Hoàn thiện cơ chế Quản lý tài chính tại Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ

LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực của xã hội về con người, công nghệ, và vốn. Đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp chung đó là các tổ chức tài chính - tín dụng. Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thủy là Công ty Tài chính Nhà nước thuộc Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt, hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng, các Luật có liên quan khác. Được thành lập ngày 19/12/1998 theo

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Hoàn thiện cơ chế Quản lý tài chính tại Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Quyết định số 3456/QĐ-BGTVT của Bộ Giáo Thông Vận tải và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 9 tháng 5 năm 2005. Công ty tài chính Công nghiệp tàu thuỷ là một trong những đơn vị thành viên của Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam với nhiệm vụ chính là huy động vốn để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn, trung và dài hạn trong việc phát triển ngành Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam. Sau gần 10 năm hoạt động, thông qua hoạt động chủ yếu là huy động vốn, Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ đã và đang dần chứng tỏ được vai trò là đầu mối cung cấp và thu xếp vốn chủ yếu cho các thành viên trong Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, cho các dự án trọng điểm mà Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam làm chủ đầu tư trên các phương diện đầu tư mở rộng, đầu tư mới, đầu tư nâng cấp, và bổ sung vốn lưu động. Tuy nhiên, hiệu quả của hoạt động này được đánh giá là cao. Nhưng để đứng vững trong môi trường cạnh tranh ngày càng khốc liệt trong thời gian tới và khẳng định vai trò không thể thiếu trong quá trình phát triển của Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam, hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính là vấn đề có ý nghĩa to lớn đối với Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ. Nhận thức từ ý nghĩa vấn đề nêu trên, với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về các lĩnh vực quản lý tài chính đặc biệt là Cơ chế quản lý tài chính và qua quá trình thực tập tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu Thuỷ. Trong báo cáo thực tập chuyên ngành này Em xin phép được nghn cứu đề tài “Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Công ty tài chính Cống nghiệp Tàu thuỷ”. Báo cáo thực tập tốt nghiệp ngoài phần mở đầu và kết luận được chia thành 3 phần: Chương 1: Cơ sở lý luận về Cơ chế quản lý tài chính tại Công ty tài chính Chương 2: Thực trạng cơ chế quản lý tài chính tại Công ty tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Chương 3: Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính tại Công ty Tài chính Công nghiệp Tàu thuỷ Do hạn chế về kinh nghiệm và nhận thức, bản báo cáo này không tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo của Thầy Cô hướng dẫn. Hà Nội, ngày 10 tháng 10 năm 2008 Sinh viên Ngụy Đình Hùng CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH Tổng Quan về Công ty Tài Chính Khái niệm và vai trò của Công ty Tài Chính Khái niệm về công ty tài chính Các tổ chức trung gian tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ thống tài chính quốc gia. Nó có vai trò đặc biệt trong việc huy động các nguồn lực tài chính và cung cấp các dịch vụ tài chính cho hoạt động sản xuất, thương mại, dịch vụ và đầu tư phát triển nền kinh tế của đất nước. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, các tổ chức trung gian tài chính cũng ngày càng phát triển phong phú và đa dạng. Có nhiều cách phân loại các tổ chức trung gian tài chính khác nhau ở các nước, song nhìn chung thường được phân thành hai loại là các Ngân hàng và các Tổ chức Tài chính phi ngân hàng. Các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng là các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, được thực hiện một số hoạt động Ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường xuyên nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ thanh toán. Cũng như các Ngân hàng, các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng cũng có chức năng làm trung gian tài chính: huy động các món tiền gửi có kỳ hạn, đặc biệt là tiền tiết kiệm để đưa vào lĩnh vực đầu tư... Các Tổ chức Tài chính phi Ngân hàng bao gồm: Các Công ty Tài chính và các Công ty cho thuê Tài chính, Công ty Bảo hiểm, Công ty Chứng khoán, Công ty quản lý Quỹ đầu tư... Các Ngân hàng là loại hình trung gian tài chính tiêu biểu đã được xuất hiện từ lâu (thế kỷ XV). Nó cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất cho nền kinh tế. Còn các Công ty Tài chính thì mới được hình thành sau này (thế kỷ XX). Sự xuất hiện của loại hình này nhằm khắc phục được những hạn chế về mặt luật pháp đối với hoạt động của các Ngân hàng (các Ngân hàng Thương mại thường không được phép mở rộng các dịch vụ Tài chính Ngân hàng sang các lĩnh vực khác) và bổ sung cho các khu vực thị trường mà các Ngân hàng Thương mại không đáp ứng được nhu cầu về vốn đầu tư ngày càng to lớn. Có nhiều cách hiểu và diễn đạt khác nhau về Công ty Tài chính. Bản thân tên gọi Công ty Tài chính mới xuất hiện từ những năm 60 của thế kỷ XX. Tại mỗi nước, tuỳ theo chính sách phát triển loại hình các Tổ chức Tài chính để quy định phạm vi, nội dung các nghiệp vụ mà các Công ty Tài chính được phép thực hiện. Thị trường tài chính càng phát triển thì cấu trúc tổ chức và hoạt động của các Công ty tài chính càng phong phú, đa dạng. Song, các Công ty Tài chính trên thế giới đều có đặc điểm chung là: - Các Công ty Tài chính là một tổ chức kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường tài chính, hạch toán độc lập, được đăng ký kinh doanh theo pháp luật. Quy mô thường nhỏ và vừa, và không có nhiều chi nhánh như các Ngân hàng Thương mại. - Khác với các Ngân hàng Thương mại, được hoạt động cả ba khâu: nhận tiền gửi, cho vay và thanh toán, hoạt động của các Công ty Tài chính hẹp hơn, giới hạn ở một số khâu và mang tính chuyên nghiệp, đặc biệt trong một số nghiệp vụ nhất định. Đặc biệt các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Các Công ty Tài chính huy động vốn bằng cách phát hành các công cụ nợ (kỳ phiếu, trái phiếu) và dùng số tiền đó để cho vay hoặc đầu tư. Ở Việt Nam, theo Điều 2 Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ định nghĩa Công ty Tài chính như sau: Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm. Vai trũ của Cụng ty tài chớnh Công ty Tài chính là một trung gian tài chính, vì vậy nó mang đầy đủ vai trò của một trung gian tài chính trong nền kinh tế. Một trung gian tài chính có nhiệm vụ thu hút, tích tụ tập trung các nguồn vốn nhằm cho những người có nhu cầu sử dụng vốn vay. Thông qua các phương thức huy động vốn chủ yếu là phát hành giấy tờ có giá, Công ty Tài chính thực hiện hoạt động tín dụng, kinh doanh trên thị trường chứng khoán, hoạt động ngoại hối, các dịch vụ bảo hiểm, bao thanh toán, tư vấn tài chính. Công ty Tài chính đã đem lại lợi ích đầy đủ cho người có vốn (người cho vay), người cần vốn (người đi vay) và cho cả nền kinh tế. Với tính chất là một tổ chức tài chính chuyên môn hoá cao trong một số nghiệp vụ được quy định, các Công ty Tài chính tạo ra được nhiều lợi thế như sau: - Thứ nhất: Công ty Tài chính giúp những khách hàng của mình tiết kiệm được các chi phí về thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn. Đặc biệt là tạo ra các cơ hội đầu tư sinh lời cho các cá nhân: các cá nhân sẽ không dễ gì làm lợi từ các món tiền của mình do thiếu những thông tin cần thiết trên thị trường tài chính. Hơn nữa, món tiền của họ lại nhỏ, chi phí giao dịch lại quá lớn, thủ tục đôi khi lại