Luận án Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà nội (giai đoạn 1986 - 2019)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Lê Khánh Trang NGHỆ THUẬT TẠO DÁNG, TRANG TRÍ SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI (GIAI ĐOẠN 1986-2019) LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT Hà Nội – 2021 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Lê Khánh Trang NGHỆ THUẬT TẠO DÁNG, TRANG TRÍ SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI (GIAI ĐOẠN 1986-2019) Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật

pdf311 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 482 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà nội (giai đoạn 1986 - 2019), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mã số: 9210101 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Phan Thanh Thảo Hà Nội – 2021 i LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan bản Luận án tiến sĩ Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội (giai đoạn 1986-2019) là công trình nghiên cứu do tôi viết và chưa công bố. Các kết quả nghiên cứu cũng như kết luận trong luận án này là trung thực. Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu đi trước và thực hiện trích dẫn cũng như ghi nguồn đầy đủ theo quy định. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2021 Tác giả luận án ii MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẲT ........................................................... iv MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI ......................... 9 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................. 9 1.2. Cơ sở lý luận của đề tài luận án ............................................................... 20 1.3. Khái quát nghề mây tre đan Việt Nam và Hà Nội ................................... 34 Tiểu kết ............................................................................................................ 57 Chương 2 HÌNH THỨC BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT TẠO DÁNG, TRANG TRÍ SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 1986- 2019 ................................................................................................................. 59 2.1. Kỹ thuật, vật liệu trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 ........................................................................................ 59 2.2. Hình thức tạo dáng của sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 ......................................................................................................................... 74 2.3. Hình thức trang trí trên sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 ......................................................................................................................... 93 Tiểu kết .......................................................................................................... 115 Chương 3 SỰ CHUYỂN BIẾN, ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT TẠO DÁNG, TRANG TRÍ SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI ............................. 117 GIAI ĐOẠN 1986-2019 VÀ BÀN LUẬN .................................................. 117 3.1. Sự chuyển biến trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 ............................................................................................. 117 3.2. Một số đặc điểm trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội ....................................................................................................................... 134 iii 3.3. Bàn luận về giá trị thẩm mỹ, kinh tế, văn hóa và thiết kế phát triển sản phẩm mây tre đan trong xã hội ngày nay ...................................................... 149 Tiểu kết .......................................................................................................... 159 KẾT LUẬN .................................................................................................. 162 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ ......... 169 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 170 PHỤ LỤC ..................................................................................................... 186 iv DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẲT H. Hình HN Hà Nội HSB Hà Sơn Bình MTĐ Mây tre đan MTCN Mỹ thuật công nghiệp MTƯD Mỹ thuật ứng dụng NCS Nghiên cứu sinh NN Nghệ nhân Nxb. Nhà xuất bản PL. Phụ lục SP. Sản phẩm TCMN Thủ công mỹ nghệ TCVN Thủ công Việt Nam Tp. Thành phố Tr. Trang 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Ở Việt Nam, các làng nghề gốm, sơn mài, thêu ren, khảm trai, mây tre đan đã tạo nên các sản phẩm thủ công mỹ nghệ với những đặc trưng riêng của chất liệu, của vùng miền. Nhìn lại lịch sử, nghệ thuật thủ công mỹ nghệ của nước ta đã có từ lâu đời, nhiều làng nghề ở miền Bắc đã tạo nên những sản phẩm truyền thống mang nét đặc trưng. Riêng nghề mây tre đan không những gắn với đời sống bình dị của người Việt mà còn vươn qua biên giới ra thị trường quốc tế với nhiều sản phẩm xuất khẩu vừa mang tính hiện đại, vừa có nét riêng của một đất nước nông nghiệp nhiều sáng tạo. Ở nước ta có khoảng hơn 80 làng nghề mây tre đan, trong đó có một số làng nghề nổi tiếng làm ra nhiều sản phẩm đẹp, đạt thẩm mỹ, chất lượng cao, loại hình phong phú. Tính riêng ở Hà Nội, có rất nhiều làng nghề lớn nhỏ, nổi bật trong đó có làng nghề Phú Vinh (huyện Chương Mỹ), làng nghề Ninh Sở (huyện Thường Tín), làng nghề Đông Phương Yên (huyện Chương Mỹ), làng nghề Phú Túc (huyện Phú Xuyên). Đây là những làng nghề truyền thống, có lịch sử lâu đời, có đội ngũ nghệ nhân nhiều kinh nghiệm, khéo léo, sáng tạo, tạo nên nhiều sản phẩm nổi tiếng. Thông qua việc tạo dáng, chế tác các chi tiết trang trí, sản phẩm mây tre đan không còn đơn thuần là vật dụng sinh hoạt mà còn trở thành biểu tượng văn hóa Bắc Bộ, chứa đựng tâm tư tình cảm, tín ngưỡng cộng đồng, giá trị tinh thần sâu sắc. Nét độc đáo của sản phẩm mây tre đan chính là kỹ thuật đan lát từ vật liệu mây, tre tạo nên những kiểu dáng, hình thức trang trí đặc trưng. Sự sáng tạo dưới bàn tay điêu luyện của các nghệ nhân đã thổi hồn vào các sản phẩm mây tre đan, đưa nghệ thuật mây tre đan trở thành một trong những biểu tượng văn hóa của người Việt. Nghiên cứu về làng nghề, hoạt động nghề, nghệ nhân và sản phẩm đã được một số học giả tiếp cận từ góc độ xã hội, văn hóa, lịch sử. Tuy nhiên, chưa 2 có nghiên cứu chuyên biệt nào tiếp cận từ góc độ nghệ thuật học. Trong giai đoạn hội nhập, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam đang dần xác định chỗ đứng trên thị trường quốc tế, vừa mang nét truyền thống, vừa có những sáng tạo mới hiện đại, đáp ứng thị hiếu của khách hàng nước ngoài. Do vậy, việc kế thừa và đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan được đặt ra như một nhu cầu cần thiết. Không chỉ trong quá khứ mà cho tới sau này, nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội đã và đang có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao giá trị sản phẩm hàng tiêu dùng của ngành thủ công mỹ nghệ nước ta. Xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên, NCS lựa chọn đề tài nghiên cứu về Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội (giai đoạn 1986-2019) làm luận án Tiến sỹ chuyên ngành Lý luận và Lịch sử Mỹ thuật. Trên cơ sở kế thừa những thành quả của các nhà nghiên cứu đi trước, nội dung luận án làm rõ tạo dáng, trang trí của sản phẩm để tìm ra nét đặc trưng và giá trị nghệ thuật của sản phẩm mây tre đan Hà Nội. Qua nghiên cứu này, tác giả luận án mong muốn đóng góp một phần tư liệu còn khuyết thiếu vào kho tàng nghệ thuật thủ công mỹ nghệ Việt Nam. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những nét đặc sắc trong tạo dáng và trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019. Từ đó, nội dung luận án đưa ra những nhận định về giá trị nghệ thuật tạo dáng và trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho việc nghiên cứu giá trị nghệ thuật trong sản phẩm thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam theo quan điểm thiết kế ngày nay. 3 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án chủ yếu như sau: - Hệ thống hóa các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến vấn đề nghiên cứu. - Vận dụng cơ sở lý luận để phân tích hình thức biểu hiện của nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan ở Hà Nội giai đoạn 1986-2019 thông qua các sản phẩm tiêu biểu. - So sánh nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội với một số khu vực khác từ đó làm sáng rõ những đặc trưng nghệ thuật của sản phẩm mây tre đan Hà Nội. - Nhận định về giá trị của nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt. - Nhận định vai trò của thiết kế phát triển sản phẩm mây tre đan và luận bàn về kết quả nghiên cứu. 3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan tại một số làng nghề tiêu biểu ở Hà Nội (có sản phẩm đạt các giải thưởng tại các cuộc thi, triển lãm mỹ thuật ứng dụng). 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi không gian: Nghiên cứu sản phẩm mây tre đan tại một số làng nghề thuộc thành phố Hà Nội. Bên cạnh đó, có đề cập so sánh sản phẩm mây tre đan với sản phẩm mây tre ở một số địa phương khác. Phạm vi thời gian: Nghiên cứu sản phẩm mây tre đan Hà Nội trong giai đoạn từ 1986-2019. Đây là giai đoạn đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. 4 4. Các phương pháp nghiên cứu và phương pháp tiếp cận 4.1. Các phương pháp nghiên cứu - Phương pháp tổng hợp và phân tích và tài liệu thứ cấp Đây là phương pháp cơ bản để tác giả luận án tiếp cận trực tiếp vấn đề nghiên cứu. Thông qua việc thu thập tài liệu, thông tin, công trình khoa học của các tác giả trong và ngoài nước, nội dung luận án chọn lọc những tài liệu chính thống, có nguồn gốc rõ ràng và khả năng tin cậy cao. Phương pháp này làm cơ sở cho những luận điểm được đặt ra, hỗ trợ việc khai triển luận án nghiên cứu mang tính khoa học và logic hơn. - Phương pháp điền dã Qua điền dã tại thực địa đã giúp tác giả luận án thu thập, xác minh các dữ liệu và thực hiện khảo sát, xem xét hiện vật, chụp hình, khảo tả. - Phương pháp phỏng vấn Luận án áp dụng phương pháp phỏng vấn chuyên gia trong lĩnh vực thủ công mỹ nghệ, mỹ thuật ứng dụng bằng cách gặp trực tiếp, gọi điện hoặc trao đổi trực tuyến. Để hiểu sâu hơn nhận định của họ đối với nghệ thuật mây tre đan ở các góc nhìn khác nhau. Thông tin từ các cuộc phỏng vấn giúp tác giả luận án có góc nhìn khách quan và đa chiều về nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội để thực hiện các nội dung nghiên cứu. - Phương pháp nghệ thuật học Đối với một đề tài nghiên cứu nghệ thuật, việc áp dụng phương pháp nghệ thuật học là cần thiết và quan trọng. Phương pháp nghiên cứu này giúp cho việc phân tích mẫu mã sản phẩm mây tre đan ở góc độ nghệ thuật. Với hình thức biểu hiện của các yếu tố mỹ thuật như đường nét, mảng, khối, chất liệu, họa tiết, bố cục. 5 - Phương pháp so sánh Trên cơ sở thông tin từ các nguồn tư liệu, các chuyến khảo sát thực địa và phỏng vấn, luận án đã thống kê, phân loại và so sánh, đối chiếu để làm rõ vấn đề của nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Nhằm tìm ra những giá trị nổi bật, khác biệt trong nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội, nội dung luận án so sánh nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội với một số làng nghề địa phương khác. 4.2. Phương pháp tiếp cận Phương pháp liên ngành Nội dung luận án vận dụng phương pháp tiếp cận liên ngành để có góc nhìn bao quát hơn đối với đối tượng nghiên cứu. Cách tiếp cận từ hướng nghệ thuật học và nghiên cứu về lịch sử, xã hội, văn hóa cho thấy sự ảnh hưởng của các tác nhân, mục đích trong việc sáng tạo sản phẩm mây tre đan. Lý thuyết văn hóa cho thấy sự ảnh hưởng của quan niệm thẩm mỹ địa phương đến sáng tạo sản phẩm cũng như yếu tố tiếp biến mỹ thuật trong quá trình giao thoa. Cách tiếp cận theo hướng lịch sử cho thấy được vị trí của nghề mây tre đan trong dòng chảy lịch sử với các bối cảnh văn hóa xã hội biến động. 5. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu 5.1. Câu hỏi nghiên cứu - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 được biểu hiện như thế nào? - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 có kế thừa tư duy mỹ thuật truyền thống và phát triển theo xu thế thời đại không? - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội có giá trị như thế nào đời sống xã hội hiện nay nói chung và mỹ thuật ứng dụng nói riêng? 6 5.2. Giả thuyết nghiên cứu - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội có những nét đặc trưng nghệ thuật thể hiện ở chủng loại, kiểu dáng, màu sắc, kỹ thuật đan, họa tiết trang trí trên sản phẩm. - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội kế thừa tư duy tạo hình mỹ thuật truyền thống và phát triển phù hợp xu thế của thời đại thông qua sự chuyển biến về tạo dáng và trang trí. - Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan có giá trị thẩm mỹ, văn hóa và kinh tế trong đời sống vật chất và tinh thần của người Việt, là dòng sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc sắc, cần được đầu tư thiết kế để phát triển bền vững. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài - Về phương diện lý luận Những nghiên cứu trong nội dung luận án đưa ra hệ thống lý luận về nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986- 2019. Nội dung luận án phân tích nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội theo góc nhìn của mỹ thuật ứng dụng. Nhận định mối liên hệ giữa yếu tố công năng và kiểu dáng, hình khối, đường nét, màu sắc, họa tiết, vật liệu. Trên cơ sở đó, chỉ ra những đặc trưng thẩm mỹ trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội. Nội dung luận án nhấn mạnh giá trị nghệ thuật của sản phẩm mây tre đan trong đời sống vật chất và thẩm mỹ của con người, tầm quan trọng trong việc phát triển dòng sản phẩm này. Bên cạnh đó, đưa ra thông tin về xu hướng thiết kế tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan trong bối cảnh các lĩnh vực hoạt động sản xuất của xã hội đều hướng tới phát triển bền vững. 7 - Về phương diện thẩm mỹ Nội dung luận án chỉ ra cái đẹp trong nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan với những thành tựu đạt được từ các cuộc thi. Trong đời sống, sản phẩm mây tre đan cũng đã và đang thể hiện vai trò làm đẹp và thổi hồn vào không gian sống xanh với kiến trúc từ tre, các sản phẩm bàn ghế, trang trí nội thất từ mây tre. Cách thức biểu đạt về thẩm mỹ trong sáng tạo sản phẩm mây tre đan không chỉ ở ngôn ngữ mỹ thuật mà còn là ngôn ngữ văn hóa. Nghiên cứu của luận án cũng đưa ra cách nhìn mới về sáng tạo sản phẩm mây tre đan ngày nay. - Về công tác đào tạo Những nghiên cứu trong luận án chỉ ra những đặc điểm, những yếu tố tác động trong quá trình thiết kế tạo mẫu sản phẩm mây tre đan. Nội dung nghiên cứu của luận án cũng sẽ đưa vào làm tài liệu giảng dạy và nghiên cứu cho sinh viên ngành mỹ thuật ứng dụng để hiểu thêm về nét đẹp của nghề thủ công truyền thống và khơi nguồn cảm hứng trong thiết kế sản phẩm hiện đại. Bên cạnh đó, chúng cũng gợi mở về định hướng đào tạo cho họa sỹ thiết kế muốn ứng dụng kỹ thuật thủ công truyền thống trong sáng tạo sản phẩm. Trong thời đại mới, người thiết kế, nghệ nhân phải nhận thấy được vai trò và trách nhiệm của mình trong việc lưu giữ và bảo tồn nét đẹp của mỹ thuật ứng dụng dân gian, tập trung phát triển mẫu mã sản phẩm gắn liền yếu tố truyền thống và hiện đại, thổi hồn cho những sản phẩm ứng dụng hiện đại một tinh thần truyền thống đậm đà. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (7 trang), Tài liệu tham khảo (15 trang), và Phụ lục (117 trang), nội dung chính của luận án được bố cục thành 3 chương: 8 Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát sản phẩm mây tre đan Hà Nội (50 trang). Chương 2: Hình thức biểu hiện nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 (58 trang). Chương 3: Sự chuyển biến, đặc điểm nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 và bàn luận (45 trang). 9 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài Các tài liệu về sản phẩm mây tre đan phần nhiều đều tiếp cận dưới góc độ văn hóa giới thiệu nét văn hóa bản địa đặc sắc thông qua hình ảnh các sản phẩm. Một số cuốn sách tác giả luận án tiếp cận được về nghệ thuật mây tre đan Nhật Bản, Đài Loan đều là giới thiệu về nghệ thuật mây tre đan thông qua hệ thống hình ảnh minh họa phong phú từ truyền thống đến hiện đại. Bên cạnh đó các tài liệu khác nghiên cứu sản phẩm mây tre đan dưới góc độ kinh tế, văn hóa xã hội, lịch sử. Nhóm các tài liệu mỹ thuật ứng dụng thì khai thác kỹ thuật đan lát mây tre trên các thiết kế hiện đại, có tính ứng dụng cao. 1.1.1.1. Nhóm tài liệu liên quan đến tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan dưới góc độ kinh tế, văn hóa và xã hội Năm 2000, trong cuốn Contemporary Japanese Bamboo Arts (Nghệ thuật tre đan đương đại Nhật Bản) của các tác giả Pat Pollard và Robert T. Coffland [151] giới thiệu với người đọc về thế giới nghệ thuật tre đương đại của Nhật Bản. Tác giả cung cấp cho người đọc thông tin cơ bản cần thiết để hiểu loại hình nghệ thuật này phát triển như thế nào trong hàng trăm năm qua và những thách thức hiện tại mà lĩnh vực này phải đối mặt. Năm 2009, trong cuốn The Art of Bamboo and Rattan Weaving của tác giả Lee Chan-Hung James [150] (Dịch: Nghệ thuật mây tre đan) giới thiệu nghệ thuật đan lát mây tre của Đài Loan với những hình ảnh minh họa phong phú chứng minh cho sự thăng hoa của một loại hình mỹ thuật thủ công. Cuốn sách tập hợp và giới thiệu sự phong phú trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Đài Loan thông qua hệ thống hình ảnh của các sản phẩm tiêu biểu 10 như các loại giỏ mây, tre khác nhau, rương, bình hoa và các đồ vật trong gia đình. 1.1.1.2. Nhóm tài liệu nghiên cứu liên quan đến tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan dưới góc độ mỹ thuật ứng dụng Trong thời gian gần đây, việc đưa nghệ thuật mây tre đan thủ công truyền thống vào các thiết kế các sản phẩm mỹ thuật ứng dụng hiện đại và các tác phẩm mỹ thuật tạo hình đã trở nên phổ biến trên thế giới. Đặc biệt tại các nước khu vực Châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc hay các nước khu vực Đông Nam Á như Thái Lan, Phillipines, Indonesia và ngày càng được ưa chuộng bởi giá trị thẩm mỹ cũng như văn hóa đậm nét. Năm 2005 trong cuốn Inspired Shapes: Contemporary Designs for Japan's Ancient Crafts [157] (Dịch: Cảm hứng từ hình dạng: Thiết kế đương đại từ nghệ thuật thủ công cổ truyền của Nhật Bản) tập hợp các sản phẩm thiết kế đương đại của Nhật Bản khai thác nguồn tài nguyên từ nghệ thuật trang trí, thủ công truyền thống với các kỹ thuật và chất liệu truyền thống Nhật Bản như tre, sơn mài, thủy tinh, gỗ Cuốn sách giới thiệu về tạo dáng sản phẩm hiện đại ứng dụng vật liệu và kỹ thuật thủ công truyền thống trong đó có mây tre đan. Năm 2012, Bamboo, from traditional crafts to contemporary design and architecture [149] (Dịch: Tre, từ thủ công truyền thống đến thiết kế và kiến trúc hiện đại) của tác giả Esteve – Sendra, Chelea nghiên cứu ứng dụng của tre trong nghệ thuật thủ công truyền thống và thiết kế sản phẩm đương đại, khám phá tre và nhiều công dụng của nó từ thực phẩm đến đồ nội thất. Trong nhiều trường hợp, các nhà thiết kế hợp tác với các nghệ nhân, tạo ra các sản phẩm khác nhau, thay đổi lối sống và áp dụng các công nghệ mới để tạo ra một thế giới với các sản phẩm sinh thái bền vững. Nghiên cứu tiếp cận 11 nghề mây tre đan truyền thống dưới góc độ mỹ thuật ứng dụng với những giải pháp trên sản phẩm cụ thể. Năm 2012, The Development and Effects of the Twentieth-Century Wicker Revival của tác giả Emily A. Morris [148] (Dịch: Sự phát triển và sự hồi sinh của mây thế kỷ XX) nghiên cứu những ảnh hưởng các phong cách nghệ thuật thế kỷ XX đến sự hồi sinh của sản phẩm đan lát. Đồ nội thất đan lát xuất hiện và phổ biến từ cuối thế kỷ XIX đến thập niên 1920, tuy nhiên trải qua một thời gian dài chịu ảnh hưởng của các cuộc Thế chiến bị mai một, phải đến nửa sau thế kỷ XX, vào khoảng những năm 50-60, sản phẩm đan lát mới được hồi sinh. Tài liệu đề cập đến tạo dáng, trang trí trên sản phẩm nội thất mây những năm đầu thế kỷ XX ở Châu Âu. Năm 2014, Design and development of handy crafts furniture and decorative product, case study: Rattan fake [161] (Dịch: Thiết kế và phát triển đồ nội thất thủ công tiện dụng và sản phẩm trang trí, nghiên cứu trường hợp: Mây nhân tạo) của tác giả Ruengsombat và các cộng sự nghiên cứu các ứng dụng của mây nhân tạo trong thiết kế và phát triển các sản phẩm nội thất và trang trí ứng dụng thủ công. Nghiên cứu cho thấy những ứng dụng kỹ thuật đan lát trên vật liệu mới có thể tạo ra những sản phẩm tiện dụng, có giá trị thực tiễn nhất định trong sử dụng vật liệu mới để thiết kế sản phẩm có hiệu ứng mây tre đan. Năm 2014, When bamboo meets design - reviving bamboo handicraft in modern design [164] (Dịch: Khi tre kết hợp thiết kế - hồi sinh nghề thủ công tre đan trong thiết kế hiện đại) của tác giả Zhang Yezhi nghiên cứu các thiết kế từ vật liệu tre, sự hồi sinh của vật liệu tre trên sản phẩm. Sản phẩm hiện đại, tài liệu này giới thiệu nhiều mẫu thiết kế từ vật liệu mây tre với sự biến tấu trong kết hợp hình khối, đường nét, mang đậm tính hiện đại. Với sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp hiện đại và sự thay đổi lớn 12 trong lối sống của con người, nhiều sản phẩm thủ công đã được thay thế bằng các sản phẩm đại chúng và đang trên bờ vực bị biến mất. Tác giả nghiên cứu một số nghề thủ công tre cơ bản và tham gia vào quá trình sản xuất để làm quen với vật liệu và các kỹ thuật liên quan. Bằng cách sử dụng các bộ phận khác nhau của tre và sử dụng các tính năng khác nhau của vật liệu và kỹ thuật cụ thể. Năm 2014, The Application Research on Chinese Traditional Patterns in the Design of Bamboo and Rattan Furniture [160] (Dịch: Nghiên cứu ứng dụng về các họa tiết truyền thống của Trung Quốc trong thiết kế đồ nội thất mây tre) của tác giả Ruofu Bai nghiên cứu ứng dụng của họa tiết hoa văn truyền thống Trung Quốc trên sản phẩm thiết kế nội thất. Những nghiên cứu này cho thấy nghệ thuật mây tre đan thủ công truyền thống đã được chú ý đến trong những thiết kế đương đại, ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như thiết kế sản phẩm nội thất, trang trí. Công trình này nhằm mục đích nghiên cứu tích hợp các mẫu truyền thống của Trung Quốc vào sản xuất đồ nội thất mây tre hiện đại theo nhu cầu về thiết kế sáng tạo của đồ nội thất mây tre đan. Công trình nghiên cứu dưới góc độ thực tiễn với các giải pháp tạo dáng, trang trí sản phẩm hiện đại khai thác hoa văn truyền thống. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 1.1.2.1. Nhóm tài liệu liên quan đến sản phẩm mây tre đan dưới góc độ kinh tế, văn hóa và xã hội Năm 1992, bài viết “Nghề mây tre đan cổ truyền ở đồng bằng Bắc Bộ” của tác giả Lê Huyên [52] đưa cái nhìn khái quát về quá trình phát triển của nghề mây tre đan trong khu vực Đông Nam Á, lịch sử phát triển của nghề mây tre đan ở Việt Nam thông qua các di vật khảo cổ học. Căn cứ vào những khảo sát dân tộc học, tác giả đưa ra nhận định ở cuối thời kỳ phong kiến khoảng thế kỷ XVIII-XIX đã hình thành những làng xã chuyên về đan lát đồ mây tre. 13 Bài viết đưa ra cái nhìn tổng quan về lịch sử, cũng như đưa ra nhận xét nghề mây tre đan phát triển ở những làng nghề không phải ở đồng bằng trồng lúa Bắc Bộ mà chuyển dịch lên vùng trung du sát đồng bằng. Đó là các làng Phú Nghĩa, Phú Hòa, Mỹ Du thuộc Hà Sơn Bình (cũ). Tác giả phân tích nghề mây tre đan đồng bằng Bắc Bộ trên các phương diện kỹ thuật và hiệu quả kinh tế chứ chưa đề cập đến tạo dáng, trang trí sản phẩm. Năm 1992, bài viết “Tre đan Ninh Sở” của tác giả Nguyễn Thọ Sơn [108] giới thiệu về làng nghề tre đan Ninh Sở. Nếu như trong các công bố đã có liên quan đến nghề đan lát người ta thường hay nhắc đến làng nghề mây đan Phú Vinh với những sản phẩm mây đan có giá trị xuất khẩu cao thì tác giả đã bổ sung một làng nghề với sản phẩm tre đan đặc sắc, nơi đây nghề tre đan phát triển tinh vi đến mức người nghệ nhân có thể nhìn vào ảnh, nghĩ ra cách đan để tạo thành những bức tranh chân dung hay phong cảnh. Bài viết tiếp cận nghề mây tre đan dưới góc độ văn hóa và tập trung vào nghề tre đan, chưa có những phân tích khía cạnh mỹ thuật ứng dụng. Năm 2000, cuốn Di sản thủ công mỹ nghệ Việt Nam của tác giả Bùi Văn Vượng [136] nghiên cứu về các làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam nổi bật với những đặc điểm văn hóa, quy trình chế tạo, những giá trị kinh tế, văn hóa, mỹ thuật. về các làng nghề, các đặc điểm lịch sử, văn hóa, xã hội. Trong tổng quan chung các làng nghề truyền thống của Việt Nam thì tác giả nhấn mạnh làng nghề mây tre đan Phú Vinh ở Chương Mỹ với nhiều mẫu mã chủng loại, tiêu biểu như bát mây, lẵng mây, đĩa mây Cuốn sách nghiên cứu nghề mây tre đan dưới góc độ văn hóa, không đề cập đến nhiều đến tính thẩm mỹ của sản phẩm. Năm 2004, trong cuốn Giá trị văn hóa trong nghề thủ công đan lát của các tộc người Việt Nam do tác giả Hà Thị Nự chủ biên [95], nghề mây tre đan của các tộc người được nhìn nhận một cách tổng quát từ họa tiết trang trí đến 14 quy trình tạo tác cho từng loại sản phẩm. Công trình này là tài liệu tập hợp rất đầy đủ về nghề mây tre đan cổ truyền, từ những tổng kết từ nhiều nguồn tài liệu các lĩnh vực nghiên cứu văn hóa, lịch sử về lịch sử phát triển của nghề mây tre đan đến quy trình chế tác sản phẩm mây tre đan. Đặc biệt trong cuốn sách này, tác giả còn mô tả rất kỹ từng kỹ thuật đan và quy trình để tạo ra những kiểu hình dáng hay họa tiết trang trí trên sản phẩm mây tre đan một số dân tộc. Tài liệu đưa ra cái nhìn so sánh về sản phẩm mây tre đan của Hà Nội và các vùng miền khác, cụ thể là một số tộc người miền núi phía Bắc. Năm 2008, trong luận văn cao học với đề tài Làng nghề đan lát Nam Cường [8], tác giả Trương Thị Ngọc Bích nhận xét trên địa bàn cả nước thì chỉ tính riêng ở đồng bằng Bắc Bộ cũng có tới vài chục làng nghề đan lát có thu nhập từ sản phẩm mây tre đan xuất khẩu, nổi tiếng nhất là các làng như Phú Vinh ở Chương Mỹ, làng Vác ở Thanh Oai, làng Tăng Tiến ở Bắc Giang. Công trình nghiên cứu làng nghề đan lát Nam Cường ở Mê Linh, Hà Nội dưới góc độ văn hóa, đi sâu vào phân tích lịch sử phát triển, các đặc điểm văn hóa xã hội. Công trình mô tả mô hình sản xuất sản phẩm đan lát của làng nghề Nam Cường từ nguồn vật liệu, các kỹ thuật và mô hình tổ chức sản xuất. So với nghề đan lát ở các địa phương khác nghề đan lát ở Nam Cường vừa có những nét riêng, độc đáo vừa có những nét chung trong bối cảnh phát triển ngành thủ công vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tài liệu nghiên cứu về làng nghề mây tre đan về phương diện văn hóa, làng nghề, những đặc điểm cũng như mô hình sản xuất. Năm 2009, trong cuốn Làng nghề Hà Nội - tiềm năng và triển vọng phát triển của Sở Công Thương Hà Nội [129] phát hành thì nghề mây tre, giang đan ở Hà Nội phát triển nhất ở huyện Chương Mỹ, Hà Tây với lịch sử gần 400 năm tập trung ở các xã Phú Nghĩa, Trường Yên, Đông Sơn, Đông Phương Yên, Trung Hòa. Trong các làng nghề mây tre đan của huyện Chương 15 Mỹ, thôn Phú Vinh, xã Phú Nghĩa được coi là “Xứ Mây” với lịch sử phát triển nghề lâu đời. Có những sản phẩm mây đan được làm từ làng nghề Phú Vinh, nay vẫn được người đời lưu giữ như một tác phẩm nghệ thuật cổ quý hiếm. Hiện tại, Bảo tàng cung đình Huế đang lưu giữ một tác phẩm thư pháp chữ Hán đan bằng mây của các cố tác giả thôn Phú Vinh vào năm 1712. Tài liệu tiếp cận làng nghề mây tre đan tiêu biểu của Hà Nội dưới góc độ lịch sử, cung cấp những thông tin hữu ích về lịch sử làng nghề. Năm 2011, cuốn Tổng tập làng nghề truyền thống Việt Nam của Trương Minh Hằng chủ biên [37] tập hợp bài viết của nhiều tác giả là cuốn sách khá đầy đủ về các làng nghề truyền thống lâu đời của Việt Nam trong đó có các làng nghề mây tre lá, mây tre đan với các sản phẩm đặc trưng cho mỗi làng nghề như làng nghề đan chiếu, làm quạt, làm nón đã trở nên nổi tiếng trên khắp cả nước. Đây là cuốn sách tập hợp các bài viết về các làng nghề thủ công truyền thống khắp cả nước. Với mỗi làng nghề, các tác giả đề cập đến vị trí địa lý, quá trình hình thành và phát triển, sản phẩm đặc trưng, nguồn nguyên liệu, cách xử lý nguyên liệu cũng như quy trình chế tác sản phẩm thủ công, tổ chức sản xuất làng nghề một cách khá đầy đủ và toàn diện. Đây là một tài liệu tổng hợp khá đầy đủ và chi tiết về các làng nghề, nhóm nghề đặc sắc của Việt Nam, cung cấp những thông tin hữu ích về văn hóa làng nghề, trong đó có nghề mây tre đan. Tuy nhiên tài liệu chỉ tiếp cận ở góc độ văn hóa, làng nghề và chưa đề cập đến tính mỹ thuật của sản phẩm mây tre đan một địa phương hay một giai đoạn cụ thể nào. Năm 2011, trong cuốn Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật [119], tác giả Chu Quang Trứ cho rằng nghệ thuật đan lát đã được khẳng định qua những hoa văn mặt ngoài đồ gốm đương thời. Tác giả nhận định mây, tre, gỗ đã bám sát cuộc sống của người Việt trong suốt trường kỳ lịch sử, ngày càng được nhào nặn theo quy luật của cái đẹp. Những đồ đan phục vụ cuộc sống thường ngày có thể kể ra nhiều thứ: từ nông cụ và dụng cụ săn bắt động vật, đánh cá 16 đến đồ gia dụng như rổ, rá, dần, sàng không đơn thuần chỉ có yếu tố thực dụng mà vẫn hàm chứa yếu tố thẩm mỹ. Cuốn sách có những nhận định nhấn mạnh giá trị thẩm mỹ của sản phẩm mây tre đan Việt Nam. Năm 2016, trong bài viết “Qui trình tích hợp chế tác sản phẩm thủ công giữa nhà thiết kế