HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
VŨ THỊ HỒNG TRANG 
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA 
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ 
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC 
HÀ NỘI - 2020 
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH 
VŨ THỊ HỒNG TRANG 
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA 
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ 
CHUYÊN NGÀNH CHÍNH TRỊ HỌC 
Mã số: 62 31 02 01 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 169 trang
169 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 695 | Lượt tải: 2 
              
            Tóm tắt tài liệu Luận án Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu quốc hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Phan Xuân Sơn 
HÀ NỘI - 2020 
LỜI CAM ĐOAN 
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. 
Các số liệu, tư liệu nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc 
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. 
 Tác giả 
Vũ Thị Hồng Trang 
MỤC LỤC 
Trang 
MỞ ĐẦU 1 
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN 
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8 
1.1. Những công trình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước 8 
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến chất vấn của đại 
biểu Quốc hội 14 
1.3. Những vấn đề đặt ra cho tác giả luận án cần phải tiếp tục nghiên 
cứu, giải quyết 23 
CHƢƠNG 2: KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA 
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - 
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN 25 
2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước - quan niệm, cơ chế, mục đích, 
nội dung, phương thức và tính tất yếu khách quan của kiểm soát 
quyền lực nhà nước 25 
2.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội Việt Nam là một hình 
thức kiểm soát quyền lực nhà nước 58 
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC 
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU 
QUỐC HỘI Ở VIỆT NAM 89 
3.1. Một số quy định về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở 
nước ta 89 
3.2. Hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với tư cách là phương 
thức kiểm soát quyền lực nhà nước 92 
3.3. Đánh giá chung về thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước 
thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 119 
CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU 
QUẢ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƢỚC THÔNG QUA 
HOẠT ĐỘNG CHẤT VẤN CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 131 
4.1. Quan điểm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà 
nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 131 
4.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực 
nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 134 
KẾT LUẬN 155 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN 
ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 157 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 158 
 1 
MỞ ĐẦU 
1. Tình cấp thiết của đề tài 
Kiểm soát quyền lực là một nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của 
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Qua gần 35 đổi mới vừa 
qua, vấn đề kiểm soát quyền lực nói chung, kiểm soát quyền lực trong trong 
công tác cán bộ nói riêng luôn được Đảng ta đưa ra, bàn bạc, ra quyết sách 
khá kịp thời, điển hình như trong Văn kiện Đại hội XII, Nghị quyết Hội nghị 
Trung ương 4 khoá XII,... Đặc biệt, Quy định số 205-QĐ/TW ngày 
23/9/2019 của Bộ Chính trị khoá 12 quy định về việc kiểm soát quyền lực 
trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền đã thể hiện quyết tâm 
chính trị rất cao của Đảng ta, của người đứng đầu Đảng, đứng đầu Nhà nước 
là Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Quyền lực không được 
kiểm soát chặt chẽ thì nó là tác nhân chính làm tha hoá cán bộ, tha hoá 
những con người được trao quyền lực, từ đó làm tha hoá, thoái hoá, biến 
chất cả bộ máy, thể chế. Trong quá trình dân chủ hoá và xây dựng Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay, vấn 
đề kiểm soát quyền lực nhà nước vừa cơ bản, lại vừa cấp thiết. Cơ bản vì đó 
là yếu tố cấu thành khách quan của hoạt động thực thi quyền lực nhà nước, 
và tính hiệu quả của nó là một trong những nội dung cốt lõi của nhà nước 
pháp quyền, là phương tiện để đảm bảo quyền tự do, dân chủ của người dân. 
Cấp thiết vì việc lạm quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng của 
không ít cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất đang là vấn nạn, là nguy cơ 
lớn đe doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ, vi phạm nghiêm trọng quyền tự 
do, dân chủ của người dân. Vì sao phải nhốt quyền lực trong lồng thể chế và 
pháp luật là một câu hỏi cần nghiên cứu thấu đáo để có hệ giải pháp vừa cấp 
bách vừa lâu dài mang tầm chiến lược. 
Qua quá trình nhận thức và rút kinh nghiệm từ thực tiễn, trong văn kiện 
Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta khẳng định sự cần thiết của kiểm soát quyền 
 2 
lực nhà nước "Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành 
cụ thể để đảm bảo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và 
nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và 
kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hành quyền lập pháp, hành pháp 
và tư pháp". Chính vì vậy, quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp 
quyền ở Việt Nam hiện nay thực chất cũng là quá trình hoàn thiện cơ chế 
kiểm soát quyền lực nhà nước, đặc biệt là cơ chế kiểm soát quyền lực bên 
trong nhà nước. Bên cạnh hoạt động lập pháp, hoạt động kiểm soát quyền lực 
nhà nước của Quốc hội ngày càng được các nước coi trọng, đề cao để đảm 
bảo luật pháp Quốc hội ban hành được thực thi đúng đắn trong thực tiễn. Ở 
Việt Nam Quốc hội với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do 
đó việc kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội đối với hai nhánh còn lại 
càng phải được quan tâm. 
Theo quy định của luật pháp Việt Nam, Quốc hội có quyền giám sát tối 
cao mọi hoạt động của nhà nước, và Quốc hội có 5 hình thức cơ bản để thực 
hiện quyền kiểm soát này. Trong đó, hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc 
hội thu hút sự quan tâm đặc biệt của cả cử tri, nhân dân, lẫn các đại biểu Quốc 
hội vì đây là một trong những phương thức kiểm soát quyền lực có hiệu quả 
nhất của Quốc hội. Tính trực tiếp trao đổi, truy vấn, thông tin cập nhật theo 
những vấn đề thời sự, bức xúc nhất của đất nước, sự chủ động thực hiện 
quyền kiểm soát quyền lực của Quốc hội và đại biểu Quốc hội, đối tượng bị 
kiểm soát là những người đứng đầu bộ máy nhà nước, thể hiện tính tối cao 
trong hoạt động giám sát... là những cơ sở để chất vấn trở thành một phương 
thức kiểm soát quyền lực quan trọng của Quốc hội, cần được quan tâm để 
nâng cao tính hiệu lực, hiệu quả của phương thức kiểm soát quyền lực nhà 
nước này của Quốc hội. 
Trong thời gian vừa qua, trong hoạt động giám sát, kiểm soát quyền lực 
nhà nước của Quốc hội, hoạt động chất vấn có nhiều chuyển biến tích cực, 
 3 
diễn ra sôi nổi, hiệu quả chứng tỏ hoạt động của Quốc hội ngày càng có tính 
dân chủ, tranh luận và thực chất nhiều hơn. Thông qua hoạt động chất vấn, 
trách nhiệm chính trị của đối tượng bị chất vấn được làm rõ, nhiều người trả 
lời chất vấn đã nhận trách nhiệm trước Quốc hội và có những giải pháp cụ 
thể, thiết thực tạo sự chuyển biến thực sự trong thực tiễn, nhiều yếu kém, hạn 
chế được khắc phục sau chất vấn. Chất vấn cũng là hình thức cảnh báo của 
Quốc hội đối với hoạt động của hành pháp, tư pháp về những vấn đề bức xúc, 
cử tri và dư luận quan tâm, những hạn chế, yếu kém trong hoạt động của các 
cơ quan này để nghiêm túc điều chỉnh, qua đó nâng cao hiệu lực, hiệu quả, 
tính hợp pháp, hợp lý trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Với vai trò của 
chất vấn trong kiểm soát quyền lực nhà nước, có người cho rằng hoạt động 
chất vấn của đại biểu Quốc hội là điểm sáng trong đời sống chính trị của nước 
ta thời gian qua và góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. 
Tuy nhiên, mức độ, phạm vi kiểm soát quyền lực nhà nước của hoạt 
động chất vấn chưa đạt được như mong đợi. Mức độ kiểm soát quyền lực nhà 
nước của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào năng lực lựa chọn vấn đề chất 
vấn, năng lực đeo bám, tranh luận đến cùng vấn đề chất vấn của đại biểu 
Quốc hội để làm rõ trách nhiệm, nguyên nhân của vấn đề. Tuy nhiên, năng 
lực của đại biểu Quốc hội còn hạn chế. Một số đại biểu Quốc hội nể nang, né 
tránh, ít thực hiện hoạt động chất vấn. Vấn đề hậu chất vấn, giám sát việc thực 
hiện lời hứa cũng như xử lý các trường hợp không chịu nhận trách nhiệm, 
không tích cực giải quyết vấn đề của đối tượng bị chất vấn chưa thật sự chặt 
chẽ dẫn tới ảnh hưởng hiệu quả, hiệu lực kiểm soát quyền lực nhà nước của 
hoạt động này. Nhiều người cho rằng chất vấn diễn ra sôi nổi trên nghị trường 
nhưng tác động của nó trong thực tiễn chưa lớn. Để phát huy những ưu thế 
của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn 
của đại biểu Quốc hội thì cần phải khắc phục những hạn chế trên bằng những 
 4 
giải pháp thiết thực, hiệu quả. Chính vì những lý do trên mà tôi chọn đề tài 
"Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu 
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài cho luận án tiến sĩ của mình. 
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án 
2.1. Mục đích 
Trên cơ sở lý luận về kiểm soát quyền lực nhà nước và thực trạng kiểm 
soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 
ở Việt Nam, luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm nâng 
cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động 
chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 
2.2. Nhiệm vụ 
Để đạt được mục đích trên, luận án cần thực hiện những nhiệm vụ sau: 
- Tổng quan tình hình nghiên cứu về kiểm soát quyền lực nhà nước nói 
chung và kiểm soát quyền lực thông qua chất vấn Quốc hội nói riêng. Trên cơ 
sở đó, luận án xác định phương pháp tiếp cận và hướng đi của luận án phù 
hợp với chủ đề nghiên cứu. 
- Làm rõ những vấn đề lý luận về tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, 
kiểm soát quyền lực nhà nước, chức năng của Quốc hội và vai trò của hoạt động 
chất vấn của đại biểu Quốc hội trong kiểm soát quyền lực nhà nước. 
- Phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt 
động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu 
quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu 
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
- Đối tượng nghiên cứu của luận án: hoạt động chất vấn của đại biểu 
Quốc hội ở Việt Nam hiện nay với tư cách là một phương thức kiểm soát 
quyền lực của Quốc hội. 
 5 
- Phạm vi nghiên cứu của luận án: tính từ kỳ họp thứ 6 khoá XIII đến 
nay(gắn với Hiến pháp năm 2013). 
4. Những đóng góp mới của luận án 
Luận án có những đóng góp mới sau: 
- Góp phần bổ sung lý luận kiểm soát quyền lực nhà nước trong điều 
kiện tổ chức bộ máy nhà nước mang tính đặc thù Việt Nam, chỉ ra sự khác 
biệt, những ưu thế của phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua 
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát 
quyền lực khác của Quốc hội và của các nhánh quyền lực khác nói chung, 
mối quan hệ giữa phương thức kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động chất 
vấn của đại biểu Quốc hội với các phương thức kiểm soát quyền lực khác của 
Quốc hội. 
- Phân tích, đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông 
qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra 
những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập. 
- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp trên phương diện lý luận và 
thực tiễn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước 
thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay. 
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án 
5.1. Cơ sở lý luận 
- Cơ sở lý luận của luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm, chủ trương, chính sách, pháp luật 
của Đảng và Nhà nước ta về tổ chức bộ máy nhà nước, kiểm soát quyền lực 
nhà nước trong nhà nước xã hội chủ nghĩa, về hoạt động chất vấn của đại biểu 
quốc hội. 
- Tham khảo các lý thuyết chính trị về tổ chức nhà nước, về kiểm soát 
quyền lực nhà nước. Đặc biệt là tham khảo phương thức chất vấn của nghị 
viện một số nước như Anh, Pháp, Mỹ, Nhật Bản. 
 6 
5.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 
- Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng 
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. 
- Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích hệ thống chính trị, 
phương pháp phân tích cấu trúc chức năng... Ngoài ra luận án còn sử dụng các 
phương pháp chung, liên ngành và chuyên ngành khác như các phương pháp 
phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, phương pháp thống kê, so sánh, định 
tính, định lượng. 
Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng hợp các tài liệu nghiên 
cứu, các số liệu liên quan đến đề tài, các nội dung chất vấn trong các kỳ họp 
của Quốc hội. 
Phương pháp phân tích được sử dụng trong toàn bộ các phần của luận 
án như phân tích tài liệu để rút ra những mặt được và những nội dung còn 
thiếu trong nghiên cứu vấn đề của luận án, phân tích những vấn đề lý luận về 
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua chất vấn, phân tích thực trạng... 
Phương pháp thống kê, so sánh được sử dụng trong so sánh chất vấn 
của đại biểu Quốc hội Việt Nam với hình thức chất vấn của Quốc hội các 
nước khác, so sánh hoạt động chất vấn giữa các kỳ họp, giữa hoạt động trong 
và sau chất vấn. 
Phương pháp phỏng vấn sâu đối với các chuyên gia, các nhà lập pháp 
đã từng tham gia Quốc Hội qua các thời kỳ (Luận án đã phỏng vấn đồng chí 
Vũ Mão nguyên Chánh Văn phòng, nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban Đối ngoại của 
Quốc Hội). 
Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng để kết hợp nhận định 
mang tính định tính với số liệu mang tính định hướng được luận án sử dụng 
để hoàn thành nội dung nghiên cứu của chương 3. 
 6. Ý nghĩa của luận án 
- Làm rõ hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là một hình 
 7 
thức kiểm soát quyền lực nhà nước, tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt 
động chất vấn... 
- Những kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng làm tài 
liệu tham khảo cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội trong hoạt động chất vấn. 
- Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng trong nghiên cứu chính trị, trong 
giảng dạy ở các cơ sở đào tạo. 
7. Kết cấu của luận án 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục chữ viết tắt, danh mục công 
trình nghiên cứu của tác giả, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục...nội dung 
của luận án gồm có 4 chương với 9 tiết. 
 8 
Chƣơng 1 
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC 
NHÀ NƢỚC 
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề trọng yếu của bất kỳ nhà 
nước nào. Trên thế giới điều này đã được khẳng định rất sớm bới các nhà tư 
tưởng chính trị- pháp lý thời đại Khai sáng. Các nghiên cứu liên quan về sau 
chỉ làm rõ hơn về phương thức tổ chức nhà nước và các cơ chế vận hành hệ 
thống chính trị sao cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả hơn mà 
thôi. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước thu hút sự quan tâm 
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó có những công trình tiêu biểu 
sau: Lê Thị Anh Đào, "Kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - một số vấn đề cơ bản", Tạp chí khoa học 
chính trị, số 3 năm 2011. Công trình này tác giả đã bàn những vấn đề lý luận 
cơ bản về kiểm soát quyền lực, quyền lực nhà nước, tính tất yếu phải kiểm 
soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền. 
Lưu Văn Quảng Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt 
Nam hiện nay, đề tài cấp bộ năm 2008. Đề tài đã đặt ra vấn đề phải xây dựng 
một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam như một đòi hỏi cấp 
bách từ việc hoàn thiện thể chế chính trị và bộ máy ở nước ta. Nội dung, các 
yếu tố của cơ chế kiểm soát quyền lực đã được tập thể tác giả nghiên cứu đề 
tài đề cập khá đầy đủ. 
Pháp luật về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay của 
Trần Kim Cúc, tác giả bàn về vai trò của pháp luật và yêu cầu phải có cơ chế 
pháp lý để kiểm soát quyền lực có hiệu quả. 
Lâm Quốc Tuấn Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong bộ máy 
 9 
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, Vũ Anh Tuấn "Kiểm soát quyền lực nhà nước 
trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí 
sinh hoạt lý luận, (5), năm 2011. 
Lê Minh Quân ''Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực 
nhằm bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân'', Tạp chí Cộng sản, (10), năm 
2013; tác giả đề cập đến vấn đề kiểm soát quyền lực nhằm bảo đảm và phát 
huy quyền làm chủ của nhân dân. 
Trần Ngọc Đường ''Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam'', Tạp chí nghiên cứu lập pháp, 
(16), năm 2011; Phạm Hữu Nghị "Tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước 
ở Việt Nam: thực trạng và giải pháp", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (9), 
năm 2011 
Các công trình nói trên đã cố gắng giải quyết những vấn đề có tính lý 
luận chung của kiểm soát quyền lực nhà nước, như: Tính phổ biến, sự cần 
thiết, mục đích, cơ chế thực hiện Các công trình đã phân tích những quy 
định của pháp luật về sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các nhánh quyền 
lực; thử xác định các khái niệm, mục đích, chủ thể, phạm vi của kiểm soát 
quyền lực nhà nước. Nhiều tác giả đã khái quát có hai hình thức kiểm soát 
quyền lực nhà nước. Đó là kiểm soát từ bên trong (giữa các cơ quan quyền 
lực nhà nước với nhau) và từ bên ngoài từ các đảng chính trị, các tổ chức 
công dân và của nhân dân. 
Sự cần thiết phải kết hợp cả hai hình thức này trong một thể chế chính 
trị cũng được đặt ra, Trần Ngọc Đường, 2011, Đào Trí Úc và Võ Khánh Vinh 
đề cập đến. Phân biệt sự giám sát bên trong hệ thống quyền lực nhà nước giữa 
các nhánh quyền lực với giám sát bên ngoài đó là sự giám sát có tính chất 
quyền lực nhà nước và không có tính chất quyền lực nhà nước. 
Nhiều tác giả đã đề cập đến hoạt động chất vấn, nhìn thấy sự liên hệ, sự 
cần thiết giữa việc thực hiện chức năng giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt 
động chất vấn, như là một hình thức giám sát đặc thù. 
 10 
Để phân biệt giữa các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, các tác 
giả Vũ Minh Đoan, Vũ Thu Hạnh (2014) đã phân tích các khái niệm thanh 
tra, kiểm, tra, giám sát, kiểm sát và đã đưa ra khái niệm về kiểm soát quyền 
lực nhà nước và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả còn tiếp tục đi 
sâu hơn, phân tích khái niệm cơ chế kiểm soát quyền lập pháp, cơ chế kiểm 
soát quyền hành pháp và cơ chế kiểm soát quyền tư pháp và những yếu tố 
đảm bảo cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trên thực tế. 
Liên quan đến cơ chế phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ 
quan nhà nước trong việc thực thi quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Trần 
Ngọc Đường trong công trình: Một số vấn đề về phân công, phối hợp và kiểm 
soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011; Vũ Anh Tuấn "Hoàn thiện thể 
chế kiểm soát quyền lực nhà nước", Tạp chí lý luận chính trị, (5), năm 2012, 
đã đi sâu phân tích sự mất cân đối trong nhận thức và tổ chức bộ máy nhà 
nước ở nước ta. Đó là coi trọng tính thống nhất, tập trung mà coi nhẹ tính 
kiểm soát, chế ước giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực thi các quyền 
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các tác giả đặc biết chú ý đến cơ chế kiểm 
soát từ bên ngoài (của Đảng, của các tổ chức chính trị-xã hội, của các tổ chức 
xã hội và của nhân dân) đối với quyền lực nhà nước và sự phối hợp với cơ chế 
kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Các giải pháp mà Trần Ngọc 
Đường đề xuất khá toàn diện bao gồm đề nghị các phương án sửa đổi một số 
quy định trong Hiến pháp hiện hành cho đến những quy định pháp luật cụ thể. 
Về giám sát tối cao của Quốc hội, tuy cuốn sách của Trần Ngọc Đường không 
bàn đến vấn đề chất vấn nhưng cho rằng chức năng giám sát tối cao của Quốc 
hội nên tập trung vào kiểm soát hoạt động của hành pháp, không nên kiểm 
soát tư pháp và các văn bản luật để đảm bảo thực quyền. 
Để làm rõ hơn vấn đề và các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước, 
nhiều tác giả đã thực hiện nghiên cứu so sánh các nước trên thế giới, thậm chí 
 11 
so sánh các tổ chức nhà nước của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử. Theo 
hướng này có: Nguyễn Quang Anh "Cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực 
nhà nước ở một số nước trên thế giới và những giá trị tham khảo cho Việt 
Nam", Tạp chí nghiên cứu lập pháp, (286), tháng 3 năm 2015. 
Sự khác biệt của kiểm soát quyền lực nhà nước của một số nước pháp 
quyền tư sản và Việt Nam là ở cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các cơ quan 
quyền lực, đề cao vai trò các đảng phái chính trị đối lập, thông qua các tổ 
chức xã hội dân sự, các phương tiện truyền thông đại chúng, bầu cử tự do và 
giới hạn nhiệm kỳ. Bàn về tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước của nước 
Nga, và các nước Đông Âu qua cả hai giai đoạn, trước trước và sau 1991, 
nghiên cứu vấn đề tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện 
nay qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 
2001), Thái Vĩnh Thắng (2011) cho rằng, sự thiếu vắng cơ chế kiểm soát 
quyền lực trong các nhà nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là một trong những 
nguyên nhân của tình trạng mất dân chủ, mà hệ luỵ của nó là dẫn đến sự suy 
yếu nhà nước và sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa. Từ những kinh 
nghiệm các nước phương Tây, bài học các nước Đông Âu, các tác giả đã hàm 
ý rút ra những những giá trị cần tham khảo, vận dụng ở Việt Nam. 
Sau khi phân tích tính so sánh việc tổ chức và kiểm soát quyền lực nhà 
nước ở nhiều nước trên thế giới hiện nay, hầu hết các công trình trên đều 
thống nhất cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay còn 
nhiều hạn chế, thiếu sót, bất cập và nguyên nhân của tình trạng này. Trên cơ 
sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp về tổ chức và kiểm soát việc thực hiện 
quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay. 
Đáng chú ý là cuốn Kiểm soát quyền lực nhà nước, một số vấn đề lý 
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, 2008 của 
Trịnh Thị Xuyến. Đây là cuốn sách được xuất bản từ luận án tiến sĩ (2007) lần 
đầu tiên ở Việt Nam, nghiên cứu vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước được 
 12 
tiến hành một cách công khai, tương đối toàn diện và đầy đủ. Tác giả cuốn 
sách cho rằng, kiểm soát quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan. Tác giả 
đã làm rõ các khái niệm: kiểm soát quyền lực nhà nước, nội dung, mục đích, 
các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả đã khảo sát thực tiễn 
kiểm soát quyền lực nhà nước ở một số nước trên thế giới, đặc biệt với hai mô 
hình hệ thống chính trị lựa chọn, là mô hình các nước có hệ thống hai đảng 
nổi trội và mô hình hệ thống một đảng nổi trội, từ đó rút ra những giá trị tham 
chiếu cho Việt Nam. Cuốn sách đã phân tích thực trạng kiểm soát quyền lực 
nhà nước ở Việt Nam hiện nay, với các chủ thể là nhân dân và Đảng duy nhất 
lãnh đạo và cầm quyền. Các phương hướng và giải pháp kiểm soát quyền lực 
nhà nước ở nước ta hiện nay, theo Trịnh Thị Xuyến, là hạn chế phạm vi quyền 
lực nhà nước, thay đổi cách thức kiểm soát của Đảng, xây dựng các cơ chế 
kiểm soát của nhân dân, xây dựng cơ chế kiểm soát trong bộ máy nhà nước, 
phát triển các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng độc lập, tự chủ, nâng cao 
trình độ văn hoá chính trị, dân chủ, pháp lý của nhân dân. Tác giả có bàn đến 
cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp đối với hành pháp 
và tư pháp. Tuy nhiên, đây chỉ là một nội dung nhỏ của cuốn sách nên chưa 
được đề cập nhiều đến kiểm soát quyền lực cơ quan thực thi quyền hành 
pháp, hay quyền tư pháp thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. 
Nhiều công trình cũng đã làm rõ khái niệm kiểm soát quyền lực nhà 
nước. Ví dụ như tác giả Nguyễn Thị Vân Giang trong bài "Kiểm soát quyền 
lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý 
luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 đã đưa ra định nghĩa kiểm soát 
quyền lực nhà nước "Đó là hệ thống những thể chế, cơ chế, nguyên tắc, biện 
pháp được thực hiện bởi các cơ quan nhà nước hoặc xã hội nhằm giữ cho 
việc thực thi quyền lực nhà nước đúng mục đích, hiệu quả". Các tác giả Phạm 
Thế Lực trong bài viết ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí Nhà 
nước và pháp luật, (1), năm 2011 và Nguyễn Vân Giang "Kiểm soát quyền 
 13 
lực nhà nước và giám sát của Quốc hội một số nước trên thế giới", Tạp chí Lý 
luận chính trị và truyền thông, (10), năm 2010 cũng khẳng định kiểm soát 
quyền lực nhà nước là tất yếu khách quan xuất phát từ nhiều nguyên nhân 
khác nhau như do bản tính của con người, do tính có thể sai lầm của nhà cầm 
quyền (đảm bảo tính cẩn trọng của các quyết định), đảm bảo quyền tự do dân 
chủ, do quyền lực nhà nước là quyền lực uỷ quyền. Có công trình khẳng định 
tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước trên một phương diện khác đó 
là những hệ quả của việc thiếu vắng kiểm soát quyền lực nhà nước như tác giả 
Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp, trong bài viết "Thực trạng tổ chức thực hiện 
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam", Tạp chí Nhà nước và Pháp 
luật, (5), năm 2011 nêu những hệ quả của việc thiếu vắng cơ chế kiểm soát 
quyền lực nhà nước như hoạt động cơ quan nhà nước khép kín, thiếu công 
khai, minh bạch; hoạt động của cơ quan nhà nước mang nặng tính chủ quan, 
thiếu lắng nghe ý kiến phản biện tích cực từ nhân dân; mắc phải những căn 
bệnh trầm kha khó chữa với đối nội (tham nhũng, quan liêu) đồng thời mất uy 
tín trước cộng đồng quốc tế trong quan hệ đối ngoại 
Như vậy, nhìn chung, các công trình liên quan đến kiểm soát quyền lực 
nhà nước ở Việt Nam trong hơn 10 năm lại đây, đã cho thấy, giới nghiên cứu 
chính trị và pháp lý Việt Nam đã có bước tiến xa trong nhận thức lý luận về 
kiểm soát quyền lực nhà nước. Từ chỗ coi Nhà nước của giai cấp công nhân, 
dưới sự lãnh đạo của Đảng là "bất khả xâm phạm" không chia sẻ quyền lực 
với bất kỳ ai và không bị kiểm soát bởi bất kỳ ai, đã tiến đến chỗ thừa nhận 
kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan. Nhận thức này đã 
được đưa vào Cương lĩnh chính trị của Đảng (sửa đổi năm 2011), trong Nghị 
quyết Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XI. Tuy nhiên, trong kiểm soát 
quyền lực nhà nước, có nhiều chủ thể, có nhiều phương thức. Giám sát tối cao 
của Quốc hội là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong 
nhà nước. Trong giám sát tối cao của Quốc hội lại có nhiều hình thức nữa. Về 
nội dung này, các nghiên cứu cho thấy hai khuynh hướng rõ rệt: 
 14 
(i) Nghiên cứu giám sát tối cao của Quốc hội, như là nghiên cứu tổ 
chức và hoạt động của Quốc hội theo Luật tổ chức Quốc hội, mà không chú ý 
đến lý thuyết kiểm soát quyền lực nhà nước như Phạm Ngọc Kỳ (với cuốn 
sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 1996, 
tác giả Trương Thị Hồng Hà với công trình Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm 
bảo chức năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, 2009, Đặng 
Phương Hải với bài viết "Giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động giám sát tối 
cao của Quốc hội", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6), năm 2015. 
