 ngày. Theo cục điều tra chống buôn lậu bình quân mỗi ngày có khoảng 700 - 800 kiện thuốc lá được trở về từ Campuchia, ước tính một tháng có khoảng 12 - 15 triệu bao nhập lậu qua khu vực này trong khi đó theo ban chỉ đạo 1 tháng lực lượng chống buôn lậu chỉ thu được khoảng 2 triệu bao. Mặt hàng nữa là xe máy nhập lậu từ cuối năm 1997 đến đầu năm 1998 trung bình mỗi ngày có từ 30 - 40 xe máy nhập lậu bằng nhiều cách, mướn người lái, dắt, có khi gắn biển số giả để chạy vào nội địa. Hàng lậu được đưa vào nội địa cũng như xuất ra khỏi lãnh thổ bằng nhiều tuyến khác nhau: đường bộ, đường biển, đường hàng không và đường bưu điện. 1.4. Trên tuyến đường bộ: Trên tuyến đường này bọn buôn lậu và GLTM thường sử dụng người địa phương thông thạo đường ngang lối tắt, nắm vững quy luật hoạt động của lực lượng kiểm soát để lợi dụng thời cơ mang các hàng lậu vượt biên xuyên rừng xếp lên các xe lam thậm chí ô tô chở hàng thuê đậu rải rác cách cửa khẩu 1 - 2 km để chở về xuôi theo điểm hẹn của chủ hàng. Bọn buôn lậu và GLTM tìm mọi cách để cột những người này phải phụ thuộc vào mình, chịu trách nhiệm với số hàng mang vác do vậy mà khi bị bắt họ chống trả quyết liệt lại cơ quan chức năng. “Cửu vạn” phải mang vác lên lưng vật rất nặng như tủ lạnh, nồi cơm điện, máy giặt, linh kiện xe máy, ắc quy ô tô, 1 hoặc 2 thùng bánh ngọt trên lưng một người cõng mà chỉ được bình quân 1 ngày 15.000 - 20.000 đồng sau khi trừ đi tất cả các khoản phí. Đây là khoản thu nhập rất thấp so với công việc mà họ làm nhưng vẫn cao hơn mức họ làm kinh tế gia đình ở địa phương, do vậy mà khu vực cửa khẩu người ta thấy rằng người người, nhà nhà làm “cửu vạn” tiếp tay cho buôn lậu, rất ít người than gia thậm chí ở miền xuôi cũng lên than gia vận chuyển hàng lậu. Núi rừng hiểm trở với đường ngang lối tắt chi chít đã trở thành vỏ bao bọc, lưu trú cho “cửu vạn” và hàng lậu tránh sự dòm ngó của Hải quan, biên phòng và các lực lượng chống buôn lậu. Bình quân mỗi ngày ở cửa khẩu Cầu Treo có 200 triệu hàng lậu trốn thuế qua mặt Hải quan. Ngày cao điểm lên tới 700 - 800 triệu đồng. Theo tuyến này bọn gian thương thường ẩn nấp trong rừng sâu, liên lạc với nhau bằng điện thoại di động và điều khiển “cửu vạn”, xe chở thuê vào nội địa gây cản trở cho lực lượng Hải quan cả về phương tiện, lực lượng và sự thông thạo địa hình hiểm trở. Mỗi cửa khẩu có những mặt hàng đặc trưng riêng, tuy nhiên do đặc thù đường bộ nên chủ yếu là những mặt hàng có thể mang vác hoặc xé lẻ được để mang vác vượt rừng đưa vào nội địa với khối lượng và giá trị lớn. Bọn buôn lậu sau khi tập kết được hàng hoá chủ yếu vận chuyển bằng đường sắt để đưa sâu vào nội địa, tập trung phần lớn trên các chuyến tàu hàng nguyên toa kẹp chì, vận chuyển cả ngày lẫn đêm. Hàng lậu được tập kết một cách công khai coi thường dư luận và pháp luật (đăc biệt là những năm 1997 trở về trước). Chủ hàng thông đồng với nhân viên nhà ga và trên tàu để thực hiện hành động gian lận trốn thuế, trốn cước và vận chuyển hàng cấm. Trên tuyến đường sắt Lào Cai - Yên Bái - Việt Trì - Lạng Sơn - Yên Viên cho thấy hàng nhập lậu được chia nhỏ qua các đường mòn biên giới tập kết tại khu vực nhà ga sát giờ tàu chạy ồ ạt được đưa lên hay dỡ xuống trong các chuyến tàu khách. Khu vực nhà ga hàng lậu được phân tán trong các nhà dân nhà ở của cán bộ công nhân viên chức nhà ga và khá tự do rất khó cho công tác quản lý. Hàng lậu chủ yếu được tập kết và vận chuyển vào ban đêm do rất nhiều “cửu vạn” thực hiện diễn ra trong thời gian ngắn tàu đỗ tại ga làm cho các lực lượng kiểm tra, kiểm soát không đủ lực lượng và thời gian thực hiện và bắt giữ xử lý. Tại một số cửa khẩu địa phương không có tàu hoả hoặc được vận chuyển bằng các phương tiện khác như: ô tô, xe lam,... bọn “đầu nậu” thường chia nhỏ phân tán hàng hoá thành nhiều chuyến, thay đổi xe, đổi tuyến vận chuyển, thay đổi hoá đơn dùng hoá đơn buôn chuyến để hợp pháp hoá các lô hàng chưa đóng thuế nhập khẩu theo phương thức “kiến tha lâu cũng đầy tổ” này đã gây không ít khó khăn cho các lực lượng chống buôn lậu. 1.5. Trên tuyến đường Biển - Đảo: Hoạt động buôn lậu và GLTM ở tuyến này tuy không sôi động như đất liền nhưng lại được tổ chức rất quy mô, lượng hàng hoá lớn và có giá trị cao. Bọn gian thương sử dụng phương tiện vận chuyển từ tàu đánh cá nhỏ đến tàu lớn như tàu pha sông biển, tàu viễn dương. Chúng hoạt động có tổ chức và phối hợp chặt chẽ với nhau, địa bàn rộng, tổ chức đường dây xuyên quốc gia, quốc tế, sử dụng và trang bị hệ thống thông tin liên lạc điều khiển từ xa. Khu vực sôi động và phức tạp nhất là các tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Bình, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Kiên Giang,...hàng hoá được tập kết ở một số điểm: Cảng Kỳ Xá, Giang Bình, Phong Thanh...(Trung Quốc) nơi các mặt hàng chủ yếu: vật liệu xây dựng, đồ điện tử điện lạnh của Nhật Bản, hàng tiêu dùng như vải, quần áo may sẵn, động cơ nổ, đồ chơi trẻ em, xe đạp... Bọn buôn lậu và GLTM có thể sử dụng nhiều phương tiện khác nhau nhưng chủ yếu là các loại tàu thuyền của các lực lượng vũ trang, tàu của các cơ quan tham gia hoạt động XNK...trực tiếp đi Trung Quốc mua hàng hoăc vận chuyển hàng hoá từ Trung Quốc về vào các bến cảng nhỏ, cảng cá, bến đậu vắng, hẻo lánh để bốc dỡ hàng như khu vực giáp ranh Nam Định, Thái Bình, khu vực sông Đà, Hoằng Hoá - Quảng xương (Thanh Hoá), Hoàng Mai - Lạch Mai - Lạch Quyên, Quỳnh Lưu - Cửa Lò (Nghệ An), Cửa Sót (Hà Tĩnh)... khi xuống hàng chúng huy động số lượng “cửu vạn” lớn để bốc vác, tẩu tán hàng hoá nhanh hoặc gặp lực lượng kiểm tra kiểm soát thì chống trả cướp hàng. Loại buôn lậu lớn thì sử dụng tàu của các công ty vận tải biển, lợi dụng các chuyến chở hàng đi nước ngoài để chuyển hàng về, tổ chức sang mạn từ ngoài khơi xa từ 70 - 100 hải lý thuộc vùng biển của nước ngoài hoặc vùng hải phận quốc tế cho các tàu thuyền nhỏ chuyển vào một số điểm tập kết hàng ở bờ biển ở Trung Quốc rồi sau đó “đánh tỉa” từng chuyến hàng nhỏ lẻ về Việt Nam. Tàu chở hàng lậu từ nước ngoài bọn buôn lậu thường tận dụng cất dấu hàng tại các khoang chứa nước chứa dầu, hầm neo,... khi làm thủ tục xuất nhập cảnh và khai báo thủ tục Hải quan ở một số cửa khẩu để hợp thức hoá giấy tờ về hàng hoá sau đó chuyển đến một cửa khẩu, một cảng khác coi như tàu chạy trong nội địa để bốc dỡ hàng trốn tránh sự kiểm soát của các lực lượng chống buôn lậu. - Một số vùng buôn lậu và gian lận thương mại trên biển. - Tàu 14 - 11 - 48 của Bộ chỉ huy quân sự tỉng Thái Bình chở lô hàng nhập lậu gồm đồ điện tử, xe đạp... trị giá trên 20 tỷ đồng. Ban chỉ huy của tàu bị xử lý, ban chỉ huy mới của tàu lại bị bắt vì tiếp tục buôn lậu. - Ngày 16/2/1999 Đội kiểm soát cơ động Hải quan Đồng Tháp phối hợp với Hải quan các cửa khẩu Thường Phước, Thông Bình, sở Thương Mại bắt giữ 3 thuyền vận chuyển phế liệu các loại và gạo Thái Lan nhập lậu trị giá trên 2 tỷ đồng. - Ngày 17/7/1999 các lực lượng kiểm tra kiểm soát cửa khẩu Bình Xương (An Giang) bắt giữ tàu Phúc Đức 4 nhập lậu quần áo