rườm rà khiến cá nhân gặp khó khăn khi đầu tư. Trong khi đó, Công ty Tài chính có đủ điều kiện cần thiết để phân tích, tổng hợp tình hình, do đó, việc đầu tư sẽ dễ đem lại lợi nhuận hơn. Khi gửi tiền vào các Công ty Tài chính, nguồn lợi sẽ mang lại cho cả hai bên nhờ tính kinh tế do quy mô, nhờ sự phân tán rủi ro đa dạng hoá và nhờ việc giảm chi phí giao dịch trong tổng thể. Các Công ty Tài chính giúp khách hàng của mình tiết kiệm được các chi phí thông tin và giao dịch khi cung ứng hoặc sử dụng các nguồn vốn bởi họ luôn có những chiến lược hợp lý, linh hoạt trong quan hệ với khách hàng, trong việc triển khai các nghiệp vụ được phép làm... nên họ tạo ra được tỷ suất lợi nhuận cao, đảm bảo đem lại những cơ hội đầu tư tốt cho khách hàng gửi tiền vào Công ty. - Thứ hai: Công ty Tài chính là kênh có tính chất chuyên môn hoá trong việc thu hút và đầu tư các khoản vốn trung và dài hạn. Các Công ty Tài chính thường có khả năng cung cấp vốn cho các giao dịch dài hạn và có tính rủi ro cao hơn (đầu tư mạo hiểm). Nhờ đó, Công ty Tài chính đã góp phần làm phong phú thêm các dịch vụ tài chính, ngân hàng. - Thứ ba: Hoạt động của các Công ty Tài chính cũng rất phù hợp với các hoạt động giao dịch vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, và do đó rất phù hợp với các nước đang phát triển. Vì ngoài các Ngân hàng, các Công ty Tài chính với sự linh hoạt trong hoạt động cũng đã tập trung được một luợng vốn lớn từ nguồn tiết kiệm từ dân chúng và các tổ chức kinh tế trên thị trường tài chính. Các Công ty Tài chính có thể phát hành những giấy tờ có giá với lãi suất cao, mệnh giá thấp… để thu hút được được sự đầu tư của các nhà đầu tư lớn, nhỏ trên thị trường tài chính vào nó, điều này sẽ khiến nguồn vốn huy động được nhiều hơn, đồng thời mở rộng được giao dịch cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thứ tư: Đối với các Công ty Tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế, hay trực thuộc Tổng Công ty có điều kiện hiểu biết sâu về các Công ty thành viên, có nhiều điều kiện thuận lợi hơn trong việc trong việc quản lý rủi ro tài chính và huy động vốn cho tập đoàn, trong việc cấp vốn cho các Công ty thành viên hay khách hàng của Công ty thành viên trong tập đoàn. - Thứ năm: Sự hình thành và hoạt động của các Công ty Tài chính đã thúc đẩy cạnh tranh trong đầu tư trên thị trường tài chính. Thông qua việc đáp ứng các nhu cầu về vốn trung và dài hạn, hoạt động của các Công ty Tài chính đã và đang thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính. Những năm gần đây, nhiều loại hình Công ty Tài chính ra đời làm chất lượng phục vụ được cải thiện, giá vốn đầu tư ngày càng giảm, tạo thêm nhiều khả năng lựa chọn cho khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng và Công ty Tài chính, mỗi loại hình đều có thế mạnh riêng, nhưng tất cả đều góp phần tăng cường hiệu quả kinh tế-xã hội. Hiện nay Công ty Tài chính đang có xu hướng xích lại gần các Ngân hàng Thương mại về mặt chức năng khi thực hiện được ngày càng đa dạng các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Cỏc loại hỡnh của Cụng ty Tài chớnh Hoạt động của Công ty Tài chính là rất đa dạng, phong phú, nếu căn cứ vào hoạt động nghiệp vụ, Công ty Tài chính được chia thành: - Công ty Tài chính bán hàng: Đây là loại hình Công ty Tài chính chuyên cho người tiêu dùng vay để mua hàng hoá từ một nhà bán lẻ hoặc một nhà sản xuất khác. Các món vay thường được thực hiện nhanh và tiện lợi tại nơi mua hàng của người tiêu dùng. Nhờ vậy, Công ty Tài chính bán hàng có thể cạnh tranh được với các Ngân hàng Thương mại trong cho vay tiêu dùng. - Công ty Tài chính người tiêu dùng: Đây là loại hình Công ty Tài chính chuyên cho người tiêu dùng vay để mua những món hàng riêng như đồ đạc, dụng cụ gia đình hoặc giúp thanh toán các món nợ nhỏ. - Công ty Tài chính kinh doanh: Đây là loại hình Công ty Tài chính chuyên cung cấp các dạng tín dụng đặc biệt cho doanh nghiệp bằng cách mua các hoá đơn nợ của doanh nghiệp khác đối với doanh nghiệp theo hình thức chiết khấu, việc cung cấp này gọi là bao thanh toán. Ngoài ra, Công ty Tài chính kinh doanh cũng chuyên môn hoá trong việc cho thuê thiết bị, là những thứ họ mua và sau đó cho các nhà kinh doanh thuê một số năm. Căn cứ và quan hệ sở hữu, các Công ty Tài chính có thể chia thành: - Công ty Tài chính độc lập thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh như: nghiệp vụ tín dụng (cho vay, bảo lãnh cho khách hàng thương mại và sản xuất công nghiệp); các nghiệp vụ cho thuê, nghiệp vụ bao thanh toán; kinh doanh tiền tệ; tư vấn tài chính. - Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh tế tham gia chủ yếu các hoạt động như: tìm kiếm các nguồn đầu tư để cung ứng cho các thành viên trong tập đoàn, quản lý và đầu tư các nguồn chưa sử dụng trong tập đoàn, quản lý các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi, điều hoà vốn giữa các thành viên, làm đầu mối và tư vấn cho tập đoàn, các Công ty thành viên trong quan hệ với Ngân hàng, quản lý rủi ro tài chính trong tập đoàn, các dịch vụ tài chính khác... Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế là một loại hình Công ty Tài chính rất phổ biến hiện nay. Sự cần thiết của Công ty Tài chính trong các tập đoàn kinh tế xuất phát từ những đặc trưng của tập đoàn kinh tế: + Các tập đoàn kinh tế là những chủ thể kinh tế kinh doanh quy mô lớn, lĩnh vực hoạt động đa dạng, do đó, nhu cầu về vốn rất lớn, thường xuyên. + Các tập đoàn kinh tế thường có nhiều bộ phận, chi nhánh, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, vì vậy, tại một thời điểm nào đó trong nội bộ tập đoàn có bộ phận tiền nhàn rỗi, trong khi bộ phận khác đang cần vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Từ đó, trong tập đoàn kinh tế xuất hiện yêu cầu để điều hoà vốn giữa các bộ phận thuộc tập đoàn. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu về vốn, bảo đảm hiệu quả hoạt động, tập đoàn kinh tế cần có một trung gian tài chính làm kênh dẫn vốn từ những chủ thể có vốn trong nền kinh tế tới tập đoàn kinh tế, đáp ứng nhu cầu về vốn của tập đoàn một cách hiệu quả nhất, đồng thời là trung gian điều hoà vốn giữa các bộ phận trong tập đoàn. Vì vậy, Công ty Tài chính là hình thức tổ chức phù hợp và giữ vai trò rất quan trọng đối với tập đoàn kinh tế thông qua chính các hoạt động của mình như: + Tìm kiếm các nguồn vốn, dẫn vốn nhàn rỗi từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu của các thành viên tập đoàn. + Đưa vốn từ những bộ phận tạm thời có tiền nhàn rỗi đến những bộ phận cần vốn thông qua thực hiện điều hoà vốn giữa các thành viên trong tập đoàn. + Cung cấp vốn đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khác hàng của tập đoàn, thúc đẩy hoạt động của tập đoàn kinh doanh. Trên thế giới, hầu hết các tập đoàn kinh tế lớn ở mọi quốc gia đa ngành nghề chuyên doanh như General Motor (Mỹ), Siemens (Đức), Hitachi (Nhật Bản), Samsung (Hàn Quốc) đều có sở hữu các Công ty Tài chính. Mô hình Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã ra đời từ rất lâu và gắn liền với việc ra đời và mở rộng của các tập đoàn mẹ. General Motor Acceptant là thành viên của tập đoàn General Motor được thành lập vào năm 1919, Hitachi Capital là Công ty Tài chính của Tập đoàn Hitachi được thành lập vào năm 1957. Các Công ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế trên thế giới ngày càng chiếm vị trí quan trọng đối với tập đoàn không chỉ vì đem lại lợi nhuận ngày càng lớn mà còn đóng góp cho sự phát triển của tập đoàn. Năm 2000, IBM Credit đóng góp 21,7% doanh thu cho tập đoàn IBM, còn Công ty Tài chính trong tập đoàn Samsung đóng góp 25% doanh thu toàn tập đoàn hàng năm. Những đặc trưng cơ bản Của Công ty Tài Chính Công ty Tài chính khi hoạt động kinh doanh thì phải có yêu cầu là có số vốn