(ii) Coi giám sát tối cao của Quốc hội là một trong những hình thức 
kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa có điều kiện đi sâu vào các hình 
thức cụ thể, nhất là hoạt động chất vấn tại kỳ họp. Tuy vậy, cần khẳng định 
rằng, các công trình nói trên, này đã cung cấp những vấn đề cơ bản nhất về 
kiểm soát quyền lực nhà nước, đó cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho tác 
giả trong quá trình triển khai đề tài. 
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN CHẤT VẤN 
CỦA ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI 
Chức năng giám sát của Quốc hội đã là đối tượng nghiên cứu từ nhiều 
năm nay ở nhiều nước trên Thế giới. Tuy nhiên, hầu hết các tài liệu nghiên 
cứu về chức năng giám sát của Quốc hội mới chỉ đặt trong phạm vi nghiên 
cứu tổng thể về Quốc hội chứ chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng biệt 
về vấn đề này. Trong một thời gian dài, ở nước ta chưa có công trình nghiên 
cứu quy mô về hoạt động giám sát của Quốc hội. Gần chục năm sau đổi mới 
mới có một số công trình nghiên cứu về quyền giám sát của Quốc hội. Trong 
đó có một số công trình tiêu biểu như Quyền giám sát của Quốc hội - nội 
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư 
pháp, Hà Nội, năm 2004; Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực 
tiễn, Văn phòng Quốc hội, năm 2005; Thường thức về hoạt động giám sát của 
Quốc hội, Nguyễn Sỹ Dũng chủ biên, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006 
 15 
Tác giả Trần Ngọc Đường trong bài viết "Tiếp tục nâng cao hiệu lực và 
hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa", Tạp chí Tuyên giáo, (5), năm 2011 đã khẳng định giám sát 
tối cao của Quốc hội là một trong những cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước 
từ bên trong "Giám sát nói chung, giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng, là 
một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước, góp phần xây dựng cả 3 
quyền đều mạnh, đảm bảo cho các quyền làm đúng, làm đủ nhiệm vụ, quyền 
hạn được nhân dân giao phó". 
Nhiều tác giả cũng đã bước đầu nghiên cứu quyền giám sát của Quốc 
hội như là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Tác giả Nguyễn 
Sinh Hùng trong bài viết "Tăng cường vai trò giám sát tối cao của Quốc hội 
đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo tinh 
thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng", Tạp chí Cộng sản, (2), năm 2013 cũng 
khẳng định "Giám sát tối cao của Quốc hội trong điều kiện xây dựng nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xem là một phương thức 
kiểm soát quyền lực nhà nước, có nhiệm vụ phòng, chống sự tha hóa của 
kiểmn lực nhà nước. Do đó, có thể nói giám sát tối cao có vai trò trong phòng, 
chống tham nhũng - một biểu hiện của sự tha hoá quyền lực nhà nước". 
Nhiều công trình chuyên khảo nghiên cứu về hoạt động giám sát tối cao 
của Quốc hội cũng đã đưa ra định nghĩa về hoạt động này. Ví dụ như tác giả 
Phạm Ngọc Kỳ trong cuốn sách Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb 
Chính trị quốc gia, 1996 đã đưa ra định nghĩa quyền giám sát tối cao của Quốc 
hội "là quyền của Quốc hội thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra tính hợp 
hiến, hợp pháp đối với các văn bản và hoạt động của Chủ tịch nước, uỷ ban 
thường vụ quốc hội, Chính phủ, thủ tướng Chính phủ, toà án nhân dân tối cao và 
viện kiểm sát nhân dân tối cao, xử lý những vi phạm hiến pháp, luật bà nghị 
quyết của Quốc hội do những cơ quan nói trên gây ra nhằm bảo đảm cho Hiến 
pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội được nghiêm chỉnh chấp hành". 
 16 
Mặc dù dưới các góc độ...ng phải là những thiên thần, nên Chính phủ cũng có 
thể mắc sai lầm. Đây là nhận thức căn bản của ông khi đề xuất hệ thống kiềm 
chế và đối trọng trong Bản Hiến pháp này. 
 31 
 Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà 
nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra. Có thể nói, 
không có thể chế nào của con người có thể miễn dịch khỏi sự sai lầm. Những 
sai lầm mang tính cá nhân ở những người nắm giữ quyền lực nhà nước có thể 
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người dân. Do đó, cần thiết 
lập cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo cho các quyết định, 
chính sách của Nhà nước được trao đổi, bàn bạc, thảo luận kỹ trước khi ban 
hành nhằm tìm kiếm sự đồng thuận của xã hội, hạn chế đến mức thấp nhất 
việc đưa ra những quyết định sai lầm, không hiệu quả, gây cản trở cho sự phát 
triển của xã hội. Điều này có nghĩa là thông qua hoạt động kiểm soát quyền 
lực, ý chí chung sẽ được kiểm định xem có phù hợp với ý chí của người dân 
hay không, có tính khả thi hay không. Cũng thông qua hoạt động này, các quy 
định không hợp lý của pháp luật sẽ được sửa chữa, bổ sung kịp thời, những 
quyết định, văn bản pháp luật không hợp pháp hoặc không còn phù hợp với 
thực tiễn sẽ bị huỷ bỏ, hoạt động xây dựng pháp luật sẽ tránh được tình trạng 
quan liêu, chủ quan duy ý chí. 
2.1.2.4. Nhà nước là chủ thể thực thi quyền lực có độc quyền cưỡng chế 
Nhà nước có quyền cưỡng chế tức là quyền đè bẹp bất cứ một vật cản 
nào gây trở ngại cho việc thực hiện lợi ích của nhà nước, trên danh nghĩa lợi 
ích của nhân dân. Tính độc quyền cưỡng chế tạo cho nhà nước sức mạnh hợp 
pháp duy nhất và lớn nhất trong xã hội. Đó là một yêu cầu khách quan. Thuộc 
tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách hiệu quả 
vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Song "chẳng có đảm bảo nào cho 
rằng, mọi can thiệp của nhà nước sẽ mang lại lợi ích cho xã hội. Độc quyền 
của nhà nước về cưỡng chế, cái mang lại cho nhà nước quyền lực can thiệp 
một cách có hiệu lực vào hoạt động kinh tế, cũng mang lại cho nhà nước can 
thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền. Với độc quyền này, Nhà nước sẽ có thể 
can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp 
pháp của con người. "Quyền này cộng với bất bình đẳng về thông tin giữa dân 
 32 
chúng và nhà nước tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích 
của riêng họ hay những bạn bè đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích 
chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn" [51, tr.126]. 
Chính vì tính độc quyền cưỡng chế này của nhà nước, có người đã ví, ví ở 
thời điểm chuẩn bị và tiến hành tội phạm, nhà nước và kẻ cướp có rất nhiều chỗ 
giống nhau. Cùng đều phải mang vũ khi, nhưng nguy hiểm ở chỗ, nhà nước 
được công khai mang vũ khí, còn kẻ cướp thì lại không được công khai. Chính 
đặc điểm công khai này làm cho nhà nước có một sức mạnh ghê gớm hơn nhiều 
kẻ cướp. Thực tế cho thấy, không phải bao giờ sự can thiệp của nhà nước cũng 
đúng đắn và hiệu quả. Do tính nhạy cảm và dễ bị lạm dụng, quyền lực này cần 
đặt dưới sự giám sát thường xuyên để có thể đưa ra những phản hồi, điều chỉnh 
kịp thời trước khi chúng gây ra những tồn thất to lớn cho xã hội. 
Như vậy, một trong những mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước 
là nhằm kiểm soát "độc quyền cưỡng chế" sao cho đặc quyền này của nhà 
nước nằm trong phạm vi "cưỡng chế hợp pháp", giới hạn hoạt động của nhà 
nước trong ranh giới không vi phạm các quyền và lợi ích chính đáng của công 
dân; tăng tính trách nhiệm, tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực nhà nước 
và đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân. 
Như vậy, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước là đảm bảo cho 
quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, vì lợi ích của nhân dân và 
đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả. 
2.1.3. Phƣơng thức kiểm soát quyền lực nhà nƣớc 
2.1.3.1. Lý thuyết phân quyền về kiểm soát quyền lực nhà nước 
Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước cũng xa xưa như chính 
quyền lực nhà nước vậy. Nhưng phải chờ đến khi xu thế chống lại nhà nước 
quân chủ chuyên chế bùng nổ ở phương Tây mà đỉnh cao là sự ra đời của học 
thuyết về phân chia quyền lực nhà nước ra đời thì tư tưởng này mới đạt đến tầm 
cao mới đó là tư tưởng phân quyền, dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. 
 33 
Các nhà tư tưởng thời kỳ khai sáng như Locke, Montesquieu cho đến 
Mill, Madison đều cho rằng quyền lực chỉ có thể kiểm soát bằng quyền lực, 
và sự phân lập quyền lực là một phương thức để hạn chế, kiểm soát quyền 
lực. Quyền lực nhà nước được phân chia thành ba nhánh: lập pháp, hành 
pháp, tư pháp, độc lập và tương tác với nhau, tạo nên cơ chế đối trọng, kiểm 
chế lẫn nhau. Ông chỉ rõ nguy cơ của sự không phân lập quyền lực "Nếu 
quyền lập pháp và quyền hành pháp đều nằm trong tay một người hay một 
viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa vì chính ông ta hay viện ấy 
chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài. Cũng không có gì là tự do 
nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp và quyền hành pháp. Nếu 
quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta sẽ độc đoán với 
quyền sống và quyền tự do của công dân; quan toà sẽ là người làm ra luật. 
Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì quan toà sẽ có cả sức 
mạnh của kẻ đàn áp" [49, tr.100). Montesquieu đã từng nói "Kinh nghiệm 
hàng thế kỷ cho thấy rõ ràng khi nắm quyền trong tay, bất kỳ người nào cũng 
có thiên hướng lạm dụng nó, và người đó còn đi theo hướng ấy cho tới lúc 
chưa đạt đến giới hạn". Vì vậy phân chia quyền lực nhằm giảm thiểu sự lạm 
dụng ấy. Khi thẩm quyền được phân chia và xác định rõ ràng, cử tri sẽ dễ 
dàng hơn trong việc xác định ai là người có lỗi đối với những hành động 
không đúng của nhà nước. Cơ chế kiềm chế đối trọng giữa các nhánh quyền 
lực cũng được các học giả tư sản này đề cập đến như một phương thức kiểm 
soát quyền lực nhà nước. Cơ chế này đảm bảo không một nhánh quyền lực 
nào, ngay cả trong lĩnh vực của mình không thể không bị kiểm soát, giám sát, 
không thể hành động một cách chuyên chế. Cơ chế này được thiết kế không 
phải vì mục đích hoạt động thông suốt, nhanh chóng của bộ máy nhà nước mà 
để đảm bảo quyền lực được thực hiện đúng mục đích, không bị lạm dụng. Sự 
an toàn phải trả giá bằng sự kém linh hoạt. Ví dụ, ở các quốc gia có hình thức 
chính thể cộng hoà tổng thống, mà điển hình là Hoa Kỳ, Tổng thống không 
thể gián tán được Nghị viện nhưng Nghị viện cũng không thể phế truất tổng 
 34 
thống (ngoài trường hợp đàn hạch). Tổng thống có quyền phủ quyết một đạo 
luật do Nghị viện đã thông qua, nhưng Nghị viện có thể vượt qua sự phủ 
quyết này bằng cách bỏ phiếu lại với 2/3 tổng số phiếu nghị sĩ. Sự giám sát 
đối với tính hợp hiến trong các hoạt động của các cơ quan nhà nước được trao 
cho Toà án tối cao Mỹ, nhưng việc bổ nhiệm các thành viên của Toà án tối 
cao do Tổng thống tiến hành với sự đồng ý của Thượng viện. 