cũ, vải, hàng điện tử đã qua sử dụng trị giá 850 triệu đồng. 1.6. Trên tuyến đường hàng không: Trên tuyến đường này bọn buôn lậu và GLTM hoạt động trên các sân bay lớn như Tân Sơn Nhất, Nội Bài. Đặc thù của ngành hàng không là phải khống chế về mặt số lượng nên hàng hoá vận chuyển qua tuyến này chủ yếu là hàng hoá gọn nhẹ như vàng, ngoại tệ, đồng hồ, máy tính đồ cổ, đá quí, chất kích thích, ma tuý...trong đó phần nhiều là ngoại tệ và cổ vật. Bọn gian lận thường lợi dụng hộ chiếu đỏ, hộ chiếu ngoại giao (miễn kiểm tra) để mang hàng lậu qua sân bay điển hình như: vụ ngày 25/3/1999 Hải quan cửa khẩu sân bay Tân Sơn Nhất đã lập biên bản vi phạm đối với ông Hsuy quốc tịch Đài Loan nhưng khai báo 24.500 USD. Ngày 1/4/1998 phát hiện cơ trưởng và cơ phó người Việt Nam xuất lậu ngoại tệ trị giá hơn 700 triêụ đồng trên chuyến bay VN741 từ thành phố HCM đi Singapore. Ngày 29/3/1998 Hải quan phát hiện bà Huỳnh Ngọc Quỳnh cất giấu ngoại tệ trị giá khoảng 300.000USD trong chuyến bay đi Hồng Kông. Trong tháng 6/1999 Hải quan sân bay Tân Sơn Nhất bắt giữ một loạt các vụ xuất nhập cảnh không khai báo ngoại tệ, đồ cổ. Trong mặt sai phạm gồm 29 viên đá quý, 90.000USD, 15 hiện vật có niên đại thế kỉ 19. Phát hiện Huang Minh Shun (Đài Loan) mang trái phép 100.000USD, Loh Bai Seen, Loh Kai Seen (Singapore) mang trái phép vào Việt Nam 610 hạt xoàn trị giá 1,3 tỷ đồng... 1.7. Tuyến đường Bưu điện: Trên tuyến đường này buôn lậu thường ít xảy ra. Bọn buôn lậu chủ yếu gửi ngoại tệ, vàng và một số hàng hoá gọn nhẹ có giá trị cao theo đường bưu phẩm để đưa vào trong nước cũng như đưa ra ngoài (xuất khẩu) trái phép tránh khai báo và trốn thuế. Trong nhiều trường hợp ngoại tệ được chuyển theo hính thức này qua người quen gửi vào ngân hàng nước ngoài để rửa tiền (xoá dấu vết, tung tích của tiền). Hoạt động buôn lậu qua biên giới thường kèm theo gian lận về thuế số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, gian lận về thủ tục Hải quan, hoá đơn chứng từ giả, quay vòng hoá đơn chứng từ cũ, khai tăng giảm giá trị hàng hoá hoạt động xuất nhập khẩu, lợi dụng chế độ xuất xứ hàng hoá...để buôn bán vận chuyển trái phép, trốn thuế hàng hoá cùng loại hoặc hàng hoá khác, buôn bán hàng giả. 1.8. Gian lận trong nội địa: Bên cạnh gian lận trong hoạt động XNK, quá cảnh qua cửa khẩu và vùng biên giới gian lận trong nội địa cũng không kém phần gay gắt nổi cộm lên là vấn đề gian lận về thuế. Các gian thương tìm mọi cách để trốn thuế bằng nhiều hình thức và thủ đoạn khác nhau khai sai số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hoá, buôn bán kinh doanh không có giấy phép, không có xác nhận của chính quyền điạn phương đặc biệt là tệ nạn sản xuất và buôn bán hàng giả. Hàng giả xuất hiện ở khắp mọi nơi trong cả nước, hầu hết các lĩnh vực sản xuất đều có hàng giả từ thuốc chữa bệnh, lương thực, thực phẩm, thức ăn gia súc, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật đến vật liệu xây dựng, các mặt hàng tiêu dùng gia dụng, văn bằng hoá đơn. Hàng giả len lỏi được vào thị trường chủ yếu là các hàng hoá kém phẩm chất, hàng hoá được “mông má” lại làm giảm tính năng, độ bền sử dụng của hàng hoá. Ngoài ra còn có những mặt hàng được làm giả, làm nhái với chất lượng kém nhưng lợi dụng ưu tín, chất lượng của hàng thật để kinh doanh làm giảm đi tính cạnh tranh và uy tín của các Công ty địa phương và quốc gia đang hoạt động trong nước. Một thực trạng hết sức đau lòng là hậu quả để lại của hàng giả đối với người tiêu dùng đặc biệt là mặt hàng dược phẩm, thuốc trừ sâu giả gây nguy hiểm đến sức khoẻ, tính mạng và tài sản của người. Nhiều sản phẩm giả trong nông nghiệp làm cho nông dân phải khóc dở mếu dở vì ngô trồng không ra bắp, cây không ra trái và sâu bọ thì cứ sinh sôi nảy nở... dẫn đến mùa màng thất bát, nông dân vốn đã nghèo nay lại càng nghèo hơn. Hàng giả còn gây ra chết người trong xây dựng, thiết bị y tế, phát sinh bệnh tật... có thể ảnh hưởng lâu dài mà ta không biết đến điểm dừng của nó. Hàng giả xuất hiện trên thị trường một cách tràn lan và đan xen với hàng thật, có những mặt hàng lại khó nhận biết về tính năng sử dụng bị giảm sút thậm chí đó là cơ quan chức năng. Có thời kì một số cơ sở liên doanh sản xuất bột ngọt có tiếng như Ajnomoto, Vedan sản xuất bị đình đốn, tồn đọng hàng trăm tấn mà không tiêu thụ vì hàng giả chiếm lĩnh thị trường với giá kích thích lơị ích của người hám lợi. Bọn sản xuất và buôn bán hàng giả có nhiều thủ đoạn tinh vi để lừa bịp khách hàng và các cơ quan chức năng, chúng nhập công nghệ của nước ngoài để làm giả làm nhái. Hàng giả thường được sản xuất ở khu vực xa trung tâm, xa thị trường hoặc ẩn nấp ở những nơi kín đáo ít có sự nghi ngờ tránh con mắt nhòm ngó của lực lượng quản lý thị trưòng. Trên mặt trận đấu tranh chống hàng giả các lực lượng quản lý thị trường tổ chức tốt công tác địa bàn, công tác điều tra cơ bản, xây dựng mạng lưới bí mật và được sự đồng tình ủng hộ của quần chúng nhân dân. Công an Hà Nội đã phát hiện thu giữ số hàng giả gồm 356,5 kg thuốc tân dược giả, 50kg thuốc bắc, 1120kg mật ong, 556 lít nước mắm, 327,8kg mỳ chính Ajinomoto, 3845 chai rượu nội, 1072 chai rượu ngoại, 2570 chai nmước khoáng, một số hàng hoá và giấy tờ làm giả khác. ở các địa phương khác tình hình không kém phần gay gắt như Bắc Giang xử lý 11 vụ phạt hành chính 16 triệu đồng tịch thu 376 hộp mứt, 96 chai rượu vang Thăng Long... Đây chỉ là những con số rất nhỏ mà quản lý thị trường cũng như cảnh sát kinh tế phát hiện ra. Trên thực tế hàng giả vẫn bày bán tràn lan trên thị trường chưa tịch thu và xử lý hết một cách nghiêm minh. 1.9. Đối tượng tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM: Đối tượng tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM rất phong phú và đa dạng bao gồm cả cá thể, hộ gia đình, tư nhân, công ty liên doanh và các Công ty có tư cách pháp nhân khác như doanh nghiệp Nhà nước. Nhiều công ty, doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân mượn tư cách XNK của các cơ quan, đơn vị có giấy phép XNK để tuồn hàng lậu, thông đồng với tư nhân, tư thương để buôn lậu và GLTM, làm giả một cách bất chính như nhập sai chủng loại mặt hàng, không khai báo, có nhiều khai ít... phá niêm phong của Hải quan để tẩu tán hàng lậu, hàng trốn thuế, hàng gian lận thuế qua giá, qua thuế suất, vận chuyển hoặc giải phóng hàng trên các địa bàn giáp biên... nhà hàng, khách sạn bán rượu ngoại, thuốc lá ngoại không tem nhãn với giá rẻ hơn. Các cửa hàng thương nghiệp quốc doanh làm phích nước, nồi cơm điện... lập lờ lúc có nhãn lúc không. Điển hình cho hính thức có sự tham gia của các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân thực hiện các hành vi buôn lậu trái phép đã bị phát hiện đó là vụ án Minh Phụng - Epco, và sau đó là vụ án Tân Trường Sanh với sự tham gia của 9 cơ quan doanh nghiệp có tư cách pháp nhân. Tham gia vào hoạt động buôn lậu và GLTM còn có một bộ phận tiếp tay nữa là một số cán bộ Hải quan biên phòng bị tha hoá biến chất, bị sức cám dỗ của đồng tiền lôi kéo, bao