HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
 NGUYỄN TIẾN THÀNH 
 hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện 
 dân chủ cơ sở ở việt nam hiện nay 
 LUẬN ÁN TIẾN SĨ 
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 
 HÀ NỘI - 2016 
 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
 NGUYỄN TIẾN THÀNH 
 hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện 
 dân chủ cơ sở ở việt nam hiện nay 
 LUẬN ÁN TIẾN SĨ 
CHUYấN NGÀNH: Lí LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT 
 Mó số: 62 38 01 01 
 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
169 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 544 | Lượt tải: 0
              
            Tóm tắt tài liệu Luận án Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 PGS. TS. NGUYỄN THỊ VIỆT HƯƠNG 
 HÀ NỘI - 2016 
 LỜI CAM ĐOAN 
 Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng 
tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có 
nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. 
 Tác giả luận án 
 Nguyễn Tiến Thành 
 MỤC LỤC 
 Trang 
MỞ ĐẦU 1 
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ 
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước 8 
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 21 
1.3. Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần 
 tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án 26 
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC 
HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 32 
2.1. Nhận thức về dân chủ và dân chủ cơ sở 32 
2.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 41 
2.3. Các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 49 
2.4. Tiêu chí hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 60 
Chương 3: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC HIỆN DÂN CHỦ 
CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 71 
3.1. Thực trạng xây dựng các nguyên tắc thực hiện dân chủ cơ sở 71 
3.2. Thực trạng thể chế thực hiện dân chủ cơ sở 83 
3.3. Thực trạng thiết chế thực hiện dân chủ cơ sở 90 
3.4. Thực trạng các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở 99 
3.5. Thực trạng tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 103 
Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ 
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 117 
4.1. Dự báo những chuyển biến của xã hội tác động đến quá trình hoàn thiện 
 cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 117 
4.2. Quan điểm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 
 hiện nay 123 
4.3. Giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 
 hiện nay 127 
KẾT LUẬN 148 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN 
ĐẾN LUẬN ÁN 151 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 
 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
BCHTW : Ban Chấp hành Trung ương 
CNXH : Chủ nghĩa xã hội 
HĐND : Hội đồng nhân dân 
HTCT : Hệ thống chính trị 
MTTQ : Mặt trận Tổ quốc 
QCDC : Quy chế dân chủ 
UBND : Ủy ban nhân dân 
XHCN : Xã hội chủ nghĩa 
 1 
 MỞ ĐẦU 
 1. Tính cấp thiết của đề tài 
 Trên phương diện nhận thức luận, quyền lực nhân dân trong mọi xã hội hiện 
đại đều có thể và cần thiết thể hiện theo hai phương thức: dân chủ đại diện, dân chủ 
trực tiếp và thực hiện trên các phạm vi không gian của đất nước. Điều đó bao hàm 
cách hiểu, nhân dân - với vị thế chủ thể quyền lực, có thể trao quyền cho cá nhân 
hay tổ chức đại diện cho mình để thực hiện quyền lực nhân dân đồng thời nhân dân 
cũng có thể tự mình bày tỏ ý chí của mình để trực tiếp thực hiện quyền lực nhân 
dân. Nói cách khác, mặc dù làm chủ thông qua con đường nhà nước là phương thức 
làm chủ thông dụng và hữu hiệu nhưng nhân dân không thể trao hết quyền lực cho 
nhà nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, Nhà nước luôn vấp phải những lỗi hệ 
thống và nhân dân luôn gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoạt động của các cơ 
quan Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo quyền lực nhân dân. Vì vậy, nhân dân 
không thể đặt cược toàn bộ vào nhà nước. Nhân dân phải tự mình - thông qua 
những hình thức khác nhau, trực tiếp thực hiện quyền của chủ nhân quyền lực. Điều 
này thể hiện rõ nét nhất tại địa bàn cơ sở. Cách đặt vấn đề đó đã chỉ ra nhu cầu phải 
tìm kiếm căn cứ lý thuyết để tạo khung tư duy cho việc xác lập các cơ chế bảo đảm 
quyền lực thuộc về nhân dân, trong đó - như một tất yếu - có cơ chế pháp lý thực 
hiện dân chủ cơ sở. 
 Trên phương diện thực tiễn, Đảng ta luôn coi trọng nhân dân, luôn xác định 
vị thế chủ thể quyền lực của nhân dân và phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Trong 
quá trình đổi mới, tính pháp quyền của Nhà nước, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa 
(XHCN) đã từng bước được xây dựng, củng cố. Bước tiến đó đã có khả năng 
thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, vào đời sống xã 
hội trên nhiều vùng của đất nước, đang tạo ra những mô hình, những điển hình có 
sức lan tỏa lớn. Tuy nhiên, trong thực tế, cơ chế bảo đảm quyền lực thuộc về nhân 
dân vẫn đang tồn tại những bất cập. Một mặt, tuy Hiến pháp 2013 đã có những 
thay đổi quan trọng trong ghi nhận chủ quyền nhân dân và các cơ chế thực thi dân 
chủ nhưng trên thực tế, quá trình triển khai thi hành Hiến pháp mới được khởi 
 2 
động, mặt khác, dân chủ cơ sở ở nước ta chưa được phát huy đúng mức - xét cả ở 
góc độ nhận thức cũng như ở hiện thực của các hình thức và cơ chế đảm bảo 
quyền tham gia và quyết định trực tiếp của nhân dân đối với các vấn đề của địa 
phương và đất nước. Trong suốt những năm đổi mới vừa qua, để đảm bảo tính an 
toàn và ổn định xã hội, quá trình phát huy dân chủ ở nước ta vẫn căn bản dựa trên 
cơ sở chiêm nghiệm thực tế, vừa làm vừa đúc rút lý luận và kinh nghiệm, do vậy 
tính tổng thể, tính đồng bộ, tính phù hợp và hiệu quả còn bị hạn chế. Đặc biệt, tại 
địa bàn cơ sở, tình trạng vi phạm dân chủ vẫn là hiện tượng tương đối phổ biến. Đi 
kèm với nó là trạng thái suy giảm lòng tin của dân chúng và hiệu ứng ngược đối 
với năng lực thực hành dân chủ của nhân dân. Những nỗ lực phát huy dân chủ ở 
cơ sở trong những năm gần đây vẫn chưa phát huy hết được tác động thực tế. Các 
cơ chế, hình thức thực thi dân chủ của người dân và các cơ chế bảo vệ, bảo đảm 
quyền dân chủ của người dân ở cơ sở vẫn có không ít khoảng trống về mặt lý luận 
và thiết kế pháp lý. Nhìn một cách tổng thể, phương châm "Dân biết, dân bàn, dân 
làm, dân kiểm tra" tại cơ sở vẫn chưa có được những căn cứ chính trị và pháp lý 
vững chắc cho việc thực hiện nhất quán để một mặt bảo đảm vai trò và sứ mệnh 
lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội của Đảng, quyền làm chủ của nhân dân, hiệu 
lực và hiệu quả quản lý của Nhà nước, mặt khác, bảo đảm để có sự cầm quyền và 
thực thi quyền lực chính đáng, hợp hiến vì nhân dân, ngăn chặn có hiệu quả mọi 
biểu hiện của sự lạm dụng quyền lực và nguy cơ phát triển chệch hướng, vượt ra 
ngoài quỹ đạo phục vụ nhân dân. 
 Nhu cầu khắc phục tình trạng nói trên đã được Đảng và Nhà nước ta nhận 
thức rất rõ. Nhiệm vụ nghiên cứu những vấn đề lý luận và tổng kết thực tiễn để hình 
thành một chủ thuyết đầy đủ về chủ quyền nhân dân, trên cơ sở đó xác lập cơ chế 
hữu hiệu đảm bảo quyền lực thuộc về nhân dân, tăng cường các cơ chế, hình thức 
đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở, giải quyết các mối quan hệ giữa quyền làm chủ 
trực tiếp của người dân với các thiết chế thuộc hệ thống chính trị cơ sở đã được 
xác định là một yêu cầu cấp bách và trở thành một định hướng quan trọng trong 
nghiên cứu khoa học và được đặt trong bối cảnh đổi mới chính trị hiện nay nhằm 
khơi thông một cách tiếp cận và quảng bá xã hội về quyền của người dân, về khả 
 3 
năng nhân dân được làm gì và làm như thế nào để bảo vệ và thực thi quyền lực 
nhân dân trong một trật tự nhà nước pháp quyền. Đặc biệt, thực hiện tốt và đẩy 
mạnh dân chủ cơ sở không chỉ đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và 
Nhà nước trước tình hình phức tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà còn thể hiện 
cái nhìn hướng tới cơ sở, coi trọng cái gốc ở cơ sở, do vậy mang tính chiến lược, 
căn bản, lâu dài. Theo hướng đó, trên từng bình diện cụ thể, nhiều đề tài nghiên cứu 
đã được triển khai. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu đến nay vẫn chưa phúc đáp được 
yêu cầu. 
 Trong bối cảnh đó, rất cần thiết phải tiến hành nghiên cứu theo hướng làm 
sâu sắc thêm về mặt lý luận, tổng kết thực tiễn và định hình một cách cơ bản, đồng 
bộ, có hệ thống về các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân 
chủ cơ sở gắn với yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, thúc đẩy và bảo 
vệ các quyền cơ bản của con người ở Việt Nam. Bối cảnh triển khai Hiến pháp năm 
2013 hiện nay càng khiến cho chủ đề này trở nên cấp bách. 
 Như vậy, có thể khẳng định, trong tình hình hiện nay việc lựa chọn nghiên 
cứu chủ đề “Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 
hiện nay” trong quy mô của một luận án tiến sĩ và dưới góc độ tiếp cận của khoa 
học pháp lý là rất cần thiết, xét cả từ góc độ lý luận và góc độ thực tiễn. 
 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 
 2.1. Mục đích nghiên cứu 
 Mục đích tổng quát của luận án là xây dựng luận cứ khoa học cho các giải 
pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam, góp phần phát 
huy dân chủ, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân trong quá trình đổi mới đất 
nước hiện nay. 
 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 - Nghiên cứu làm sáng tỏ nhận thức về dân chủ cơ sở; xác định khái niệm, 
đặc điểm, các yếu tố cấu thành và vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ 
sở ở Việt Nam hiện nay. 
 - Nhận diện các tiêu chí hoàn thiện và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn 
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. 
 4 
 - Đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt Nam. 
Xác định và phân tích các nguyên nhân của ưu điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở hiện nay. 
 - Xác định các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới. 
 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
 3.1. Đối tượng nghiên cứu 
 - Các khía cạnh lý luận về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. 
 - Hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật về quyền dân chủ, các hình thức, 
phương pháp, trình tự, thủ tục thực hiện dân chủ tại cơ sở. 
 - Hệ thống pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về tổ chức và hoạt động 
của các thiết chế thực thi dân chủ tại cơ sở. 
 - Các điều kiện, yếu tố tác động đến quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực 
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. 
 3.2. Phạm vi nghiên cứu 
 - Phạm vi không gian: Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một phạm 
trù có nội hàm rộng, khó có thể giải quyết thấu đáo trong quy mô của luận án tiến sĩ 
luật học. 
 Vì vậy, luận án triển khai nghiên cứu lý luận và đánh giá thực trạng thể chế, 
thiết chế và các điều kiện đảm bảo thực hiện dân chủ cơ sở trên không gian cả nước 
nhưng chỉ giới hạn ở đơn vị hành chính - lãnh thổ cấp cơ sở. Khái niệm thực hiện 
dân chủ cơ sở - đối tượng nghiên cứu của đề tài - được xác định là việc thực hiện 
dân chủ tại loại hình cơ sở xã, phường, thị trấn (chủ yếu là xã - đơn vị hành chính 
cơ sở phổ biến ở nước ta hiện nay), không bao hàm việc thực hiện dân chủ trong 
các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức nhà nước tại cơ sở. 
 - Phạm vi thời gian: 
 Luận án triển khai nghiên cứu quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam từ sau khi Bộ Chính trị (khóa VIII) 
có Chỉ thị số 30/CT-TW của Bộ Chính trị ngày 18/2/1998 về xây dựng và thực 
hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Trực tiếp là từ khi Chính phủ có Nghị định số 
 5 
29/1998/NĐ-CP ngày 28/5/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện quy chế dân 
chủ cơ sở đến 2015. 