Sự ra đời của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong bộ máy 
nhà nước gắn liền với sự hình thành và phát triển của lý thuyết phân quyền, 
tạo ra sự kiềm chế và đối trọng giữa các nhánh quyền lực ngay bên trong bộ 
máy nhà nước. Theo lý thuyết này, quyền lực nhà nước được chia làm ba 
quyền độc lập: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Cơ chế phân quyền và đối trọng 
quyền lực được thể hiện ra là: 
Lập pháp ban hành luật, giám sát việc thực hiện luật do nó ban hành và 
truy tố những cán bộ quan chức hành pháp khi họ vi phạm trách nhiệm 
Hành pháp có nhiệm vụ thực thi pháp luật, ngăn chặn những dự định 
tuỳ tiện của cơ quan lập pháp. 
Sự độc lập của cơ quan tư pháp và các quan toà nhằm bảo vệ công dân 
khỏi sự xâm hại của những cơ quan lập pháp và hành vi tuỳ tiện của cơ quan 
hành pháp. 
Trong cơ chế kiềm chế đối trọng, kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan 
quyền lực nhà nước. Luận án đi sâu nghiên cứu chức năng kiểm soát quyền 
lực của cơ quan lập pháp. 
2.1.3.2. Kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan lập pháp 
Các hoạt động có tính chất kiểm soát quyền lực nhà nước của cơ quan 
lập pháp đối với cơ quan hành pháp và cơ quan tư pháp được thông qua các 
hình thức, cơ chế cụ thể. Quốc hội sẽ hạn chế việc Chính phủ, cơ quan tư 
pháp hoạt động vượt quá quyền hạn do Hiến pháp quy định, nhằm bảo vệ trật 
tự pháp luật, bảo vệ quyền công dân và quyền tham chính của các tổ chức 
 35 
chính trị xã hội khác. Sự kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối với 
hai nhánh quyền lực nhà nước còn lại được ghi nhận ở nhiều quốc gia, trên 
một cơ sở lý luận sau "Cơ quan đại biểu cho dân nên chỉ nên làm ra luật, và 
xem xét người ta thực hiện luật như thế nào. Điều này thì có thể làm tốt và 
không ai có thể làm tốt hơn là cơ quan đại biểu của dân" [84, tr.111]. Sau khi 
tiến hành các hoạt động lập pháp, vai trò cơ bản của cơ quan lập pháp là xem 
xét các đạo luật đó có được thực thi hiệu quả hay không và liệu trên thực tế 
các đạo luật có định rõ và giải quyết được những vấn đề như dự định của các 
nhà soạn thảo hay không [20]. Kiểm soát quyền lực của cơ quan lập pháp đối 
với các cơ quan nhà nước khác được thực hiện dưới những hình thức sau: 
Thông qua hoạt động của cơ quan thanh tra quốc hội (nghị viện). 
Thanh tra quốc hội ban đầu có tên là thanh tra công lý, xuất hiện từ 
năm 1809. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, thiết chế thanh tra được chấp nhận 
ở một số quốc gia ở Bắc Âu. Thanh tra quốc hội có nhiệm vụ chủ yếu là điều 
tra sự bất bình và khiếu nại của công chúng về sự bất công, tham nhũng, xét 
xử oan sai của các cơ quan hành chính nhà nước ở cả trung ương và địa 
phương. Thanh tra quốc hội vừa có thể hành động trên sự phản ánh, khiếu nại 
của người dân hoặc dựa vào ý kiến riêng của mình mà tiến hành các cuộc điều 
tra tìm sự thật. Ở những nước như Đan Mạch, Na Uy, Thanh tra Quốc hội 
không có thẩm quyền khởi kiện hay truy tố, hoạt động của họ chỉ nhằm theo 
dõi chính quyền và không liên quan đến trách nhiệm pháp lý của cá nhân 
quan chức. Trong khi đó, thanh tra quốc hội ở các nước như Thuỵ Điển, Phần 
Lan có quyền đưa ra các hình thức truy cứu trách nhiệm pháp lý các bộ 
trường. Hiện nay có khoảng hơn 80 nước trên thế giới có thanh tra nghị viện 
và kiểm toán nghị viện. Đây là thiết chế có vai trò quan trọng giúp nghị viện 
giám sát hoạt động của chính phủ. Thanh tra Nghị viện có thể tiến hành thanh 
tra bất cứ nhân vật cao cấp nào trong bộ máy nhà nước khi có dấu hiệu vi 
phạm pháp luật. 
 36 
Chức năng giám sát tối cao toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước là 
một trong ba chức năng quan trọng của quốc hội nước ta. Tuy nhiên, từ trước 
đến nay, mặc dù có nhiều cố gắng nhưng quốc hội vẫn chưa làm tốt chức 
năng này do thiếu thiết chế quan trọng là thanh tra quốc hội. Thanh tra quốc 
hội là cơ quan của quốc hội có chức năng tiếp nhận và tổ chức điều tra, báo 
cáo cho quốc hội theo đơn thư khiếu nại và tố cáo của bất kỳ công dân nào về 
tham nhũng cũng như các hành vi vi phạm pháp luật khác của Chính phủ và 
các cơ quan công quyền. Thanh tra Quốc hội có thể đưa ra những ý kiến, kiến 
nghị nhưng không có quyền đưa ra những quyết định có tính bắt buộc thi 
hành. Tuy vậy, dựa trên uy thế của mình, những ý kiến, kiến nghị của Thanh 
tra Quốc hội sẽ được thực hiện trong thực tiễn. 
Giám sát tính hợp pháp, hợp hiến của văn bản quy phạm pháp luật 
được hiểu là hình thức giám sát đặc biệt của Quốc hội, thông qua đó, Quốc 
hội tiến hành các hoạt động xem xét, kiểm tra, phát hiện, bàn bạc, thảo luận, 
kiến nghị, đình chỉ hoặc huỷ bỏ những văn bản quy phạm pháp luật do Chính 
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân 
tối cao, Chủ tịch nước ban hành có dấu hiệu trái Hiến Pháp, luật, nghị quyết 
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. 
Theo quy định của nhiều nước như Canada, Pháp, Bắc Âu thì Quốc hội 
là cơ quan có thẩm quyền hệ thống hoá và hợp nhất các văn bản pháp luật. 
Quốc hội có quyền quy định cụ thể việc sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ các văn 
bản dưới luật có nội dung trái với những quy định trong các đạo luật do Quốc 
hội ban hành. Ở một số nước, đây không phải là chức năng đặc thù của Quốc 
hội mà giao cho toàn án tối cao. 
 Hình thức xét báo cáo của Quốc hội là tổng hợp các hoạt động do 
Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội tiến hành như đọc báo cáo bằng văn 
bản, nghe báo cáo trực tiếp của các nhân có thẩm quyền hoặc đại diện cơ quan 
chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội tại phiên họp toàn thể, thảo luận 
 37 
theo nhóm, tổ hoặc tại hội trường, tiến hành phân tích, đánh giá kết quả hoạt 
động của đối tượng chịu sự giám sát. Xem xét báo cáo là hoạt động giám sát 
do Quốc hội thực hiện thông qua việc nghe báo cáo, thảo luận, phân tích, 
đánh giá kết quả hoạt động của đối tượng bị giám sát. Xem xét báo cáo là một 
hình thức giám sát quan trọng được sử dụng ở hầu hết các quốc hội trên thế 
giới. Tuy nhiên, mức độ sử dụng hình thức giám sát này ở các nước khác 
nhau không giống nhau, tuỳ thuộc vào từng chính thể. Ở Việt Nam, Quốc hội 
thực hiện hình thức giám sát thông qua việc xem xét báo cáo công tác không 
chỉ của cơ quan thực thi quyền hành pháp (Chính phủ) mà áp dụng đối với 
báo cáo công tác của các cơ quan: Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, 
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát 
nhân dân tối cao, Chủ tịch nước, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện 
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thông qua việc xét báo cáo của các cơ 
quan nhà nước, Quốc hội đã nắm được những thông tin đầy đủ, chính xác, kịp 
thời và toàn diện về các mặt, hoạt động của các cơ quan nhà nước, cùng với 
thảo luận, phân tích báo cáo, Quốc hội có cơ sở để nhận định, đánh giá về tình 
hình thi hành Hiến pháp, giám sát việc thực hiện Hiến pháp, luật, nghị quyết 
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Thông 
qua việc xem xét báo cáo, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đưa ra được những 
kết luận yêu cầu Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân 
tối cao và các cơ quan hữu quan có biện pháp khắc phục những hạn chế, 
nhược điểm trong hoạt động của mình. 
Thông qua các Đoàn giám sát của Quốc hội. 
Ở Việt Nam, đây là hình thức giám sát hữu hiệu của Uỷ ban Thường vụ 
Quốc hội, Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc 
hội và đại biểu Quốc hội. Khi đoàn giám sát tiến hành hoạt động giám sát thì 
đoàn phải đưa ra các yêu cầu rõ ràng, cụ thể để các cơ quan, đơn vị, tổ chức bị 
giám sát cung cấp thông tin, tài liệu trung thực, có liên quan đến mục đích 
 38 
giám sát. Như vậy, thông qua việc sử dụng hình thức tổ chức các đoàn đi 
giám sát tại địa phương, đại biểu Quốc hội nắm được tình hình thi hành pháp 
luật của các cơ quan nhà nước ở địa phương, nắm được tâm tư, nguyện vọng, 
thái độ của nhân dân địa phương đối với hoạt động của cơ quan nhà nước ở 
địa phương để từ đó có kết luận khách quan, chính xác về sự việc mà đoàn 
giám sát đã thực hiện. Ở một số nước Bắc Âu, cơ quan Thanh tra của Quốc 
hội cũng có quyền thành lập các đoàn kiểm tra, xem xét tình hình thực tế, làm 
cơ sở cho việc xây dựng các thuyết trình, báo cáo, đưa ra các kiến nghị. 
Thông qua hoạt động chất vấn chính phủ và các thành viên chính phủ. 
Một trong những đặc điểm của chất vấn là hình thức này sẽ dẫn đến 
cuộc thảo luận chung ở Nghị viện. Ở các nước thuộc chính thể đại nghị hoặc 
hỗn hợp, hình thức chất vấn có thể dẫn đến việc đặt vấn đề ủng hộ hay phản 
đối hoạt động của chính phủ. Thậm chí có thể có việc đưa ra Nghị quyết bất 
tín nhiệm và dẫn đến sự từ chức của chính phủ hay từng thành viên chính phủ. 
"Bất kỳ sự chất vấn nào cũng có thể là lý do đưa ra nghị quyết, qua đó các 
thành viên nghị viện phản ánh quan điểm của mình (Phần 2, Điều 111, Hiến 
pháp Tây Ban Nha). 
Thông qua các cuộc điều tra, điều trần trước Quốc hội. 
Ví dụ ở Mỹ, Quốc hội có quyền điều tra. Nếu Quốc hội hay một uỷ ban 
của Quốc hội nhận thấy có vấn đề nào đó đã được Chính phủ thực hiện không 
đúng thì Quốc hội sẽ tiến hành điều tra. Quốc hội có thể điều tra bất cứ vấn đề 
nào nếu họ nghi ngờ. Những cuộc điều tra, điều trần được tiến hành nhằm thu 
thập thông tin về sự cần thiết đối với việc soạn thảo các văn bản luật mới, 
thẩm định tính hiệu lực của các văn bản đã được thông qua, tìm hiểu phẩm 
chất và kết quả hoạt động của các thành viên trong Chính phủ, là cơ sở cho 
việc buộc tội một thành viên nào đó. Hoạt động này có thể dẫn đến sự từ chức 
bất đắc dĩ của Nguyên thủ quốc gia như đã từng xảy ra vào năm 1974, khi 
hoạt động điều tra của Uỷ ban pháp luật Hạ viện Mỹ dẫn tới sự từ chức của 
 39 
Tổng thống Mỹ Nixon Các viện của Nghị viện đưa ra quy định về mục đích 
thành lập uỷ ban và đối tượng điều tra. Trong khuôn khổ đó, các uỷ ban có 
quyền hạn khá rộng lớn Họ có quyền triệu người làm chứng (thậm chí cả 
Tổng thống Mỹ), trong đó có sự có mặt của người làm chứng là bắt buộc. Uỷ 
ban có quyền yêu cầu trình những tài liệu cần thiết, kiểm tra những địa điểm 
cần thiết Sau khi hoàn tất công việc của mình, Uỷ ban sẽ trình báo cáo lên 
các viện của Nghị viện để cơ quan đó đưa ra quyết định thích hợp. Các báo 
cáo và kết luận của Uỷ ban điều tra không có ý nghĩa như những văn bản của 
các cơ quan toà án. 