bọc che chở cho hoạt động buôn lậu và GLTM trót lọt và ăn chia hưởng lợi với bọn buôn lậu. Điển hình là vụ án Tân Trường Sanh có nhiều cán bộ nhân viên Hải quan đã nhận tiền hối lộ của Trần Đàm (tên trùm buôn lậu) nhằm vô hiệu hoá lực lượng Hải quan chống buôn lậu ở cảng Sài Gòn và Hải quan các tỉnh có trách nhiệm kiểm hoá hoàn toàn thủ tục Hải quan. Trần Đàm đã tìm cách quan hệ, mua chuộc đưa hối lộ cho một số cán bộ thuộc đội 5 phòng điều tra chống buôn lậu 1 (điều tra chống buôn lậu1) Cục Hải quan TP.HCM Phùng Long Thất (trưởng phòng): 1.938.000.000 đồng, Hải quan Cần Thơ 2 ô tô du lịch trị giá 1040.000.000 đồng và một số cán bộ Hải quan Thừa Thiên Huế 950.000.000 đồng và 44.000 USD. Ngoài ra bọn buôn lậu và GLTM còn lôi kéo một bộ phận lớn dân cư khu vực đường biên cửa khẩu tham gia vào hoạt động buôn lậu, ràng buộc họ phải phụ thuộc vào chúng bằng hình thức “bán trả chậm” hoặc “giao khoán” nếu mất thì phải đền bù sau đó chúng tổ chức thu gom lại và bọn buôn lậu thuê xe, xe máy, xe lam hoặc ôtô chở hàng phân tán đến các địa điểm khác nhau theo yêu cầu của chúng và như vậy vô hình chung đã lôi kéo thêm bộ phận vận chuyển để vận chuyển hàng lậu vào sâu trong nội địa và tiêu thụ. 1.10. Nhận định chung: Hoạt động buôn lậu và GLTM trong cả nước diễn biến hết sức phức tạp và sôi động nóng bỏng đặc biệt ở khu vực các cửa khẩu với nhiều thủ đoạn tinh vi xảo quyệt để qua mặt Hải quan. Bọn gian thương lợi dụng lợi thế về địa hình và những khó khăn của Hải quan vùng biên để tuồn hàng lậu và trốn thuế. Mặc dù người ta không thể biết được số lượng hàng lậu tuồn vào được là bao nhiêu, nhưng tình hình buôn lậu và GLTM thực tế cho thấy con số mà Hải quan cũng như cảnh sát kinh tế bắt được là thấp hơn nhiều so với thực tế: - Trong năm 2002 lực lượng chống buôn lậu cả nước bắt giữ 17.959 vụ trị giá khoảng 156 tỷ đồng. Công an phát hiện, bắt giữ 6.859 vụ vi phạm trị giá khoảng 94 tỷ đồng. Quản lý thị trường kiểm tra xử lý 29.348 vụ thu nộp ngân sách 36,2 tỷ đồng. Các chiến sĩ biên phòng bắt giữ 7.580 vụ buôn lậu lớn. Đây chỉ là con số thống kê bắt giữ vi phạm trên thực tế năm 2002 nó còn khiêm tốn hơn rất nhiều so với thực tế đang diễn đang diễn ra trong cả nước mà không ai có thể biết được chính xác là bao nhiêu. 2. Thực trạng tại một số cửa khẩu và địa phương. Một số mặt hàng buôn lậu và GLTM phổ biến. 2.1. Thực trạng tại một số cửa khẩu địa phương: Cùng với sự thiết lập của hàng rào thuế quan thì hầu hết các cửa khẩu trong cả nước đều diễn ra hiện tượng buôn lậu và GLTM. Tuy nhiên ở những vùng giáp ranh với các nước khác nhau thì những mặt hàng, thủ đoạn và phương thức vận chuyển hàng lậu có dấu hiệu đặc thù riêng, mặc dù ở một góc độ hay khía cạnh nào đó chúng có điểm giống nhau. a) Lạng Sơn: Lạng Sơn là một trong những tỉnh miền núi phía Bắc có đường biên giới đất liền giáp với Trung Quốc dài 253km bao gồm các cửa khẩu, cửa khẩu quốc gia, các cặp chợ vùng biên và rất nhiều đường mòn, đường tránh voi với địa hình núi non hiểm trở chính vì vậy ngoài các mặt hàng XNK qua các cửa khẩu biên giới theo quy định của Nhà nước,tình hình buôn lậu, trốn thuế, đặc biệt là những mặt hàng có thuế suất cao thường xuyên xảy ra ở các khu vực biên giới. Trong nội địa các địa bàn trọng điểm như thị xã, một số thị trấn, ga xe lửa, bến xe... là nơi mà bọn buôn lậu trốn thuế thường chọn làm nơi tập kết hàng hoá để tìm thuê phương tiện vận chuyển về các tỉnh phía sau nhằm trốn tránh sự kiểm tra, kiểm soát của lực lượng Hải quan. Do đặc điểm thuận lợi về địa hình đã làm cho tình hình buôn lậu và GLTM trên địa bàn tỉnh có diễn biến phức tạp. Năm 1998 tình hình này có chiều hướng gia tăng, mức độ buôn lậu, mức độ GLTM tinh vi hơn. Hầu hết các “đầu nậu” rút vào hoạt động chìm, núp bóng, chuyển hướng hoạt động, thiết lập đường dây mới, xé lẻ hàng hoá, thuê mướn nhân công khu vực đường biên bằng nhiều hình thức và quy mô khác nhau bất chấp luật lệ gây khó khăn phức tạp cho các lực lượng chuyên ngành. Ở cửa biển Cốc Nam, Chi Ma, Hữu Nghị, Tân Thanh giờ hoạt động cao điểm của bọn buôn lậu và GLTM từ 10giờ sáng đến 15 giờ chiều. Trước đây vào giờ cao điểm thì trên đường thường xuyên xuất hiện xe đạp, xe máy phân phối chở hàng hoá, nhập lậu từ khu vực biên giới, từ các đường mòn lối tắt, giáp cửa khẩu vào thị xã Lạng Sơn nhưng hiện nay hiện tượng đó giảm đi và thay vào đó là xuất hiện xe con cóc chở hàng như xe Deawoo, Asia, Sutubi nhưng thực chất là chở hàng lậu, cất dấu tinh xảo và chủ yếu lưu thông vào ban ngày. Thủ đoạn của gian thương ở khu vực này chủ yếu dùng đồng tiền lợi nhuận để kích thích một bộ phận nhân dân lao động đối đầu với các lực lượng chống buôn lậu, tham gia vận chuyển hàng lậu vào đêm tối, vào lối nhỏ phức tạp gây nhiều khó khăn cho việc kiểm soát ngăn chặn. Ngoài ra chúng còn sử dụng nhiều thủ đoạn khác như lôi kéo một số cán bộ Hải quan tha hoá biến chất bao bọc, che chở cho chuyến hàng lậu được trót lọt... Mặt hàng buôn lậu và GLTM chủ yếu là những mặt hàng thuộc diện Nhà nước quản lý dán tem hoặc những hàng hoá có thuế suất cao như đồ điện cao cấp, điện dân dụng, phương tiện vận tải, hàng tiêu dùng, điện tử, vật liệu xây dựng, hàng tạp hoá... Xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế ở địa phương từ nhiều năm nay Lạng Sơn đã có nhiều chủ trương, giải pháp, tổ chức chỉ đạo, điều hành kiểm tra, giám sát ngăn chặn tình hình buôn lậu một cách hiệu quả. Năm 2002 toàn tỉnh đã phát hiện xử lý 657 vụ trong đó: 324 vụ buôn bán hàng cấm hàng nhập lậu, 36 vụ sản xuất buôn bán hàng giả, hàng kém chất lượng và 297 vụ kinh doanh trái phép trị giá khoảng 3,2 tỷ đồng. So với thực tế sôi động ở khu vực cửa khẩu thì đây là con số thấp. b) Cao Bằng - Lào Cai: Cao Bằng, Lào Cai là hai tỉnh miền núi có đường biên giới đất liền tiếp giáp với Trung Quốc và có nhiều giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Cao Bằng có 5 cửa khẩu được khai thông là Tà Lùng, Pò pro, Sóc Giang, Trà Lỉnh, Bí Hà. Các cửa khẩu này được khai thông trong điều kiện nghèo nàn về cơ sở vật chất kĩ thuật, giao thông đi lại và đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn. Lào Cai có các cửa khẩu như Lào Cai - Hà Khẩu, cửa khẩu quốc gia Mường Khương. Hai địa bàn này núi non hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn, có nhiều cửa khẩu nhưng hoạt động kinh doanh không mấy sôi động so với các tỉnh biên giới khác do đó mà chủng loại hàng hoá không phong phú, đã phần nhỏ lẻ, giá trị thấp như máy bơm nước, quạt điện, bếp ga, xe đạp, các loại gạch ốp, rượu ngoại, vải đường kính, phụ tùng... thủ đoạn chủ yếu của bọn chúng là lợi dụng địa thế và lôi kéo cửu vạn vận chuyển hàng hoá qua biên giới, khai man về số lượng để giảm thuế, quay vòng tem, hoá đơn chứng từ đối với mặt hàng có thuế suất cao giá trị lớn lợi dụng giấy tờ xuất nhập cảnh để mang tiền giả, ngoại tệ, ma tuý cất dấu trong người một cách hết sức tinh vi, nhiều lúc bọn gian thương tổ chức theo dõi, giám sát hoạt động của Hải quan, biên phòng, lợi dụng lúc các lực