và nghệ nhân - một ví dụ tham chiếu với công tác thiết kế mẫu mã sản phẩm thủ công truyền thống ở Việt Nam hiện nay” tác giả Đoàn Thị Mỹ Hươ...ta có thể khái quát vấn đề như sau: Khởi đầu từ nghệ thuật nguyên thủy, phân loại thành nghệ thuật có xu hướng “kỹ thuật phức tạp” và “văn nghệ phức tạp”, từ nghệ thuật có xu hướng kỹ thuật phức tạp, theo nhánh phân hóa “sản xuất nghệ thuật” mà trở thành có 2 loại là “sáng tạo theo kiến trúc” và “sáng tạo theo miêu tả”, từ nhóm sáng tạo theo kiến trúc cùng với môi trường tồn tại và sự phát triển của khoa học mà tạo thành các thể nghệ thuật có tính kiến trúc, trong đó có “nghệ thuật ứng dụng” [84, tr.324]. Theo nghiên cứu Hình thái học của nghệ thuật [84] của M.Cagan, xuất bản năm 2004, ông nhận định rằng Mỹ học Mác-Lê Nin cung cấp cơ sở khoa học để phân loại các nghệ thuật. “Trong mỹ học Mác Xít, sự phân tích hình thái học về nghệ thuật cần phải khảo sát hệ thống các nghệ thuật trong sự vận động lịch sử của nó, tức là phải phối hợp chặt chẽ hơn phương pháp nghiên 33 cứu logic với phương pháp lịch sử” [84, tr.238]. Nguyên tắc tính thống nhất của phương pháp logic và phương pháp lịch sử từ lâu đã được xem là một trong những nguyên lý cơ bản và phổ quát của phương pháp luận Mác Xít. M.Cagan trong Hình thái học nghệ thuật nhận định rằng “sự phát triển nghệ thuật của loài người đã dẫn tới là kiến trúc, nghệ thuật ứng dụng, hội họa, đồ họa, điêu khắc và tự khẳng định mình thành những loại hình nghệ thuật riêng” [84, tr.313]. M.Cagan cho rằng nghệ thuật ứng dụng rất gần với kiến trúc, nó thuộc nghệ thuật không gian với hình thái biểu cảm, chứ không phải nghệ thuật miêu tả. Nghệ thuật biểu cảm “về thực chất và về bản chất là không miêu tả, yếu tố này hoàn toàn quy định cách giải quyết của tác phẩm về bố cục, sự bố trí của các khối, các mảng màu” [84, tr.408]. Và cùng với đó ông khẳng định rằng “nghệ thuật tĩnh trong đó bao gồm các vật thể có thể tích như kiến trúc và đồ vật ứng dụng tạo nên nghệ thuật biểu cảm” [84, tr.209]. Như vậy, với nhận định này thì sản phẩm mây tre đan có thể coi là một dạng nghệ thuật tĩnh với thể tích ba chiều của sản phẩm và có tính biểu cảm. Dựa vào những lý thuyết này, luận án tiếp cận các sản phẩm mây tre đan tiêu biểu của Hà Nội là một đối tượng của nghệ thuật ứng dụng với tính biểu cảm. Luận án phân tích sản phẩm mây tre đan dưới góc độ mỹ thuật ứng dụng, phân tích hệ thống các chủng loại, kiểu dáng và trang trí dựa trên phân tích các yếu tố mỹ thuật và công năng trên sản phẩm để làm nổi bật những đặc trưng thẩm mỹ của sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019, từ đó khẳng định giá trị nghệ thuật của sản phẩm mây tre đan Hà Nội trong lĩnh vực mỹ thuật ứng dụng nói chung và thủ công mỹ nghệ nói riêng. 34 1.3. Khái quát nghề mây tre đan Việt Nam và Hà Nội 1.3.1. Nghề mây tre đan ở Việt Nam và một số làng nghề tiêu biểu 1.3.1.1. Nghề mây tre đan Việt Nam trong bối cảnh lịch sử Trước đây, nghề mây tre đan ở Việt nam được hình thành và phát triển như là một nghề thứ hai sau canh tác ngoài đồng ruộng ở nhiều vùng nông thôn. Thường được thực hiện trong các gia đình nông dân trong lúc nông nhàn để tạo ra các đồ dùng phục vụ sinh hoạt và sản xuất. Các đồ dùng như quanh gánh, thúng, mủng, gầu tát nước, nong, nia, dần, sàng, cót đựng thóc, rổ, rá đến các vật dụng khác như hòm, mâm, khay, đĩa. Trong cuốn Nghề mây tre đan cổ truyền các dân tộc Việt Nam của tác giả Hà Thị Nự thì nghề mây tre đan có lịch sử lâu đời: Qua tổng hợp tài liệu, một số kết quả nghiên cứu của các nhà sử học, các nhà khảo cổ học thì dấu tích nghề mây tre đan còn lại sớm nhất ở nước ta là qua các dấu vân đan trên đồ gốm tại các di chỉ khảo cổ có niên đại từ thời kỳ đồ đá, cách ngày nay khoảng 2000- 3000 năm ở Hà Tĩnh. Tại di chỉ Bãi Phôi Phối, xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, người ta tìm thấy có 320 mảnh gốm có hình hoa văn nan dập cả mặt trong và mặt ngoài, chiếm gần 26,4 % số di vật khảo cổ khai quật được ở đây [95, tr.13-14]. Trong cuốn Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người Việt [6], tác giả Trần Lâm Biền cho rằng hoa văn dấu nan đan xuất hiện ở thời tiền sử tại di chỉ Cái Bèo, cuốn sách có nhận định “Những tư liệu cho phép chúng tôi nghĩ rằng, hoa văn dấu đan Cái Bèo nảy sinh lần đầu ở vùng biển nơi hiếm tre nứa và gắn liền với gốm nặn khối đáy bằng vừa mang ý nghĩa kỹ thuật, vừa trang trí mỹ thuật” [6, tr.49]. Trong cuốn Kỹ thuật người An Nam của Henri Orger [55] thì tác giả ghi lại những cảnh sinh hoạt đời sống của người Việt cổ, trong đó những hình ảnh đồ dùng vật dụng mây tre đan xuất hiện 35 nhiều cho thấy vai trò của đồ dùng mây tre đan trong cuộc sống của người Việt. Có thể lý giải vì nguồn nguyên liệu sẵn có cộng với tinh thần sáng tạo, người Việt đã tạo ra rất nhiều sản phẩm kiểu dáng khác nhau chủ yếu phục vụ cho những mục đích cụ thể trong cuộc sống, ví dụ như sàng, mẹt, rổ để sàng sẩy, vo gạo, nơm, lờ, vó để bắt cá, hay bồ để đựng gạo Những kiểu đan cũng xuất phát từ công năng để sản phẩm bền chắc, sau này được phát triển thành các họa tiết trang trí. Trong bài viết “Nghề mây tre đan cổ truyền ở Đồng Bằng Bắc Bộ” của tác giả Lê Huyên thì nhận định rằng: Khảo sát dân tộc học gần đây cho thấy, ở cuối thời kỳ phong kiến khoảng thế kỷ XVIII-XIX đã hình thành những làng xã chuyên về đan lát đồ mây tre. Đó là các làng Phú Nghĩa, Phú Hòa, Mỹ Du thuộc Hà Sơn Bình (cũ). Ngoài một số đồ đan gia dụng, hoặc nông cụ sản xuất, công cụ săn bắt và đánh cá, ở đây chủ yếu làm đồ mỹ nghệ, đồ thờ cúng và đồ dùng ở cung đình [37, tr.201]. Ở Bắc Bộ tập trung nhiều làng nghề mây tre đan hơn cả, nổi tiếng có thể kể đến các làng nghề như làng mây tre đan Phú Vinh, Ninh Sở, Phú Túc, Đông Phương Yên, Thu Hồng ở Hà Nội, làng nghề mây tre đan Liên Khê ở Hưng Yên, làng nghề mây tre đan Tăng Tiến ở Bắc Giang, làng nghề mây tre đan Xuân Lai ở Bắc Ninh. Ở Huế thì có làng nghề mây tre đan Bao La. 1.3.1.2. Một số làng nghề mây tre đan tiêu biểu ở Việt Nam Làng nghề tre trúc Xuân Lai (xã Xuân Lai, Gia Bình, Bắc Ninh) Nghề tre trúc hun khói ở xã Xuân Lai (Gia Bình, Bắc Ninh) được xếp nổi tiếng trong các nghề truyền thống của Việt Nam. Bởi lẽ, số lượng làng nghề sản xuất các sản phẩm liên quan đến mây, tre, trúc của Việt Nam không ít, hàng thủ công mỹ nghệ làm từ mây tre lại càng nhiều, nhưng nghề tre trúc hun khói giống như ở Xuân Lai thì rất ít. Đặc biệt, không làng nghề nào tạo ra được sản phẩm tre hun khói bền về chất lượng, đẹp về màu sắc và mẫu mã, 36 lại có giá trị sử dụng cao như ở Xuân Lai. Theo các cụ cao tuổi trong làng, nghề tre trúc ở Xuân Lai có từ vài trăm năm trước. Thời ấy, các cụ tự mày mò, sáng tạo để làm ra các đồ dùng chủ yếu để phục vụ sinh hoạt trong gia đình và dùng trong sản xuất nông nghiệp như đan thúng, rổ, rá, làm chõng tre, giường, tràng kỷ... với nhiều nét hoa văn độc đáo. Ngày nay, ngoài những sản phẩm trên, những nghệ nhân của làng Xuân Lai còn sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo hơn từ mây, tre, trúc như xe đạp bằng tre, tranh tre, đèn tre [PL.4, H.4-2c, tr.281]. Làng nghề mây tre đan Liên Khê (xã Liên Khê, Khoái Châu, Hưng Yên) Mây tre đan Liên Khê thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên là một trong những làng nghề mây tre đan xuất khẩu nổi tiếng của nước ta. Làng nghề Liên Khê là một làng nghề trẻ được hình thành từ những năm 90 của thế kỉ XX và phát triển cho tới