 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 
 4.1. Cơ sở lý luận của luận án 
 Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu luận án là lý luận của chủ nghĩa Mác - 
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, chủ quyền nhân dân và bản 
chất của dân chủ XHCN, về chức năng nhiệm vụ của hệ thống chính trị cơ sở, về vị 
trí vai trò của các tổ chức quần chúng, về đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy 
Đảng và Nhà nước theo hướng phục vụ nhân dân và bảo đảm quyền lực nhân dân. 
 Luận án trực tiếp dựa trên những quan điểm và định hướng các nhiệm vụ 
chính trị được đề cập trong các Văn kiện Đại hội VIII, IX, X, XI của Đảng về tiếp 
tục phát huy dân chủ, đổi mới hệ thống chính trị, về chiến lược phát triển bền vững 
ở Việt Nam, về tiến bộ và công bằng xã hội, về xây dựng hệ thống pháp luật đồng 
bộ, minh bạch, đảm bảo các quyền con người, quyền công dân 
 Luận án cũng dựa trên cách tiếp cận nghiên cứu của một số lý thuyết phổ 
biến hiện nay trên thế giới như: lý thuyết về chủ quyền nhân dân, học thuyết nhà 
nước pháp quyền, học thuyết về quyền con người 
 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án 
 Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến hiện nay của khoa 
học pháp lý, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích và tổng hợp, kết hợp 
giữa lý luận và thực tiễn, lý thuyết hệ thống. Ngoài ra luận văn còn sử dụng một số 
phương pháp cụ thể như thống kê, so sánh, điều tra xã hội học, lịch sử... 
 Do tính chất liên ngành của đề tài, luận án có chú ý thích đáng đến cách tiếp 
cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội trên cơ sở lát cắt chủ đạo của khoa học 
pháp lý và khoa học chính trị. 
 Chương 1 sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp phân tích 
tài liệu thứ cấp nhằm kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, phân tích, tổng hợp, 
khái quát thành quan điểm riêng của tác giả. 
 Chương 2 sử dụng phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp trên cơ sở quan 
điểm biện chứng của triết học Mác-Lênin. 
 6 
 Chương 3 sử dụng phương pháp lịch sử, phân tích, so sánh, điều tra xã hội 
học, đánh giá thực hiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở các tỉnh, thành 
phố trong cả nước. 
 Chương 4 sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, lý thuyết hệ thống nhằm 
phát hiện mối liên hệ giữa bối cảnh, điều kiện với các yêu cầu phát huy dân chủ cơ 
sở; bảo đảm tính tổng thể và khoa học của các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 
 5. Đóng góp mới của luận án 
 Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về hoàn thiện cơ chế pháp lý thực 
hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Tác giả luận án phân tích toàn diện cơ sở 
lý luận và thực tiễn về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và kiến nghị hệ 
thống các giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam 
hiện nay. 
 Những đóng góp chủ yếu của luận án là: 
 - Đưa ra khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; chỉ rõ các 
thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; xác định các 
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 
ở Việt Nam. 
 - Luận án chỉ ra sự tương tác giữa phát huy dân chủ cơ sở với đảm bảo quyền 
con người ở nước ta hiện nay. 
 - Đánh giá những kết quả và hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý thực hiện 
dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; Chỉ rõ nguyên nhân của những kết quả và hạn 
chế trong sự tác động của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đối với xã hội 
Việt Nam hiện nay. 
 - Nêu và luận chứng đầy đủ về hệ thống giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 
 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 
 6.1. Về lý luận 
 Kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của luận án góp phần làm sáng tỏ và 
phong phú thêm những vấn đề lý luận về thực hiện dân chủ nói chung, về cơ chế 
 7 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam nói riêng. Từ đó, luận án góp phần đổi 
mới nhận thức lý luận về dân chủ và dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 
 6.2. Về thực tiễn 
 Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo đối với các nhà nghiên cứu, 
các nhà hoạch định chính sách và quản lý. 
 Kết quả luận án có thể được sử dụng phục vụ cho hoạt động đào tạo cho học 
viên cao học, sinh viên đại học tại các cơ sở đào tạo ngành luật và các ngành khoa 
học xã hội có liên quan. 
 Các kết quả nghiên cứu của luận án có thể được các cơ quan hữu quan tại các 
địa phương sử dụng làm luận cứ khoa học, tài liệu tham khảo phục vụ việc xây 
dựng các giải pháp, biện pháp cụ thể để phát huy dân chủ cơ sở trên địa bàn, góp 
phần đảm bảo quyền lực nhân dân, phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc 
phòng, trật tự an toàn xã hội, phát triển bền vững tại địa phương. 
 7. Kết cấu của luận án 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác 
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung luận án gồm 4 
chương, 15 tiết. 
 8 
 Chương 1 
 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ 
 ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
 1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở TRONG NƯỚC 
 Cùng với quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và nền 
kinh tế thị trường định hướng XHCN, yêu cầu phát huy dân chủ trong các lĩnh vực 
của đời sống đã được đặt ra hết sức mạnh mẽ ở Việt Nam. Theo đó, hoạt động 
nghiên cứu hướng tới mục tiêu tìm kiếm các giải pháp đảm bảo thực hiện dân chủ 
nói chung, dân chủ cơ sở nói riêng diễn ra đặc biệt sôi động ở nước ta trong những 
năm gần đây. Số lượng các công trình nghiên cứu liên quan đến chủ đề này khó có 
thể liệt kê hết thông qua những con số thống kê đơn thuần. Sản phẩm của hoạt 
động nghiên cứu được công bố dưới nhiều hình thức ấn phẩm khác nhau: Báo cáo 
tổng hợp và kiến nghị của các đề tài nghiên cứu các cấp, sách chuyên khảo, các 
bài báo khoa học, các kỷ yếu hội thảo khoa học, các luận án và luận văn trong các 
lĩnh vực chuyên ngành luật học, chính trị học, hành chính học 
 Nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu chủ đề luận án, nghiên cứu sinh chỉ 
dừng ở việc lựa chọn và tổng quan những quan điểm nghiên cứu chính của một số 
công trình tiêu biểu có liên quan trực tiếp tới các nội dung thuộc phạm vi bàn luận 
của luận án. Về cơ bản, có thể gom các công trình đó thành các nhóm sau: 
 1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về dân chủ và dân chủ cơ sở 
 Trước hết, nghiên cứu về dân chủ có thể kể đến các công trình sau: 
 - Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, của Thái Ninh, Hoàng Chí 
Bảo [96]. Nội dung cuốn sách tập trung làm rõ các vấn đề lý luận về dân chủ tư 
sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa; coi dân chủ tư sản là thành quả của cuộc cách 
mạng tư sản, là kết quả việc nhà nước tư sản sử dụng phương pháp tự do chủ 
nghĩa để thực hiện chuyên chính tư sản; chỉ ra những đặc trưng cơ bản của dân 
chủ tư sản. Dân chủ XHCN là nền dân chủ gắn với bản chất của chế độ Nhà nước 
XHCN; là hình thức chính quyền mà đặc trưng là việc tuyên bố chính thức nguyên 
tắc thiểu số phục tùng đa số và thừa nhận quyền tự do bình đẳng của công dân. 
 9 
Trong tương quan với quyền lực nhân dân, dân chủ được coi là công cụ, là hình 
thức chủ yếu thực hiện quyền lực nhân dân... 
 - Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân công dân với Nhà nước, của Trần 
Ngọc Đường, Chu Văn Thành [44]. Nội dung cuốn sách đã phân tích và lý giải về 
mối quan hệ bình đẳng giữa Nhà nước và công dân về quyền và nghĩa vụ. Bởi lẽ, 
chế độ chính trị ở nước ta nhân dân là người chủ của đất nước, đương nhiên phải 
có đầy đủ quyền của người làm chủ, đồng thời cũng phải thực hiện nghĩa vụ, đó là 
mối quan hệ biện chứng. Nhưng để bảo đảm quyền, nghĩa vụ được thực thi trên 
thực tế, phải được luật quy định chính xác, đầy đủ, đó là điều kiện quyết định, nếu 
không thì dù có cơ chế tốt đến đâu cũng không thể thực thi được. 
 - Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực tiễn, của Nguyễn Tiến 
Phồn [100]. Cuốn sách bàn tập trung về cách hiểu khái niệm dân chủ, tập trung 
dân chủ, trạng thái của dân chủ trong xã hội hiện đại và ở Việt Nam 
 - Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay, của Đỗ 
Trung Hiếu [54]. Tác giả dành sự quan tâm phân tích nhu cầu và đặc thù nền dân 
chủ Việt Nam, đề xuất các giải pháp tiếp tục phát huy dân chủ trong điều kiện hiện 
nay ở Việt Nam. 
 - Dân chủ và pháp luật, của Ngô Huy Cương [16]. Cuốn sách gồm 3 
chương, trình bầy những nhận thức chung về dân chủ, đánh giá tính dân chủ trong 
pháp luật Việt Nam hiện nay, đề cập việc xây dựng dân chủ và pháp luật dân chủ 
ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay như: xây dựng nền văn hóa chính trị, xây 
dựng Hiến pháp dân chủ, xây dựng chính quyền dân chủ, phát triển các hình thức 
dân chủ và xây dựng xã hội công dân. 
 - Các chuyên đề bài giảng chính trị học, của Phan Xuân Sơn [119]. Các 
chuyên đề bài giảng chính trị học đều có những nội dung liên quan ở các mức độ 
khác nhau đến nền dân chủ. Đó là các vấn đề lý luận về quyền lực chính trị, quyền 
lực nhà nước, hệ thống chính trị, Nhà nước pháp quyền, Đảng chính trị và xã hội 
công dân, kiểm soát quyền lực nhà nước, bầu cử... Đặc biệt chuyên đề 21 - Xây 
dựng nền dân chủ XHCN Việt Nam do Lê Minh Quân biên soạn đã trình bầy một 
cách hệ thống những vấn đề lý luận chung về dân chủ, bao gồm: các quan niệm về 
 10 
dân chủ và các mô hình dân chủ trong lịch sử chính trị thế giới từ thời cổ đại đến 
nay, quan niệm về dân chủ của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, những 
yếu tố tạo nên cơ sở cho nền dân chủ hiện đại và tiêu chuẩn dân chủ. Trên cơ sở 
đó, chuyên đề đánh giá khái quát thực trạng dân chủ ở Việt Nam và đặt ra yêu cầu 
tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng XHCN. 
 - Đặc biệt, số lượng các bài báo khoa học về chủ đề dân chủ hết sức phong 
phú, trong đó phải kể đến danh mục các bài sau: Hoàng Văn Hảo, Vấn đề dân 
chủ và các đặc trưng của mô hình tổng thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam [50]; Nguyễn Trọng Thóc, Nâng cao vai trò lãnh đạo của 
Đảng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ 
nghĩa ở nước ta hiện nay [133]; Đặng Hữu Toàn, Xây dựng Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân [140]; 
Lương Đình Hải, Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ hóa xã hội 
ở nước ta hiện nay [49]; Nguyễn Minh Đoan, Dân chủ với pháp luật [42]; Phạm 
Văn Nhuận, Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng nền dân chủ xã hội 
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay [94]; Đặng Viết Đạt, Pháp luật và dân chủ trong 
nhà nước pháp quyền [41] 
 Đi sâu bàn luận về dân chủ cơ sở đã có rất nhiều công trình nghiên cứu từ 
các góc độ khác nhau, trong đó phải kể đến các công trình sau: 
 - Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế 
dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, của Trần Ngọc Khuê [68]. Đề tài đã phân tích 
làm rõ sự tác động qua lại của một số yếu tố tâm lý xã hội cơ bản với việc thực 
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay; đánh giá 
thực trạng và nguyên nhân thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn đồng 
bằng Bắc Bộ; đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm thực hiện có hiệu quả Quy chế 
dân chủ ở cơ sở nông thôn trong thời kỳ mới. 
 - Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông 
Hồng hiện nay, của Nguyễn Thị Ngân [89]. Đề tài đã tiến hành nghiên cứu thực 
trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, qua 
 11 
đó đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện quy chế 
dân chủ (QCDC) ở khu vực đồng bằng sông Hồng. 
 - Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, 
của Dương Xuân Ngọc [90]. Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận tác giả đã làm rõ ý 
nghĩa và tầm quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp, phân tích đánh giá 
thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cấp xã, đưa ra những giải pháp 
phù hợp cho việc thực hiện QCDC ở cấp xã ở nước ta trong điều kiện mới. 
 - Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta 
hiện nay, của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [116]. Nội dung của cuốn sách 
được rút ra từ những kết quả khảo cứu, nghiên cứu của tập thể tác giả tiến hành ở 
nhiều địa phương trên cả ba miền đất nước và có tham khảo kinh nghiệm ở một 
số nước. Qua nội dung cuốn sách cho thấy trong thời gian qua, chính quyền cơ 
sở đã tích cực thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình, nhiều nơi đã triển khai 
quy chế dân chủ cơ sở có hiệu quả cùng nhân dân làm nên những thành tựu đổi 
mới trong phát triển kinh tế làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị. Tuy 
nhiên, trong quá trình xây dựng, chính quyền cơ sở còn bộc lộ những khuyết 
điểm, yếu kém trong công tác lãnh đạo, tổ chức và vận động nhân dân. Tình 
trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân 
còn xảy ra ở không ít nơi, quy chế dân chủ cơ sở chưa được triển khai đầy đủ, có 
nơi chưa đi vào cuộc sống... 
 - Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay, của Nguyễn 
Văn Sáu, Hồ Văn Thông [117]. Nội dung của cuốn sách cho thấy cách nhìn sinh 
động trong việc thực Quy chế dân chủ ở cơ sở và xây dựng chính quyền cấp xã 
trên một số hoạt động như quản lý xã hội, kinh tế, quản lý tài chính, thực hiện 
chương trình xóa đói giảm nghèo, nhằm phát triển nông thôn Việt Nam trong giai 
đoạn mới. 
 - Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở, của Nguyễn Bắc Son [118]. Cuốn sách gồm 3 
phần, trong đó phần I đề cập đến thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Bao 
gồm những quy định chung trong thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Những 
nội dung công khai để nhân dân biết; những nội dung nhân dân bàn và quyết định; 
 12 
những nội dung nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền bàn và 
quyết định; những nội dung nhân dân giám sát. Sách được kết cấu dưới dạng hỏi - 
đáp, được sắp xếp theo từng vấn đề, dễ nhớ, dễ thuộc và dễ tra cứu. Các câu hỏi và 
đáp án trả lời trong cuốn sách đã khái quát và cụ thể hóa những quy định pháp lý 
cơ bản nhất trong lĩnh vực dân chủ ở cơ sở: quyền và nghĩa vụ của công dân, tổ 
chức, cá nhân trong hoạt động dân chủ ở xã, phường, thị trấn. 
 - Đỗ Tiến Sâm, Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung Quốc 
[115]. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu hệ thống chính quyền cơ sở, tổ 
chức tự quản ở nông thôn Trung Quốc và vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông 
thôn Trung Quốc. Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế, các vấn đề đặt ra 
và phương hướng giải quyết, tác giả rút ra những bài học kinh nghiệm có thể tham 
khảo trong thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã tại Việt Nam. 
 - Vũ Văn Hiền, Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển và Trung 
Quốc [52]. Cuốn sách tập hợp các bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu về 
vấn đề bảo đảm quyền dân chủ của người dân ở cơ sở trên tất cả các lĩnh vực của 
đời sống xã hội qua kinh nghiệm thực hành dân chủ ở Thụy Điển và Trung Quốc. 
 - Viện Chính sách công và Pháp luật - Viện Nhà nước và pháp luật (Đồng 
chủ biên): Đào Trí Úc và các cộng sự, Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ 
trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam [150]. Cuốn sách gồm tập hợp 
những bài tham luận tại cuộc Hội thảo “Dân chủ trực tiếp, Dân chủ cơ sở trên thế 
giới và ở Việt Nam”, trong đó, các tác giả đã chia sẻ kiến thức, thông tin về một 
loạt vấn đề lý luận, thực tiễn và các mô hình tổ chức thực hiện dân chủ trực tiếp, 
dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam; đồng thời, đề xuất những quan điểm, 
giải pháp hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và các cơ chế bảo đảm thực hiện dân 
chủ trực tiếp, dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới. 
 - Cuốn sách: Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình đổi 
mới, của Hoàng Chí Bảo [5]. Nội dung của cuốn sách bao gồm sáu vấn đề lớn: 
 1. Ý thức dân chủ của người Việt Nam từ lịch sử đến hiện đại. 
 2. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và quy chế dân chủ ở cơ sở. 
 13 
 3. Quan hệ giữa thể chế chính thống và phi chính thống trong việc củng cố, 
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn hiện nay. 
 4. Tác động của quy chế dân chủ ở cơ sở đối với việc thực hiện xoá đói 
giảm nghèo ở nông thôn từ góc nhìn đánh giá chính sách. 
 5. Tâm lý làng xã trong việc thực hiện dân chủ ở cơ sở và tăng cường văn 
hoá pháp luật ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ hiện nay. 
 6. Những bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá trình triển khai, 
thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở và một vài khuyến nghị. 
 - Cuốn sách Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, của 
Hoàng Chí Bảo [6]. Theo tinh thần nội dung Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) 
về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị 
trấn, cuốn sách trên là kết quả nghiên cứu của đề tài "Nghiên cứu một số vấn đề 
nhằm củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở cơ sở trong sự nghiệp đổi mới ở 
nước ta hiện nay". 
 Sau khi Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP Về việc ban 
hành Quy chế thực hiện dân chủ ở xã đã có rất nhiều bài báo khoa học được đăng 
tải trên các Tạp chí chuyên ngành Luật học, Chính trị học, Triết học... bàn sâu các 
khía cạnh của dân chủ cơ sở nói chung, dân chủ trên địa bàn cấp xã nói riêng: 
 - Ngọ Văn Nhân, Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện 
trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay [93]. Trong bài viết, tác giả khẳng định 
rằng, phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền 
XHCN là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước ta trong công 
cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển đất nước hiện nay, là điều kiện tiên quyết để 
xây dựng bộ máy nhà nước thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, 
đồng thời nhấn mạnh, dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện đều là hình thức của 
chế độ dân chủ, có quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. 
 - Đỗ Văn Dương, Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ 
sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh 
Tây Nguyên [20]. Theo tác giả bài viết, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở xã, 
 14 
phường, thị trấn ngày càng đổi mới và hoàn thiện được coi là cơ chế vận hành 
của nền dân chủ nhằm bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân, là khâu then chốt 
của toàn bộ quá trình dân chủ hóa đời sống chính trị - xã hội ở cơ sở, giúp giải 
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và công dân, qua đó quyền làm chủ 
của nhân dân ngày càng được bảo đảm đầy đủ hơn trên thực tế. Nhìn trên 
phương diện đó, những hạn chế, bất cập của hệ thống chính trị cơ sở đối với việc 
lãnh đạo, triển khai thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa bàn các tỉnh Tây Nguyên 
vẫn còn rất lớn. Chính vì vậy, tác giả khẳng định cần phải có những giải pháp 
toàn diện nhằm phát huy vai trò của hệ thống chính trị cơ sở nhằm bảo đảm thực 
hiện dân chủ ở cấp xã ở Tây Nguyên, như tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ 
cơ sở; nâng cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành của đội ngũ cán 
bộ cấp xã ở Tây Nguyên... 
 - Nguyễn Thị Thu Hà, Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính trị 
cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay [47]. Nội dung bài viết tập trung làm rõ hai ... hiện 
nay. Đã có sự nhất trí cao về sự cần thiết thực hiện tổng thể các giải pháp để phát 
huy dân chủ ở Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung ở một số giải pháp chính 
như: nâng cao nhận thức của Đảng, Nhà nước và các bộ phận nhân dân về dân chủ 
và thực hành dân chủ; hoàn thiện pháp luật và đảm bảo hiệu quả thực thi pháp luật 
về dân chủ; tạo lập các đảm bảo cho việc thực thi dân chủ trong các lĩnh vực cụ 
thể ở Việt Nam hiện nay. 
 Thứ ba, nhiều vấn đề trọng yếu liên quan trực diện tới chủ đề nghiên cứu 
của luận án chưa được đề cập giải quyết hoặc chưa được giải quyết thấu đáo. 
 Trước hết đó là một số vấn đề đã được đề cập trong nhiều công trình 
nghiên cứu nhưng chưa đạt được sự thống nhất cao như: cách hiểu một số khái 
 28 
niệm: dân chủ ở cơ sở, cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; các yếu tố hợp 
thành của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở; đặc điểm của cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ ở cơ sở; trạng thái hiện hành của cơ chế pháp lý thực hiện dân 
chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay xét cả từ phương diện điều chỉnh pháp luật và cả 
từ phương diện thực thi pháp luật; các giải pháp pháp lý và giải pháp tổ chức để 
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở, trong đó bất cập lớn nhất là 
thiếu tính hệ thống giữa các giải pháp đã được đề xuất trong quá trình hoàn thiện 
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ ở cơ sở. Cũng liên quan đến vấn đề này là tình 
trạng thiếu một quan điểm được thừa nhận chung về mô hình pháp luật cần thiết 
và khung pháp luật cơ bản cho việc ghi nhận và điều chỉnh quá trình dân chủ cơ 
sở ở nước ta hiện nay. 
 Bên cạnh đó, có khá nhiều vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt tới việc xác 
định các luận cứ khoa học đúng đắn nhằm hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân 
chủ ở cơ sở tại Việt Nam nhưng chưa được đề cập nghiên cứu. Cụ thể các vấn đề 
sau: nội dung cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam; các yếu tố ảnh 
hưởng đến mức độ hoàn thiện của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt 
Nam; kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 
ở một số quốc gia có hoàn cảnh, điều kiện tương đồng với Việt Nam; những bất 
cập của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành trước nhu cầu triển khai 
thi hành Hiến pháp năm 2013 và các chủ trương lớn của Đảng ta về phát huy dân 
chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp ở Việt Nam hiện nay; Nguyên nhân của các ưu 
điểm và hạn chế của cơ chế pháp lý hiện hành về thực hiện dân chủ cơ sở; giải 
pháp về xây dựng chiến lược tổng thể và lâu dài cho quá trình hoàn thiện cơ chế 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Ngoài ra, cũng đang thiếu sự lập 
luận cần thiết và thuyết phục cho từng giải pháp cụ thể liên quan đến yêu cầu hiện 
thực hóa cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 
 Như vậy nhìn một cách tổng thể, có thể thấy, mặc dù số lượng các công 
trình nghiên cứu liên quan tới đề tài luận án lên tới con số hàng trăm nhưng 
hiện tại chưa có một công trình nghiên cứu nào tổ chức nghiên cứu một cách hệ 
 29 
thống và đầy đủ, toàn diện về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt 
Nam hiện nay để từ đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp hoàn thiện cơ 
chế pháp lý đảm bảo phát huy dân chủ cơ sở trong bối cảnh xây dựng và hoàn 
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội 
nhập quốc tế của đất nước và trong yêu cầu triển khai thi hành Hiến pháp năm 
2013. Nói cách khác, hiện chưa có công trình nghiên cứu nào ở trong và ngoài 
nước đặt cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam là đối tượng 
nghiên cứu chính. 
 1.3.2. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đề tài luận án 
 Xuất phát từ sự phân tích thực trạng tình hình nghiên cứu liên quan đến chủ 
đề luận án nêu trên, có thể thấy không gian nghiên cứu dành cho luận án còn hết 
sức rộng rãi, bao gồm những vấn đề sau: 
 Thứ nhất, nghiên cứu những thay đổi mới trong nhận thức lý luận về dân 
chủ và dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên chính trị, một Đảng 
cộng sản cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền 
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 
 Thứ hai, nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm và nội dung của dân chủ cơ sở. 