Thông qua hình thức bỏ phiếu bất tín nhiệm Chính phủ. 
Ý nghĩa của hình thức giám sát này của Quốc hội đối với Chính phủ 
chính lả ở chỗ Chính phủ phải chịu trách nhiệm về những động thái của 
mình, đảm bảo rằng chúng sẽ không gây ra những hệ quả có hại nào cho 
người dân, còn khi những hệ quả như vậy xảy ra thì phải có biện pháp 
tương ứng. Hình thức này có hiệu quả gián tiếp hơn cả hệ quả trực tiếp, nó 
luôn treo lơ lửng, có tác dụng răn đe, nhắc nhở, buộc Chính phủ phải thận 
trọng, có trách nhiệm trong hoạt động của mình. Tác động tâm lý đó còn 
lớn hơn tác động trực tiếp của nó. Mục đích của cơ chế này không phải là 
đánh đổ Chính phủ mà là kiểm soát quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ. 
Ở Việt Nam, bỏ phiếu tín nhiệm được Quốc hội thực hiện đối với những 
người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn nhằm mục đích làm cơ 
sở cho việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách 
chức cá nhân đó. Ở nước ta, mục đích của cơ chế này là để quy trách nhiệm 
cá nhân. Nó nhằm đảm bảo rằng một chính sách, động thái nào đó của các 
thành viên Chính phủ phải được xem xét, cân nhắc trước khi đưa ra thực 
hiện để không xảy ra hậu quả tiêu cực nào làm tổn hại đến nền kinh tế và 
lợi ích của người dân. Còn nếu hậu quả như vậy xảy ra thì sẽ có cơ chế 
xem xét lại mức độ tín nhiệm. 
 40 
Ở nhiều nước, bất tín nhiệm là kết quả của việc bỏ phiếu bất tín nhiệm 
theo đề nghị của Quốc hội. Ở Đức còn quy định, bất tín nhiệm đối với Chính 
phủ chỉ được thông qua khi bầu Thủ tướng mới "Quốc hội có thể thể hiện sự 
bất tín nhiệm đối với Thủ tướng khi đã bầu ra được người kế nhiệm vị trí 
này và đề nghị Tổng thống Liên bang bãi nhiệm Thủ tướng. Thủ tướng phải 
tuân thủ đề nghị này và giao quyền cho người kế nhiệm" (Điều 67). Điều 
này sẽ tránh được tình trạng khủng hoảng Chính phủ kéo dài do không có 
Thủ tướng. Để đảm bảo tính ổn định của chính phủ, hiến pháp nhiều nước 
quy định chi tiết về trình tự thủ tục bỏ phiếu bất tín nhiệm và đòi hỏi phải 
xuất phát từ một tỷ lệ đáng kể đề nghị của các đại biểu (thông thường là ¼ 
tổng số đại biểu), cũng như thực hiện bỏ phiếu lấy kết quả theo đa số tại 
Quốc hội. Thí dụ Hiến pháp Séc (Điều 72) quy định phải được ít nhất 50 đại 
biểu đề nghị (tức là 25% đại biểu Quốc hội), Hiến pháp Ý (Điều 94), Hiến 
pháp của Cộng hoà Pháp (Điều 49), ở Tây Ban Nha khi có 10% đại biểu của 
Quốc hội hay hạ viện đề nghị. Ở Hy Lạp, đề nghị bỏ phiếu bất tín nhiệm 
được thông qua khi có ít nhất 1/6 đại biểu Quốc hội đề xuất và phải nêu ra 
được một cách rõ ràng lý do của sự bất tín nhiệm (Điều 84). Để tránh việc 
quốc hội lạm dụng quyền bỏ phiếu bất tín nhiệm, quá trình thực hiện được 
giới hạn về thời gian. Thí dụ, tại Bungari, khi Quốc hội đã ra nghị quyết 
không nhất trí về việc bỏ phiếu tín nhiệm Hội đồng bộ trưởng thì trong vòng 
6 tháng sau đó không được đề xuất bỏ phiếu bất tín nhiệm trên cơ sở cũng lý 
do đưa ra (Điều 89). Ở Ba Lan, việc tái đề xuất bỏ phiếu bất tín nhiệm không 
được đưa ra sớm hơn 3 tháng kể từ ngày đưa ra đề nghị trước đó (Điều 158). 
Cơ chế bỏ phiếu bất tín nhiệm tại quốc hội thường dành một khoảng thời 
gian từ khi đề nghị được đưa ra cho đến khi tiến hành bỏ phiếu, cho phép 
các bên tìm kiếm những thoả hiệp cần thiết. Thí dụ ở Tây Ban Nha, thời gian 
bỏ phiếu bất tín nhiệm không được tiến hành sớm hơn 5 ngày kể từ khi đề 
nghị được đưa ra. Ở Pháp, Bồ Đào Nha là 2 ngày. Quy định về khoảng thời 
gian giữa thời điểm đặt vấn đề và thời điểm bỏ phiếu bất tín nhiệm là để các 
 41 
đại biểu có thời gian suy nghĩ kỹ về vấn đề đặt ra, tránh việc bỏ phiếu theo 
những cảm nhận ban đầu. Như vậy, bỏ phiếu tín nhiệm là một hình thức 
pháp lý đặc biệt, có liên quan đến sinh mệnh chính trị của những người giữ 
chức vụ đặc biệt trong bộ máy nhà nước do quốc hội bầu hoặc phê chuẩn 
nên phải tuân thủ theo một quy định chặt chẽ. 
Thông qua hoạt động luận tội và giám sát tư pháp. 
Theo quy định của Hiến pháp một số nước, thì quốc hội có quyền luận 
tội các quan chức cao cấp nhất của nhà nước, từ bộ trưởng đến thủ tướng hoặc 
tổng thống. Thủ tục luận tội được xem như chức năng xét xử hoặc đàn hạch 
của quốc hội. Thủ tục này có xuất xứ từ Anh, sau đó là Quốc hội các nước 
khác như Mỹ, Pháp, Italia, Đan Mạch, Hy Lạp, Đức, Nhật... 
Có 3 hình thức luận tội phổ biến nhất trong thực tiễn hoạt động của 
nghị viện các nước. Hình thức thứ nhất, cả quá trình luận tội diễn ra trong 
khuôn khổ nghị viện, sau đó có thể diễn ra thủ tục tố tụng ở toà án. Hình thức 
thứ hai, nghị viện hoặc một viện của nghị viện chỉ có vai trò buộc tội, còn vụ 
việc về trách nhiệm pháp lý sẽ được giải quyết ở toà án do nghị viện lập ra từ 
những người của mình, trong trường hợp cần thiết, cơ quan toà án đó có thể 
hành động như một toà án bình thường và xem xét trách nhiệm hình sự của 
nhân vật bị luận tội. Hình thức thứ ba, nghị viện hoặc một viện của nghị viện 
cũng giới hạn trong việc buộc tội, còn vụ việc được giải quyết ở cơ quan xét 
xử hiến pháp, cơ quan này chỉ phán xét về trách nhiệm hiến pháp, truất quyền 
của nhân vật bị luận tội. Tiểu biểu cho hình thức thứ nhất là Mỹ, Anh; hình 
thức thứ hai là Pháp và hình thức thứ ba là Đức. Có sự khác nhau về đối 
tượng của hình thức luận tội ở các nước. Hiến pháp Mỹ quy định khả năng bị 
luận tội đối với Tổng thống, Phó tổng thống, các thẩm phán và nhà chức trách 
dân sự (công chức nhà nước cấp liên bang). Ở Đức, Ý, Nga, hình thức luận tội 
chỉ áp dụng cho Tổng thống, ở Nhật, chỉ Thẩm phán mới bị luận tội. Giữa các 
nước cũng có sự khác biệt trong xác định cơ sở cho sự luận tội. Ở Mỹ, cơ sở 
để khởi tố vụ việc là sự buộc tội phản quốc, nhận hối lộ hoặc những tội phạm 
 42 
trầm trọng khác, những hành vi của Tổng thống làm tổn hại đến uy tín của 
Nhà nước. Ở một số nước khác, cơ sở cho sự luận tội hẹp hơn là phản quốc, 
xâm phạm hiến pháp và luật. Ở Mỹ, Hạ viện có quyền luận tội các quan chức 
liên bang thông qua một tỷ lệ phiếu quá bán. Sau đó Thượng viện tổ chức một 
phiên toà để luận tội. Nếu 2/3 phiếu của Thượng viện đồng ý buộc tội, quan 
chức này sẽ bị bãi chức. Đây là phương thức mạnh nhất của quyền lực lập 
pháp tác động lên quyền lực hành pháp ở những nước này. 
Chức năng giám sát được thực hiện ngay trong cách thức tổ chức nghị viện 
Quốc hội hầu hết các nước được thiết kế thành hai viện có quyền lực 
gần như ngang bằng nhau. Thiết kế này được đưa ra với mục đích là tạo ra sự 
kiểm chế, giám sát lẫn nhau trong Quốc hội để đề phòng khả năng vội vàng, 
thiếu cần trọng khi thông qua một đạo luật. Sự tồn tại của thượng viện là để 
tránh sự vội vàng của hạ viện, khi hạ viện thông qua những quyết định luật 
theo sức ép của dân chúng. Vì các hạ nghị sĩ do dân chúng thực hiện quyền 
bầu cử của mình bầu ra, luôn gắn bó với quyền lợi của dân chúng, phải chiều 
lòng dân chúng, mỗi khi dân chúng phàn nàn. Chỉ hơi thấy dân chúng kêu ca 
một chút, hạ viện đã muốn có ngay một đạo luật đáp ứng ngay mong mỏi của 
dân chúng. Vì chỗ đứng của hạ nghị sĩ phụ thuộc vào lá phiếu của cử tri. 
Ngược lại, vì chức năng đại diện cho các chủ thể quốc gia, ở một số nước lại 
không do dân chúng bầu ra một cách trực tiếp, các thượng nghị sĩ sẽ có khả 
năng cho việc kìm chế sự bồng bột bằng lần họp biểu quyết thông qua dự án 
đã được hạ viện thông qua. Bởi vì khi có thượng viện, thì ít nhất công đoạn 
làm luật, hay thông qua các quyết định phải được tiến hành dài hơn, với 
những thủ tục rườm rà hơn, để ngăn chặn mọi sự vội vàng hấp tấp của hạ 
viện, quyết định chỉ trở thành có hiệu lực khi và cả khi cả hai cơ quan cùng 
đồng ý biểu quyết thông qua, trừ những trường hợp đặc biệt. 
Cơ chế hai viện với cách thức mỗi viện có thể kiềm chế viện kia cũng là 
một cách thức kiểm soát quyền lực ngay trong lòng cơ quan lập pháp. Thủ tục 
này làm cho việc làm luật hay thông qua các quyết định của Quốc hội phải được 
 43 
tiến hành thận trọng hơn, với các thủ tục chặt chẽ và phức tạp để ngăn chặn sự 
sai lầm, nóng vội của một viện khi họ đưa ra các quyết định chính sách. 
Ở một số nước, sự kiểm soát trong nội bộ nghị viện được thực hiện chủ 
yếu thông qua đảng đối lập. Đảng đối lập được thể chế hoá tạo thành cơ chế 
đối trọng, phản biện trong Nghị viện. Ví dụ ở Anh, hai đảng lớn nhất trong 
Nghị viện tạo thành phe của Chính phủ (đa số) và phe đối lập chính thức. Vị 
trí pháp lý phe đối lập chính thức thuộc về đảng có số ghế thứ hai trong nghị 
viện. Lãnh tụ đảng đó là lãnh tụ của phe đối lập. Đảng đối lập ở Nghị viện có 
những nguồn lực nhất định, Đảng này kiểm soát 1/3 thời gian ở Nghị viện và 
có thể chọn chủ đề tranh luận vào những ngày đối lập. Các đảng đối lập có đại 
diện trong Uỷ ban của Nghị viện theo tỷ lệ ghế của mình ở Hạ viện. Nhiệm vụ 
của đảng đối lập là phê phán chính sách chính phủ của đảng cầm quyền, 
nhưng đảng đối lập ở Nghị viện cũng phải thể hiện tính xây dựng và cư xử 
theo cách phù hợp nhất để chứng tỏ có khả năng cầm quyền trong tương lai. 
Đảng đối lập tại nghị viện tạo nên cơ chế phản biện, kiềm chế nhất định đối 
với đảng cầm quyền trong hệ thống chính trị ở hầu hết các nước đa đảng. Ở 
nghị viện Anh, có sự tuân thủ gắt gao của các thành viên thuộc nhóm đảng 
đối với kỷ luật đảng. Kỷ luật đảng trong Nghị viện theo mô hình của Anh có 
ảnh hưởng rất lớn đến việc biểu quyết của nghị sĩ. 
Kiểm soát quyền lực bên trong dù có nỗ lực đến bao nhiêu thì tính 
khách quan và hiệu quả của nó vẫn bị hạn chế không nhỏ vì đây là sự kiểm 
soát nội bộ giữa các chủ thể quyền lực với nhau và có chung những lợi ích 
nhất định. 