ngày nay. Các sản phẩm phổ biến của làng nghề là khay, bình, ghế, chiếu. Làng nghề có nhiều mẫu mã với chất lượng cao được khách hàng trong và ngoài nước ưa chuộng. Tại Festival nghề truyền thống Huế 2019, làng nghề mây tre đan Liên Khê giới thiệu nhiều mẫu mã sản phẩm phong phú, đa dạng như: Khay đựng đồ ăn, thùng cắm ô, giá đựng, chậu hoa, giỏ đựng đồ, hộp giấy ăn. Với nét giản dị, mộc mạc nhưng không kém phần tinh xảo và lôi cuốn, có giá trị về thẩm mỹ và tính ứng dụng cao [PL.4, H.4-2a, tr.281]. Làng nghề mây tre đan Tăng Tiến (xã Tăng Tiến, Việt Yên, Bắc Giang) Làng nghề mây tre đan Tăng Tiến xã Tăng Tiến, huyện Việt Yên, Bắc Giang với lịch sử hình thành 300 năm là làng nghề nổi tiếng với những sản phẩm đạt chất lượng cao như đệm, gối, túi xách, mành. Các sản phẩm của làng nghề được các nghệ nhân lưu giữ cẩn thận và không có hiện tượng mối mọt hay phai màu. Với bí quyết làng nghề cùng sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại ngày nay, trong khâu nhuộm mành, nan tre, các nghệ nhân làng nghề đã 37 tạo ra những sản phẩm có màu sắc phong phú, đồng thời bảo quản cho nan không bị mối mọt, giữ sản phẩm được lâu hơn, bền đẹp cùng thời gian. Những sản phẩm mây tre có tính đặc trưng của làng nghề như: mành trải bàn ăn, đệm, gối, túi sách, mành tre cửa, ấm tích, bàn ghế xuất khẩu ra nước ngoài được bạn hàng ưa chuộng, đặc biệt là thị trường Nga, Châu Âu, Mỹ. Để làm nên một sản phẩm mây tre Tăng Tiến đối với người thợ đó là một qúa trình sáng tạo nghệ thuật đòi hỏi nhiều công phu, tỉ mỉ, qua nhiều công đoạn. Những cây tre đem về phải mang cắt thành những đoạn nhỏ rồi đến tay người thợ. Họ mang chẻ ra thành những chiếc nan nhỏ như những chiếc tăm nhưng có độ dài 30-40 cm, đặc biệt nan được chẻ thủ công nhưng đều tăm tắp dưới đôi bàn tay khéo léo và kỹ năng điêu luyện của những người thợ. Một khâu đặc biệt quan trọng là nhuộm tăm, để tạo màu, độ bền cho mành tăm, chống mối mọt, đặc trưng của Tăng Tiến. Để tạo ra những sản phẩm bền đẹp, người thợ đem dệt từng chiếc tăm nhỏ thành mành, với những màu chỉ khác nhau kết hợp với màu của tăm mà tạo nên những sản phẩm đa màu sắc, mẫu mã [PL.4, H.4-2b, tr.281]. Làng nghề mây tre đan Thạch Cầu (xã Nam Tiến, Nam Trực, Nam Định) Mây tre đan Thạch Cầu nằm ở huyện Nam Trực, Nam Định tồn tại và phát triển từ lâu đời, nơi đây gắn liền với bờ biển và nghề đánh cá từ thời nhà Trần. Làng nghề sản xuất những sản phẩm phục vụ đời sống lao động của những con người gắn liền với đồng ruộng như thúng, giỏ, rổ, rá. Tre và mây nguyên liệu phải già, tre có dóng dài, càng thẳng càng tốt. Tre nứa được chặt về, ngâm dưới ao ít nhất một tháng để chống mối mọt mới được mang lên chẻ vót. Những gióng thẳng được làm nan chính, ngọn và gốc để làm cạp và nan dát. Công đoạn chẻ nan phải làm liên tục và nhanh vì để lâu tre sẽ bị khô. Những sợi mây già được chẻ mỏng, phơi cho săn rồi lại ngâm nước cho mềm, 38 lột một lần nữa cho mỏng. Nan được đan thành phên, chêm cho chặt, xong đem ra lò hun khói để lên màu cánh gián là đạt yêu cầu. Sản phẩm thúng là sản phẩm phổ biến nhất ở làng nghề này với các kích cỡ, kiểu dáng đa dạng. Ở đây thường có câu truyền miệng "Thúng Thạch Cầu đứng đầu thiên hạ" [PL.4, H.4-2d, tr.281]. 0 Làng nghề mây tre đan Bao La (xã Quảng Phú, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế) Làng nghề Bao La xã Quảng Phú, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế là một làng nghề truyền thống được hình thành và phát triển qua trên 600 năm. Làng nghề Bao La chuyên sản xuất các sản phẩm bằng tre từ những sản phẩm đặc trưng truyền thống gắn với nông thôn Việt Nam, sản phẩm cao cấp phục vụ trang trí nội thất hiện đại và các mẫu mã theo yêu cầu. Ngoài những sản phẩm phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp của người dân, làng nghề còn sản xuất các loại lồng đèn, túi xách, bình hoa, nan quạt, lồng chim. Đặc biệt là vào mỗi dịp Festival Huế và Festival làng nghề truyền thống, làng nghề đem các sản phẩm nổi bật của các nghệ nhân đi thi cùng với những sản phẩm thường ngày xã viên làm được đi giới thiệu, trao đổi và nhận được sự yêu thích, đánh giá cao từ du khách và khách hàng [PL.4, H.4-1, tr.280]. 1.3.2. Nghề mây tre đan ở Hà Nội và một số làng nghề tiêu biểu Mây tre đan là nghề thủ công truyền thông lâu đời và phát triển ở Hà Nội. Thực tế, sản phẩm mây tre đan đã có từ hàng nghìn năm qua trong đời sống cộng đồng của người Việt Nam, gắn liền với đời sống và những hoạt động sản xuất nông nghiệp. Nhiều làng nghề mây tre đan truyền thống của Hà Nội như Phú Vinh (Chương Mỹ), Ninh Sở (Thường Tín) hay Phú Túc (Phú Xuyên) đã làm rạng danh nghề đan lát Việt Nam trên thị trường thế giới. Sự phát triển của nghề có lúc thăng lúc trầm theo biến động của xã hội. Thế kỷ XVII là giai đoạn hình thành làng nghề (lúc này chưa thuộc Hà Nội) với những 39 sản phẩm sinh hoạt gắn liền với đời sống nông thôn Bắc Bộ, đây là thời kỳ của sự tích lũy các yếu tố tạo dáng, trang trí trong đan lát để hình thành truyền thống. Từ khoảng đầu thế kỷ XX đến khoảng trước năm 1956 thì sản phẩm thủ công mỹ nghệ trong đó có mây tre đan Hà Nội được người Pháp đánh giá cao và đưa đi giới thiệu ở Hội chợ Paris, trở thành mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế. Từ 1956 đến trước 1986 thì nghề mây tre đan có sự trầm lắng do ảnh hưởng của chiến tranh. Sau 1986 thì nghề bước vào giai đoạn khôi phục và phát triển. Đặc biệt là sau những năm 2000, nghề mây tre đan Hà Nội thể hiện sự chuyển biến tích cực trong sáng tạo với nhiều giải thưởng tại các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ. 1.3.2.1. Làng nghề Phú Vinh (xã Phú Nghĩa, Chương Mỹ, Hà Nội) Trong cuốn Làng nghề Hà Nội - Tiềm năng và triển vọng phát triển của Sở Công Thương Hà Nội phát hành năm 2009 thì nghề mây tre, giang đan ở Hà Nội phát triển nhất ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội với lịch sử gần 400 năm tập trung ở các xã Phú Nghĩa, Trường Yên, Đông Sơn, Đông Phương Yên, Trung Hòa. Trong các làng nghề mây tre đan của huyện Chương Mỹ, thôn Phú Vinh, xã Phú Nghĩa được coi là “Xứ Mây” với lịch sử phát triển nghề lâu đời. Có những sản phẩm mây đan được làm từ làng nghề Phú Vinh, nay vẫn được người đời lưu giữ như một tác phẩm nghệ thuật cổ quý hiếm [129, tr.107]. Tác phẩm bình phong đan mây của các nghệ nhân làng nghề Phú Vinh sáng tác hiện được lưu giữ tại bảo tàng cung đình Huế [PL.1, H.1-5, tr.190]. Mỗi tác phẩm nghệ thuật mây tre đan ở làng nghề truyền thống Phú Vinh đều chứa trong nó sự tài hoa, nét tinh xảo, những tác phẩm nghệ thuật độc nhất vô nhị chỉ có ở Phú Vinh, và những tác phẩm ấy được thăng hoa bằng những sợi mây, tre, giang, nứa dưới bàn tay khéo léo, tài tình của những nghệ nhân làng nghề Phú Vinh. 40 Về lịch sử làng mây tre đan Phú Vinh, cuốn Làng nghề Hà Nội-Tiềm năng và triển vọng phát triển viết: Một làng nghề nổi tiếng và tồn tại gần 400 năm nay, hiện sản phẩm mây tre đan Phú Vinh đã có mặt tại hơn 50 quốc gia trên thế giới. Ở Phú Vinh, trước đây có một địa danh gọi là bãi Cò Đậu vì nơi đây có rất nhiều cò tụ tập, sinh sôi nảy nở thành đàn, nay gọi chệch thành làng Gò Đậu. Ban đầu người dân ở đây dùng lông cò để đan mũ, sau đó dần dần nguồn nguyên liệu cũng có hạn, người dân nhận thấy nguyên liệu mây tre có nhiều tính năng ưu việt hơn và dùng vật liệu này để đan thành nhiều mặt hàng sản phẩm phong phú [136, tr.109]. Ngày nay, ngoài mây tre, nghệ nhân làng nghề