Nghiên cứu các mối quan hệ phát sinh trong tiến trình dân chủ hoá ở cơ sở (đi từ 
chủ quyền nhân dân, quyền con người để xác định các mối quan hệ cơ bản hướng 
tới đảm bảo quyền lực nhân dân và quyền con người: mối quan hệ giữa công dân 
với các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở, vai trò, trách nhiệm của Nhà nước 
và các thiết chế khác đối với phát huy dân chủ cơ sở). 
 Thứ ba, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, vai trò và các yếu tố hợp thành 
của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu phải 
đưa ra được định nghĩa về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở, các yếu tố cấu 
thành nội hàm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Kết quả nghiên cứu cũng 
cần đạt được sự luận chứng thuyết phục về vai trò không thể thiếu của cơ chế pháp 
lý trong thực hiện dân chủ gắn liền với các quyền và lợi ích thiết thực của người 
dân tại cơ sở. 
 30 
 Thứ tư, nghiên cứu xác lập các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của cơ 
chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Các tiêu chí cần được 
xem xét ở mức độ toàn diện và cụ thể. 
 Thứ năm, nghiên cứu đánh giá toàn diện, tổng thể về quá trình xây dựng, 
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở và thực trạng cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. Kết quả nghiên cứu phải chỉ rõ 
được những thành tựu, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của các thành tựu, hạn 
chế của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở hiện hành. Kết quả nghiên cứu 
cũng cần chỉ ra thực trạng các điều kiện đảm bảo mức độ hoàn thiện của cơ chế 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay. 
 Thứ sáu, nghiên cứu dự báo bối cảnh phát huy dân chủ ở Việt Nam trong 
giai đoạn tới. Từ đó xây dựng các quan điểm và đề xuất các giải pháp tiếp tục 
hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả nghiên 
cứu phải đảm bảo lập luận thuyết phục hơn về các giải pháp có liên quan đã được 
các công trình nghiên cứu khác đề cập và luận chứng, đồng thời kiến nghị hệ giải 
pháp tổng thể mang tính chiến lược cho quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực 
hiện dân chủ cơ sở ở nước ta. 
 Tiểu kết chương 1 
 Hoàn thiện, phát huy dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân ở mọi 
phạm vi trong đời sống xã hội là yêu cầu tất yếu khách quan trong xã hội hiện đại. 
Chính vì vậy, đây là vấn đề nhận được nhiều nhất sự quan tâm của xã hội. 
 Trong chương 1, luận án đã tiến hành khảo cứu nhiều công trình nghiên 
cứu trong nước và ngoài nước có liên quan đến chủ đề hoàn thiện cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu cho 
thấy nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ cơ sở, cơ chế pháp lý và cơ chế 
pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở đã được các nhà khoa học trong và ngoài nước 
nghiên cứu ở các mức độ và khía cạnh khác nhau. Nhìn chung, đã có nhiều chất 
liệu tốt cho việc tiếp tục triển khai nghiên cứu đề tài luận án. 
 31 
 Tuy nhiên, phần lớn các công trình nghiên cứu đều tập trung giải mã một 
trong hai vấn đề lớn: 1/ pháp luật về dân chủ cơ sở ở Việt Nam; và 2/ thực tiễn 
phát huy dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Rất ít các công trình luận bàn toàn diện về 
dân chủ cơ sở. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu trực diện về hoàn 
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Vì vậy, còn nhiều vấn 
đề lý luận và thực tiễn liên quan đến cơ chế pháp lý và hoàn thiện cơ chế pháp lý 
thực hiện dân chủ cơ sở chưa được giải quyết triệt để. 
 Luận án, một mặt tìm kiếm những giá trị có thể kế thừa và phát triển trong 
các công trình đã công bố, mặt khác có nhiệm vụ triển khai nghiên cứu nhiều nội 
dung mới, hướng tới tạo lập cơ sở khoa học vững chắc cho các giải pháp hoàn 
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở trong điều kiện đẩy mạnh xây dựng 
nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân và triển 
khai thi hành Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam hiện nay. 
 32 
 Chương 2 
 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOÀN THIỆN CƠ CHẾ PHÁP LÝ 
 THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM 
 2.1. NHẬN THỨC VỀ DÂN CHỦ VÀ DÂN CHỦ CƠ SỞ 
 2.1.1. Quan niệm về dân chủ 
 Trong tri thức nhân loại, dân chủ được coi là một cụm từ có được từ “sản 
phẩm của nền văn minh”, là điều kiện và tiêu chuẩn tiến bộ xã hội. 
 Dân chủ trong lịch sử thường được nhận diện như một phạm trù đa nghĩa 
với bản chất nhiều thứ bậc, do vậy, dân chủ được xem xét ở nhiều phương diện 
khác nhau. 
 Nhìn từ khía cạnh tổng quát, dân chủ bao gồm một tổ hợp các giá trị nhân 
bản, duy lý và cao đẹp. Dân chủ là sự hòa hợp giữa các giá trị: tự do, bình đẳng, 
sự thống nhất trong tính đa dạng. Ở mức độ này, dân chủ được hiểu như một lý 
tưởng mà con người khao khát hướng đến và cố gắng thực hành trong cuộc sống. 
Những nhà tư tưởng Hy Lạp cổ đại cho rằng, để có một xã hội tốt đẹp thì dân phải 
có quyền lực mạnh nhất, cao nhất, từ đó xuất hiện khái niệm "dân chủ" 
(Demokratia) có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. 
 Các công trình nghiên cứu đều chỉ ra rằng: Dân chủ với tư cách là hiện 
tượng chính trị gắn liền với xã hội có giai cấp, nó mang tính giai cấp nên chế độ 
dân chủ cần được xem xét trong mối tương quan với chế độ nhà nước. Hai chế độ 
này nhiều khi khác nhau, đối lập nhau, nhưng về cơ bản thì tồn tại không thể thiếu 
nhau. Dân chủ có liên hệ chặt chẽ với bản chất của nhà nước, với chức năng, 
nhiệm vụ và hình thức nhà nước. Nhiều cách hiểu đã được đưa ra nhưng về cơ bản 
đều quy tụ về bản chất “Dân chủ tức là chính quyền của nhân dân” “Chế độ dân 
chủ, đó là một nhà nước thừa nhận việc thiểu số phục tùng đa số” “Nếu không 
khinh thường lẽ phải và lịch sử, ai cũng thấy rõ ràng chừng nào mà còn có những 
giai cấp khác nhau thì không thể nói đến “dân chủ thuần tuý” được, mà chỉ có thể 
nói đến dân chủ có tính giai cấp” [154, tr.304]. Như vậy, dân chủ trước hết là 
thuộc tính của nhà nước, trong đó người dân thể hiện quyền làm chủ của mình, kể 
 33 
cả quyền tạo lập và kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhà nước có trách nhiệm bảo 
đảm bằng quyền năng của Nhà nước, thông qua các phương thức thực hiện quyền 
lực nhà nước để nhân dân thực hiện các quyền của mình. 
 Nếu xuất phát từ cách hiểu như trên, dân chủ trong hiện thực đời sống sẽ 
liên quan đến quan niệm về ba yếu tố: 1/ Nhân dân; 2/ quyền lực công cộng và 3/ 
tính chất trực tiếp của mối quan hệ giữa nhân dân và quyền lực công cộng trong sở 
hữu quyền lực công cộng. 
 Điểm khác nhau căn bản giữa cách hiểu về dân chủ trong thời cổ đại với 
thời hiện đại là ở cách quan niệm về phạm trù nhân dân và tính chất trực tiếp của 
mối quan hệ sở hữu quyền lực công cộng. Đã là một nền dân chủ thì nó phải 
chứng tỏ quyền lực thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân mang nội dung thế nào lại 
tùy thuộc vào các thời đại khác nhau mà xác định. Chế độ dân chủ nào thì nhà 
nước cũng là của nhân dân, nhưng sự khác nhau giữa chế độ dân chủ này với chế 
độ dân chủ khác là ở chỗ nhân dân là ai và ai trong nhân dân có thực quyền. Điều 
này nói nên nội dung bản chất giai cấp của dân chủ. Không có dân chủ trìu trượng, 
bao giờ dân chủ cũng có nội dung cụ thể, xác định. Trong xã hội ai là nhân dân 
mới có dân chủ và trong nhân dân thì quyền lực thực sự, cuối cùng không phải lúc 
nào cũng thuộc về tất cả nhân dân. Như vậy, dân chủ chỉ là một nhưng nó bị chế 
ước bởi những điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội ở các thời đại và các quốc gia 
khác nhau. 
 Theo cách hiểu thông dụng ở Việt Nam “dân chủ là hình thức tổ chức thiết 
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền 
lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào 
các tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế xã hội nhất định” [91, 
tr.89]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải “dân chủ” một cách hết sức giản dị, cô 
đọng và dễ hiểu, theo đó: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước 
ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Như vậy, quan niệm về 
dân chủ gắn liền với nguyên lý chủ quyền nhân dân. 
 Với việc kế thừa những giá trị tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn có liên 
quan đến tổ chức nhà nước trong lịch sử, nguyên lý về chủ quyền nhân dân được 
 34 
khẳng định như là bản chất và trụ cột của việc tổ chức và vận hành xã hội hiện 
đại. Cho đến nay, mặc dù, với những góc nhìn và quan niệm hết sức đa dạng 
nhưng nội dung cơ bản và chung nhất của nguyên lý này là: quyền lực nhân dân 
là quyền lực tối cao và là quyền lực gốc trong các xã hội dân chủ; quyền lực 
nhân dân không được biểu hiện và thực thi liên tục bởi chính chủ thể của nó là 
nhân dân nhưng tư cách chủ thể của nhân dân thể hiện ở việc trực tiếp thực hiện 
một phần quyền lực, ủy thác thực hiện quyền lực và kiểm tra, giám sát, kể cả 
việc thay đổi, hủy bỏ quyền lực đã được ủy thác; quyền lực nhà nước là bộ phận 
cơ bản của quyền lực nhân dân được hình thành thông qua sự đồng thuận ủy 
quyền của nhân dân mà bằng chứng hữu hình của sự đồng thuận đó là sự hiện 
diện của chủ nghĩa lập hiến. Trong nội hàm của nguyên lý nói trên, nhân dân là 
một khái niệm dùng để chỉ một cộng đồng của mọi cá nhân trong xã hội tuy có 
sự khác nhau về thành phần xã hội như dân tộc, sắc tộc, hoạt động chính trị - xã 
hội, quan điểm tư tưởng, tôn giáo, giới tính, nghề nghiệp v.v nhưng thống nhất 
lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội để có và thực hiện một ý chí, một định 
hướng, một mục tiêu phát triển cộng đồng, đất nước. Từ phương diện chính trị - 
pháp lý, nhân dân - với sự thống nhất lại, vượt lên trên sự khác biệt xã hội đó đã 
trở thành một đoàn thể pháp lý bao gồm các cử tri được quyền hành xử chủ 
quyền thông qua các thể thức pháp lý nhất định. Chính các thể thức pháp lý này 
định chế hóa chủ quyền nhân dân. 
 Như vậy, dân chủ với tính cách là một chế độ, được thực hiện dưới hai hình 
thức cơ bản là dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. 
 Dân chủ đại diện (còn gọi là dân chủ gián tiếp) là hình thức dân chủ mà 
theo đó nhân dân thông qua đại diện của mình để bày tỏ chính kiến, để quyết định 
những vấn đề của đời sống cộng đồng. Nhờ thông qua bầu cử để lựa chọn những 
người ưu tú đứng đầu các cơ quan đại diện, nhờ đó những người đại diện sáng 
suốt trong việc quyết định vấn đề quan trọng của đời sống xã hội, giải quyết nhanh 
chóng kịp thời những vấn đề bức bách trong xã hội đặt ra. Với sự ra đời, hình 
thành của Nhà nước, do mức độ rộng lớn về không gian, dân số ngày càng đông, 
trình độ dân cư chênh lệch, tính phức tạp và khẩn trương của công việc quản lý 
nhà nước, quản lý xã hội mà hình thức dân chủ đại diện trở thành phương thức chủ 
 35 
yếu của nền dân chủ xã hội. Ở hầu hết các nước phát triển trên thế giới, quá trình 
mở rộng dân chủ dường như trước hết là quá trình hoàn thiện các hình thức dân 
chủ đại diện và các thiết chế đại diện sao cho các công dân có thể dễ dàng hơn 
trong việc bày tỏ chính kiến của mình khi tham gia vào quyết định các vấn đề 
quan trọng của đất nước. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy dân chủ đại diện có những 
nhược điểm cho đến nay vẫn chưa khắc phục được. Đó là những biểu hiện đặc 
quyền, đặc lợi, có khả năng lạm quyền, tham nhũng mà quyền lực đó có được do 
nhân dân ủy quyền. 