2.1.3.3. Kiểm soát quyền lực thông qua hoạt động của các đảng 
chính trị và bầu cử 
Kiểm soát quyền lực nhà nước có thể thông qua hoạt động của các đảng 
chính trị. Đảng chính trị được xem là tổ chức của những người có cùng lợi 
ích, cùng sự quan tâm, có cương lĩnh hoạt động riêng, có kỷ luật và hoạt động 
 44 
công khai, được pháp luật thừa nhận và tồn tại với mục đích nắm quyền lực 
nhà nước. Đảng đối lập có thể kiểm soát đảng cầm quyền thông qua việc kiểm 
tra, giám sát hoạt động của các cá nhân đảng viên giữ các chức vụ quan trọng 
trong bộ máy nhà nước hoặc kiểm tra các tổ chức đảng thành lập trong các cơ 
quan nhà nước có thể thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước. Ở những 
nước có chế độ đa đảng, những đảng chính trị đối lập có thể theo dõi chỉ trích, 
phê bình, vạch rõ những khiếm khuyết của đảng cầm quyền, của các cá nhân 
đảng viên nhằm giữ quyền lực nhà nước hoặc các tổ chức đảng trong tổ chức 
nhà nước. Vai trò của đảng đối lập làm giám sát và phản biện hoạt động của 
đảng cầm quyền, làm cho đảng cầm quyền tránh được tình trạng tuỳ tiện, độc 
đoán, chuyên quyền, chỉ làm lợi cho đảng mình mà không quan tâm đến lợi 
ích chung. Chính sự tồn tại chính thức của đảng đối lập luôn tạo ra áp lực 
buộc đảng cẩm quyền phải điều chỉnh, kiềm chế hoạt động của mình theo 
đúng quỹ đạo của một nhà nước dân chủ. Đó cũng là một cơ chế để kiểm soát 
quyền lực nhà nước. 
Có thể thấy, việc giám sát của các đảng đối lập đối với đảng cầm quyền 
đã tạo ra một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả ở nhiều nước. Tuy nhiên, 
cơ chế này chỉ có tác dụng tích cực khi trình độ dân chủ phát triển ở mức độ 
nhất định, các đảng phái hoạt động tôn trọng Hiến pháp và sự tồn tại của các 
đảng phù hợp với bối cảnh văn hoá, xã hội ở mỗi nước. Nếu không đảm bảo 
được những yếu tố này thì sự tồn tại của đảng chính trị có thể gây nên những 
rối loạn, khủng hoảng chính trị. 
Bầu cử là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân 
dân. Aldous Huxley từng nhận nét "Mọi nền dân chủ đều dựa trên định đề 
rằng quyền lực là thứ cực kỳ nguy hiểm, và vì thế, người ta tìm mọi cách ngăn 
không cho một cá nhân hay một nhóm nhỏ nắm giữ quá nhiều quyền lực trong 
thời gian quá dài". Thông qua bầu cử, nhân dân có thể loại bỏ những đại diện 
không xứng đáng với sự uỷ nhiệm của mình ra khỏi nhà nước. Bầu cử là một 
 45 
phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước vì nó buộc các quan chức được 
người dân lựa chọn có trách nhiệm với công việc của mình trong thời gian tại 
nhiệm. Do có thể bị ảnh hưởng bởi những suy tính về khả năng tái cử trong 
các cuộc bầu cử sắp tới, nên họ thường phải điều chỉnh tư cách của mình cho 
thích hợp. Họ sẽ cảm thấy có trách nhiệm hơn trong việc đưa ra các quyết 
định chính sách dưới danh nghĩa nhân dân. Và nếu như họ không chứng tỏ 
được họ là người đại diện chính đáng cho lợi ích của cử tri thì vị trí của họ sẽ 
có người khác, được người dân tín nhiệm hơn thay thế. Thông qua bầu cử, ở 
trong một chừng mực nhất định, cử tri có thể duy trì được sự kiểm soát của 
mình đối với chính phủ và chống lại sự lộng hành c... thúc việc trả 
lời chất vấn của các bộ trưởng, trưởng ngành; cung cấp thông tin, tham mưu 
cho đại biểu Quốc hội khi thực hiện quyền chất vấn; cập nhật và đánh giá về 
chất lượng nội dung trả lời chất vấn; đề xuất các giải pháp cải tiến hoạt động 
chất vấnMuốn vậy, phải nâng cao chất lượng cán bộ, công chức làm công 
tác tham mưu, phục vụ từ khâu tuyển dụng đến đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều 
kiện làm việc... Đặc biệt, nên bố trí những người đã từng làm đại biểu Quốc 
hội, những người đã từng công tác trong cơ quan nhà nước vào bộ phận này. 
Trước hết đó chính là văn phòng Quốc hội, cần thu hút các chuyên gia các 
nhà hoạt động chính trị có kiến thức sâu về công tác tại văn phòng đồng thời 
xây dựng đội ngũ cộng tác viên là các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực cho văn 
phòng Quốc hội để làm công tác tham mưu, phục vụ cho hoạt động chất vấn. 
Đồng thời, cần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm tại 
văn phòng đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương để đảm bảo văn phòng đoàn 
ở địa phương cần làm tốt công tác tham mưu, tổng hợp, nghiên cứu đề xuất 
với đại biểu những vấn đề bức xúc cần đưa thành chất vấn. Văn phòng đoàn 
cần giúp đại biểu Quốc hội lựa chọn vấn đề để chất vấn, ưu tiên cho những 
vấn đề quốc kế dân sinh, những vấn đề mà chủ trương chính sách của Đảng, 
Nhà nước đang coi là trọng tâm trong từng thời điểm: xoá đói giảm nghèo, 
kích cầu, chống tham nhũng, cải cách hành chính 
4.2.4. Đổi mới công tác cung cấp thông tin cho đại biểu Quốc hội để 
phục vụ cho hoạt động chất vấn 
Hiện nay, các đại biểu hiện hoạt động đơn thương độc mã, không có bộ 
máy giúp việc. Nguồn thông tin rất ít, chủ yếu qua báo chí và dân chúng. 
Song nhiều khi thông tin đó cũng có thể chưa chính xác. Cơ quan giúp việc 
cho đại biểu là văn phòng Đoàn Đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân mặc 
dù Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có chức năng giúp việc cho đại biểu 
 149 
nhưng chủ yếu là với tư cách giúp các công việc mà Đoàn phân công cho đại 
biểu, chứ không đảm nhiệm các công việc như văn phòng giúp việc riêng cho 
từng cá nhân đại biểu. Khi các đại biểu chưa thể hoạt động chuyên nghiệp 
như hiện nay thì vai trò của hệ thống bộ máy hỗ trợ (chuyên gia, cán bộ giúp 
việc, thông tin) là cực kỳ quan trọng. Nếu được cung cấp thông tin đã được 
cung cấp chắc chắn các đại biểu không còn ngậm ngùi nhìn các bộ trưởng 
múa con số hay phân vân khi bấm nút biểu quyết thông qua. Tuy nhiên, có một 
thực tế hiện nay là đại biểu Quốc hội đang thừa thông tin nhưng cũng đang 
thiếu thông tin - thông tin đã được xử lý. Các đại biểu khi tham gia vào hoạt 
động chất vấn cần thiết phải có thông tin liên quan đến những vấn đề mà đại 
biểu cần chất vấn, những thông tin đó phải kịp thời, mới, chính xác. Chất vấn 
thể hiện bản lĩnh, trách nhiệm và năng lực tổng hợp của đại biểu Quốc hội. 
Năng lực chất vấn của đại biểu Quốc hội phụ thuộc lớn vào các thông tin mà 
đại biểu thu nhận. Đại biểu Quốc hội phải được cung cấp thông tin một cách 
đầy đủ, toàn diện và kịp thời về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất vấn 
để chất vấn phải thật đắt, làm rõ được trách nhiệm của đối tượng bị chất vấn, 
tạo cơ sở buộc họ nhận thức ra và sửa chữa những khuyết điểm yếu kém. 
Chế độ đảm bảo cung cấp thông tin, tài liệu, điện thoại cho đại biểu 
Quốc hội hiện nay được thực hiện như sau: 
Điểu 37: Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu 
Quốc hội quy định "đại biểu Quốc hội được cung cấp các tài liệu của kỳ họp, 
Quốc hội, Công báo của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Báo 
nhân dân, báo địa phương, báo người đại biểu nhân dân, tạp chí Nghiên cứu 
lập pháp và các tài liệu, văn bản liên quan đến hoạt động Quốc hội, dịch vụ 
thông tin, nghiên cứu, thư viện và internet khi có yêu cầu". 
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực 
thuộc Trung ương nơi đại biểu Quốc hội được bầu hoặc nơi đại biểu Quốc hội 
chuyển đến sinh hoạt cung cấp các Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các 
văn bản quy phạm pháp luật của Uỷ ban nhân dân và các báo cáo về tình hình 
kinh tế - xã hội ở địa phương cho đại biểu Quốc hội. 
 150 
Về việc cung cấp dịch vụ internet, Nghị quyết số 773/2009/ NQ-
UBTVQH12 ngày 31-3-2009 đã quy định đại biểu Quốc hội được khai thác 
internet theo mức khoán 700.000 đồng/người/tháng. 
Nghị quyết này cũng quy định hỗ trợ kinh phí cho một số hoạt động 
của đại biểu Quốc hội bao gồm hỗ trợ tiền điện thoại theo mức khoán từng kỳ 
họp; hỗ trợ để đại biểu Quốc hội tự nghiên cứu hoặc thuê chuyên gia 
Tuy nhiên, với hoạt động và chế độ cung cấp thông tin như trên thì đại 
biểu Quốc hội chưa có đủ thông tin để thực hiện tốt hoạt động chất vấn. 
Chế độ cung cấp thông tin cho đại biểu phải đảm vào các tiêu chí cập nhật, 
phân tích sâu sắc, khách quan, thông tin rộng, chính thống và phi chính thống 
Vì vậy để đảm bảo đại biểu Quốc hội có đủ thông tin cần thiết để thực 
hiện hoạt động chất vấn thì cần phải chú ý đến một số giải pháp sau: 
+ Nên quy định mỗi đại biểu phải có thư ký và bộ máy giúp việc để rà 
soát thông tin. Luật tiếp cận thông tin cũng phải đi đến các quy định về cung 
cấp thông tin cho đại biểu. Đại biểu phải có quyền truy cập bất cứ mạng thông 
tin nào họ muốn. Chỉ như vậy họ mới đại diện được cho ý chí và nguyện vọng 
của nhân dân, có đầy đủ thông tin để chất vấn. Thông tin như thế mới trở 
thành quyền lực. 
Quốc hội cần thành lập một đơn vị chuyên phụ trách việc thu thập và 
cung cấp những thông tin cần thiết liên quan đến các nội dung chất vấn, hoặc 
thu thập những thông tin được yêu cầu trực tiếp từ phía đại biểu. Đơn vị này 
có trách nhiệm cập nhật, cung cấp và chịu trách nhiệm với những thông tin 
đại biểu yêu cầu và thông tin đơn vị mình cung cấp. Quốc hội phải có một hệ 
thống thông tin độc lập và thường xuyên mới làm cơ sở để thấy được công 
việc và hoạt động của cơ quan hành pháp bởi các bộ ngành có thể cung cấp 
nhiều thông tin cho đại biểu nhưng liệu thông tin ấy có ích cho đại biểu, vì 
vậy nó cần được kiểm tra, chắt lọc. Ngoài ra, cũng cần cải thiện kinh phí và 
cơ chế thuận lợi cho đại biểu Quốc hội thực hiện công việc thuê chuyên gia tư 
vấn, hỗ trợ, cung cấp thông tin phục vụ cho hoạt động chất vấn của mình. 
 151 
Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin cho đại biểu 
Quốc hội của tổ chức, đơn vị, cơ quan hữu quan; xây dựng ngân hàng dữ liệu 
thông tin của quốc hội, xây dựng kho tra cứu thông tin tư liệu tại văn phòng 
hoặc tại "Thư viện Quốc hội" phục vụ đại biểu Quốc hội từ các địa phương và 
kết nối với Văn phòng Quốc hội; Tăng cường chất lượng nguồn nhân lực xử 
lý thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội; đầu tư kinh phí cho hoạt động thông 
tin và cung cấp thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội 
4.2.5. Kết hợp chặt chẽ giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám 
sát của tổ chức Đảng, giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc và 
giám sát của nhân dân trong hoạt động giám sát, chất vấn của Quốc hội 
- Kết hợp với kiểm tra, giám sát của các tổ chức đảng. 