lượng kiểm tra mất cảnh giác để tuồn hàng lậu qua biên giới. Chúng sử dụng xe đạp, xe máy và cả xe chở khách, chở quặng vào hoạt động buôn lậu, tập kết và tẩu tán tiêu thụ đi các nơi. Một điều đáng lo ngại ở khu vực này là nạn buôn bán hàng cấm XNK như ma tuý, thuốc nổ qua biên giới diễn ra phức tạp cà khá phổ biến. Trong năm 2001 bằng sự nỗ lực của riêng mình bộ đội biên phòng Lào Cai phát hiện được 29 vụ với 19 đối tượng vi phạm, thu giữ 1,118kg thuốc phiện, 4605 ống thuốc gây nghiện Diazepan, 2215 đồng NDT giả, 75 kg đạn súng kíp, 550 cây thuốc lá, 7kg thuốc nổ và 19 kíp nổ cùng nhiều loại hàng hoá khác. Trong năm 2002 toàn tỉnh Lào Cai phát hiện và xử lý 517 vụ vi phạm trong đó 122 vụ buôn bán hàng cấm, hàng nhập lậu; 33 vụ sản xuất buôn bán kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng và 362 vụ kinh doanh trái phép với số tiền thu nộp ngân sách là 775,6 triệu đồng. Cùng năm 2002 số vụ được phát hiện và xử lý ở Cao Bằng là 284 vụ trị giá 580 triệu đồng. Ở các chợ biên giới cả hai tỉnh Lào Cai và Cao Bằng cũng hết sức phức tạp và khó quản lý, các cư dân Trung Quốc tham gia vào hoạt động trao đổi mua bán ở các chợ biên giới đều không có giấy thông hành xuất nhập cảnh, do vậy họ thường đi lại qua các đường mòn biên giới, ít qua cửa khẩu làm cho các lực lượng, các cơ quan chức năng khó kiểm soát, đặc biệt trong công tác kiểm định hàng hoá, việc phân biệt giữa cư dân Việt Nam và cư dân Trung Quốc cũng gặp rất nhiều khó khăn làm cho kiểm soát hàng lậu rất khó, nhiều khi ở các chợ lại là nơi tập kết hàng lậu, hợp thức hoá hàng lậu, chủ yếu là hàng tươi sống và một số mặt hàng có giá trị nhỏ lẻ như vải, quần áo, vật dụng tiêu dùng... phục vụ nhu cầu tiêu dùng hàng ngày của dân cư. c) Biên giới Miền Trung: Buôn lậu và GLTM ở khu vực miền Trung đang đặt ra những vấn đề hết sức nóng bỏng mà điều nghịch lý diễn ra tại khu vực này là những mặt hàng mà ta cấm nhập khẩu hoặc những mặt hàng có thuế suất cao thì bên kia biên giới lại tập kết với quy mô lớn đang chờ thời cơ để tuồn vào Việt nam. Hai điểm nóng ở khu vực này là Lao Bảo, tuyến sông Sepon (Quảng Trị ) và cửa khẩu(Hà Tĩnh). * Khu vực Cầu Treo (Hà Tĩnh). Cầu Treo là một cửa khẩu quốc tế cách thị xã Hà Tĩnh gần 100 km trong đó gần một nửa là đường rừng, đường đèo quanh co dài hơn 20 km. Khác với khu vực khác, Cầu Treo gần như một con đường độc đạo nhưng vì thế mà không có buôn lậu diễn ra mà ngược lại nó cũng là một điểm nóng lớn không kém gì Lao Bảo (Quảng Trị). Trong một vài năm gần đây bọn buôn lậu đã kịp tập trung khai thác địa hình đồi núi, lợi dụng sự thông thạo đường mòn lối tắt của cư dân địa phương để đưa hàng lậu vào thông qua đội ngũ cửu vạn. Đây là hình thức mới rộ lên, cả những người miền xuôi lên, học sinh và giáo viên tham gia khuân vác hàng lậu. Trong đó phần lớn các cư dân của 2 xã Kim Sơn và Sơn Tây thuộc huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh. Địa bàn này các cửu vạn nắm rất vững vì chỉ có một số ít đường ngang lối tắt, và nếu có lỡ bị bắt bởi các lực lượng chống buôn lậu thì chính quyền địa phương lại giúp đỡ xác nhận vì hoàn cảnh khó khăn , đói kém xin các lực lượng chống buôn lậu “thả hàng” gây khó xử cho các lực lượng này trong giải quyết, xử lý hàng lậu, nhiều lúc các lực lượng này còn bị chống trả quyết liệt, trả thù của “cửu vạn”. Tính trung bình ngày có khoảng 200 triệu đồng hàng lậu, trốn thuế qua mặt Hải quan, ngày cao điểm lên tới 700-800 triệu đồng, chủ yếu do cửu vạn mang vác qua đường mòn. Mặt hàng chủ yếu được đưa qua cử._.hông ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hơn nữa thủ đoạn của bọn buôn lậu và GLTM ngày càng tinh vi và phức tạp, hệ thống pháp luật cũ không đầy đủ sẽ không đáp ứng được cho yêu cầu chống buôn lậu và GLTM thực tế, do đó phải bổ sung thêm cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra, nâng cao hiệu quả của công tác chống buôn lậu và GLTM từ đó nâng cao hiệu quả của công tác quản lý của Nhà nước về Thương mại. - Tổ chức thực hiện pháp luật: Đây là một khâu rất quan trọng vì có tổ chức thực hiện được tốt thì công tác chống buôn lậu và GLTM mới phát huy được tác dụng, để làm tốt được khâu này đòi hỏi phải có các văn bản hướng dẫn cụ thể những nội dung của pháp luật và không trái với pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật và sự hiểu biết pháp luật về chống buôn lậu và GLTM cho các lực lượng chống GLTM và toàn thể quần chúng nhân dân. Muốn vậy phải tuyên truyền giáo dục ý thức trách nhiệm, đây là nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước và của toàn Xã hội. - Kiểm tra kiểm soát việc thực thi pháp luật: An ninh trật tự xã hội muốn ổn định đòi hỏi pháp luật phải được thực thi một cách đày đủ và nghiêm minh, các hành vi vi phạm pháp luật phải được xử lý. Do đó đây là một khâu đảm bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và công bằng đối với tất cả mội người trong xã hội. 2. Quan điểm quần chúng: Chống buôn lậu và GLTM không chỉ là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước, của các lực lượng chống buôn lậu và GLTM mà đây là trách nhiệm của mọi người, của toàn xã hội. Giữ gìn trật tự an toàn xã hội, không là trách nhiệm của riêng ai. Do vậy để sự nghiệp Cách mạng XHCN được thành công thì nhân dân phải đoàn kết với nhau, nhà nước và nhân dân cùng làm. Có như vậy thì mới có được chuyển biến tích cực trong lịch sử. Để chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả, phải có quan điểm lấy dân làm gốc, phải để nhân dân thấy được quyền lợi của mình trong công tác chống buôn lậu và GLTM. Qua đó nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của quần chúng nhân dân Đảng và Nhà nước phải có trách nhiệm chỉ rõ cho nhân dân con đường hoạt động đúng, hiểu rõ quan điểm chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. 3. Quan điểm toàn diện và đồng bộ: Sở dĩ bọn buôn lậu và gian thương có đường hoạt động là do rất nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cả yếu tố khách quan và chủ quan như sự sơ hở của pháp luật, sự trợ giúp của cán bộ hải quan tha hoá biến chất... Do vậy đồng thời với công tác chống buôn lậu và GLTM thì phải bịt kín các khe hở của luật pháp, cơ chế chính sách và đào tạo sử dụng người tham gia vào công tác chống buôn lậu và GLTM có đầy đủ năng lực phẩm chất, sự nhiệt thành với công việc... Quan điểm toàn diện và đồng bộ đòi hỏi phải có các giải pháp khác nhau không chỉ cho công tác chống buôn lậu và GLTM mà còn trong công tác khác như hoàn chỉnh luật pháp, giáo dục tư tưởng đạo đức và nhận thức, các giải pháp kinh tế xã hội khác .. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỐNG GLTM Ở VIỆT NAM: 1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật: Pháp luật là một trong những công cụ cơ bản để điều chỉnh quan hệ xã hội nói chung và là một công cụ để chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả. Luật pháp là căn cứ để bắt giữ và xử lý các hành vi vi phạm. Tuy nhiên hệ thống pháp luật của ta hiện nay vừa thiếu vừa chưa đầy đủ rõ ràng, còn tạo ra nhiều khe hở cả trong qui định lẫn xử lý, cơ sở pháp lý còn thiếu, chưa thống nhất và đồng bộ. Nhiều văn bản pháp qui đã được sử dụng từ lâu bộc lộ nhiều thiếu sót thậm chí không còn phù hợp trong điều kiện hiện tại vẫn đang được sử dụng và chưa được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Một số văn bản của một số cơ quan còn chồng chéo nhau, chưa được qui định cụ thể rõ ràng hoặc có sự mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho người thừa hành cũng như xảy ra các tệ quan liêu tham nhũng hối lộ, tuỳ tiện trong sử dụng, chủ quan duy ý chí trong các công tác điều tra lẫn xử lý, trong cả quản lý và điều hành. Trong kinh tế - thương mại cần nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Luật Thương mại; sửa đổi, bổ sung Luật Thuế (nhất là điều chỉnh mức thuế xuất nhập khẩu); xây dựng Luật Cạnh tranh... Để chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật hoàn chỉnh hơn nữa, sửa đổi bổ sung các văn bản cũ, xây dựng thêm các điều luật mới về chống buôn lậu và GLTM, qui định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các lực lượng chống buôn lậu, các văn bản thống nhất và đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, thiết lập các biểu thuế thích hợp cho hoạt động XNK, qui định cụ thể cho từng mặt hàng, tránh chung chung dẫn đến áp dụng tuỳ tiện...Hệ thống pháp luật phải thường xuyên sửa đổi, bổ sung đáp ứng yêu cầu hiện tại của công tác chống buôn lậu cả trong bắt giữ và xử lý vi phạm, khắc phục các sơ hở làm thất thoát tài sản của nhà nước, gây trở cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, làm thiệt lợi ích của nhân dân.. 2. Về Kinh tế: - Đề nghị với Chính phủ điều chỉnh lại một số sắc thuế, tính lại thuế suất một số mặt hàng để vừa khuyến khích được sản xuất, vừa hạn chế được GLTM. - Chăm lo hơn nữa đời sống cư dân biên giới, kết hợp chương trình 135 với các chương trình khác; đưa dân ra biên giới kết hợp với việc hoàn thành cắm mốc biên giới. - Nâng cao chất lượng hàng hoá; đa dạng hoá và hạ giá thành sản phẩm. 3. Cải cách thủ tục hành chính: Thủ tục hành chính là một trong các công cụ để quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động XNK, hoạt động lưu thông hàng hoá trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên các thủ tục của ta còn rườm rà, phức tạp,người kinh doanh phải làm rất nhiều các thủ tục khác nhau làm mất thời gian công sức, tiền của và thậm chí mất cơ hội kinh doanh của hộ. Từ đó gây khó khăn cho hoạt động đầu tư nước ngoài cũng như kinh doanh buôn bán với các đối tác nước ngoài...dẫn đến các thủ đoạn gian lận trốn thuế. Điều này đòi hỏi các thủ tục phải được tinh giản đi những vẫn bảo đảm sự quản lý của nhà nước, chống được buôn lậu và GLTM, bảo đảm thu đúng, thu đủ các khoản thuế tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước đồng thời bảo vệ được sản xuất trong nước và người tiêu dùng, không gây phiền hà ách tắc trong lưu thông, trong tiến trình hội nhập Thương mại vào khu vực và Thế giới. Đổi mới cả về quy trình, nghiệp vụ, tổ chức quản lý các giấy tờ, rà soát lại các văn bản các qui định và hệ thống lại theo hướng đơn giản, hài hoà thống nhất, dễ thực hiện. áp dụng trang thiết bị máy móc hiện đại vào việc tổ chức, kiểm tra, kiểm soát, lưu trữ các tài liệu văn bản tính thuế thống kê hàng hoá XNK, tra mã...làm cho các thủ tục được giải quyết nhanh chóng và có hệu quả, đảm bảo tính trung thực khách quan. Việc áp dụng này đòi hỏi kinh phí lớn để đầu tư cho trang thiết bị máy móc, đào tạo cán bộ nghiệp vụ có kĩ thuật sử dụng, thông thạo ngôn ngữ máy. Công tác kiểm dịch hàng hoá cũng phải được tinh giản, chỉ cần có một cơ quan giám định hàng hoá, chứng nhận hải quan có thể thông qua thay vì phải thông qua 3 hay 4 cơ quan giám định như trước kia ở một số nơi. Về sửa đổi, bổ sung những văn bản có liên quan đến công tác quản lý thị trường cần tập trung xây dựng ban hành Nghị định Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại; Thông tư liên ngành quy định về hoá đơn, chứng từ đối với hàng hoá lưu thông trên thị trường thay cho các Thông tư 170, 77 và 17 hiện tại gây khó khăn cho việc truy ngược tìm nguồn gốc hàng nhập khẩu. Đặc biệt, ngày 07/11/2002, Chính phủ đã ban hành Nghị định 89/2002/NĐ-CP về việc in, phát hành, sử dụng, quản lý hoá đơn. Với Nghị định này, những GLTM về mua bán hoá đơn và hoàn thuế VAT nhằm GLTM sẽ được hạn chế. Ngoài ra các chế độ, chính sách kích thích hiệu quả đấu tranh chống buôn lậu và GLTM như chế độ tiền lương cho lực lượng kiểm tra - kiểm soát trực tiếp, chế độ thưởng cho người có công phát hiện, thu giữ hàng lậu; chế độ đãi ngộ cho những người bị thương hoặc bị hy sinh trong cuộc đấu tranh này... 4. Về tổ chức điều hành: Thực hiện Chỉ thị số 853 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong tình hình mới, ngày 13-11-1997, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Ban Chỉ đạo 853, tiếp theo ngày 27-8-2001, Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu và GLTM (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 127-TW) thay thế Ban Chỉ đạo 853. Ban Chỉ đạo 127-TW do Bộ trưởng Bộ Thương mại làm Trưởng Ban, các uỷ viên gồm đại diện lãnh đạo các Bộ, ngành: Công an, Thương mại, Quốc phòng, Tài chính, Khoa học và Công nghệ, Văn phòng Chính phủ, Tổng cục Hải quan và Bộ Tư lệnh bộ đội Biên phòng. Ban Chỉ đạo 127-TW có nhiệm vụ, quyền hạn: - Giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo và tổ chức phối hợp giữa các Bộ, ngành địa phương trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. - Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao; giải quyết các vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều Bộ, ngành, địa phương trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. - Tổng hợp tình hình, đánh giá kết quả hoạt động chống buôn lậu và GLTM của các Bộ, ngành, địa phương, báo cáo Thủ tướng Chính phủ; kiến nghị với Thủ tướng Chính phủ các chủ trương, biên pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. - Trong trường hợp cần thiết, Ban Chỉ đạo chống buôn lậu và GLTM thành lập các tổ công tác kiểm tra trực tiếp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ của Ban. Theo mô hình tổ chức trên, tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập Ban Chỉ đạo chống buôn lậu và GLTM (gọi tắt là Ban Chỉ đạo 127/ĐP) do đồng chí lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố làm Trưởng Ban. Như vậy, về chỉ đạo điều hành đã hình thành mô hình tổ chức thống nhất từ Trung ương đến địa phương trên cơ sở phối hợp hành động chung giữa các ngành và lực lượng hữu quan. Hiện tại, Ban Chỉ đạo 127-TW và địa phương đã có kế hoạch hành động và bước đầu chỉ đạo công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đạt được một số kết quả quan trọng nhưng do hoạt động của các thành viên Ban là kiêm nhiệm nên hiệu quả còn hạn chế. Vì vậy, cần nhanh chóng kiện toàn xây dựng đội ngũ các chuyên gia có kinh nghiệm và chuyên môn giỏi hoạt động chuyên trách thường trực