 Dân chủ trực tiếp là hình thái nhân dân trực tiếp quyết định các vấn đề, 
các công việc quan trọng của quốc gia của cộng đồng lãnh thổ, trực tiếp thông 
qua các đạo luật mà không một yếu tố trung gian nào. Theo nghĩa đó, dân chủ 
trực tiếp gắn liền với nguồn gốc bản chất của khái niệm dân chủ 
(demokratia/δημοκρατία - tiếng Hy Lạp) mà có nghĩa là “quyền lực, sự cai trị 
của nhân dân” (power/ruleofthepeople). Chính vì vậy, dân chủ trực tiếp đôi khi 
còn được gọi là dân chủ đích thực/ nguyên nghĩa (pure/true democracy) và được 
xem là biểu hiện cho chính quyền của dân, do dân và vì dân. Nhìn nhận một cách 
tổng quát thì dân chủ trực tiếp là phương thức để người chủ quyền lực trực tiếp thể 
hiện ý chí của mình, tự mình thực hiện một số hoạt động trong chu trình quyền 
lực. Dân chủ trực tiếp là một phương thức làm chủ của nhân dân khi nhân dân - 
chủ thể quyền lực duy nhất có thể bày tỏ ý chí, nguyện vọng, đề đạt kiến nghị nào 
đó trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đồng thời thực hiện kiểm 
tra, giám sát bộ máy nhà nước do chính mình lập nên. Kết quả của sự bày tỏ ý chí 
đó có thể có ý nghĩa quyết định, bắt buộc phải thi hành ngay như trưng cầu ý dân, 
bầu cử, bãi miễn đại biểu dân cử; hoặc chỉ có ý nghĩa tham khảo như các hình 
thức tham khảo ý kiến nhân dân, kiểm tra, giám sát bộ máy nhà nước v.v.. Trong 
nền dân chủ hiện đại, các quốc gia đã ngày càng dành sự chú ý đặc biệt tới việc sử 
dụng các hình thức dân chủ trực tiếp để quyết định một số vấn đề quan trọng đối 
với quốc gia và các vấn đề của cộng đồng tại địa phương. Trong rất nhiều trường 
hợp phương thức dân chủ trực tiếp có nhiều ưu điểm mà phương thức dân chủ đại 
diện không có được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan nhất ý chí, 
 36 
nguyện vọng của nhân dân và thể hiện một cách thiết thực nhất quyền lực của 
nhân dân trong việc quản lý xã hội. 
 Như vậy, khi nói đến dân chủ đại diện là người ta nhắc đến hình thức mà 
người dân ủy quyền cho những người đại diện cho mình quyết định các công việc 
nhà nước trong phạm vi xác định. Dân chủ đại diện thường gắn liền với các cơ 
quan hoạt động tập thể nghị viện (hoặc tên gọi khác), hội đồng địa phương. Còn 
khi nói đến dân chủ trực tiếp, người ta nói đến việc quyết định các công việc nhà 
nước do công dân trực tiếp thực hiện không thông qua khâu trung gian. Như vậy, 
dân chủ đại diện hay dân chủ trực tiếp đều dựa vào chỗ chủ thể nào quyết định các 
vấn đề thuộc công việc nhà nước, tức là căn cứ vào tiêu chí ai quyết định công 
việc nhà nước nào đó. 
 Như vậy, sẽ xuất hiện câu hỏi lớn: giữa dân chủ trực tiếp và dân chủ đại 
diện, có những hình thức thể hiện quyền của người dân nhưng sẽ xếp vào đâu nếu 
chỉ theo tiêu chí nói trên? Các hình thức đó như: khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản 
biện xã hội, tư vấn xã hội, giám sát trực tiếp của người dân. Các hình thức này tự 
nó không có vai trò quyết định trong việc ra quyết định hoặc thực hiện các hành 
động, hành vi nào của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền. Vậy nên chăng, 
trong nhận thức lý luận cần xem nó như một yếu tố của công đoạn, hay quy trình 
không thể thiếu trong các trường hợp nhất định để chính quyền quyết định về vấn 
đề nào đó. Về cơ bản, đây là các hình thức đứng trung gian để thực hiện quyền của 
người dân, vừa mang yếu tố của dân chủ trực tiếp (xét về tính chất và mục tiêu), 
vừa mang yếu tố của dân chủ đại diện (xét về kỹ thuật thực hiện). Một số nhà 
nghiên cứu gọi đó là hình thức “dân chủ tham gia” [138, tr.58]. 
 2.1.2. Quan niệm về dân chủ cơ sở và thực hiện dân chủ cơ sở 
 Nếu xét từ khía cạnh quan hệ thứ bậc mang tính pháp lý của cấu trúc hành 
chính - lãnh thổ và chỉnh thể hệ thống chính trị thống nhất ở nước ta thì cơ sở là 
cấp thấp nhất, tuy nhiên cơ sở không đơn thuần là cánh tay nối dài của cấp trên. 
Cơ sở là địa bàn cư trú của dân, là nơi diễn ra mọi hoạt động sinh sống và làm ăn 
của nhân dân lao động, vì vậy nói tới cơ sở là nói tới vai trò chủ thể của người dân 
và hình thức tổ chức các hoạt động sống của cộng đồng, các mối quan hệ xã hội. 
 37 
Cơ sở là nơi trực tiếp nhất của thực tiễn, thể hiện ý thức và năng lực làm chủ của 
nhân dân bằng cả phương thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, cũng là nơi 
đầu tiên đối mặt với những yêu cầu bức xúc của dân chúng với những mâu thuẫn, 
thậm chí cả những xung đột nảy sinh trong đời sống dân sự. Trong hệ thống quản 
lý, cấp cơ sở là cấp cuối cùng nhưng lại là cấp đầu tiên và trực tiếp nhất với tư 
cách nền tảng xây dựng chế độ dân chủ của toàn hệ thống chính trị. Cơ sở tuy là 
cấp thấp nhất nhưng lại là tầng sâu nhất mà sự vận hành của thể chế chính trị từ vĩ 
mô phải tác động tới, là địa chỉ quan trọng nhất mà mọi chỉ thị, nghị quyết, chủ 
trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải tìm đến, phải bằng mọi 
cách tổ chức, tuyên truyền, vận động làm cho dân hiểu, dân tin, dân làm. Cơ sở 
còn là cấp hành động và tổ chức hành động, nghĩa là cấp tổ chức triển khai thực 
hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cơ sở cũng không chỉ là cấp 
thực hiện chức năng lãnh đạo và quản lý của Nhà nước mà còn là nơi diễn ra các 
hoạt động tự quản của cộng đồng xã hội, quản lý với tự quản đan xen vào nhau, 
các thể chế quản lý, pháp luật nhà nước và các quy ước của thôn, làng, ấp, bản tồn 
tại song hành với nhau. Cấp cơ sở là nơi chính quyền trong lòng dân, cán bộ cơ sở 
từ dân mà ra, là cấp có nhiều lợi thế và khả năng nhất để giảm thiểu xuống mức 
thấp nhất những thói tật quan liêu, hành chính, mệnh lệnh, tệ hại tham ô, tham 
nhũng, mặt khác cán bộ ở cơ sở là người sở tại, làm việc tại cơ sở, hàng ngày sinh 
sống, làm việc và quan hệ trực tiếp với dân, bị chi phối, ràng buộc rất mạnh mẽ 
bởi quan hệ họ hàng, thân tộc, bởi các truyền thống, phong tục, tập quán, lối sống 
làng xã. 
 Liên quan đến khái niệm này, cơ sở được hiểu theo tinh thần Pháp lệnh 
34/2007/PL-UBTVQH ngày 20/7/2007 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội về việc 
thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Cơ sở được lấy làm đối tượng nghiên 
cứu ở đây không phải là một đơn vị cơ sở bất kỳ (gia đình, cơ quan, công sở, 
trường học, bệnh viện, doanh nghiệp hay viện nghiên cứu) mà là cơ sở với tư 
cách là một cấp quản lý nhà nước trong hệ thống quản lý hành chính nhà nước 
hiện hành. Cơ sở đó chính là xã - phường - thị trấn, là cấp cơ sở của quản lý nhà 
nước trong đó xã là cấp cơ sở ở khu vực nông thôn - địa bàn rộng lớn, chiếm đa số 
trong tổng số đơn vị cơ sở nước ta. 
 38 
 Dân chủ cơ sở là sự phản ánh vị thế quyền lực của nhân dân trên địa bàn cơ 
sở. Xã, phường, thị trấn là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách 
pháp luật của Nhà nước, là nơi kiểm nghiệm một cách chính xác nhất đường lối 
của Đảng trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa trong thực tiễn khách quan. 
Thực hiện dân chủ ở cấp xã là toàn bộ quá trình hiện thực hóa các quyền thể hiện 
sự tham gia của công dân vào chu trình thực hiện quyền lực tại cơ sở. Khi nghiên 
cứu nhóm quyền này thì dân chủ, với ý nghĩa là quyền tự nhiên tối cao nhất của 
con người được thực hiện trước hết là ở cơ sở. Với tư cách chủ thể quyền lực, 
người dân tại cơ sở có quyền có đại diện của mình, có quyền trực tiếp được biết, 
được bàn, được tham gia giải quyết và kiểm tra giám sát mọi hoạt động quyền lực 
diễn ra tại cơ sở. 
 Như vậy, do bản chất của dân chủ ở cơ sở là phát huy quyền làm chủ mọi 
mặt của người dân ở cơ sở nên dân chủ cơ sở là một phương thức hỗn hợp để thực 
hiện dân chủ. Dân chủ cơ sở bao gồm trong nó cả hình thức dân chủ đại diện và 
hình thức dân chủ trực tiếp, hướng tới mục tiêu hiện thực hóa quyền lực của chủ 
nhân quyền lực tại địa bàn cơ sở. Ngoài ra, dân chủ cơ sở còn thể hiện ở quyền 
tham gia ý kiến với tư cách cá nhân vào các vấn đề nảy sinh tại cơ sở có liên quan 
đến quyền và lợi ích của chính họ, của các cá nhân khác hoặc của Nhà nước. Theo 
đó, ý kiến của một số nhà nghiên cứu cho rằng, tham gia cũng có thể được xem là 
một hình thức thực hiện dân chủ mang đặc thù của dân chủ cơ sở: “Thực hiện dân 
chủ cơ sở được thông qua bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau, cụ thể 
là dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện và dân chủ tham gia” [138, tr.58]. 
 Ở Việt Nam, thực hiện dân chủ cơ sở được biểu hiện trước hết ở sự tồn tại 
và hoạt động của các thiết chế đại diện của nhân dân, bao gồm Hội đồng nhân dân 
cấp xã và các đoàn thể nhân dân. Đây là các thiết chế do nhân dân lập ra và trực 
tiếp ủy quyền lực nhân dân, thay mặt nhân dân để thực hiện quyền lực của nhân 
dân. Thông qua hoạt động của các thiết chế này, người dân tham gia vào quản lý 
nhà nước, quản lý xã hội và kiểm soát hoạt động của Nhà nước, buộc hoạt động 
quyền lực nhà nước vận hành trong quỹ đạo phục vụ nhân dân. 
 39 
 Tuy nhiên, trong các quy chế dân chủ ở cơ sở, chẳng hạn như Quy chế dân 
chủ ở xã, có rất nhiều loại công việc cần được đưa ra trưng cầu ý kiến của nhân 
dân để các cấp có thẩm quyền tham khảo trước khi quyết định. Mặc dù kết quả 
trưng cầu ý kiến trong Quy chế dân chủ ở xã được xác định là “để tham khảo” 
nhưng bản thân việc đưa ra trưng cầu ý kiến là bắt buộc. 