Chất vấn là một hình thức giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước của 
Quốc hội đối với bộ máy nhà nước. Chính vì vậy, đại biểu Quốc hội cần nắm 
rõ những vấn đề tồn tại trong cách thức tổ chức, quản lý của bộ máy nhà 
nước, của người đứng đầu các ngành để truy trách nhiệm và yêu cầu đưa ra 
các giải pháp khắc phục. Trong khi đó, trong từng bộ phận của bộ máy nhà 
nước đều có các tổ chức đảng. Việc đại biểu nắm rõ các kết quả kiểm tra, 
giám sát của các tổ chức đảng sẽ giúp họ có thêm một kênh thông tin hữu ích 
cho hoạt động chất vấn của mình. Vì vậy, cần tạo cơ chế thuận lợi để đại biểu 
Quốc hội có thể tiếp cận với kết quả kiểm tra, giám sát của các tổ chức Đảng. 
Muốn vậy, cần xây dựng quy chế phối hợp hoạt động giữa Quốc hội với uỷ 
ban kiểm tra các cấp của Đảng, xác lập quyền của đại biểu Quốc hội trong 
việc tiếp cận với các kết quả kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra Đảng. 
- Kết hợp với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc. 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có chức năng giám sát và phản biện xã hội, 
giám sát hoạt động của các cá nhân, của các tổ chức bộ máy trong cơ quan 
nhà nước. Đồng thời, Mặt trận tổ quốc Việt Nam còn có chức năng phản biện 
xã hội đối với mọi đường lối, chính sách, chương trình, kế hoạch dự án của 
 152 
nhà nước, làm rõ những điểm tích cực và những bất cập cần phải khắc phục, 
điều chỉnh trong các chính sách đó. Chính vì vậy, những kết quả giám sát, 
phản biện xã hội của mặt trận rất hữu ích cho hoạt động chất vấn của đại biểu 
Quốc hội. Vì chất vấn thực chất là phát hiện những điểm bất cập trong hoạt 
động, chính sách của các ngành để chỉ rõ và yêu cầu những tổng tư lệnh 
ngành tìm giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, trong thời gian qua, sự phối hợp 
giữa đại biểu Quốc hội và Mặt trận tổ quốc chỉ trong thời gian bầu cử đại biểu 
Quốc hội cũng như khi đại biểu Quốc hội thực hiện tiếp xúc cử tri. Chính vì 
vậy, cần tăng cường cơ chế phối hợp giữa Mặt trận và các đại biểu Quốc hội 
như xây dựng quy chế chung để đại biểu Quốc hội cũng có quyền tiếp cận với 
các kết quả giám sát, với hoạt động phản biện xã hội của mặt trận. 
- Kết hợp với giám sát của nhân dân. 
Chất vấn là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước của Quốc hội 
(kiểm soát bên trong nội bộ nhà nước) nhưng nếu có sự kết hợp với kiểm soát 
quyền lực ngoài nhà nước (đặc biệt là giám sát của nhân dân) thì sẽ tăng hiệu 
quả của hoạt động chất vấn. Kết hợp chất vấn với sự giám sát của nhân dân sẽ 
tăng áp lực về mặt công luận buộc những người đứng đầu các ngành phải có 
những thay đổi thích hợp. Việc truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn của 
đại biểu Quốc hội đã góp phần làm cho các phiên chất vấn diễn ra sôi nổi, 
chất lượng hơn, nâng cao trách nhiệm của cả người chất vấn và người trả lời 
chất vấn là một minh chứng cho sự cần thiết phải kết hợp chất vấn với giám 
sát của nhân dân. Sự kết hợp chất vấn với giám sát của nhân dân có thể diễn 
ra trong tất cả các giai đoạn chuẩn bị chất vấn, chất vấn và hậu chất vấn. 
Những khiếu nại, tố cáo của nhân dân về hoạt động của cán bộ, công chức, về 
các chính sách ảnh hưởng đến quyền lợi của nhân dân là một kênh thông 
tin cần thiết để giúp đại biểu Quốc hội hình thành nên các vấn đề chất vấn. 
Trong quá trình chất vấn, nhân dân theo dõi và có những phản hồi về việc trả 
lời chất vấn của các bộ trưởng, các thành viên Chính phủ sẽ tạo áp lực buộc 
 153 
họ phải trả lời có chất lượng và trách nhiệm hơn ở những lần sau. Đặc biệt 
nhân dân còn tham gia giám sát việc thực hiện lời hứa của những người trả lời 
chất vấn, sẽ giúp đại biểu Quốc hội có thêm thông tin cần thiết để thực hiện 
hoạt động kiểm tra, theo dõi sau chất vấn. Để tăng cường việc kết hợp giữa 
chất vấn và giám sát của nhân dân có thể chú ý các hình thức sau đây 
Mở rộng các diễn đàn để nhân dân phản ánh những bức xúc của mình 
đối với các cơ quan nhà nước, như với các vụ việc đã được xử lý, báo chí có 
quyền tiếp cận để phản ánh, đại biểu Quốc hội có quyền tiếp cận để nắm bắt. 
Sau mỗi phiên chất vấn của Quốc hội, báo chí cũng cần có những 
chuyên trang phản ánh những ý kiến của cử tri đánh giá về hoạt động chất 
vấn, cả những ưu và nhược điểm của người chất vấn và trả lời chất vấn. 
Những lời hứa của bộ trưởng, thành viên Chính phủ về vấn đề cần phải 
khắc phục, thời gian khắc phục cần đăng tải công khai trên các trang báo chí 
để nhân dân tiện theo dõi, giám sát. Đồng thời, khi hết thời gian quy định, nếu 
vấn đề chưa có biến chuyển, nhân dân và báo chí có quyền được phản ánh, 
cung cấp các chứng cứ giúp đại biểu Quốc hội có thêm thông tin phục vụ cho 
hoạt động chất vấn. 
Tóm lại, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước 
của hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội cần một hệ thống các giải pháp 
đồng bộ trong đó vấn đề cốt yếu là năng lực, trách nhiệm của đại biểu Quốc 
hội và các môi trường, điều kiện thuận lợi nhất cho hoạt động chất vấn của 
đại biểu Quốc hội. Môi trường, điều kiện đó chính là hệ thống pháp luật về 
chất vấn, và công tác tham mưu, hỗ trợ, là việc cung cấp thông tin cho đại 
biểu Quốc hội, là sự kết hợp giữa chất vấn và các hình thức giám sát, kiểm 
soát quyền lực ngoài nhà nước Chính vì vậy, chúng ta cần phải chú ý tới tất 
cả các giải pháp trên mới có thể nâng cao hiệu quả thực sự của phương thức 
kiểm soát quyền lực nhà nước này. 
 154 
Tiểu kết chƣơng 4 
Trong chương này, tác giả đề xuất 3 phương hướng cơ bản để nâng cao 
hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại 
biểu Quốc hội bao gồm nâng cao nhận thức của đại biểu Quốc hội về vai trò, 
tác dụng của hoạt động chất vấn trong kiểm soát quyền lực nhà nước; Kiểm 
soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội 
cần có sự kết hợp với các hình thức giám sát khác của Quốc hội; Nâng cao 
hiệu lực, hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất 
vấn của đại biểu Quốc hội cả về mặt pháp lý cũng như năng lực thực tiễn. 
Ở chương này, tác giả cũng đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực 
hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại 
biểu Quốc hội bao gồm nâng cao năng lực chất vấn cho đại biểu Quốc hội; 
hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội, 
nâng cao chất lượng công tác tham mưu, hỗ trợ cho hoạt động chất vấn, chất 
lượng công tác cung cấp thông tin cho hoạt động chất vấn, tăng cường kết hợp 
hoạt động chất vấn với các hình thức giám sát khác... 
 155 
KẾT LUẬN 
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một yếu tố không thể thiếu trong xây 
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Việt Nam hiện nay 
đang nỗ lực hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, trong đó có 
kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu 
Quốc hội - một phương thức kiểm soát hữu hiệu, sinh động, trực tiếp được cử 
tri cả nước quan tâm. Chính vì vậy, nghiên cứu việc kiểm soát quyền lực nhà 
nước thông qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội là hết sức quan 
trọng và có ý nghĩa hiện nay. 
Luận án đã trình bày một cách hệ thống và cơ bản những vấn đề lý 
luận liên quan đến kiểm soát quyền lực nhà nước, đến hoạt động chất vấn 
của đại biểu Quốc hội. Đặt trong tổng thể cơ chế kiểm soát quyền lực nhà 
nước ở Việt Nam, chất vấn là một phương thức kiểm soát quyền lực của 
lập pháp đối với tư pháp và hành pháp, thuộc cơ chế kiểm soát quyền lực 
nhà nước từ bên trong. 
Luận án đã phân tích làm rõ tính chất kiểm soát quyền lực nhà nước 
thông qua hoạt động chất vấn được thể hiện như thế nào, từ đó đánh giá thực 
trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn của đại 
biểu Quốc hội ở nhiều góc độ khác nhau từ nội dung của hoạt động chất vấn 
đền năng lực thực hiện hoạt động chất vấn, hiệu lực hiệu quả của hoạt động 
chất vấn... Việc đánh giá thực trạng kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua 
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng rất toàn diện, cả những thành 
tựu và hạn chế, chỉ rõ những nguyên nhân dẫn tới hoạt động chất vấn của đại 
biểu Quốc hội còn có những hạn chế, bất cập. 
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, luận án đề xuất các phương hướng và 
giải pháp nâng cao hiệu lực hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua 
hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội. Những phương hướng và giải pháp 
 156 
này có tính đồng bộ, hệ thống bao quát tất cả những mặt, những yếu tố tác 
động đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động chất vấn như hệ thống pháp luật, 
năng lực của đại biểu Quốc hội, công tác tham mưu, hỗ trợ, cung cấp thông 
tin...Việc thực hiện tốt các giải pháp này sẽ thực sự tạo ra sức mạnh kiểm soát 
quyền lực nhà nước thông qua hoạt động chất vấn, góp phần làm cho bộ máy 
nhà nước hoạt động đúng thẩm quyền, chức năng, bảo vệ lợi ích của nhân 
dân, đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý của bộ máy nhà nước. 
 157 
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 
1. Vũ Thị Hồng Trang (2015), ''Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hoạt động 
chất vấn của đại biểu Quốc hội ở Việt Nam hiện nay'', Tạp chí Giáo dục lý 
luận, Học viện Chính trị khu vực I, (236), tr.49-51. 
2. Vũ Thị Hồng Trang (2016), ''Nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực nhà 
nước thông qua chất vấn của Quốc hội'', Tạp chí Giáo dục lý luận, Học 
viện Chính trị khu vực I, (247), tr.70-72. 
3. Vũ Thị Hồng Trang (2018), "Năng lực chất vấn của đại biểu Quốc hội ở 
Việt Nam hiện nay", Tạp chí Mặt trận, (182), tr.33-35. 
 158 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
* Tài liệu tiếng Việt 
1. C.L. Montesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
2. Lê Văn Cảm (2011), ''Cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước (và cả quyền 
lập pháp) trong nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề lý luận cơ bản'', 
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (3), tr.5-7. 
3. Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp (2011), ''Thực trạng tổ chức thực hiện 
và kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam'', Tạp chí Nhà nước và 
Pháp luật, (5), tr.11-13. 
4. Nguyễn Thị Kim Chung, Nguyễn Thị Hồng (2012), ''Sửa đổi Hiến pháp 
về tổ chức và hoạt động của Quốc hội - Nhìn từ hoạt động chất vấn của 
đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (15), tr.5-8. 
5. David Held (2013), Các mô hình quản lý nhà nước hiện đại, Nxb Tri 
thức, Hà Nội. 
6. Nguyễn Đăng Dung (2007), Quốc hội Việt Nam trong Nhà nước pháp 
quyền, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 
7. Nguyễn Đăng Dung (2008), ''Chức năng giám sát của Quốc hội'', Tạp chí 
Nhà nước và Pháp luật, (3), tr.6-9. 
8. Nguyễn Sĩ Dũng (2004), ''Giám sát Quốc hội, những khác biệt về khái 
niệm'',  [truy cập ngày 05/07/2016]. 
9. Nguyễn Sĩ Dũng (2005), ''Đổi mới hoạt động lập pháp'', Tạp chí Nghiên 
cứu Lập pháp, (11), tr.7-9. 
10. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên, 2004), Quyền giám sát của Quốc hội - Nội 
dung và thực tiễn từ góc nhìn tham chiếu, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
11. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên, 2006), Thường thức về hoạt động giám sát 
của Quốc hội, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
12. Đại học quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2006), Giáo trình Luật Hiến pháp 
Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
 159 
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần 
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
14. Trần Ngọc Đường (2011), Một số vấn đề về phân công, phối hợp và 
kiểm soát quyền lực trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
15. Trần Ngọc Đường (2011), ''Tiếp tục nâng cao hiệu lực và hiệu quả giám 
sát tối cao của Quốc hội trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa'', Tạp chí Tuyên giáo (5), tr.22-23. 
16. Nguyễn Thị Vân Giang (2010), ''Kiểm soát quyền lực nhà nước và giám 
sát của Quốc hội một số nước trên thế giới'', Tạp chí Lý luận chính trị và 
Truyền thông, (10), tr.13-14. 
17. Nguyễn Văn Giàu (2015), ''Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội 
trong lĩnh vực quản lý kinh tế, phát triển kinh tế - xã hội'', Tạp chí Cộng 
sản (11), tr.31-32. 