pháp định tối thểu là 50 tỷ (Theo quy định của ngân hàng nhà nước Việt Nam) và luôn có hai loại hoạt động chính: đó là huy động vốn và cho vay, ngoài ra nó còn có một số hoạt động kinh doanh khác. Những năm vừa qua, do hoạt động của Công ty Tài chính bị bó hẹp và giới hạn hơn ở một số nghiệp vụ nhất định mang tính chuyên nghiệp nên không những loại hình cho vay của Công ty Tài chính đã luôn có sự thay đổi mà cách thức huy động để cho vay cũng đã chuyển hướng. Các Công ty Tài chính không được nhận tiền gửi không kỳ hạn hoặc ngắn hạn, không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán. Hoạt động huy động vốn của Công ty Tài chính chủ yếu được thực hiện thông qua huy động tiền gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Vì vậy, Công ty Tài chính thường có vốn lệ thuộc chủ yếu vào các định chế tài chính khác. Vốn huy động được sử dụng để cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với các đối tượng sản xuất hoặc tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán hoặc thuê mua. Ngày nay, hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong thu nhập của các Công ty Tài chính. Theo tài liệu của Hội đồng dự trữ Liên bang Mỹ (FRB) công bố năm 1993 về lưu lượng dự liệu ngân quỹ, số dư cho vay kinh doanh của các Công ty Tài chính Mỹ đã đạt đến tổng cộng gần 300 tỷ USD so với 116 tỷ USD đối với tín dụng tiêu dùng và 67 tỷ USD đối với cho vay thế chấp. Điều này phản ánh nhu cầu đa dạng hoá các hoạt động và giảm thiểu rủi ro trong việc cho vay. Bên cạnh đó, nhiều Công ty Tài chính đã theo đuổi phương thức mà các chuyên gia tài chính gọi là chiến lược thích ứng. Nhiều Công ty sở hữu cá nhân ngày càng nhắm vào bộ phận khách hàng đặc thù và tạo ảnh hưởng lên toàn bộ sinh hoạt của họ để chiếm lĩnh những thị trường đặc thù đó. Như vậy, hoạt động cơ bản của một Công ty Tài chính bao gồm: Hoạt động huy động vốn Công ty Tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn của các cá nhân và các tổ chức kinh tế ; Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có giá khác để huy động vốn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước; Vay các tổ chức tài chính, tín dụng trong và ngoài nước; Tiếp nhận vốn uỷ thác của Chính phủ, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Hoạt động sử dụng vốn Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cho các cá nhân và các tổ chức kinh tế ; Cho vay theo uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước ; Đầu tư vào các dự án phát triển, tái thiết các doanh nghiệp, ngành kinh tế kỹ thuật, các công trình tạo ra sản phẩm chất lượng cao, giá trị lớn và mang lại lợi ích quốc gia, quốc tế và các công trình bảo vệ, duy trì và phát triển môi trường sinh thái của quốc gia và khu vực. Cung cấp các dịch vụ Ngân hàng Công ty Tài chính được thực hiện tất cả các loại dịch vụ Ngân hàng trừ việc phát hành và cho khách hàng sử dụng các phương tiện thanh toán (tiền, thẻ tín dụng, ngân phiếu) và thanh toán vãng lai, liên ngân hàng (bù trừ). Cơ chế quản lý tài chính của Công ty Tài Chính Khái niệm cơ chế quản lý tài chính Theo cách hiểu chung nhất thì “Cơ chế” là cách thức theo đó một quá trình được thể hiện. Cụ thể hơn trong lĩnh vực quản lý, Cơ chế được hiểu là tổng hợp các phương pháp, các hình thức, các công cụ được vận dụng đẻ tác động lên một hệ thống như liên kết, điều hoà, phân phối hoạt động giữa các bộ phân trong một hệ thống để đạt được những mục tiêu cuối cùng trong hoạt động quản lý. Như vậy: Cơ chế quản lý tài chính là một hệ thống tổng thể các phương pháp, các hình thức và các công cụ được vận dụng để quản lý các hoạt động kinh tế, tài chính trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu của Doanh nghiệp. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau trong nội dung quản lý tài chính của Công ty tài chính dù là mô hình Công ty như thế nào chăng nữa, thì nói đễn Cơ chế quản lý tài chính là nói đến các nội dung cơ bản: Cơ chế huy động vốn; Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản; Cơ chế quản lý lợi nhuận; Cơ chế kiểm soát tài chính. Tuy nhiên, Cơ chế quản lý tài chính không có một khuân mẫu cứng nhắc áp dụng cho mọi nền kinh tế, cho mọi quy mô, tính chất của Doanh nghiệp, mỗi loại hình doanh nghiệp có cách vận dụng cơ chế quản lý tài chính khác nhau, hiệu quả của việc vận dụng Cơ chế quản lý tài chính lại phụ thuộc vào các yếu tố khách quan, chủ quan, trong đó vai trò chủ quan của người điều hành cơ chế là nhân tố quyết định. Điều đó có nghĩa là, người điều hành cơ chế phải nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, phân tích đánh giá chính xác tình hình để chủ động đưa ra các quyết định tài chính phù hợp. Cơ chế huy động vốn của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, các hình thức, các công cụ huy động các nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của Doanh nghiệp Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, các hình thức phân phối, điều hoá vốn và tài sản của Doanh nghiệp nhằm quản lý khai thác sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất. Cơ chế quản lý lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức quản lý lợi nhuận, phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh hình thành và sử dụng các quỹ tập trung của Doanh nghiệp Cơ chế kiểm soát tài chính của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiểm soát các số liệu dự toán, quyết toán, kiểm soát nội bộ… Nội dung cơ chế quả lý tài chính Cơ chế huy động vốn Vốn là điều kiện tiên quyết để các doanh nghiệp duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh, đồng thời là cơ sở để phân phối và đánh giá hiệu quả các hoạt động kinh tế. Đối với Công ty Tài chính, vốn còn là cơ sở nền tảng để tiến hành tổ chức mọi hoạt động kinh doanh. Thật vậy, với đặc trưng của Công ty Tài chính là tổ chức kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ và thị trường vốn thì vốn không còn đơn thuần là phương tiện kinh doanh mà nó còn là đối tượng kinh doanh chính của Công ty Tài chính, trực tiếp quyết định tới quy mô hoạt động kinh doanh của Công ty Tài chính. Như vậy, những Công ty Tài chính có vốn lớn sẽ có nhiều thế mạnh trong kinh doanh, ngược lại những Công ty Tài chính không có hoặc có ít vốn cũng đồng nghĩa với việc gặp nhiều khó khăn khi tiến hành kinh doanh. Cơ chế huy động vốn của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, các hỡnh thức, cỏc cụng cụ huy động cỏc nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của Doanh nghiệp. Vốn của Công ty Tài chính bao gồm Vốn chủ sở hữu và nợ, vì vậy huy động vốn của Công ty Tài chính bao gồm huy động vốn chủ sở hữu và huy động động nợ. a. Huy động Vốn chủ sở hữu Để bắt đầu hoạt động, Công ty Tài chính phải có một lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn Công ty tài chính có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho Công ty Tài chính. Hình thức huy động vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của Công ty Tài chính. Huy động vốn ban đầu (vốn góp) Tuỳ theo tính chất của mỗi Công ty Tài chính mà nguồn gốc hình thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là Công ty Tài chính Nhà nước, vốn ban đầu do Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là Công ty Tài chính Cổ phần, vốn sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Đối với Công ty Tài chính liên doanh vốn do các bên liên doanh góp. Công ty Tài chính trực thuộc tổ chức tín dụng, vốn ban đầu sẽ do chính tổ chức tín dụng đó cấp bằng vốn chủ sở hữu của mình. Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động Trong quá trình hoạt động, Công ty Tài chính có thể tăng vốn chủ sở hữu theo nhiều phương thức khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể. + Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, góp thêm, cấp thêm... để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết hoặc để đáp ứng yêu cầu ra tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định... Đặc điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, tuy nhiên, nó giúp cho Công ty Tài chính có được lượng vốn sở hữu lớn vào lúc cần thiết. + Nguồn từ lợi nhuận không chia: Trong điều kiện thu nhập sau thuế lớn hơn không, Công ty Tài chính có xu hướng gia tăng vốn chủ sở hữu bằng cách chuyển một phần thu nhập sau thuế thành vốn chủ sở hữu. Tỷ lệ tích luỹ tuỳ thuộc vào cân nhắc của chính Công ty Tài chính về tích luỹ và tiêu dùng. Các quỹ Công ty Tài chính có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước tiên là quỹ dự phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hàng năm và được tích luỹ lại nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra. Quỹ bảo toàn vốn nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Quỹ thặng dư là phần đánh giá lại tài sản của Công ty Tài chính và chênh lệch giữa thị giá và mệnh giá cổ phiếu khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ thể của từng nước, các Công ty Tài chính có thể có quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng, quỹ giám đốc... Các quỹ của Công ty Tài chính thuộc sở hữu của Công ty. Nguồn hình thành các quỹ này là từ thu nhập của Công ty. Tuy nhiên, một số quỹ không được sử dụng lâu dài. Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần Các khoản vay trung hạn và dài hạn của Công ty Tài chính mà có khả năng chuyển đổi thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của Công ty Tài chính (vốn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến hạn. b. Huy động nợ Công ty Tài chính có thể sử dụng nhiều công cụ huy động nợ khác nhau nhưng nhìn chung vẫn tập trung chủ yếu vào các công cụ sau: Nhận tiền gửi và làm đại lý bảo hiểm Công ty Tài chính được nhận tiền gửi của mọi tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, nguồn vốn huy động từ tiền gửi chưa tương xứng với vai trò của nó trong tổng nguồn vốn huy động của Công ty Tài chính. Cùng với xu thế đa dạng hoá hoạt động, Công ty Tài chính còn thực hiện dịch vụ bảo hiểm. Dịch vụ bảo hiểm giúp cho Công ty Tài chính huy động được một lượng vốn rất lớn từ khoản thu phí bảo hiểm. Khoản phí này trong thời gian nhàn rỗi sẽ là một nguồn vốn quan trọng. Vay trực tiếp các tổ chức kinh tế trong nước và quốc tế Công ty Tài chính có thể vay vốn trực tiếp từ mọi tổ chức, cá nhân nếu có nhu cầu. Nguồn vốn này có thể là nguồn ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn. Việc vay mượn có thể diễn ra trong ngắn hạn để phục vụ nhu cầu thanh toán nhanh như vay trên thị trường liên ngân hàng hoặc vay từ các trung gian tài chính để tài trợ cho các dự án. Tuy nhiên các Công ty Tài chính chủ yếu vay trực tiếp từ Công ty mẹ và các thành viên cùng tập đoàn với lãi suất ưu đãi. Phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các loại giấy tờ có gía khác Trái phiếu là tên chung của các giấy tờ vay nợ dài hạn và trung hạn. Trái phiếu hay còn gọi là trái khoán là một công cụ nợ mà người phát hành đảm bảo sẽ chi trả cho người thụ hưởng một khoản tiền nhất định sau một khoảng thời gian xác định. Sự hấp dẫn của trái phiếu phụ thuộc vào các yếu tố sau: - Lãi suất trái phiếu: người đầu tư luôn muốn hưởng một lãi suất cao nhưng người phát hành phải cân nhắc mức lãi suất có thể chấp nhận được. - Kỳ hạn của trái phiếu: tuỳ từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế hay tâm lý mà trái phiếu với kỳ hạn khác nhau được ưa thích khác nhau. Kỳ hạn càng dài thì rủi ro càng cao nhưng lãi suất để bù đắp rủi ro cũng càng cao. - Uy tín của doanh nghiệp: các doanh nghiệp có uy tín càng vững mạnh thì dễ dàng phát hành trái phiếu ra công chúng. Có rất nhiều loại trái phiếu hiện nay đang lưu hành trên thị trường tài chính mà Công ty Tài chính có thể phát hành: Trái phiếu có lãi suất cố định, trái phiếu có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi, trái phiếu công trình. Chứng chỉ tiền gửi (CD) là một công cụ nợ được bán cho người gửi tiền. Nó thanh toán lãi hàng năm theo một khoản đã định và khi đến kỳ hạn thanh toán thì hoàn trả hết giá mua ban đầu. Chứng chỉ tiền gửi có thể mua bán trên thị trường. Tiếp nhận vốn uỷ thác đầu tư của Chính phủ, các Tổ chức và cá nhân Uỷ thác là việc Công ty Tài chính nhận quản lý một lượng giá trị của một đơn vị kinh tế khác. Công ty Tài chính có quyền sử dụng nhưng không có quyền sở hữu lượng giá trị này. Lợi nhuận thu từ việc sử dụng, đầu tư trên lượng giá trị sẽ trích một phần gọi là phí uỷ thác cho Công ty. Có nhiều hình thức uỷ thác như uỷ thác đầu tư, uỷ thác quản lý tài sản, uỷ thác sử dụng vốn. Nguồn uỷ thác ở Công ty Tài chính hiện nay chủ yếu là uỷ thác đầu tư. Công ty Tài chính trong tập đoàn ở vị trí người được uỷ thác lẫn người uỷ thác. Các tổ chức uỷ thác cho Công ty Tài chính chủ yếu là Công ty mẹ, các đơn vị thành viên và các trung gian tài chính khác. Công ty mẹ thường thông qua việc uỷ thác vốn cho Công ty Tài chính để hỗ trợ vốn đầu tư, phát triển cho các thành viên. Mục đích thành lập của Công ty Tài chính chủ yếu là huy động vốn, hỗ trợ các đơn vị trong Tổng Công ty và đơn vị cùng ngành kinh tế kỹ thuật nên Công ty Tài chính có lợi thế về việc nắm thông tin, nghiệp vụ chuyên môn trong ngành, dẫn đến việc thẩm định các dự án tín dụng chính xác hơn, mối quan hệ với khách hàng chặt chẽ hơn. Do vậy mà các trung gian tài chính khác khi muốn đầu tư vào một dự án trong ngành sẽ uỷ thác qua Công ty Tài chính nhằm hạn chế rủi ro. Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, các hình thức phân phối, điều hoá vốn và tài sản của Doanh nghiệp nhằm quản lý khai thác sử dụng vốn và tài sản của Doanh nghiệp một cách có hiệu quả nhất. a, Quản lý sử dụng vốn Cơ chế quản lý sử dụng vốn trong Công ty tài chính được thực hiện thông qua các hoạt động sau: Đầu tư chứng khoán ngắn hạn Các hoạt động đầu tư đều nhằm mục đích tăng vòng quay sử dụng vốn, thu lợi tức đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phân tán rủi ro qua những ngành, lĩnh vực khác nhau. Đặc điểm của các loại chứng khoán ngắn hạn là thời gian đầu tư ngắn thường dưới một năm, lợi tức thấp. Khi đầu tư vào các chứng khoán ngắn hạn các Công ty tài chính thường căn cứ vào nguồn vốn của mình, cân đối nhu cầu sử dụng vốn lưu động, nhu cầu vốn của thị trường, phân tích diễn biến lãi suất của các loại chứng khoán trên thị trường để xác định mức đầu tư, thời điểm mua, thời điểm bán sao cho có lợi nhất. Đầu tư chứng khoán dài hạn: Thường bao gốm cổ phiếu, trái phiếu công ty và trái phiếu chính phủ. Các công ty tài chính khi quyết định đầu tư chứng khoán dài hạn phải căn cứ vào thực trạng tài chính của Công ty và mục tiêu đầu tư. Mục tiêu đầu tư của chứng khoán có thể là: Đảm bảo an toàn vốn băng phương thức mua lại những chứng khoán có mức thanh khoản và độ an toàn cao, trái phiếu có lãi suất cao; tích luỹ vốn: mua cổ phiếu của những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, tốc độ tăng trưởng cao hoặc là mua bán lại để thu lợi tức tối đa. Để hạn chế được rủi ro trong hoạt động đầu tư chứng khoán, nâng cao hiệu quả đầu tư, Các Công ty tài chính đều có quy định chặt chẽ trình tự các bước tiến hành khi quyết định đầu tư chứng khoán. Thông thường, các quy trình này đề cập đến những vấn đề sau: Điều tra nghiên cứu thị trường, thẩm định giá chứng khoán trên cơ sở các thông tin có được; lập kế hoạch đầu tư, nêu rõ các loại chứng khoán cần mua, tỷ lệ giữa các loại, thời điểm mua, phân cấp trong việc sử lý thông tin và quyết định giá cả, quyết định cuối cùng về việc mua bán chứng khoán. Đầu tư chứng khoán là hình thức đầu tư mang lại cho các Công ty tài chính nhiều lợi ích nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là