 Ngoài loại hình trưng cầu ý kiến “để tham khảo” các quy chế cũng đã có 
những quy định việc lấy ý kiến nhân dân có “tính chất quyết định”. 
 Hình thức lấy ý kiến nhân dân có tính chất quyết định đã được quy định cụ 
thể trong quy chế thực hiện dân chủ ở xã như sau: 
 - Chủ trương và mức đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình 
phúc lợi công cộng (điện, đường, trường học, trạm y tế, nghĩa trang, các công trình 
văn hóa, thể thao); 
 - Xây dựng hương ước, quy ước làng văn hóa, nếp sống văn minh, giữ gìn 
an ninh trật tự, bài trừ các hủ tục, mê tín dị đoan, tệ nạn xã hội; 
 - Các công việc trong nội bộ cộng đồng dân cư thôn, phù hợp với quy định 
của pháp luật hiện hành. 
 - Thành lập Ban Giám sát các công trình xây dựng do dân đóng góp; 
 - Tổ chức bảo vệ sản xuất, kinh doanh giữ gìn an ninh trật tự, an toàn giao 
thông, vệ sinh môi trường và các hoạt động khác trên địa bàn xã, thôn”. 
 Như vậy, mặc dù có sự phân biệt các nội dung giữa dân chủ trực tiếp, dân 
chủ đại diện và dân chủ tham gia nhưng dân chủ trực tiếp là hình thức phổ biến và 
dễ thực hiện nhất tại cơ sở. Các nội dung “dân bàn và quyết định trực tiếp “chính 
là những biểu hiện của dân chủ trực tiếp theo nghĩa hẹp, cổ điển nhất. Bên cạnh 
đó, các nội dung “dân bàn, biểu quyết, tham gia ý kiến để cấp có thẩm quyền 
quyết định” và “dân tham gia kiểm tra, giám sát” là những biểu hiện của dân chủ 
trực tiếp theo nghĩa rộng và được sử dụng rộng rãi ở Việt Nam từ trước đến nay. 
 Dân chủ cơ sở không đồng nhất với tự quản cơ sở. Xét về bản chất, dân chủ 
cơ sở tạo ra nhiều khả năng cho sự tham gia trực tiếp và nhiều mặt của người dân 
vào các công việc của Nhà nước và xã hội. Theo đó, dân chủ cơ sở là mắt xích 
quan trọng nối liền những mặt tích cực của dân chủ và của chế độ tự quản cơ sở. 
 40 
Mặc dù vậy, dân chủ cơ sở là hình thức quyền lực nhân dân, không trùng lặp với 
tự quản cơ sở. 
 Trên thực tế, cả dân chủ cơ sở và tự quản cơ sở đều được thực hiện ở cơ sở, 
ở đơn vị nhỏ nhất hoặc các tập thể, cộng đồng khác nhau, nhưng khi nói dân chủ 
cơ sở là nói đến những khía cạnh giải quyết các vấn đề chính trị - nhà nước, dù là 
ở cơ sở. Dân chủ cơ sở phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể quyền lực gốc - nhân 
dân - với các thiết chế được nhân dân ủy quyền lực và với việc đảm bảo quyền lực 
thuộc về nhân dân tại cơ sở. Nói đến dân chủ cơ sở là nói đến mối quan hệ tương 
tác giữa nhà nước và nhân dân tại cơ sở. Ở Việt Nam, các đơn vị cơ sở như vậy là 
các xã, phường, thị trấn; là các tập thể cơ quan, tổ chức, đơn vị, trường học, bệnh 
viện là nơi mọi chính sách, đường lối, pháp luật của Đảng và Nhà nước được 
phản ánh qua lăng kính của cá nhân, của lợi ích tập thể, là nơi kiểm nghiệm tính 
đúng đắn và hiệu quả của các quyết sách của Đảng ta. Dân chủ cơ sở là “hệ thống 
báo động” nhạy cảm nhất, những thông tin phản hồi nhanh nhất về hiệu lực, hiệu 
quả của các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước để kịp thời 
sửa chữa, bổ sung. “Hệ thống báo động” và các thông tin phản hồi này giúp cho 
Đảng và Nhà nước kiểm nghiệm lại đường lối, chính sách của mình một cách 
nhanh nhất, khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, xa rời thực tế, tăng cường mối 
quan hệ máu thịt giữa Đảng với Nhân dân. Trong khi đó, tự quản cơ sở là vấn đề 
nằm ngoài hệ thống nhà nước, liên quan đến cách tổ chức và vận hành của xã hội. 
Xét về bản chất, tự quản cơ sở cũng là một phương thức thực hiện quyền lực nhân 
dân, tuy nhiên phương thức này không nằm trong mối liên hệ tương tác chặt chẽ 
với quyền lực nhà nước, không có mục tiêu tác động trực tiếp vào quyền lực nhà 
nước, không có sự tham gia trực tiếp của các thiết chế quyền lực công. Các hình 
thức tự quản cơ sở do các cộng đồng dân cư tự tổ chức và thực hiện tại cơ sở để tự 
giải quyết những vấn đề của xã hội mà không cần tới sự can thiệp của nhà nước. 
 Dân chủ cơ sở là một đòi hỏi tất yếu của quá trình thực hiện và phát huy 
dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Thực hiện tốt và đẩy mạnh dân chủ cơ sở không chỉ 
đơn thuần là một phản ứng chính trị của Đảng và Nhà nước trước tình hình phức 
tạp của những điểm nóng ở cơ sở mà nó thể hiện cái nhìn hướng tới cơ sở, coi 
trọng cái gốc ở cơ sở nên nó mang tính chiến lược, căn bản, lâu dài. 
 41 
 2.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA CƠ CHẾ PHÁP LÝ THỰC 
HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ 
 2.2.1. Khái niệm cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở 
 Cơ chế là một thuật ngữ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, tùy vào 
hoàn cảnh và lĩnh vực. 
 Cơ chế có thể hiểu là “máy móc, bộ máy, cơ cấu”. Chẳng hạn, cơ chế nhà 
nước (bộ máy nhà nước). Theo Đại từ điển tiếng Việt thì: “Cơ chế là cách thức, 
sắp xếp tổ chức để làm đường hướng, cơ sở theo đó mà thực hiện” [161, tr.463]. 
Theo GS,TS Triết học Phạm Ngọc Quang, “Cơ chế là khái niệm dùng để chỉ một 
chuỗi những khâu liên kết với nhau theo một lôgic nhất định nhờ vậy mục tiêu 
được thực hiện” [104, tr.38]. 
 Theo cách hiểu thông thường nhất thì cơ chế được hiểu là “cách thức theo 
đó một quá trình được thực hiện” [99, tr.234]. 
 Có nhiều loại cơ chế. Đối với khoa học luật học nước ta, khái niệm cơ chế 
pháp lý mới ra đời nhằm giải quyết một số vấn đề thực tiễn trong điều kiện xây 
dựng nhà nước pháp quyền XHCN. 
 Trong các công trình nghiên cứu về cơ chế pháp lý đều cơ bản đồng thuận ý 
kiến khi hiểu cơ chế pháp lý như sau: 
 (1) Đó là tổng thể các yếu tố, bộ phận cấu thành hay hợp thành; 
 (2) Các bộ phận trong cơ chế có mối quan ...uan điểm coi con người là trung 
tâm của sự phát triển, từ đổi mới căn bản, toàn diện các cơ chế để thực thi quyền lực 
nhân dân, từ yêu cầu của xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa, từ thực trạng thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và từ xu hướng căn bản của 
cộng đồng quốc tế và khu vực ngày càng quan tâm đến dân chủ và các mô hình 
pháp lý để hiện thực hóa nền dân chủ trong thế giới đương đại. 
 2. Trong thời gian qua, dân chủ ở nước ta đã được quan tâm nghiên cứu và 
đã đạt được những kết quả bước đầu. Các công trình nghiên cứu đã làm sáng tỏ một 
số vấn đề lý luận và thực tiễn về dân chủ và dân chủ cơ sở, về cơ chế pháp lý. Các 
công trình nghiên cứu ngoài nước về dân chủ và cơ chế pháp lý đã đạt được những 
thành tựu lý luận và thực tiễn đáng kể, làm cơ sở cho việc xây dựng và thực hiện 
các mô hình thực hiện dân chủ trên các phạm vi không gian khác nhau. Luận án đã 
kế thừa những kết quả nghiên cứu đó để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu 
được đặt ra. Đồng thời, luận án đặt vấn đề và xác định những nội dung nghiên cứu 
cơ bản hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể hơn, hệ thống hơn, sâu sắc hơn tất cả những 
vấn đề lý luận và thực tiễn của dân chủ và cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở 
nước ta hiện nay. 
 3. Dân chủ ngày nay được xem xét chủ yếu dưới các giác độ khác nhau: là 
chế độ nhà nước; là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đời sống xã hội; là giá trị 
xã hội (thể hiện ở trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của công 
dân và sự tham gia của họ trong đời sống xã hội); là lý tưởng, nhân sinh quan, thế 
giới quan, mục đích hoạt động của các lực lượng chính trị - xã hội. Việc thực hiện 
dân chủ phụ thuộc chủ yếu vào trình độ dân trí, văn hoá của nhân dân; nhân sinh 
 149 
quan và thế giới quan, phẩm chất và năng lực của chủ thể cầm quyền; các thể chế 
dân chủ được chế định bằng nguyên tắc, luật pháp, chuẩn mực văn hoá đạo đức về 
đời sống xã hội. Dân chủ ở cơ sở là hình thức thực hiện quyền làm chủ của nhân 
dân ở cơ sở với những phương thức và cơ chế thực hiện riêng, có những mặt mạnh, 
mặt hạn chế riêng. 
 Luận án, dựa trên cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, 
chuyên ngành và đa ngành luật học, cách tiếp cận dựa trên quyền đã phân tích, luận 
giải và đưa ra quan điểm của tác giả về những vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý thực 
hiện dân chủ cơ sở. Đó là phân tích, luận giải sâu sắc hơn, toàn diện hơn, chỉnh thể 
hơn, hệ thống hơn những vấn đề: quan niệm về dân chủ và dân chủ cơ sở; khái 
niệm, đặc điểm, vai trò của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các thành tố của 
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở; các tiêu chí xác định mức độ hoàn thiện của 
cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. Những vấn đề lý luận đó trong chỉnh thể đã 
hình thành nên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt 
Nam hiện nay. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nhận thức và tổ 
chức thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta. 
 4. Luận án, dựa trên các tài liệu, số liệu đã được thu thập để tiến hành phân 
tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta thời gian 
qua theo cấu trúc của mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở. 
Các phân tích cho thấy: trên tất cả các thành tố của cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ 
cơ sở ở nước ta đều có những chuyển biến theo chiều hướng tích cực, ngày càng 
chủ động, cơ bản, hệ thống hơn và đã đạt được những kết quả cần được phát huy 
trên các phương diện. Tuy nhiên, cũng trên tất cả các thành tố đó, hiện vẫn đang tồn 
tại không ít bất cập, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền làm chủ thực sự của người 
dân tại địa bàn cơ sở, hạn chế tốc độ phát triển kinh tế và sự lành mạnh của các 
quan hệ chính trị - xã hội. Luận án cũng đã chỉ ra nguyên nhân của những kết quả 
và hạn chế, xem đó là căn cứ thực tiễn nhằm lập luận cho sự cần thiết tiếp tục hoàn 
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta trong thời gian tới. 
 5. Luận án, dựa trên mô hình lý luận về cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ 
sở, thực trạng cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta và và dự báo bối 
 150 
cảnh đất nước và quốc tế trong thời gian tới đã luận giải nhu cầu, quan điểm và giải 
pháp tiếp tục hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam. Hoàn 
thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong giai đoạn tới mang 
tính tất yếu, xuất phát từ các nhu cầu mang tính toàn cầu, khu vực, và các nhu cầu 
trong nước. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong 
giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 cần phải tuân thủ những quan điểm nhất 
định với tư cách là những tư tưởng mang tính nguyên tắc chỉ đạo và xuyên suốt quá 
trình thực hiện dân chủ cơ sở. Hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở ở 
Việt Nam trong giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đòi hỏi phải xây dựng và 
thực hiện, thúc đẩy thực hiện một cách đồng bộ, có hệ thống các giải pháp đã được 
luận giải trong luận án. 
 6. Cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ sở là một chủ đề nghiên cứu lớn và 
mang tính chiến lược lâu dài. Trong quy mô một luận án tiến sĩ, nhiều vấn đề vẫn 
đang để ngỏ, mang tính gợi mở. Trong thời gian tới, vẫn rất cần thiết triển khai 
nhiều hoạt động nghiên cứu về chủ đề này theo hướng mở rộng hơn và đẩy sâu hơn 
những nội dung đã được đề cập. Sự nỗ lực của giới nghiên cứu, các nhà hoạch định 
chính sách, các nhà lập pháp, các nhà quản lý và người dân chắc chắn sẽ đem lại 
những bước tiến lớn trong quá trình hoàn thiện cơ chế pháp lý thực hiện dân chủ cơ 
sở để dân chủ thực sự hiện hữu trong mọi khía cạnh của đời sống xã hội Việt Nam. 
 151 
 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 
 LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Năng lực của cán bộ cấp xã / phường trong thực 
 hiện pháp lệnh dân chủ cơ sở", Tạp chí lý luận chính trị, (10). 
2. Nguyễn Tiến Thành (2014), "Sự tham gia của người dân vào quá trình thực 
 hiện dân chủ cơ sở", Tạp chí Giáo dục lý luận, (220). 
 152 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
* Tài liệu tiếng Việt 
1. Vũ Hồng Anh (2003), “Vai trò của Hiến pháp đối với việc phát huy dân chủ, bảo 
 đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”, Tạp chí Luật học, 3(52). 
2. B. Agapốp (2009), Luật Hành chính (tái bản lần thứ sáu), Nxb Iurait. 
3. Lương Gia Ban (2003), Dân chủ và việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb 
 Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Hoàng Chí Bảo (1992), “Tổng quan về dân chủ và cơ chế thực hiện dân chủ: 
 Quan điểm, lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Thông tin lý 
 luận, (9), Hà Nội. 
5. Hoàng Chí Bảo (2010), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến trình 
 đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
6. Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn nước ta hiện nay, 
 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Bộ Chính trị (1998), Chỉ thị số 30/CT-TW ngày 18/2/1998 Về việc xây dựng và 
 thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 
8. Bộ Giáo dục Liên bang Nga, Đ.N. Bakhrac (2010), Luật Hành chính Nga (tái 
 bản lần thứ năm), Nxb Exkimô, Mátxcơva. 
9. Bộ Tư pháp (2014), Đề án 5 Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban 
 hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật, Viện Khoa 
 học Pháp lý, Hà Nội. 
10. Hoàng Trọng Chính (2006), “Nâng cao hiệu quả hoạt động quy chế dân chủ ở 
 cơ sở”, Tạp chí Lao động và Công đoàn, (358), Hà Nội. 
11. Chính phủ (2003), Nghị định số 79/2003/NĐ-CP ngày 07/7/2003 ban hành Quy 
 chế thực hiện dân chủ ở xã, Hà Nội. 
12. Chính phủ (2013), "Hiến pháp Việt Nam 2013", www.chinhphu.vn, [truy cập 
 ngày 20/2/2015]. 
13. Nguyễn Hồng Chuyên (2011), Thực hiện pháp luật về dân chủ cấp xã trong 
 điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ 
 thực tiễn của tỉnh Thái Bình), Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
 153 
14. Nguyễn Hồng Chuyên (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo 
 yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận 
 án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí 
 Minh, Hà Nội. 
15. Đinh Thành Công (2010), "Kinh nghiệm của Hải Phòng trong việc triển khai và 
 thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở", Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (01). 
16. Ngô Huy Cương (2006), Dân chủ và pháp luật dân chủ, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
17. Cao Thiện Cường (2013), "Kết quả bước đầu trong thực hiện dân chủ ở xã, 
 phường trên địa bàn thành phố Thanh Hóa", Tạp chí Thanh tra, (4). 
18. D.N.Gorhunov (2006), “Những yếu tố tâm lý trong thực thi pháp luật”, Tạp chí 
 Nghiên cứu Lập pháp, (79). 
19. Nguyễn Chí Dũng (2009), Cơ chế pháp lý giám sát hoạt động tư pháp ở Việt 
 Nam, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia 
 Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
20. Đỗ Văn Dương (2013), "Những giải pháp phát huy vai trò hệ thống chính trị cơ 
 sở nhằm bảo đảm thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các 
 tỉnh Tây Nguyên", Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, (7). 
21. Đỗ Văn Dương (2014), Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn 
 trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên, Luận án Tiến sĩ Luật học, Hà Nội. 
22. Huỳnh Đảm (2008), “Nhìn lại 10 năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, 
 thị trấn”, Tạp chí Cộng sản, (789). 
23. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), Nghị quyết Hội nghị lần thứ VI, Ban Chấp 
 hành Trung ương khóa VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ 
 quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ III Ban Chấp 
 hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 154 
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành 
 Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Chỉ thị số 10 CT/TW ngày 28/3 của Ban Bí 
 thư Trung ương Đảng về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện 
 quy chế dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp 
 hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Báo cáo tổng kết 6 năm thực hiện Chỉ thị số 
 30 CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng và thực hiện Quy chế 
 dân chủ ở cơ sở, Hà Nội. 
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp 
 hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp 
 hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/3/2010 của 
 Ban Bí thư về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị về 
 xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Hà Nội. 
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
 XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
39. Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành 
 Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
40. Trần Bạch Đằng (2003), “Dân chủ ở cơ sở - một sức mạnh truyền thống của 
 dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, (35). 
41. Đặng Viết Đạt (2010), “Pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền”, Tạp 
 chí Lý luận chính trị và truyền thông, (9), tr.35. 
 155 
42. Nguyễn Minh Đoan (2007), “Dân chủ với pháp luật”, Tạp chí Nhà nước và 
 Pháp luật, (10). 
43. Bùi Xuân Đức (2004), Giáo trình Luật Hiến Pháp, Nxb Tư pháp. 
44. Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành (1994), Mối quan hệ pháp lý giữa cá nhân 
 công dân với nhà nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
45. Trần Ngọc Đường (2004), Bàn về quyền con người, quyền công dân, Nxb 
 Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
46. G.V. Atamanchuc (2004), Lý thuyết quản lý nhà nước, Nxb Omega, Mátxcơva. 
47. Nguyễn Thị Thu Hà (2013), “Thực hiện Quy chế dân chủ trong hệ thống chính 
 trị cơ sở nông thôn ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lịch sử Đảng, 8 (273). 
48. Trương Thị Hồng Hà (2007), Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm chức năng 
 giám sát của Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận 
 án tiến sĩ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
49. Lương Đình Hải (2006), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền và vấn đề dân chủ 
 hóa xã hội ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 1 (176). 
50. Hoàng Văn Hảo (2003), “Vấn đề dân chủ và các đặc trưng của mô hình tổng 
 thể Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà 
 nước và Pháp luật, (2). 
51. Hoàng Văn Hảo, Các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền công dân, Đề 
 tài KX.07.16, Hà Nội. 
52. Vũ Văn Hiền (chủ biên) (2004), Dân chủ ở cơ sở qua kinh nghiệm ở Thụy Điển 
 và Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
53. Vũ Văn Hiền (2004), Quy chế Dân chủ ở cơ sở - vấn đề lý luận và thực tiễn, 
 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
54. Đỗ Trung Hiếu (2004), Một số suy nghĩa về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam 
 hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
55. Trần Đình Hoan (chủ biên) (2008), Quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ 
 thống chính trị ở Việt Nam giai đoạn 2005-2020, Nxb Chính trị quốc gia, 
 Hà Nội. 
 156 
56. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), "Xây dựng thể chế kinh tế 
 thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam", Kỷ yếu Hội thảo 
 khoa học, Hà Nội. 
57. Nguyễn Anh Hùng (2009), “Những xu hướng dân chủ hóa ở các nước Mỹ La 
 tinh ngày nay”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (10). 
58. Quách Sĩ Hùng (2009), “Vấn đề xây dựng và hoàn thiện pháp luật dân chủ ở 
 nước ta”, Tạp chí Dân và chủ pháp luật, (6), tr.35-39. 
59. Nguyễn Thị Việt Hương (2009), “Truyền thống chính trị - pháp lý làng xã và 
 khả năng thích ứng trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp 
 quyền Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1), Hà Nội. 
60. Nguyễn Thị Việt Hương (chủ nhiệm) (2013), Dân chủ trực tiếp và hoàn thiện 
 cơ chế pháp lý thực thi dân chủ trực tiếp trong Nhà nước pháp quyền xã 
 hội chủ nghĩa Việt Nam, Đề tài cấp Bộ, Hà Nội. 
61. Trần Quốc Huy (2005), Hoàn thiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở ở Việt 
 Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ Luật, Hà Nội. 
62. Lê Xuân Huy (2007), “Pháp luật với vấn đề thực hiện dân chủ ở nông thôn Việt 
 Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, 12 (199), tr.41-46. 
63. Jean - Jacques Rousseau (2004), Bàn về khế ước xã hội, Hoàng Thanh Đạm 
 dịch thuật, chú thích và bình giải, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
64. Joseph Stiglitz (2002), Tham gia và Phát triển: Quan điểm từ mô hình phát 
 triển toàn diện, World Bank xuất bản. 
65. Nguyễn Thọ Khang (2013), “Thực hiện dân chủ ở cấp xã và vấn đề đặt ra đối 
 với báo chí ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền 
 thông, (6). 
66. Lại Quốc Khánh (2005), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chế độ dân chủ nhân dân”, 
 Tạp chí Triết học, 7(170). 
67. Đỗ Minh Khôi (2006), Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật trong điều kiện 
 Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Luật học, Hà Nội. 
68. Trần Ngọc Khuê (chủ nhiệm) (2002), Mối quan hệ giữa các yếu tố tâm lý xã hội 
 với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay, Báo 
 cáo tổng quan đề tài nghiên cứu cấp bộ của Khoa Tâm lý Học viện Chính 
 trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
 157 
69. Đàm Văn Lợi (2010), "Nhìn lại 10 năm thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở", 
  [truy cập ngày 15/8/2014]. 
70. Nguyễn Khắc Mai (1997), Dân chủ - di sản văn hóa Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, 
 Hà Nội. 
71. Nguyễn Văn Mạnh (1995), Xây dựng và hoàn thiện đảm bảo pháp lý thực hiện 
 quyền con người trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, Luận án Phó 
 tiến sĩ Luật học, Hà Nội. 
72. Nguyễn Văn Mạnh (2010), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
 Việt Nam: lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
73. Nguyễn Văn Mạnh (chủ biên) (2010), Thực hiện pháp luật - những vấn đề lý 
 luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Hành chính, Hà Nội. 
74. Matinne Lombard, Gille Dumont (2007), Pháp luật hành chính của Cộng hòa 
 Pháp, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
75. Đinh Văn Mậu (2000), Tổ chức thực hiện quyền lực nhân dân và mối quan hệ 
 giữa nhà nước và công dân, Đề tài nghiên cứu khoa học 96-98-043/ĐT, 
 Hà Nội. 
76. Lê Quang Minh (2003), “Để thực hiện dân chủ sở cơ sở”, Tạp chí Cộng sản, (11). 
77. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
78. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
79. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 
80. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
81. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
82. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
83. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
84. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
85. Montesquieu (2006), Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
86. N.M.Voskresenskaia, N.B.Davletshina (2009), Chế độ dân chủ: Nhà nước và 
 xã hội, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
87. Nguyễn Văn Nam (2013), “Luật tục và việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở 
 Tây Nguyên thực trạng và những vấn đề đặt ra”, Tạp chí Sinh hoạt Lý 
 luận, 1(116). 
 158 
88. Neal Tate C (1997), “Về nền dân chủ và pháp luật những bước tiến mới trong lý 
 luận và phân tích” Thông tin khoa học xã hội, (10), tr.24-29. 