đã tìm tòi sáng tạo phát triển thêm cả nguyên liệu giang, nứa, bèo bồng, sắt, thép, gốm sứ để đan, dệt thành sản phẩm ngày một hoàn thiện, sắc nét hơn. Theo nghệ nhân Phú Vinh: “Vào thời vua Thành Thái, làng nghề truyền thống Phú Vinh có 9 cụ nghệ nhân trong làng đã được nhà vua phong sắc” [Phỏng vấn tháng 8 năm 2019]. Khi cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cả nước tập trung toàn quân toàn dân cho kháng chiến nên hoạt động của các làng nghề cũng bị mai một dần, quay lại tập trung sản xuất các mặt hàng phục vụ kháng chiến và phục vụ cuộc sống thường ngày. Về cơ bản, đời sống nhân dân Việt Nam gắn bó với nông nghiệp nên đồ mây tre đan chủ yếu là các mặt hàng nông cụ và phương tiện sản xuất như thúng, mủng, dần, sàng, hoạt động buôn bán chủ yếu là dạng nhỏ lẻ, trao đổi giữa các làng với nhau, số lượng đơn lẻ, giá trị kinh tế chưa cao. Phải đến khi hết chiến tranh, kinh tế chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa theo quy luật của nền kinh tế thị trường, các mặt hàng mây tre đan thủ công mỹ nghệ phát triển hơn và cạnh tranh với một số mặt hàng thủ công khác. 41 Nói về làng nghề Phú Vinh, dân gian xưa có câu: “Làng Mây một vẻ trắng ngần Ở xa thì nhớ, ở gần thì thương” Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, Việt Nam chịu sự đô hộ thực dân Pháp, văn hóa Việt Nam được tiếp xúc và chịu ảnh hưởng của văn hóa Phương Tây. Trong giai đoạn ngắn dưới thời Pháp thuộc, các làng nghề ở Hà Nội được người Pháp chú ý phát triển, trước đây sản phẩm với công năng sinh hoạt, phục vụ cuộc sống lao động sản xuất của người dân, vì nghề mây tre đan là nghề làm thêm của người nông dân trong giai đoạn giữa các vụ mùa, sản phẩm mang tính đời thường, kiểu dáng đơn giàn. Đến khi người Pháp đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống trong đó có nghề mây tre đan thì mẫu mã được cải tiến. Sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc sắc của làng nghề được người Pháp đem sang giới thiệu tại các hội chợ ở Paris và xuất khẩu. Một số hình ảnh người Pháp ghi lại cảnh một gia đình người dân làng nghề mây tre đan Phú Vinh cùng ngồi trên chõng tre đan lát một số sản phẩm đĩa với kỹ thuật tết hoa truyền thống [PL.1, H.1-1, tr.188]. Nét đặc trưng truyền thống trong sản phẩm mây tre đan Hà Nội là hình dáng tuy đơn giản, mộc mạc nhưng kỹ thuật sản xuất lại rất tinh xảo, đòi hỏi sự công phu của những đôi bàn tay tài hoa, khéo léo. Phú Vinh là quê hương của mây đan với những sản phẩm mỹ nghệ bằng mây đạt tới đỉnh cao nghệ thuật tạo hình dân gian của Việt Nam. Các nhóm sản phẩm mây đan truyền thống của Phú Vinh gồm nhiều loại đặc biệt là các hàng đĩa mây, bát mây, chậu mây trang trí [PL.3, H.3-1, tr.270], [PL.3, H.3-2, tr. 271], [PL.3, H.3-3, tr.272]. 1.3.2.2. Làng nghề Ninh Sở (xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội) Theo các nghệ nhân kể lại thì nhân dân ở đây vốn là người thuộc đất Thăng Long. Họ lưu lạc về xã Ninh Sở ngày nay. Vì không có đất và trước hết, do cuộc sống thúc ép, họ phải tạo ra công cụ sản xuất để có thể đơm đó, 42 đánh lờ, đan giỏ mò cua, bắt ốc. Xưa kia ở đây là ruộng đồng chiêm trũng, gọi là đất Ba Gò. Vì có ba nơi đất cao hơn cả nên gọi là gò. Không có đồng điền gì cả. Dân cư thưa thớt ở trên các gò kiếm sống. Khi cạn nước, họ cày cấy, trồng ngô. Ở đây gần sông Hồng vỡ đê luôn, phù sa bồi lên thành ruộng. Có bốn họ: Phạm, Phùng, Lê, Đỗ. Họ cày cấy, đan rổ rá, đan gầu tát nước. Người ở đây do nhu cầu sản xuất mà đan lát. Từ đó, họ dần dần trở nên khéo tay, không những sản xuất ra đủ dùng mà còn mang bán sang các tỉnh lân cận. Người thôn Sâm Dương, xã Ninh Sở ngày nay chính gốc là ở bên Sầm Khế, Trầm Tang bên kia sông. Khi có tên Sâm Dương đã là thời thuộc Pháp. Các cụ ở đây còn kể lại là rằng nghề đan đã có từ ba, bốn trăm năm nay, ít nhất cũng là từ đời Lê Cảnh Hưng. Từ năm 1920 về sau làng tre đan Ninh Sở có nhiều nghệ nhân giỏi, người nghệ nhân kiệt xuất có thể nhìn vào ảnh nghĩ ra cách đan để tạo ra các bức chân dung, tranh ảnh. Trong cuốn Tổng tập làng nghề truyền thống Việt Nam tác giả Thọ Sơn nhận định: Hàng tre đan Ninh Sở nổi tiếng ở các hội chợ Hà Nội, Hà Đông. Và tham gia triển lãm ở Paris năm 1931 với các sản phẩm thích thú người Pháp như cặp sách, lẵng hoa, cặp nan hai ngăn, va li, lẵng đựng hoa quả. Họ đặc biệt thích thú và khen ngợi đôi dép ở trên đan bằng giang, đế tết bằng xơ mướp, đi vừa nhẹ vừa lau bóng sàn nhà gỗ. Những năm 1930, nghề đan ở đây rất phát triển, nhiều công ty tư bản Pháp, vì được độc quyền xuất khẩu, đã mua đem về bán ở Pháp. Trong thời Pháp thuộc, nhân dân Ninh Sở đan các mặt hàng cải tiến để xuất khẩu: các loại làn, vali, bồ đựng giấy. Đến thời kỳ chiến tranh, vì cả nước tập trung toàn lực cho kháng chiến nên nghề đan lát tạm thời bị ngắt quãng. Phải đến sau năm 1958, nghề mới được phục hồi và phát triển đến nay với nhiều mặt hàng xuất khẩu quốc tế [37, tr.297]. 43 Theo các nghệ nhân trong làng chia sẻ thì ngoài sản xuất là những đồ dùng thông dụng trong cuộc sống hàng ngày như đĩa, khay, túi xách, rổ, rá những người dân làng nghề Ninh Sở còn sáng tạo ra những sản phẩm mang tính mỹ thuật cao như bình hoa, đồ trang trí nội thất, đồ trang sức. Các sản phẩm này đa dạng với nhiều kiểu dáng, kích thước, được làm từ nguyên liệu cỏ, mây, tre được xuất khẩu ra thị trường các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á. Một số sản phẩm đặc sắc của NN Nguyễn Thị Thu, NN Bùi Thu Nguyệt được đánh giá cao tại các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm [PL.3, H.3- 6, tr.275], [PL.3, H.3-8, tr.277]. 1.3.2.3. Làng nghề Đông Phương Yên (xã Đông Phương Yên, Chương Mỹ, Hà Nội) Không có nhiều tài liệu nghiên cứu viết riêng về làng nghề Đông Phương Yên, tuy nhiên trong một số tài liệu liên quan đến nghề mây tre đan thì đều nhắc đến làng nghề này như một trong những làng nghề tiêu biểu của Hà Nội bên cạnh Phú Vinh, Ninh Sở. Đông Phương Yên là một trong những làng nghề tuổi đời tính bằng trăm năm ở khu vực Chương Mỹ với nhiều sản phẩm mây tre đan có giá trị xuất khẩu. Giai đoạn 1986-2019, sản phẩm mây tre đan Đông Phương Yên tham gia và đạt nhiều giải thưởng tại các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ quy mô lớn. Nhóm sản phẩm tiêu biểu của Đông Phương Yên là các loại hộp, khay có tính trang trí cao, sử dụng màu sơn tạo nhiều màu sắc đa dạng cho sản phẩm đan. Theo họa sỹ Vũ Hy Thiều thì: “Các sản phẩm tre đan Đông Phương Yên có sự đặc sắc trong việc thay đổi kích thước nan đan tạo ra những mảng họa tiết phong phú, kết hợp với màu sắc tương phản của sợi nan, tiêu biểu là sản phẩm của nghệ nhân Nguyễn Bá Bốt” [Phỏng vấn tháng 8 năm 2019]. Sản phẩm của làng nghề này hiện nay cũng đang được cải tiến mẫu mã từng ngày để ngày càng tiếp cận gần hơn với thị trường quốc tế. Một số sản phẩm tiêu biểu của NN Nguyễn 44 Bá Bốt được đánh giá cao về độ tin xảo và giá trị thẩm mỹ [PL.3, H.3-5, tr.274]. 