thời kỳ nền kinh tế rơi vào khủng hoảng hoặc tình hình tài chính doanh nghiệp không lành mạnh. Việc đầu tư chứng khoán phụ thuộc rất nhiều vào quá trình tìm và sử lý thông tin, sự ._.phân tích của những chuyên gia chứng khoán giỏi, nhiều kinh nghiệm và cần nhậy cảm, óc phán đoán và bản lĩnh của người ra quyết định. Quản lý các khoản nợ phải trả Đối với các khoản nợ phải trả các Công ty tài chính phải có trách nhiệm mở sổ theo dõi đầy đủ các khoản nợ phải trả bao gồm các khoản lãi phải trả; thanh toán các khoản nợ phải trả theo đúng thời hạn đã cam kết. Thường xuyên xem xét, đánh giá, phân tích khả năng thanh toán nợ của Công ty, phát hiện sớm tình hình khó khăn trong việc thanh toán các khoản nợ phải trả để có giải pháp khắc phục kịp thời không để phảt sinh các khoản nợ quá hạn; đối với các khoản nợ phải trả bằng ngoại tệ, Công ty tài chính phải hoạch toán toàn bộ chênh lệch tỷ giá phát sinh của số dư nợ phải trả vào chi phí kinh doanh trong kỳ để tạo nguồn trả nợ. Trường hợp hoạch toán cho năm sau để không bị lỗ nhưng mức hoạch toán chi phí trong năm ít nhất cũng bằng chênh lệch tỷ giá của số ngoại tệ phải trả trong năm đó. b, Quản lý tài sản Tài sản và vốn là hai mặt của một vấn đề, vốn chính là tài sản nếu xét về mặt giá trị hay nói cách khác, vốn chính là biểu hiện bằng tiền của tài sản. Do vậy, nói một cách biện chứng khi đề cập đến vốn, sử dụng vốn và quản lý vốn, chúng ta không chỉ đề cập đến sử dụng và quản lý vốn cả về mặt hiện vật, tức là sử dụng và quản lý tài sản. Quản lý tài sản cố định Các nước khác nhau có quy định về tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định và có thể điều chỉnh cho phù hợp với mức giá của từng thời kỳ. Chính phủ các nước quy định thổng nhất tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định cho tất cả các loại hình doanh nghiệp ở nước đó nhằm đảm bảo tính bình đẳng cho các doanh nghiệp trong việc hoạch toán chi phí kinh doanh, hoạch toán thu nhập và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Cũng phải nói thêm rằng trong điều kiện mở rộng và phát triển các quan hệ hàng hoá - tiền tệ, sự phát triển và ứng dụng nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cũng như tính đặc thù trong sản xuất của một số ngành, nên một số chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nếu đồng thời thoả mãn tiêu chuẩn nhận biết tài sản cố định và không hình thành tài sản cố định hữu hình thì được coi là tài sản cố định vô hình của doanh nghiệp. Ví dụ như các chi phí mua bằng sáng chế, giải pháp hữu ích, bản quyền và một số chi phí khác… Đặc điểm chung của tài sản cố định là tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm. Trong quá trình đó, hình thái vật chất đặc tính sử dụng ban đầu của tài sản cố định không thay đổi, song giá trị của nó lại được chuyển dịch vào từng phần giá trị sản phẩm sản xuất ra, cấu thành nên chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và được bù đắp mỗi khi sản phẩm được tiêu thụ. Vì vậy, giống như nhiều doanh nghiệp khác, trong công tác quản lý tài sản của Công ty tài chính, vấn đề khấu hao tài sản cố định phải được đặt ra. Khấu hao tài sản cố định là việc chuyển phần giá trị hao mòn của tài sản cố định trong quá trình sử dụng vào giá trị sản phẩm sản xuất ra theo các phương pháp tính khấu hao thích hợp. Mục đích của khấu hao tài sản cố định là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất giản đơn hoặc tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Bộ phận giá trị tài sản hao mòn được chuyển dịch vào giá trị sản phẩm được tích luỹ khấu hao tài sản cố định ctrong doanh nghiệp. Trên thực tế, khi chưa có nhu cầu đầu tư mua sắm tài sản cố định, các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng linh hoạt quỹ khấu hao để đáp ứng các nhu cầu kinh doanh của mình. Nội dung quản lý tài sản cố định trong các Công ty tài chính tập trung vào các vấn đề chủ yếu: Phương pháp tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố định; quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định; đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Phương pháp tính khấu hao và tỷ lệ khấu hao tài sản cố định. Ở các nước trên thế giới, việc quy định phương pháp tính khấu hao và tỷ lệ khẩu hao tài sản cố định là tương đối thông thoáng. Chính phủ các nước giành quyền chủ động lựa chọn phương pháp và tỷ lệ tính khấu hao tài sản cố định cho các doanh nghiệp trên nguyên tắc chấp hành đầy đủ Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Vì mức trích khấu hao tài sản cố định có liên quan đến chi phí , lợi nhuận và số thuế thu nhập phải nộp nên khấu hao được gọi là “lá chắn thuế”. Để chống gian lận thuế, Chính phủ các nước có chính sách khẩu hao tài sản theo hướng: Khuyến khích khẩu hao nhanh đối với máy móc, thiết bị nhanh bị hao mòn vô hình, đồng thời áp dụng quy định khấu hao bình quân đối với các tài sản cố định như nhà cửa, vật kiến trúc… Phương pháp tính khấu hao đường thẳng: Các công ty tài chính hoạt động có hiệu quả kinh tế cao cỏ thể được khấu hao nhanh gấp hai lần mức khấu hao được xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ đối với các tài sản cố định là máy móc, thiết bị, dụng cụ làm việc, phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý. Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh: Theo phương pháp này, tỷ lệ khấu hao sẽ không đổi, chỉ có giá trị còn lại của tài sản cố định là thay đổi; là giảm dần và mức khấu hao hàng năm sẽ giảm dần. Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm: Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp này là các loại máy móc, thiết bị đồng thời thoả mãn các điều kiện: Trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm; xác định tổng khối lượng, khối lượng sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố định; công suất sử dụng thực tế bình quân trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế. Tỷ lệ khấu hao tài sản cố định phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng nhóm tài sản cố định và phụ thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh cụ thể. Quản lý quỹ khấu hao tài sản cố định: Về nguyên tắc quỹ khấu hao tài sản cố định là nguồn tài chính quan trọng cùng với nguồn vốn đầu tư bổ sung khác như vốn vay, vốn được trích từ lợi nhuận sau thuế để tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tài sản cố định. Nhưng trong thực tế, quỹ khấu hao tài sản cố định được sử dụng rất linh hoạt đặc biệt là đối với các công ty tài chính theo nguyên tắc có hoàn trả vào các hoạt động sản xuất kinh doanh để sinh lời góp vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. Quản lý ngân quỹ Ngân quỹ của Công ty tài chính là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất (được sử dụng để thanh toán tức thời), được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của Công ty tài chính. Thứ nhất, mỗi Công ty tài chính đều cần duy trì dự trữ bắt buộc (theo quy định của pháp luật đối với mỗi giai đoạn thời kỳ nhất định) theo quy định của Ngân hàng nhà nước.Các nguồn là đối tượng phải tính dự trữ bắt buộc cũng có thể bị thay đổi tuỳ theo chính sách của Ngân hàng nhà nước, thông thường đó là các nguồn tiền gửi. Các nguồn tiền gửi ngắn hạn phải trích mức dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao so với các nguồn khác. phần tiền dự trữ này được gửi tại tài khoản của Công ty tài chính tại Ngân hàng nhà nước. Thứ hai, Công ty tài chính phải duy trì khả năng chi trả bằng cách duy trì ngân quỹ với tỷ lệ thích hợp với nhu cầu thanh toán của những khách hàng. Đối với các Công ty tài chính đáp ứng nhu cầu thanh khoản chủ yếu bằng các tài sản thanh khoản thì ngân quỹ ngoài bảo đảm dự trữ bắt buộc còn đáp ứng yêu cầu chi trả. Quản lý ngân quỹ, về thực chất là tính toán số ngân quỹ tối thiểu cần giữ trong