giúp việc Ban. 5. Tuyên truyền giáo dục nâng cao ý thức giác ngộ nâng cao đời sống cho nhân dân: Chống buôn lậu và GLTM là một công tác đòi hỏi phải có sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân, trên thực tế nhiều cá nhân tổ chức cho rằng nhiệm vụ này chỉ là của các lượng chống buôn lậu và GLTM, tiếp tay cho buôn lậu bằng cách tiêu dùng hàng trốn lậu thuế với giá rẻ...thái độ không hợp tác và tiếp tay cho bọn buôn lậu đã gây ra các tác hại không nhỏ cho sản xuất tiêu dùng, an ninh trật tự xã hội. Do vậy mà việc tuyên truyền nâng cao ý thức giác ngộ cho quần chúng nhân dân là một việc làm cần thiết và phải được tiến hành thường xuyên liên tục để mọi người thấy hết được tầm quan trọng của công tác chống buôn lậu và GLTM, phối hợp với các lực lượng chống buôn lậu áp dụng các biện pháp có hiệu quả cao, tham gia vào việc lập pháp và hoàn thiện pháp luật... Các dân cư ở khu vực biên giới có điều kiện khó khăn về kinh tế không được giáo dục ý thức pháp luật nên vì lợi ích trước mắt họ đã tiếp tay cho bọn buôn lậu và GLTM. Do đó yêu cầu Nhà nước và Chính phủ quan tâm hơn nữa đến việc phát triển kinh tế các vùng biên giới, phát triển y tế giáo dục tuyên truyền giáo dục họ để có thể nhận thức được và tiếp tục phát triển kinh tế địa phương. Đây là yêu cầu hết sức khó khăn vì hầu hết họ là người dân tộc ít người khác biệt về ngôn ngữ, nghèo khó, họ làm như vậy chỉ mong có một cuộc sống khá hơn...nhưng lại rất cấp bách trong một vài năm trở lại đây đòi hỏi phải được quan tâm giải quyết kịp thời. 6. Tăng cường phối hợp giữa cán bộ ngành trong công tác chống buôn lậu và GLTM: Đồng thời phân định rõ chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan chuyên ngành: Theo tinh thần của chỉ thị 358/1997/CT - TTg Thủ tướng Chính phủ ngày 11/10/1997 về đấu tranh chống buôn lậu trong tình hình mới đặt ra yêu cầu về sự phối hợp giữa các ngành địa phương trong công tác chống buôn lậu và GLTM: Về tổ chức kiểm tra - kiểm soát và xử lý trước đây ta chú trọng ngăn chặn buôn lậu từ biên giới, nay ngoài việc tăng cường ngăn hàng lậu từ biên giới vào cần tập trung kiểm tra, kiểm soát và xử lý hàng lậu, hàng giả và những hành vi GLTM khác trên thị trường nội địa. Kinh nghiệm tổ chức thực hiện phương án chống mặt hàng vải và thuốc lá lậu trên thị trường nội địa trong tháng 9-2002 là bài học để ta tiếp tục triển khai kiểm tra, xử lý những mặt hàng lậu khác trên thị trường. Vì vậy công tác kiểm tra, kiểm soat, xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động thương mại cần bám sát mục tiêu kinh tế - xã hội trên cơ sở những đòi hỏi yêu cầu cụ thể thực hiện của các cơ sở sản xuất kinh doanh. Theo hướng đó, trong những năm tới cần xây dựng những kế hoạch, phương án kiểm tra, kiểm soát xử lý đối với những ngành hàng, nhóm hàng cụ thể có tác động mạnh đến sản xuất, kinh doanh trong nước và gây thất thu ngân sách Nhà nước... Ngoài ra, cần tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu, GLTM ở cấp cơ sở. Suy cho cùng, hoạt động vi phạm thương mại diễn ra trên địa bàn, do vậy, trước hết trách nhiệm chủ yếu là chính quyền và cấp uỷ địa phương phải chỉ đạo và sử dụng lực lượng tại chỗ, tổ chức thực hiện tốt công tác này trên địa bàn mình quản lý. Công tác tổ chức, điều hành không chỉ bó hẹp trong phạm vi các lực lượng chức năng thực thi nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát và xử lý mà cần tổ chức một cách rộng rãi tới mọi đối tượng là các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, người tiêu dùng, các cơ quan thông tin đại chúng các tổ chức đoàn thể chính trị và xã hội... nhằm tạo sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến chống buôn lậu và GLTM. Các ngành ở Trung ương có trách nhiệm cùng các địa phương thực hiện tốt các chình sách Kinh tế - Văn hoá - Xã hội nhằm nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân. Uỷ ban các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương dưới sự chỉ đạo tực tiếp của các cấp đảng uỷ và sự giám sát của hội đồng nhân dân quản lý chặt chẽ hoạt động XNK của địa phương và Trung ương đóng trên địa bàn. - Cán bộ ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng lực lượng chống buôn lậu và GLTM trong sạch và vững mạnh trang bị đầy đủ phương tiện hiện đại cần thiết cho công tác điều tra ngăn chặn mọi hoạt động buôn lậu và GLTM. Đại diện các cơ quan này phải chịu trách nhiệm hàng tháng báo cáo kết quả chống buôn lậu và GLTM với Thủ tướng Chính phủ. Chức năng nhiệm vụ của mỗi cơ quan bộ phận phải được phân định rõ: - Hàng hoá qua cửa khẩu trách nhiệm chính là của Hải quan - Hàng kinh doanh trên thị trường nội địa trách nhiệm chính là lực lượng quản lý thị trường. - Biên phòng làm nhiệm vụ an ninh cửa khẩu bảo vệ đường biên chống buôn lậu ở vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế về biên giới có đồn biên phòng nhưng chưa có tổ chức hải quan. - Bộ Thương mại với tư cách là cơ quan quản lý nhà nước về thương mại có nhiệm vụ quản lý chặt chẽ hoạt động XNK để đề xuất các điều chỉnh về chính sách liên quan đến hoạt động này đệ trình lên Chính phủ. - Chính quyền địa phương chịu trách nhiệm toàn diện quản lý hành chính kinh tế trên địa bàn, tổ chức phối hợp tất cả các cơ quan làm nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM trực tiếp thụ lý các vụ việc vi phạm về buôn lậu và GLTM trốn thuế trên địa bàn. Phải có sự phối hợp chặt chẽ và phân định rõ chức năng nhiệm vụ quyền hạn thì công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM mới đồng bộ và đạt hiệu quả cao. 7. Xây dựng lực lượng chống buôn lậu và GLTM trong sạch: Để đối phó với thủ đoạn trong buôn lậu và GLTM đòi hỏi các lực lượng chống buôn lậu và GLTM phải mạnh cả số lượng và chất lượng, số lượng trong đội chống buôn lậu và GLTM hiện nay ở nước ta còn thấp đòi hỏi phải được bổ sung, chỉ đặt 3 - 4 người ở một cửa khẩu, phải tăng thêm để hoạt động có hiệu quả. Về mặt chất lượng các lực lượng chống buôn lậu và GLTM hoạt động trong môi trường rất nhạy cảm, luôn có sự cám dỗ vật chất từ phía bọn buôn lậu cùng với sự đe doạ tính mạng do đó không thể loaị trừ khả năng có cán bộ vì vụ lợi tiếp tay cho bọn gian thương. Để công tác chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả thì những phần tử này cần phải được loại trừ thay vào đó là những người có năng lực và tinh thần trách nhiệm, tư tưởng vững vàng, hoạt động vì sự tin tưởng của nhân dân, an toàn xã hội. Nghị quyết số 12 của Bộ Chính trị về “Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” khẳng định: “xây dựng lực lượng Quản lý thị trường theo yêu cầu chính quy, tổ chức chặt chẽ”; Luật Thương mại quy định về nội dung quản lý Nhà nước về thương mại trong đó xác định: “Hướng dẫn, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển thương mại và việc chấp hành pháp luật về thương mại, xử lý vi phạm pháp luật về thương mại, tổ chức việc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM”. Những định hướng và yêu cầu trên đây đòi hỏi phải nâng cao năng lực đội ngũ kiểm tra, kiểm soát thị trường nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Để nâng cao năng lực đội ngũ kiểm tra, kiểm soát thị trường cần tập trung thực hiện một số nội dung sau: - Một là, tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Hải quan, công chức Quản lý thị trường và bộ đội Biên phòng về năng lực, kiến thức và trình độ - Hai là, về công tác đào tạo bồi dưỡng: Xây dựng kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ giai đoạn 2002-2006. Đi sâu vào những vấn đề kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm nhằm giải quyết những vụ việc thường xuyên xảy ra trên thực tế, đặc biệt là kiểm tra xử lý những vi phạm về sở hữu trí tuệ là vấn đề mới phức tạp hiện nay. Cần phối hợp tốt các Bộ, các cơ quan quản lý Nhà nước hữu quan như Công an, Hải quan, Thuế, Sở hữu công nghiệp... trong việc triển khai kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ này. Đồng thời, công tác bồi dưỡng nghiệp vụ gắn với công tác đào tạo nâng cao kiến thức văn hoá của đội ngũ cán bộ Hải quan, công chức Quản lý thị trường, bộ đội Biên phòng. 7. Trang bị máy móc thiết bị hiện đại cho lực lượng chống buôn lậu và GLTM: Cơ sở vật chất kỹ thuật của ta phần lớn là lạc hậu, thiếu , không đủ phục vụ cho công tác chống buôn lậu và GLTM hiệu quả đòi hỏi phải trang bị thêm theo hướng đầy đủ hiện đại và hoàn thiện như: - Sử dụng các phương tiện hiện đại truyền tin và xử lý thông tin nhanh chóng, đặc biệt là các thông tin tình báo... - Trang bị máy soi container và các thiết bị khác cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát của hải quan. - Ứng dụng vi tính vào quy trình hoạt động hải quan như đăng ký tiếp nhận tờ khai, tính thuế, kiểm tra mã số hàng hoá. 9. Kiểm tra sau thông quan: Kiểm tra sau thông quan là một khâu kiểm tra hải quan thực hiện để kiểm tra thẩm định tính trung thực các nội dung khai báo và tính thuế của người làm thủ tục hải quan đối với lô hàng xuất nhập khẩu đã được giải phóng nhằm thu đúng thu đủ thuế cho ngân sách nhà nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân có liên quan. Hàng hoá đã được đưa vào lưu thông nhưng vẫn phải được rà soát lại các thủ tục. Việc kiểm tra sau thông quan chỉ có thể thực hiện tốt trên cơ sở các số liệu, tài liệu được ghi chép đầy đủ. Nhưng trên thực tế các tài liệu này được ghi chép và lưu trữ một cách cẩn thận, do đó phải được chấn chỉnh và sắp xếp lại đảm bảo cho công tác kiểm tra sau thông quan được thực hiện nhanh chóng, ngăn chặn việc để các gian thương lọt lưới trốn thuế... 10. Đẩy mạnh sản xuất trong nước: Sản xuất trong nước có nhiều yếu kém năng suất chất lượng thấp, chi phí giá thành cao, khả năng cạnh tranh với nước ngoài kém là một trong những nguyên nhân của tệ nạn buôn lậu và gian lận thương mại do đó mà sản xuất trong nước phải được đầu tư phát triển mạnh hơn cả về trang thiết bị máy móc công nghệ hiện đại, trình độ năng lực quản lý của các cán bộ kĩ thuật phải được nâng lên một bước nâng cao tay nghề của công nhân viên, nâng cao năng suất lao từ đó nâng cao số lượng chất lượng sản phẩm hạ giá thành tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường và dần thay thế hàng ngoại, có như vậy mới hạn chế được hàng lậu. Tuy nhiên, với điều kiện thực tế của Việt Nam là cơ sở hạ tầng thấp kém thì khó có thể đầu tư nhanh được đặc biệt là thiếu vốn, quản lí mang tính chủ quan khó thay đổi... Mặc dù vậy các doanh nghiệp trong nước đã biết khắc phục khó khăn dựa vào lợi thế, tiềm lực của mình để có thể phát triển và trụ vững trong kinh doanh. 11. Một số giải pháp cụ thể cần được thực hiện: a) Dán tem: Đây là một hình thức quản lý hàng hoá trong và ngoài nước có hiệu quả, dễ kiểm soát và phát hiện vi phạm. Qua đợt dán tem 17 mặt hàng người ta đã thấy được ưu điểm của nó là hạn chế được hàng nhập lậu xuất hiện trên thị trường, thúc đẩy sản xuất trong nước và có nhiều chuyển biến tích cực, đặc biệt vơí một số mặt hàng: Mặt hàng sứ của công ty sứ Thiên Thanh, tivi màu lắp trong nước hiệu JVC, TOSHIBA... tuy nhiên biện pháp này còn bộc lộ nhiều hạn chế. Những biện pháp nghiệp vụ mà các cơ quan chức năng đang áp dụng để phát hiện, ngăn chặn và quay vòng tem chưa thực sự hiệu quả, hiệu lực của những con tem Thương mại ngày nay đang ngày càng suy giảm, xuất hiện sự thiếu hụt giả tạo ở mỗi đợt dán tem, xuất hiện tem giả, sử dụng lại mớ hàng hoặc chào hàng bằng hàng có dán tem thật nhưng bán cho khách hàng hàng không có tem cùng loại nhưng giá thấp hơn. Việc dán tem chủ yếu dựa vào lời khai của chủ hàng nên không đảm bảo tính trung thực, đòi hỏi việc dán tem phải được thực hiện một cách triệt để, tăng cường kiểm tra giám sát, xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm trong gian lận dán tem phát huy tính hiệu lực của mặt hàng tốt, của việc dán tem. b) Xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm buôn lậu và GLTM, điều tra xét xử ngay một số các vụ buôn lậu điển hình để răn đe giáo dục chung, đình chỉ hoạt động hoặc rút giấy phép kinh doanh đối với các đơn vị vi phạm, tịch thu hàng hoá và xử lý theo mức độ vi phạm. c) Có chế độ khen thưởng thích hợp, khuyến khích lợi ích vật chất cho người, cơ quan, đơn vị có thành tích trong hoạt động chống buôn lậu và GLTM để họ tích cực hơn nữa và nâng cao hiệu quả của công tác chống buôn lậu và GLTM. d) Thành lập và tổ chức tốt các trạm thanh tra kiểm soát liên ngành, trước mắt là trên địa bàn các tỉnh Quảng Ninh, Lạng Sơn, Long An, Hà Giang, Quảng Trị. e) Một số mặt hàng cấm như ma tuý, chất kích thích... có thể sử dụng chó nghiệp vụ vào việc phát hiện buôn lậu, đây là một phương pháp hết sức hiệu quả và cần được phát huy tác dụng. f) Buôn lậu và GLTM thường đi kèm với tham nhũng do vậy phải kết hợp chống buôn lậu và GLTM với chống tham nhũng. Bọn gian thương và tham nhũng hiện nay đang câu kết với nhau tạo thành đường dây buôn lậu lớn, làm ăn phi pháp, hoạt động tinh vi. Do vậy để chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả thì phải đẩy mạnh công tác điều tra giám sát hoạt động của các cơ quan có tổ chức. g) Cơ chế chính sách XNK phải được thực hiện một cách linh hoạt mềm dẻo trong từng thời kỳ để nâng cao hiệu qủa của thị trường trong nước, vừa hạn chế hàng lậu, vừa tạo khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, vừa phù hợp với chương trình hội nhập khu vực và quốc tế. h) Tăng cường hợp tác với các cơ quan Hải quan của các nước trong khu vực đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Tăng cường hợp tác trao đổi thông tin tình báo. Lựa chọn mục tiêu, hồ sơ phương án quản lý đánh giá rủi ro, phát hiện các hiện tượng buôn lậu và GLTM, phối hợp với các lực lượng chức năng của nước bạn trong kiểm tra, kiểm soát hàng hoá XNK, tranh thủ sự hợp tác giúp đỡ của các nước phát triển trong việc đào tạo cán bộ có năng lực, trình độ và nghiệp vụ chống buôn lậu và GLTM. Kỹ thuật và các phương pháp đấu tranh chống buôn lậu và GLTM một cách có hiệu quả tranh thủ sự giúp đỡ của họ về mặt vật chất, kỹ thuật hiện đại cho công tác kiểm soát, giám soát hàng hoá chống buôn lậu... III. KIẾN NGHỊ: Quán triệt tinh thần Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị về việc “tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động thương nghiệp, phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” với nội dung quan trọng về các biện pháp hạn chế tiêu cực của cơ chế thị trường, đấu tranh chống buôn lậu và GLTM, và định hướng xây dựng lực lượng Hải quan, Quản lý thị trường theo yêu cầu chính quy, chặt chẽ với thực tiễn đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại thời gian qua cũng như trước yêu cầu đổi mới công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM, nhằm tiếp tục phát triển thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, em xin kiến nghị với Đảng xem xét bổ sung (nếu có thể) trong Nghị quyết 12 của Bộ Chính trị quan điểm xã hội hoá và hợp tác quốc tế về công tác đấu tranh chống buôn lậuv à GLTM của nước ta hiện nay trong giai đoạn tiến hành nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. 