18. Trương Thị Hồng Hà (2009), Hoàn thiện cơ chế pháp lý đảm bảo chức 
năng giám sát của Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
19. Trương Thị Hồng Hà (2009), ''Thực hiện pháp luật về giám sát của Quốc 
hội: Thực trạng và vấn đề đặt ra'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (2 +3), 
tr.34-36. 
20. Đặng Phương Hải (2015), ''Giám sát và hệ quả pháp lý từ hoạt động 
giám sát tối cao của Quốc hội'', Tạp chí Dân chủ và pháp luật (6), tr.7-9. 
21. Nguyễn Thị Hạnh (2014), ''Một số vấn đề về hoạt động giám sát của 
Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (23), tr.16-18. 
22. Vũ Thị Mỹ Hằng (2016), ''Một số giải pháp tăng cường hiệu quả giám 
sát của Quốc hội đối với Chính phủ'', Tạp chí Quản lý nhà nước, (2), 
tr.8-10. 
23. Vũ Thị Mỹ Hằng (2016), ''Một số yếu tố cơ bản tác động đến chất lượng, 
hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội'', Tạp chí Kinh tế - châu Á 
Thái Bình Dương, (1), tr.11-13. 
 160 
24. Hà Thị Mai Hiên (2003), Cơ chế kiểm tra, giám sát trong nhà nước pháp 
quyền, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
25. Phùng Quốc Hiển (2011), ''Tăng cường hiệu quả hoạt động giám sát tối 
cao là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Quốc hội trong tình hình mới'', 
Tạp chí Cộng sản, (7), tr.1-4. 
26. Nguyễn Thuý Hoa (2015), ''Quốc hội Việt Nam và các yếu tố cấu thành 
tính đại diện'', Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (5), tr.8-11. 
27. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2002), 
Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 
28. Nguyễn Thị Hồi (2005), Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với 
việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
29. Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất, phân công và phối hợp quyền lực 
nhà nước ở Việt Nam, Nxb Tư Pháp. 
30. Phạm Văn Hùng (2007), ''Năng lực thực hiện nhiệm vụ đại biểu Quốc 
hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (4), tr.3-5. 
31. Jean Jacqué Roussau (2010), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính 
trị, Hà Nội. 
32. John Locke (2007), Khảo luận thứ hai về chính quyền - chính quyền dân 
sự, Lê Tuấn Huy dịch và giới thiệu, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
33. John Mill (2005), Luận về tự do, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
34. Hồng Khánh (2016), "Nhiều bộ trưởng không thừa nhận đã hứa trước 
Quốc hội, Dân trí ngày 10-10-2006, [Truy cập ngày 10/10/2016]. 
35. Nguyễn Mạnh Kháng (2005), ''Cơ chế kiểm soát quyền lực và vấn đề tổ 
chức bộ máy nhà nước'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (3), tr.22-23. 
36. Vũ Đức Khiển (2010), ''Hoạt động cung cấp thông tin cho các đại biểu 
Quốc hội: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả'', Tạp chí Pháp lý, 
(3), tr.6-8. 
37. Tạ Văn Khôi (2016), ''Một số vấn đề lý luận về địa vị pháp lý của đại biểu 
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong hoạt động giám sát của Quốc hội 
Việt Nam'', Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (5), tr.9-10. 
 161 
38. Phạm Ngọc Kỳ (1996), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
39. Phạm Ngọc Kỳ (2000), Về quyền giám sát tối cao của Quốc hội, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
40. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Matxcơva. 
41. Phạm Thế Lực (2011), ''Vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp chí 
Nhà nước và Pháp luật, (1), tr.12-13. 
42. Phan Trung Lý (Chủ nhiệm đề tài) (1998), Đại biểu Quốc hội: Địa vị 
pháp lý, các mối quan hệ và hiệu quả hoạt động, Đề tài nghiên cứu khoa 
học cấp Bộ, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội. 
43. Phan Trung Lý (2010), Quốc hội Việt Nam, tổ chức và hoạt động và đổi 
mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
44. Phan Trung Lý (Chủ biên) (2011), Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu 
Quốc hội, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
45. C.Mác và Ph.Ăng-ghen (1983), Tuyển tập, tập 4, Nxb Sự thật Hà Nội. 
46. Ngô Đức Mạnh (2015), ''Đề xuất, kiến nghị hoàn thiện quy trình, thủ tục 
chất vấn tại kỳ họp của Quốc hội, phiên họp của Uỷ ban Thường vụ 
Quốc hội'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (3+ 4), tr.6-9. 
47. Đinh Văn Mậu (2003), Quyền lực nhà nước và quyền công dân, Nxb Tư 
pháp, Hà Nội. 
48. Motesquieu (1996), Tinh thần pháp luật, Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội. 
49. Ngân hàng Nhà nước (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, 
Hà Nội. 
50. Phạm Văn Ngọc (2016), ''Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại 
biểu Hội đồng nhân dân tạo sức mạnh hoạt động của cơ quan dân cử'', 
Tạp chí Tổ chức nhà nước, (4), tr.7-9. 
51. Nghị viện của các nước ngoài, Nxb Chính trị, Matxcơva, 1968 (tiếng Nga). 
 162 
52. Nghị viện của các nước phát triển, Nxb Quan hệ quốc tế, Matxcơva, 
1990 (Nga). 
53. Phạm Duy Nghĩa (2010), ''Hoạt động chất vấn từ góc nhìn cử tri'', Tạp 
chí Nghiên cứu Lập pháp, (15), tr.12-14. 
54. Đặng Vũ Phúc (2014), ''Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội'', 
Tạp chí Tổ chức Nhà nước, (11), tr.22-23. 
55. Quốc hội (2001), Luật Tổ chức Quốc hội số 30/2001/QH10, Hà Nội. 
56. Quốc hội (2002), Nghị quyết số 08/2002/NQ-QH11 ngày 16/12/2002 ban 
hành Quy chế hoạt động của đại biểu Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc 
hội, Hà Nội. 
57. Quốc hội (2004), Nghị quyết số 26/2004/NQ-QH11 ngày 15/06/2004 ban 
hành Quy chế hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội. 
58. Quốc hội (2014), Luật Tổ chức Quốc hội số 57/2014/QH13, Hà Nội. 
59. Quốc hội (2015), Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng 
nhân dân số 87/2015/QH13 ngày 20/11/2015, Hà Nội. 
60. Nguyễn Đình Quyền (2007), ''Về vai trò và các đặc điểm của đại biểu 
Quốc hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (8), tr.8-10. 
61. Nguyễn Đình Quyền (2008), ''Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về 
đại biểu Quốc hội ở Việt Nam'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (15), 
tr.34-36. 
62. Richard C.Schroeder (1999), Khái quát về chính quyền Mỹ, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
63. Rút xô (2004), Bàn về khế ước xã hội, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
64. Phan Xuân Sơn (2012), Hệ thống chính trị và những vấn đề về đổi mới 
hệ thống chính trị ở Việt Nam hiện nay, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 
65. Trần Văn Tám (2010), ''Công tác thông tin phục vụ đại biểu Quốc hội: 
Những yêu cầu mới'', Tạp chí Pháp lý (3), tr.19-21. 
66. Chu Hồng Thanh (2003), Vấn đề giám sát thực hiện quyền lực nhà nước 
ở nước ta hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
 163 
67. Bùi Ngọc Thanh (2015), ''Hoạt động chất vấn của Quốc hội theo tinh 
thần Hiến pháp năm 2013'', Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp (18), tr.25-27. 
68. Trịnh Đức Thảo (2006), Kiện toàn bộ máy Quốc hội, Quốc hội Việt Nam 
những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Tư pháp, Hà Nội. 
69. Tống Đức Thảo (2011), ''Mối quan hệ giữa Nghị viện và Chính phủ 
trong chính thể hỗn hợp ở Cộng hoà Pháp'', Tạp chí Lý luận chính trị, 
(3), tr.74. 
70. Cao Việt Thắng, Phạm Tuấn Anh (2011), ''Cơ cấu đại biểu và vấn đề 
thực hiện các chức năng của Quốc hội'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 
(5), tr.33-34. 
71. Thái Vĩnh Thắng (2011), Tổ chức và kiểm soát quyền lực Nhà nước, Nxb 
Tư pháp, Hà Nội. 
72. Lê Minh Thông (chủ biên, 2001), Một số vấn đề về hoàn thiện tổ chức và 
hoạt động của bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
73. Nguyễn Nhân Tỏ (2005), ''Đại biểu Quốc hội chuyên trách'', Tạp chí 
Nghiên cứu Lập pháp, (12), tr.42-43. 
74. Nguyễn Phú Trọng (2008), ''Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của 
Quốc hội'', Tạp chí Cộng sản, (786), tr.34-35. 
75. Trung tâm Bồi dưỡng đại biểu dân cử, Ban Công tác đại biểu Quốc hội 
(2009), Hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội - Những câu chuyện 
kể, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội. 
76. Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ, Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân 
văn quốc gia (2003), Quốc hội Mỹ hoạt động như thế nào, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
77. Trung tâm tin học, Văn phòng Quốc hội (2011), Bản tổng hợp ý kiến 
thảo luận tại hội trường (ghi theo băng ghi âm), buổi chiều ngày 
24/11/2011, Hà Nội. 
 164 
78. Trung tâm tin học, Văn phòng Quốc hội (2012), Bản tổng hợp ý kiến 
thảo luận tại hội trường (ghi theo băng ghi âm), buổi sáng ngày 
26/03/2012, Hà Nội. 
79. Vũ Anh Tuấn, ''Hoàn thiện thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước'', Tạp 
chí Lý luận chính trị, (5), tr.18-19. 
80. Đào Trí Úc (2003), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực 
nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
81. Đào Trí Úc, Võ Khánh Vinh (Đồng chủ biên, 2003), Giám sát và cơ chế 
giám sát việc thực hiện quyền lực Nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb 
Công an nhân dân, Hà Nội. 
82. Đào Trí Úc (2005), Giám sát và cơ chế giám sát việc thực hiện quyền lực 
nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
83. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2008), Nghị quyết số 575/UBTVQH12 
ngày 31/01/2008 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về chức năng, nhiệm 
vụ của Ban Công tác đại biểu, Hà Nội. 
84. Văn phòng Quốc hội (1994), Lịch sử Quốc hội Việt Nam, Nxb Chính trị 
quốc gia, Hà Nội. 
85. Văn phòng Quốc hội (1999), Kỷ yếu kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá X, Hà Nội. 
86. Văn phòng Quốc hội (2005), Quốc hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận 
và thực tiễn. 
87. Văn phòng Quốc hội (2011), Kỷ yếu hội thảo Chức năng giám sát của 
Quốc hội trong Nhà nước pháp quyền, Nxb Lao động, Hà Nội. 
88. Nguyễn Quốc Văn (2012), ''Tham chiếu một số nội dung về hoạt động 
giám sát của Quốc hội Mỹ và Quốc hội Việt Nam'', Tạp chí Nghiên cứu 
Lập pháp, (224), tr.23-24. 
89. Lê Thanh Vân (2007), ''Hoạt động chất vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp 
thứ 2 Quốc hội khoá XII'', Tạp chí Tuyên giáo (12), tr.49-50. 
90. Lê Thanh Vân (2007), Một số vấn đề về đổi mới tổ chức, hoạt động của 
Quốc hội, Nxb Tư pháp. 
 165 
91. Lê Thanh Vân (2011), Báo cáo tổng hợp đề tài nghiên cứu "Hoàn thiện 
các quy định pháp luật về chất vấn và trả lời chất vấn của đại biểu Quốc 
hội", Hà Nội. 
92. Trần Quốc Việt (2016), ''Chất vấn hình thức kiểm soát hiệu quả của 
Quốc hội đối với Chính phủ'', Tạp chí Quản lý nhà nước (2), tr.21-22. 
93. Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (2003), Giám sát và cơ chế 
giám sát việc thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, Nxb 
Công an nhân dân, Hà Nội. 
94. Viện Ngôn ngữ học (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng. 
95. Võ Khánh Vinh (2003), ''Về giám sát việc thực hiện quyền lực nhà 
nước'', Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (6), tr.36-38. 
96. Trịnh Thị Xuyến (2008), Kiểm soát quyền lực nhà nước - Một số vấn đề lý 
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
* Tài liệu tiếng Anh 
97. Hobbes, leviathan, Harmondsworth, Penguin, 1968, p.161. 
98. IPU, Parliaments in the world 1986 (Vol 3), 1993. 
99. IPU (2005), Women in Parliament in 2005: the year respective, An 
annual Publication of the Inter - Parliamentary Union. 
100. International IDEA and IPU (2005), Ponorama of Parliamentary elections 
2005, An annual Publication of the Inter - Parliamentary Union. 
101. Lijphart, Parliamentary versus Préidential Government, Oxford 
University Press, 1994. 
102. Matson Ingvar, Strom, Kaare, Parliament and Mojority Rule in Western 
Europe, New York, 1995 
103. Norton P. Parliaments and Governments in Western Europe, Lon don, 
Frank Cass, 1998.