các thời kỳ khác nhau, đồng thời cân đối giữa các bộ phận của ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi…) một cách phù hợp vơi nhu cầu sử dụng của khách hàng. Quản lý tín dụng Tín dụng mang lại lợi nhuận lớn cho Công ty tài chính nhưng cũng nhiều rủi ro, như vậy, mục tiêu an toàn và sinh lợi vẫn là mục tiêu chính trong quản lý tín dụng. Dựa trên cơ sở chính sách tín dụng của Ngân hàng nhà nước ban hành cùng với nhu cầu tín dụng trên thị trường theo từng thời kỳ Công ty tài chính đưa ra những cơ chế quản lý tín dụng phù hợp nhằm tăng quy mô tín dụng, đa dạng hoá có hoạt động tín dụng, giảm lãi suất hay cung cấp các điều kiện ưu đãi. Bên cạnh đó, Công ty tài chính phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ giữa các biện pháp tăng quy mô với thu nhập ròng từ hoạt động tín dụng thông qua chênh lệch lãi suất biên. Mặt khác hoạt động tín dụng có rủi ro rất lớn. Do vậy, vào mỗi quý Công ty tài chính phải tiến hành phân loại nhóm nợ đồng thời trích dự phòng rủi ro theo quy định của Ngân hàng nhà nước, xây dựng hệ thống thông tin chuẩn mực để phản ứng với các biến động của thị trường tài chính nhằm mục đích tín dụng an toàn. Quản lý các tài sản ngoại bảng Công ty tài chính phải phân loại tài sản ngoại bảng theo thời gian,chủ thể, tính chất rủi ro. Thực hiện các nghiên cứu dự báo về các nhân tố ảnh hưởng đến tài sản ngoại bảng như thị trường vốn, tỷ giá, lãi suất…Việc nghiên cứu này cho phép các Công ty tài chính xếp loại các tài sản ngoại bảng và hoạch định chính sách trong việc cung cấp các hợp đồng tài chính tương lai. Ngoài ra, Các Công ty tài chính cần dự phòng tài trợ cho các tài sản ngoại bảng như gia tăng ngân quỹ, chứng khoán thanh khoản với mức lãi suất sinh lời thấp hoặc trích quỹ dự phòng tổn thất. Cơ chế quản lý lợi nhuận Lợi nhuận của doanh nghiệp là tổng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận từ hoạt động khác. Tuy nhiên đối với các Công ty tài chính thì lợi nhuận được hiểu đó chính là Lợi nhuận từ các hoạt động tài chính, hoạt động đầu tư và lợi nhuận từ các hoạt động khác. Cơ chế quản lý lợi nhuận bao gồm các phương pháp, các hình thức quản lý lợi nhuận, phân phối và sử dụng kết quả kinh doanh hình thành và sử dụng các quỹ tập trung của Doanh nghiệp. Phân phối lợi nhuận Cơ sở kinh tế và pháp lý quyết định nội dung phân phối lợi nhuận còn lại của Doanh nghiệp là quan hệ sở hữu vốn ở Doanh nghiệp. Người bỏ vốn vào kinh doanh sau khi thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước. Nói cách khác Chủ doanh nghiệp được toàn quyền sở hữu, sử dụng lợi nhuận còn lại của Doanh nghiệp. Điều này hoàn toàn phù hợp với lý luận về quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu quyết định quan hệ phân phối. Phân phối lợi nhuận nhằm mục tiêu chủ yếu là tái đầu tư, bảo toàn và phát triển vốn của Các Công ty tài chính, khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả lao động. Về nguyên tắc, Công ty tài chính ở các nước thì lợi nhuận được chia thành hai phần, một phần đem chia và một phần khonng chia. Tỷ lệ này do Đại hội cổ đông quyết định. Phần lợi nhuận sau thuế được các Công ty tài chính phân phối vào các quỹ theo quy định của pháp luật và theo tỷ lệ của đại hội đồng cổ đông quyết định. Quỹ dự trữ tài chính (phần không chia) tạo nguồn để bù đắp những rủi ro, tổn thất trong quá trình kinh doanh, bù lỗ trong trường hợp công ty làm ăn thua lỗ để bảo đảm sự hoạt động bình thường và uy tín cho Công ty, trả lợi tức cổ phần cho cổ đông trong những năm kinh doanh kém hiệu quả, bổ sung vốn khi tăng vốn của Chủ sở hữu. Số dư lợi nhuận ròng còn lại sử dụng để lập quỹ trả lợi tức cho các cổ đông (phần đem chia), quỹ này được sử dụng để trả lợi tức cho những cổ đông có Cổ phiếu ưu tiên theo mức lợi tức cố định, trích thưởng cho những cán bộ, công nhân viên có thành tích trong việc điều hành, phần còn lại dùng trả lợi tức cho các cổ phiếu phổ thông. Cơ chế kiểm soát tài chính Cơ chế kiểm soát tài chính của Doanh nghiệp bao gồm các phương pháp, hình thức và công cụ nhằm kiểm soát các thông tin tài chính, kiểm soát các số liệu dự toán, quyết toán, kiểm soát nội bộ… Kiểm soát tài chính, nhìn từ nhiều góc độ khác nhau gồm có thanh tra, kiểm tra của các cơ quan độc lập, kiểm soát trong nội bộ doanh nghiệp. Trong phạm vi báo cáo này bài viết chỉ giới hạn trong phạm vi kiểm soát tài chính nội bộ, kiểm soát nội bộ bao gồm kiểm soát quản trị nội bộ và kiểm soát kế toán nội bộ. Kiểm soát nội bộ bao gồm kế hoạch tổ chức và tất cả những biện pháp phối hợp được thừa nhận dùng trong kinh doanh để bảo vệ tài sản tổ chức, kiểm tra sự chính xác, tin cậy của thông tin kế toán, thúc đẩy hiệu quả hoạt động và khích lệ bám sát những chủ trương quản lý đề ra. Kiểm soát quản trị nội bộ bao gồm nhưng không hạn chế kế hoạch tổ chức và các trình tự, hồ sơ cần thiết cho các quá trình quyết định dẫn đến quyền quản lý cho phép tiến hành các nghiệp vụ. Kiểm soát kế toán nội bộ bào gồm các kế hoạch tổ chức và các trình tự hồ sơ cần thiết cho việc bảo vệ tài sản và độ tin cậy của sổ sách tài chính Cơ cấu của hệ thống kiểm soát nội bộ của Công ty tài chính bao gồm: Môi trường kiểm soát chung; hệ thống kiểm soát kế toán và các thể thức kiểm soát cụ thể. Môi trường kiểm soát chung bao gồm: Thái độ, khả năng nhận thức của người quản lý đối với các hoạt động kiểm soát; các hệ thống quy trình, chính sách, thủ tục, tài liệu kiểm soát, cơ cấu tổ chức chính sách nhân sự, sự phân công chức năng nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn của các cá nhân và phòng ban. Hệ thống kiểm soát kế toán bao gồm chứng từ kế toán, tài khoản kế toán, sổ sách kế toán, báo cáo kế toán và quá trình kiểm tra kế toán, qua các thông tin kế toán có thể xác định các nghiệp vụ kế toán chủ yếu của Công ty, xử lý công việc như thế nào, thể hiện trên báo cáo như thế nào…nhằm mục tiêu bảovệ tài sản của Công ty. Hệ thống kế toán chẳng những cung cấp thông tin cần thiết cho quá trình quản lý mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các hoạt động của Công ty nên nó là một bộ phận quan trọng của hệ thống kiểm soát nội bộ. Một hệ thống kiểm soát hữu hiệu phải đảm bảo được những mục tiêu tổng quát như: tính có thực (ghi chép những nghiệp vụ kinh tế có thực), tính đầy đủ, sự đánh giá, sự phân loại, sự đúng hạn. Các thể thức kiểm soát cụ thể là những chính sách và thủ tục kiểm soát được thíêt kế để đảm bảo những hoạt động cần thiết được thực hiện nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Chúng phụ thuộc vào đặc thù cơ cấu tổ chức theo ba nguyên tắc: Nguyên tắc cách ly thích hợp về trách nhiệm Nguyên tắc phân công phân nhiệm Nguyên tắc uỷ quyền phê chuẩn Cơ chế hoạt động công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế Trong cơ cấu tổ chức của Tập đoàn kinh tế, ngoài Công ty mẹ, công ty con… làm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, thường tồn tại các tổ chức trung gian tài chính trung gian phổ biến nhất là Công ty Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, Công ty chứng khoán. Côn g ty Tài chính trong tập đoàn kinh tế có vị trí rất quan trọng trong việc huy động vốn đáp ứng nhu cầu vốn phát triển kinh doanh trong Tập đoàn, điều hoà vốn giữa các đơn vị thành viên của Tập đoàn nhằm tối ưu hoá quá trình sử dụng vốn và thực hiện các dịch vụ tài chính khác. Cơ chế hoạt động của Công ty tài chính trong Tập đoàn kinh tế trước hết là phục vụ các thành viên trong tập đoàn, sau đó phục vụ cho các doanh nghiệp ngoài tập đoàn nhưng có hoạt động tương tự với tập đoàn gắn liền với phạm vi hoạt động của tập đoàn. Đặc điểm của Công ty tài chính là có chuyên môn sâu và có nhiều thông tin trong lĩnh vực hoạt động của Tập đoàn , cho nên các doanh nghiệp bên ngoài có hoạt động tương tự như các Doanh nghiệp trong tập đoàn thường rất