1. Kiến nghị về xã hội hoá công tác đấu tranh chống GLTM: Mặc dù những năm gần đây, các ngành, các cấp từ Trung ương đến địa phương đã có bước chuyển biến quan trọng về nhận thức nhưng chưa đồng đều, thậm chí còn sai lệch... cần khắc phục ngay tình trạng coi công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là việc riêng của các lực lượng chức năng; coi trọng công tác đấu tranh tuyên giáo dục đối với các ngành, các cấp, các lực lượng, các tổ chức chính trị, đoàn thể và xã hội, các doanh nghiệp và đông đảo nhân dân và coi đây như một trong các yêu cầu và giải pháp mới về công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM trong giai đoạn hiện nay. 2. Kiến nghị hợp tác quốc tế trong đấu tranh chống GLTM: Nhiều hành vi buôn lậu và GLTM, các quốc gia đều thống nhất về mặt quản lý Nhà nước phải kiểm soát các hoạt động thương mại bất hợp pháp này, ngăn chặn, loại trừ tác hại của chúng. Mặt khác, trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tê, sự hợp tác giữa các quốc gia trong đấu tranh chống buôn lậu và GLTM là một đòi hỏi tất yếu. Đến nay, nhiều tổ chức quốc tế về hợp tác chống buôn lậu và GLTM đã được thành lập như: cơ quan kiểm soát ma tuý của Liên hiệp quốc, Tổ chức Cảnh sát quốc tế (Interpol), Cơ quan chống GLTM (OLAF) của Cộng đồng các nước Châu Âu (EU)... Ngoài ra, các nước hữu quan còn ký với nhau những thoả thuận song phương nhằm hợp tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Việt Nam đã có hợp tác song phương với Trung Quốc, Campuchia, Lào và EU, Interpol về đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Trong những năm gần đây, Bộ Thương mại Việt Nam cũng ký với Bộ Nông nghiệp và Nghề cá (Cộng hoà Pháp) hợp tác đấu tranh chống hàng giả, bảo hộ chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ một số mặt hàng như nước mắm Phú Quốc, chè Shan tuyết mộc châu. Trong giai đoạn tới, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh việc hợp tác này nhằm tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Kết luận Gian lận thương mại là một hiện tượng kinh tế xã hội tiêu cực đang diễn ra một cách phổ biến hiện nay với nhiều thủ đoạn tinh vi phức tạp gây nhiều khó khăn trở ngại cho lực lượng chống buôn lậu cũng như sản xuất trong nước. GLTM đem đến những hậu quả rất nghiêm trọng không chỉ với nền kinh tế, sản xuất - tiêu dùng, văn hoá - xã hội... mà có tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại chân chính, đến quyền lợi chính đáng của Thương mại Quốc tế. Vì vậy, chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả là góp phần phát triển kinh tế - xã hội, chống được thất thu thuế, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh chân chính phát triển. Do vậy cần phải tiêu diệt và loại trừ hoàn toàn tận gốc không cho chúng phát triển tràn lan. Tuy nhiên thực trạng về buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta hiện nay là hết sức bức xúc và nóng hổi. Trong khi đó những biện pháp chống tiêu cực này đã bộc lộ nhiều hạn chế khách quan đòi hỏi Đảng và nhà nước các cấp bộ ngành cơ quan chức năng cần phải xem xét khắc phục tính chủ quan đồng bộ đồng thời khắc phục được những yếu tố khách quan nâng cao hơn nữa hiệu quả của các giải pháp chống buôn lậu và gian lận thương mại phù hợp với tình hình kinh tế hiện nay. Đối với chúng ta, trong điều kiện hiện nay đang tập trung thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước từng bước đưa đất nước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nhiệm vụ chống buôn lậu và GLTM càng quan trọng và có ý nghĩa thiết thực. Trong những năm vừa qua, công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM đã đạt được một số kết quả khả quan, đã kiểm tra, phát hiện và xử lý nhiều vụ vi phạm thu về cho ngân sách hàng triệu USD. Tuy nhiên trên thực tế buôn lậu và GLTM vẫn chưa giảm và hành vi thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt hơn. Để lý giải cho thực trạng này có rất nhiều nguyên nhân, song chủ yếu là do pháp luật của ta chưa nghiêm, còn thiếu thốn, chưa đồng bộ và thiếu tính thống nhất. Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như: Công tác tuyên truyền chống buôn lậu và GLTM chưa được coi trọng nên trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân về tệ nạn buôn lậu và GLTM chưa đầy đủ. Trang thiết bị phục vụ cho công tác kiểm tra kiểm soát còn thiếu thốn thô sơ... Vì vậy để công tác chống buôn lậu và GLTM có hiệu quả, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cố gắng và phối hợp thống nhất của các Bộ, ngành có liên quan,... Cần tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân và sự hợp tác quốc tế trong công tác đấu tranh chống buôn lậu và GLTM. Nghiên cứu đề tài này giúp em hiểu rõ tình hình chống buôn lậu và gian lận thương mại ở nước ta, hiệu quả của các giải pháp mà chúng ta đưa ra và đặc biệt là nó cho em thấy được vai trò tác dụng của việc chống buôn lậu và gian lận thương mại ổn định thị trường an ninh chính trị... thúc đẩy nền kinh tế phát triển hội nhập vào khu vực và thế giới. Tuy bản thân cũng đã có những cố gắng và được sự chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Hoàng Ngọc Thiết cùng với sự giúp đỡ nhiệt thành của Cục Quản Lý Thị Trường thuộc Bộ Thương Mại nhưng chắc chắn luận văn này sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp ý của các thầy cô và các bạn để đề tài này càng thêm hoàn thiện. Xin trân thành cảm ơn! Tài liệu tham khảo 1. Từ điển tiếng Việt - NXB Khoa học, Hà nội 1997. 2. Luật Thương mại Quốc tế. 3. Tạp chí Thương mại số 11/2001. 4. Thời báo kinh tế số 29,30,31,32,33/2001. 5. Báo An ninh thế giới. 6. Báo Hải quan số 25,26,27,28,29,30,31,32,33,.../2001. 7. Báo cáo tổng kết năm 2000, 2002 của Cục Quản Lý Thị Trường. 8. Báo Thương mại số 32,71,95,102,103/2000 số 5,17,18,20,21,22,25,26,31/2001. 9. Báo cáo Tham luận của Tỉnh Quảng Ninh tại Hội thảo “Chống buôn lậu và GLTM” năm 1999. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8397.doc
Tài liệu liên quan