89. Nguyễn Thị Ngân (chủ nhiệm) (2003), Quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ 
 sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay, Báo cáo tổng quan đề tài 
 nghiên cứu cấp Bộ của Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính 
 trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
90. Dương Xuân Ngọc (chủ biên) (2000), Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã, một 
 số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
91. Nhà xuất bản Xây dựng (2002), Văn bản hướng dẫn xây dựng và thực hiện Quy 
 chế Dân chủ ở cơ sở, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 
92. Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa (2005), Từ điển Bách khoa Việt Nam, 
 Hà Nội. 
93. Ngọ Văn Nhân (2008), “Về đổi mới chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại 
 diện trên địa bàn cơ sở ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Triết học, 5(204), 
 Hà Nội. 
94. Phạm Văn Nhuận (2010), “Để Đảng thực sự là hạt nhân lãnh đạo xây dựng 
 nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính 
 trị, (8). 
95. Vũ Thị Nhung (2011), Hoàn thiện tổ chức thực hiện dân chủ ở cấp xã trên địa 
 bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Hà Nội. 
96. Thái Ninh, Hoàng Chí Bảo (1991), Dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ 
 nghĩa, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
97. Nguyễn Thị Hiền Oanh (2005), Vai trò Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với 
 việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay, Nxb Lý 
 luận chính trị, Hà Nội. 
98. Olivier Vidal (2011), “Nước Cộng hòa Pháp và các cộng đồng lãnh thổ địa 
 phương: sự trở lại của nhóm Girondins?”, trong cuốn Phân cấp quản lý 
 nhà nước, Nguyễn Hoàng Anh dịch, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà 
 Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
 159 
99. Hoàng Phê (Chủ biên) (1988), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, 
 Hà Nội. 
100. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - lý luận và thực 
 tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
101. Nguyễn Hạnh Phúc (2007), "Thực hiện Quy chế dân chủ ở Thái Bình - thành 
 tựu và kinh nghiệm", Tạp chí Cộng sản, (775). 
102. Thang Văn Phúc, Nguyễn Minh Phương (đồng chủ biên) (2007), Đổi mới tổ 
 chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội 
 ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
103. Vũ Đình Quân (2005), “Kinh nghiệm, từ việc thực hiện thể chế dân chủ cơ sở 
 (thôn tự trị) ở Trung Quốc”, Thông tin Chính trị học, Viện Chính trị học, 
 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (1). 
104. Phạm Ngọc Quang (2004), “Thực hiện dân chủ ở cơ sở trong quá trình đổi 
 mới - thành tựu, vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Lý luận chính trị, (3). 
105. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Bộ luật Hình sự 
 (sửa đổi năm 2009), Hà Nội. 
106. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1999), Luật Mặt trận 
 Tổ quốc Việt Nam, Hà Nội. 
107. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2002), Hiến pháp Việt 
 Nam, Năm 1946, năm 1959, năm 1980, năm 1992 và Nghị quyết về việc 
 bổ sung sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992, Nxb Chính trị quốc 
 gia, Hà Nội. 
108. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2011), Luật Khiếu nại, 
 Luật Tố cáo, Hà Nội. 
109. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Luật Phổ biến, 
 giáo dục pháp luật, Hà Nội. 
110. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp năm 
 2013 và tìm hiểu Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Nxb Hồng Đức, 
 Hà Nội. 
 160 
111. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật Hoà giải cơ 
 sở, Hà Nội. 
112. Nguyễn Duy Quý (2004), Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
 nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đề tài KX 04, Hội thảo tại Thành phố 
 Hồ Chí Minh. 
113. Rozdental M.M. (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến Bộ, Matxcơva. 
114. S.L. Montesqieu (1990), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
115. Đỗ Tiến Sâm (2005), Vấn đề thực hiện dân chủ cơ sở ở nông thôn Trung 
 Quốc, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
116. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (đồng chủ biên) (2003), Thực hiện quy chế 
 dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã ở nước ta hiện nay, Nxb Chính 
 trị quốc gia, Hà Nội. 
117. Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông (chủ biên) (2005), Thể chế dân chủ và phát 
 triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
118. Nguyễn Bắc Son (2010), Hỏi đáp về dân chủ ở cơ sở - sách của Hội đồng chỉ 
 đạo xuất bản sách xã, phường, thị trấn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
119. Phan Xuân Sơn (2003), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở 
 cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
120. Phan Xuân Sơn (chủ biên) (2010), Các chuyên đề bài giảng chính trị học 
 (dùng cho cao học chuyên ngành chính trị học), Nxb Chính trị - Hành 
 chính, Hà Nội. 
121. Nguyễn Chính Tâm (2007), "Phản biện xã hội và sự phát triển của Việt Nam", 
  [truy cập ngày 25/8/2015]. 
122. Đặng Đình Tân, Đặng Minh Tuấn (2002), “Tiếp tục thực hiện tốt Quy chế dân 
 chủ ở cơ sở”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (7), Hà Nội. 
123. Tạp chí Thông tin những vấn đề lý luận (2008), "Đảng Cộng sản Trung Quốc 
 và vấn đề dân chủ", Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí 
 Minh, Hà Nội. 
124. Tạp chí Tân Hoa xã (2007), "Xây dựng chế độ dân chủ chính trị ở Trung Quốc 
 theo tinh thần của chủ nghĩa Mác", dịch đăng trên Thông tin Những vấn đề 
 lý luận - Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (22). 
 161 
125. Hồ Bá Thâm, Nguyễn Tôn Thị Tường Vân (đồng chủ biên) (2010), Phản biện 
 xã hội và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
126. Trần Gia Thắng (2002), Hiến pháp Việt Nam, (từ năm 1946 đến năm 1992) và 
 các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. 
127. Thái Vĩnh Thắng (2011), Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tiếp cận 
 thông tin, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 
128. Kim Thanh, Phan Hiên (2007), “Những điểm mới của Pháp lệnh Thực hiện 
 dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Dân vận, (10). 
129. Nguyễn Kim Thanh (2009), “Một vài suy nghĩ về kết quả 10 năm xây dựng và 
 thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”, Tạp chí Dân vận, (7). 
130. Thanh tra Nhà nước (2002), Phát huy dân chủ và giải quyết khiếu tố ở cơ sở, 
 Hà Nội. 
131. Nguyễn Tiến Thành (2006), Kết hợp dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp 
 trong thực hiện quy chế dân chủ ở xã trên địa bàn thành phố Hà Nội, 
 Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội. 
132. Tống Đức Thảo, Bùi Việt Hương (đồng chủ biên) (2011), Trào lưu xã hội dân 
 chủ ở một số nước phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
133. Nguyễn Trọng Thóc (2005), “Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc 
 xây dựng nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta 
 hiện nay”, Tạp chí Triết học, 6(169). 
134. Thomas Meyer, Nicole Breyer (2007), Tương lai của nền dân chủ xã hội (Die 
 Zukunft Sozialen Demokratie), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
135. Lê Minh Thông (2000), “Tăng cường cơ sở pháp luật về dân chủ trực tiếp ở nước 
 ta trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (1), tr.17-27. 
136. Lê Minh Thông (2000), “Hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người 
 ở nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8). 
137. Thủ tướng Chính phủ (1998), Chỉ thị số 24/1998 ngày 19/6 của Thủ tướng 
 Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước của làng, 
 bản thôn, ấp, cụm dân cư, Hà Nội. 
138. Trần Thị Hồng Thúy, Ngọ Văn Nhân (đồng chủ biên) (2004), Tác động của 
 dư luận xã hội đối với ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, Nxb 
 Tư pháp, Hà Nội. 
 162 
139. Nguyễn Trung Tín (chủ nhiệm) (2010), Vai trò và quyền của nhân dân với tư 
 cách là chủ thể xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
 nghĩa Việt Nam năm 2011-2020, Báo cáo tổng hợp Đề tài cấp Bộ, Đại học 
 Luật Hà Nội. 
140. Đặng Hữu Toàn (2005), “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa 
 và vấn đề thực thi quyền làm chủ của nhân dân”, Tạp chí Khoa học xã 
 hội, (9). 
141. Nguyễn Văn Toàn (2008), “Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, kết quả 
 sau 10 năm thực hiện”, Tạp chí Quản lý nhà nước, (155), tr.14-18. 
142. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam (2013), Công văn số 1833/TLĐ ngày 
 04/12/2013 về việc Công đoàn tham gia thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, 
 Hà Nội. 
143. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
 Minh (2002), Các văn kiện quốc tế cơ bản về quyền con người, Hà Nội. 
144. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí 
 Minh và Hội nghiên cứu quyền con người Trung quốc (2003), Quyền con 
 người ở Trung Quốc và Việt Nam (truyền thống, lý luận và thực tiễn), Nxb 
 Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
145. Trường Đại học Luật Hà Nội (2004), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, 
 Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
146. Nguyễn Minh Tuấn (2014), “Các hình thức dân chủ và việc mở rộng dân chủ 
 ở Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.40. 
147. Đào Trí Úc (1998), “Củng cố các hình thức dân chủ vì sự vững mạnh của Nhà 
 nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (1). 
148. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (đồng chủ biên) (2003), Giám sát và cơ chế giám 
 sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an 
 nhân dân, Hà Nội. 
149. Đào Trí Úc (chủ biên) (2009), Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt 
 động của bộ máy Đảng và Nhà nước - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, 
 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
 163 
150. Đào Trí Úc và các cộng sự (2014), Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về dân chủ 
 trực tiếp, dân chủ cơ sở trên thế giới và ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc 
 gia Hà Nội. 
151. Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 
 ngày 20/4 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 
152. Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2013), Báo cáo số 495/BC-
 MTTW-ĐCT ngày 18/10/2013 về Tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và 
 nhân dân, Hà Nội. 
153. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
154. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 
155. Chu Thị Trang Vân (2009), “Một số vấn đề đặt ra trong quá trình thực thi 
 Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, Tạp chí Nhà nước và 
 Pháp luật, (5), tr.51-59. 
156. Viện Khoa học pháp lý (2005), Thiết chế chính trị và bộ máy nhà nước một số 
 nước trên thế giới, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
157. Viện Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (2013), Thực trạng thi hành Pháp 
 lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, Hà Nội. 
158. Virginia Beramandi, Andrew Elis và các cộng sự (2014), Dân chủ trực tiếp: 
 Sổ tay IDEA Quốc tế (Chủ biên bản dịch Đào Trí Úc, Vũ Công Giao), 
 Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
159. Đàm Đức Vũ (2008), “Phát triển dân chủ xã hội dân chủ xã hội chủ nghĩa và 
 xây dựng xã hội hài hòa”, Thông tin Những vấn đề lý luận, Học viện 
 Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (13). 
160. Trịnh Thị Xuyến (2009), Kiểm soát quyền lực nhà nước-một số vấn đề lý luận 
 và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
161. Nguyễn Như Ý (2011), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia thành 
 phố Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh. 
 164 
* Tài liệu tiếng Anh 
162. Adam Przeworski, Michael Alvarez, Jose Antonio Chebub and Fernando 
 Limongi (1996), What makes Democracies Endure? (Điều gì tạo nên các 
 nền dân chủ bền vững?), Journal of Democracy 7/January, pag. 39-55. 
163. Harold Hongju Koh (2000), The right to Democracy, Towards a community of 
 democracy (Quyền dân chủ, Hướng tới một cộng đồng dân chủ), Issue of 
 Democracy, May, p. 9. 
164. Harold Hongju Koh (2000), The right to democracy, Towards a community of 
 democracy, Issue of Democracy, May, 2000, p.9. 
165. Przeworski, Alvarez, Cheibub, and Limongi (1996), What makes democracies 
 endure?. Journal of Democracy 7 (January): 39-55. 
166. Robert Alan, Dalh (1991), Democracy and its Critics (Dân chủ và sự phê 
 phán), New Haven: Yale University Press. USA. 
167. Sorensen Georg (2007), Democracy and democractization processes and 
 prospects in changing world (Dân chủ và quá trình dân chủ hóa và triển 
 vọng trong một thế giới chuyển đổi), Westview press. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
luan_an_hoan_thien_co_che_phap_ly_thuc_hien_dan_chu_co_so_o.pdf