ưa chuộng các dịch vụ mà Công ty Tài chính trong tập đoàn này cung cấp. Hoạt động của Công ty tài chính trong Tập đoàn kinh tế bao gồm: Hoạt đông huy động vốn Phát hành trái phiếu công ty: Công ty tài chính có thể phát hành trái phiếu cho mình hoặc Công ty mẹ, cho các thành viên công ty tập đoàn cũng như các doanh nghiệp khác bên ngoài là khách hàng của mình. Phát hành chứng chỉ nợ: Đây là hình thức huy động vốn ngắn hạn để giải quyết nhu cầu vốn tạm thời, thường là bù đắp sự thiếu hụt tiền mặt, chứng chỉ nợ có thể là chứng chỉ gửi loại lớn, hợp đồng thoả thuận mua lại. Vay nợ: Tiếp nhận vốn uỷ thác: hoạt động cho vay vốn Hoạt động điều hoà vốn trong nội bộ tập đoàn kinh tế: Trong vai trò này, Công ty Tài chính là một trung tâm thanh toán nội bộ, nhận tiền gửi của Các Cty thành viên để hình thành các quỹ cho vay. Tiền gửi của các công ty thành viên có thể là tiền mặt, các khoản tiền chưa đến hạn thanh toán, lợi nhuận chưa phân phối, các quỹ chưa đến hạn sử dụng…Trong khi đó, một số đơn vị thành viên khác lại có nhu cầu về vốn sử dụng trong thanh toán, mua sắm công cụ lao động, tiến hành đầu tư hoặc nhu cầu tức thời về tiền mặt lại đến Công ty tài chính để vay vốn. Thông qua hoạt động này Công ty tài chính thực hiện chức năng điều hoà vốn nội bộ tập đoàn. Mặt khác, cần thấy rằng công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế còn đóng vai trò là trung tâm thanh toán nội bộ tập đoàn. Do đó, các khoản tiền trong thanh toán, các quỹ tiền tệ tập trung, lợi nhuận chưa được phân phối…của các công ty con, cháu, công ty mẹ đều được gửi vào tài khoản do công ty tài chính quản lý, do quy mô của tập đoàn lớn lên tích luỹ các khoản vốn tạm thời này là khá lớn. Từ đó công ty tài chính còn có thêm chức năng điều hoà vốn nội bộ tập đoàn theo phương thức “nhận tiền gửi nội bộ để cho vay”. Mối liên hệ giữa công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế với các thành viêc khác của tập đoàn là mối quan hệ bình đẳng dựa trên các hợp đồng kinh doanh, hai bên cùng có lợi, cùng hỗ trợ nhau để phát triển theo đúng định hướng chiến lược của tập đoàn kinh tế. Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính a, Hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính * Đối với bản thân các Công ty tài chính     - Hoàn thiện công tác quản lý sử dụng vốn và giám sát hoạt động của Công ty tài chính thông qua các quy chế an toàn.     Hoạt động của các Công ty tài chính gặp rất nhiều rủi ro về tài chính và rủi ro kinh doanh. Kinh doanh và làm dịch vụ tiền tệ có thể thành công hoặc thua lỗ, đi đến phá sản, làm mất an toàn hệ thống các tổ chức tín dụng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng nhà nước cần có những quy định và buộc các Công ty tài chính phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về an toàn tài chính, (nên đề ra những tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu và tổng mức vay tối đa so với vốn tự có).     Ngân hàng Nhà nước đưa ra các quy chế yêu cầu Công ty tài chính hoạt động trong phạm vi một số hạn mức tài chính cụ thể, các hạn mức này sẽ cho phép Ngân hàng nhà nước điều tiết các hoạt động của Công ty tài chính để duy trì trong một giới hạn an toàn và phù hợp với các tiêu chí được quốc tế công nhận.     - Yêu cầu về dự phòng rủi ro     Tuy đã có những giải pháp phòng ngừa rủi ro nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của các Công ty tài chính và hệ thống tài chính quốc gia, nhưng không thể loại trừ hết rủi ro đối với các Công ty tài chính. Do đó Ngân hàng nhà nước cũng cần đề ra những quy định về trích lập các khoản dự phòng rủi ro cho các khoản nợ xấu, nợ khó đòi đã quá hạn. Có thể phân loại mức độ rủi ro trong hoạt động của Công ty tài chính thành các mức độ sau: dự phòng đối với tất cả các rủi ro của Công ty tài chính, dự phòng chung cho tất cả các khoản lỗ từ những khoản cho vay, dự phòng cho những khoản tín dụng cụ thể được xác định là nợ khó đòi. Tiền đưa vào dự phòng cho các khoản vay cụ thể được xác định thì nên khấu trừ khỏi thuế để phù hợp với thông lệ quốc tế. Các khoản dự phòng cho khoản cho vay nên giảm xuống khi nhận được thanh toán cho các khoản tín dụng đã quá hạn hoặc khó đòi.     Ngoài ra, các Công ty tài chính còn phải thường xuyên rà soát lại các khoản cho vay của mình, bao gồm tất cả các khoản cho vay, khoản phải thu, các khoản tín dụng và các cam kết ngoại bảng. Việc làm này là một bộ phận trong hệ thống quản lý hạn chế rủi ro và biện pháp kiểm soát của mình, được tiến hành độc lập với quy trình và quá trình cho vay.     - Yêu cầu về báo cáo tài chính đối với Công ty tài chính     Báo cáo của các Công ty tài chính phải tập trung vào một số nội dung như: danh mục đầu tư của Công ty tài chính (gồm loại giao dịch như khoản cho vay, bảo lãnh, trả chậm, trả góp…, mức độ tập trung vào khách hàng và hạn mức tín dụng vượt quá 10% tài sản rủi ro của Công ty tài chính hoặc 5% vốn cổ phần của công ty, mức độ tập trung vào ngành nghề hay lĩnh vực nào đó vượt quá 10% tổng tài sản rủi ro của Công ty tài chính); tóm tắt các danh mục nguồn vốn (vốn cổ phần, các khoản vốn đi vay, trái phiếu, tiền gửi có kỳ hạn, giấy chứng nhận tiền gửi, tiền gửi tín thác, tiền gửi từ các công ty thành viên và  tổng công ty); bảng cân đối kế toán lãi lỗ và các tỷ lệ an toàn áp dụng cho Công ty tài chính.     - Thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ      Các Công ty tài chính cần thiết lập ngay hệ thống kiểm soát nội bộ ngay sau khi đi vào hoạt động nhằm giám sát hoạt động của tất cả các bộ phận trong Công ty tài chính như: việc tổ chức các quy trình nội bộ phù hợp với các quy định của pháp luật, quy chế hiện hành phù hợp với các tiêu chuẩn và quy tắc nghề nghiệp, giám sát việc tôn trọng và tuân thủ các quyết định, các biện pháp phòng ngừa rủi ro, giám sát chất lượng thông tin kế toán và lưu trữ các thông tin đó. Giám sát chất lượng các hệ thống thông tin và truyền tin.     * Đối với các cơ quan chức năng     - Hoàn thiện môi trường pháp lý liên quan đến hoạt động của Công ty tài chính ở Việt Nam:        Về tổ chức, Công ty tài chính thuộc sự điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng và  Luật doanh nghiệp, còn về hoạt động lại chịu sự điều chỉnh chung của luật các tổ chức tín dụng như các tổ chức tín dụng khác. Về vấn đề này đề nghị Chính phủ kiến nghị với Quốc hội ban hành luật riêng điều chỉnh toàn bộ hoạt động phù hợp với đặc thù của Công ty tài chính, hoặc sửa đổi bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng hiện hành, trong đó bao gồm các điều khoản cụ thể điều chỉnh đối tượng, phạm vi, nội dung hoạt động của Công ty tài chính và tổ chức tín dụng phi ngân hàng.     - Tạo sự ổn định môi trường chính trị - tăng trưởng kinh tế - ổn định đồng tiền     Tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập đồng thời ổn định tiền tệ là điều kiện quan trọng để mỗi cá nhân và mỗi tổ chức kinh tế lựa chọn các kế hoạch đầu tư, chuyển tiền tiết kiệm thành đầu tư, tạo thị trường sôi động cho sự mở rộng và phát triển các tổ chức tài chính trong đó có Công ty tài chính.     - Mở rộng thị trường, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh trên thị trường.     Công ty tài chính là loại hình trung gian tài chính phi ngân hàng nên cần được bình đẳng như các tổ chức tín dụng khác. Do Công ty tài chính là mô hình hoạt động mới nên cần có hỗ trợ và phát triển của thị trường. Ngân hàng nhà nước cần xác định rõ lợi ích của cạnh tranh và tính chủ động của các Công ty tài chính và các khách hàng của họ. Mặt khác, Ngân hàng nhà nước cũng nên cân nhắc giữa việc giảm thiểu rủi ro trong các hoạt động của Công ty tài chính với việc tạo lập môi trường thuận lợi cho Công ty tài chính phát triển thị trường.     Ngoài ra, Ngân hàng nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi để thiết lập các tiêu chuẩn và áp dụng các thông lệ quốc tế cho các đối tượng quản lý để các tổ chức cho vay và các nhà đầu tư quốc tế tin tuởng vào sức mạnh cũng như mức độ ổn định của hệ thống tài chính Việt Nam, từ đó thúc đẩy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.     - Tăng cường sự kiểm tra, giám sát của Ngân hàng nhà nước     Ngân hàng nhà nước cần tiến hành kiểm tra chi tiết ở mỗi Công ty tài chính ít nhất mỗi năm 1 lần, Ngân hàng nhà nước cần tiến hành thanh tra đột xuất tại bất kỳ Công ty tài chính nào có thể là lựa chọn ngẫu nhiên hoặc công ty nào đó đang có vấn đề cần được quan tâm, cũng có thể thông qua giám sát từ xa phát hiện Công ty tài chính có vấn đề bất thường. Những đợt kiểm tra như thế nên xem xét tính hợp lệ của hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ, việc tuân thủ các chế độ báo cáo cho Ngân hàng nhà nước và tính hiệu quả của cán bộ quản lý cao cấp trong việc tuân thủ pháp luật trong nội bộ Công ty tài chính.     - Ngân hàng nhà nước cần có giải pháp hỗ trợ về     + Duy trì lòng tin đối với khách hàng.     + Duy trì lòng tin của người đi vay và người cho vay đối với Công ty tài chính.     + Bảo vệ các khách hàng mua và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ của Công ty tài chính. b, Những chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của Cơ chế quản lý tài chính Với mục đích là gia tăng giá trị của vốn chủ sở hữu và hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình Công ty tài chính thường thông qua các chỉ tiêu về mặt định lượng với các chỉ số tài chính được chia thành các nhóm sau: Tỷ số về khả năng thanh khoản: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của Công ty tài chính. Dự trữ sơ cấp/Tổng tài sản; (Dự trữ sơ cấp + Dự trữ thứ cấp)/Tổng tài sản; (Ngân quỹ + chứng khoán thanh khoản)/(Tiền gửi + tiền vay ngắn hạn); Dự trữ sơ cấp/ tín dụng. Tỷ số về hoạt động huy động vốn: Quy mô và tốc độ tăng trưởng huy động vốn có phân loại theo thời gian (ngắn, trung, dài hạn), phân theo khách hàng (cá nhân, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính), theo loại tiền (nội tệ - ngoại tệ)… Cơ cấu nguồn vốn, nhóm nguồn và sự thay đổi cơ cấu nguồn. Kết quả thực hiện so với kế hoạch, hoặc so với thực hiện kỳ trước. Tỷ số về hoạt động tín dụng: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của Công ty tài chính. Các chỉ tiêu tài sản gồm: Tổng dư nợ, doanh số cho vay, doanh số thu nợ, tỷ lệ nợ quá hạn… Quy mô và tốc độ tăng trưởng của các khoản mục tài sản có phân loại theo khách hàng, quy mô, có tài sản đảm bảo hay không… Cơ cấu tài sản và sự thay đổi cơ cấu tài sản. Nợ xấu và cơ cấu nợ xấu Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của Công ty tài chính. Các tỷ lệ sinh lời phản ánh mức sinh lời trên tổng tài sản hoặc trên tổng vốn của chủ. Với mục tiêu tối đa hoá lợi ích chủ sở hữu, chỉ tiêu ROE là quan trọng nhất. Tổng lợi nhuận; ROA = Lợi nhuận sau thuế/Tổng tài sản ROE = Lợi nhuận ròng sau thuế/Vốn chủ sở hữu Các chỉ tiêu phi tài chính không có trong báo cáo tài chính của các công ty tài chính nhưng nó đánh giá cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính có phù hợp hay không đó là: uy tín của Công ty với khách hàng, số lượng khách hàng có ngày càng gia tăng không, khách hàng có thích sự phục vụ của Công ty tài chính không và các chỉ tiêu khác có liên quan. Những nhân tố ảnh hưởng tới cơ chế quản lý tài chính a, Nhân tố chủ quan Cơ cấu tổ chức Sự hình thành các Công ty tài chính là sự phát triển tất yếu khách quan của nền kinh tế thị trường và sự phát triển của thị trường tài chính chứ không phải là các quyết định hành chính. Để đáp ứng được các điều kiện ứng dụng các thành tựu kinh tế kỹ thuật hiện đại và tổ chức quản lý tiên tiến. Vì vậy, Cơ cấu tổ chức của Công ty tài chính có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả hoạt động của Công ty đặc biệt hơn là với vai trò trung gian tài chính. Cơ cấu tổ chức của Công ty là cơ sở để phân định rõ ràng các chức năng quản lý, vai trò của từng đơn vị thành viên, các bộ phận phòng ban như Hội đồng quản trị và ban giám đốc trong Công ty. Là sản phẩm của sự vận động có ý thức của con người trong việc sử dụng các chức năng của tài chính, Cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính không phải là một đại lượng không thay đổi. Ngược lại nó luôn được bổ sung, hoàn thiện sao cho phù hợp với những thay đổi về cơ cấu tổ chức, về môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển cũng như sự thay đổi trong chính sách vĩ mô của nhà nước. Đặc điểm hoạt động kinh doanh: Nó ảnh hưởng trực tiếp đến mô hình tổ chức, cơ chế quản lý tài chính và mức độ phức tạp của quản lý tài chính. Công ty tài chính với chức năng huy động vốn của mình tham gia quá trình điều hoà vốn, khai thác tối đa mọi nguồn lực về vốn của thị trường trong và ngoài nước luôn đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý tài chính một cách hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, Công ty tài chính đòi hỏi phải có uy tín lớn trên thị trường, cơ sở vật chất và công nghệ đây là những điều kiện cần thiết và quan trọng để đánh giá được tình hình hoạt động và phát huy được khả năng đáp ứng các nhu cầu dịch vụ của khách hàng. Cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính sẽ ảnh hưởng lớn hiệu quả của công tác huy động vốn, quản lý sử dụng vốn và tài sản một cách có hiệu quả. b, Nhân tố khách quan Môi trường kinh doanh Môi trường kinh doanh có mối quan hệ hữu cơ đối với sự hình thành và phát triển của các tổ chức tài chính. Một mặt, với tư cách là một Doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cụ thể, Công ty tài chính chịu sự tác động của nhiều nhân tố của môi trường kinh doanh và bản thân Công ty. Mặt khác, các Công ty tài chính có sự tác động trở lại, có những ảnh hưởng nhất định và làm thay đổi môi trường kinh doanh. Ảnh hưởng của môi trường kinh doanh tới cơ chế quản lý tài chính do các nhân tố sau: Chính sách vĩ mô của Nhà nước: Với bàn tay vô hình nhà nước can thiệp vào hoạt động kinh tế xã hội nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. Nhà nước với vai trò là người hướng dẫn, kiểm soát, điều tiết chính sách tiền tệ thông qua việc ban hành các chính sách, hành lang pháp lý và Ngân hàng nhà nước. Công ty tài chính là một trung gian tài chính nên chịu sự điều tiết của luật các tổ chức tín dụng và sự quản lý chặt chẽ của Ngân hàng Trung ương. Do vậy, Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có tác động trực tiếp, quy định khung pháp lý cho việc xác lập cơ chế quản lý tài chính đối với Công ty tài chính. Chế độ sở hữu là một nhân tố nền tảng, có ảnh hưởng quyết định đối với cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính. Trong công ty tài chính có quan hệ về vốn nên nó có ảnh hưởng trực tiếp trong việc ra quyết định. Thị trường tài chính: Sự phát triển của thị trường tài chính cùng với sự phát triển đa dạng các công cụ tài chính, thị trường tài chính là nơi bơm và hút vốn chủ yếu của các chủ thể tham gia thị trường. Sự phát triển thị trường tài chính tạo ra cơ chế cạnh tranh về lãi suất huy động, tín dụng nó tác động trực tiếp tới quá trình huy động và sử dụng vốn của Công ty tài chính. Sự vận hành một cách có hiệu quả của cơ chế quản lý tài chính của Công ty tài chính chịu sự tác động trực tiếp của thị trường tài chính. Vì vậy, cơ chế quản lý tài chính luôn đòi hỏi phải có sự linh hoạt điều chỉnh sao cho phù hợp với quy định của pháp luật và xu thế hội nhập với thông lệ quốc tế. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH CÔNG NGHIỆP TÀU THUỶ 2.1. Khái quát về Công ty Tài chính Công nghiệp tàu thuỷ 2.1.1. Sự hình thành và phát triển của Công ty Tài ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7895.doc