1.3.2.4. Làng nghề Phú Túc (xã Phú Túc, Phú Xuyên, Hà Nội) Làng nghề Phú Túc là một làng nghề đan lát lâu đời với nhiều sản phẩm mây tre đan lưu niệm có giá trị xuất khẩu cao. Trước đây, làng nghề chuyên sản xuất các mặt hàng từ loại cây guột mọc hoang dại tại các vùng rừng núi phía Bắc và một số tỉnh miền Trung. Bằng đôi bàn tay khéo léo, tài hoa nghệ nhân làng nghề đã tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng rổ, rá, tủ, bàn ghế, khung ảnh, lọ hoa, con giống. Làng Lưu Thượng (xã Phú Túc) là nơi khởi đầu nghề truyền thống mây tre đan guột từ thế kỷ XVII. Từ Lưu Thượng, nghề mây tre đan guột phát triển lan ra cả xã Phú Túc và các vùng phụ cận tồn tại đến tận ngày nay. Tác giả Nguyễn Thị Thu Phương nhận định “Trước 1945, thời kỳ Pháp đô hộ nước ta, cuộc sống của người dân hết sức khó khăn. Họ phải tự vươn lên làm nghề để kiếm sống. Sự bươn chải và nhạy cảm với nghề đã khiến người dân trong xã sáng tác ra nhiều mẫu mã” [101, tr.33]. Giai đoạn sau đổi mới, đặc biệt là khoảng những năm 1990, khi việc tiêu thụ hàng gặp nhiều khó khăn thì cũng là lúc những người dân Phú Túc tìm cách phát triển nghề mây tre đan của quê hương. Hiện nay làng đã được thành phố Hà Nội công nhận là làng nghề với nhiều nghệ nhân của làng được nhà nước phong tặng và đạt danh hiệu bàn tay vàng, bàn tay bạc tại hội chợ trong nước và các quốc tế. Trong đó các sản phẩm của NN Nguyễn Thị Lương được nhiều giải thưởng tại cuộc thi thiết kế mẫu [PL.3, H.3-4, tr.273]. 1.3.3. Khái quát đặc điểm sản phẩm mây tre đan Hà Nội những năm đầu thế kỷ XX đến 1986 1.3.3.1. Chủng loại và kiểu dáng truyền thống Nghề mây tre đan được mô tả trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình thông qua tác phẩm “Đan mây” sáng tác năm 1957 của họa sỹ Nguyễn Phan Chánh. 45 Hình ảnh các thiếu nữ Hà Nội ngồi đan mây, vừa trò chuyện trong một không gian bình dị bên cạnh những chiếc đĩa mây. Điều này cho thấy nghề mây tre đan là một nghề thủ công có sự gắn bó mật thiết với đời sống con người Việt Nam từ nông thôn đến thành thị [PL.1, H.1-6, tr.191]. Trong bức tranh này, có sản phẩm hộp mây, đĩa mây là những sản phẩm xuất khẩu đặc sắc của Hà Nội thời Pháp thuộc, thậm chí mặt hàng mây tre đan còn được tham dự Hội chợ Paris. Trong bài viết “Nghề mây tre đan cổ truyền ở Đồng Bằng Bắc Bộ”, tác giả Lê Huyên có nhận định về một số loại hình sản phẩm mây tre đan trong lịch sử như “Nông cụ gồm: gầu song, gầu dai. Dụng cụ đánh cá: thuyền, đăng, đó, giỏ, nơm, lờ. Công cụ săn bắn: bẫy, lồng chim. Đồ gia dụng: dần, sàng, rổ, rá Đồ thờ cúng: hoành phi, câu đối, bình phong. Đồ xuất khẩu: đĩa, lẵng, hộp” [37, tr.206]. Nghề mây tre đan ở các làng nghề Bắc Bộ nói chung và Hà Nội nói riêng ra đời trong bối cảnh người nông dân tăng gia trong thời gian nghỉ giữa vụ mùa. Người nông dân sản xuất sản phẩm mây tre đan xuất phát từ nhu cầu sử dụng của con người, sản phẩm chủ yếu để phục vụ trước tiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật nên sản phẩm được tạo dáng hình tròn, vuông, chữ nhật, elip của các sản phẩm gia dụng như lồng bàn, thúng, mủng, dần, sàng, sau này trong trong thời kỳ Pháp thuộc thì người Pháp chú trọng phát triển các nghề thủ công và đem sản phẩm thủ công Việt Nam giới thiệu tại các hội chợ ở Pháp thì chủng loại, kiểu dáng sản phẩm mây tre đan đa dạng hơn, xuất hiện sản phẩm trang trí như khay, đĩa, hộp trang sức trên đó các kiểu đan được biến đổi một cách linh hoạt, sáng tạo thành các họa tiết trang trí đặc sắc. Cho đến ngày nay, chủng loại sản phẩm mây tre đan xuất khẩu ở Hà Nội đã rất đa dạng và phong phú. Theo cuốn Làng nghề Hà Nội-Tiềm năng và cơ hội phát triển mô tả về một số chủng loại và kiểu dáng tiêu biểu của làng nghề Phú Vinh gồm: 46 Đĩa mây: gồm đĩa tròn, đĩa bát giác, đĩa rua miệng, đĩa vuông, đĩa chữ nhật, đĩa bán nguyệt, đĩa vỏ dưa, đĩa hoa muống, đĩa lót tròn. Bát mây: có bát răng cưa, bát rua miệng, bát trơn mộc, bát đáy dày. Chậu mây: có chậu đứng cong, chậu thắt suốt, chậu thau. Lẵng mây: lẵng xách tay, lẵng bán nguyệt, lẵng quai chai. Làn mây: làn viên trụ, làn chữ nhật, làn kép, làn đơn [129, tr.118]. 1.3.3.2. Hình thức trang trí truyền thống Trong cuốn Làng nghề Hà Nội - Tiềm năng và triển vọng phát triển của Sở Công Thương Hà Nội phát hành năm 2009 thì sản phẩm mây tre đan truyền thống của làng nghề mây tre đan Hà Nội tiêu biểu như Phú Vinh là tranh ảnh với các chủ đề chân dung, phong cảnh, hoa văn tạo bởi những kỹ thuật đan đen trắng hay các sản phẩm ứng dụng trong cuộc sống thường nhật như khay, đĩa, lẵng với cách thức trang trí bằng kỹ thuật đan, tết các loại hoa với những cái tên dân gian như hoa tết tóc, hoa bùa, hoa chanh, sản phẩm hội tụ gần như đủ hết các lối đan tết hoa trang trí đặc trưng của Phú Vinh phải kể đến sản phẩm Rồng thời Lý của nghệ nhân Hoàng Văn Khu được sử dụng kết hợp mười hai kiểu đan khác nhau [PL.1, H.1-7, tr.192], mỗi một chi tiết của sản phẩm cụ lại dùng một kiểu đan khác nhau thể hiện một cách sống động tạo hình rồng, những sợi mây đường kính nhỏ, mảnh như sợi chỉ được đan khéo léo thể hiện trình độ tay nghề tinh xảo cũng như tư duy tạo hình dân gian thấm đượm hồn Việt. Ngoài ra trên các sản phẩm truyền thống của Phú Vinh còn có các loại hoa văn truyền thống như hoa cúc, hoa mai hoặc có thể là hoa văn đề tài Tứ linh, họa tiết chữ Hán. Màu sắc trong trang trí sản phẩm mây tre đan chủ yếu là màu tự nhiên, màu tự thân của vật liệu. “Dùng sợi mây, nan tre để làm được việc đã khó, nhưng còn khó hơn nhiều khi dùng nó để mô tả phong cách, dáng điệu một chân dung con người. Nếu như các họa sĩ vẽ tranh được dùng tới 7 47 màu cơ bản để thể hiện tác phẩm, thì với nghề đan mây chỉ có thể dùng 2 màu đen và trắng. Màu đen là màu của cật giang, được nhuộm từ nước quả bàng, còn màu trắng là màu trắng ngà tự nhiên của dây mây. Với 2 màu ấy, nghệ nhân phải nghiên cứu, tính toán, đan làm sao cho toát lên cái hồn của tác phẩm. Tả phong cảnh có thể chấp nhận, nếu có sai sót kỹ thuật, còn tả chân dung một con người phải làm sao vừa đẹp vừa giống, là điều cực khó. Nếu đẹp mà không giống thì cũng bỏ đi, nếu giống mà lại không đẹp cũng vô ích” [129, tr.111]. Màu đen là màu của sợi mây được nhuộm từ nước quả bàng, còn màu trắng là màu trắng ngà tự nhiên của dây mây. Trong cuốn Tổng tập làng nghề truyền thống Việt Nam, bài viết “Tre đan Ninh Sở” của tác giả Thọ Sơn thì các sản phẩm tre đan Ninh Sở giai đoạn 1920-1956 được đem giới thiệu tại hội chợ Paris và xuất khẩu chủ yếu các loại túi xách, lẵng hoa, cặp nan hai ngăn, va li, lẵng đựng hoa quả, sau đó các sản phẩm xuất khẩu được cải tiến thì nổi tiếng với các sản phẩm làn, va li, bồ đựng giấy [37, tr.297] với những kiểu dáng hình khối cơ bản. Nói về trang trí trên sản phẩm, theo nghệ nhân Nguyễn Thị Thu thì trang trí trên các sản phẩm tre đan Ninh Sở trước đây là các dạng hoa văn tạo như các họa tiết hoa chanh hay họa tiết hình quả trám, hình chữ thập bởi các kỹ thuật đan nong mốt nong, nong đôi, nong ba kết hợp với sự tương phản màu sắc. Sau này nghệ nhân Ninh Sở phát triển thêm các họa tiết hoa văn đan bằng các cách thức thay đổi kích thước nan đan, khoảng cách các nan đan tạo nên những kiểu trang trí phong phú và đa dạng trên sản phẩm. 1.3.3.3. Kỹ thuật truyền thống Trong các yếu tố tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan nói chung cũng như sản phẩm mây tre đan Hà Nội nói riêng, yếu tố quan trọng nhất là kỹ thuật đan. Sản phẩm mây tre đan Hà Nội đặc sắc ở kỹ thuật mây tre đan điêu luyện và tinh xảo, đặc biệt các nghệ nhân bằng hình thức cha truyền con 48 nối đã kế thừa được những kiểu đan cơ bản, truyền thống như làng nghề Phú Vinh với kiểu đan đen trắng đến những kiểu đan hết sức phức tạp mang nét đặc trưng của làng nghề như: tết các loại hoa (hoa răng cưa, hoa rế, hoa sáu, hoa bùa, hoa tết tóc, các loại bông), các kỹ thuật căng đáy, đậu (tết) hoa, đan ghế, đan các loại tranh con giống, tranh cây cảnh, tranh phong thủy, đan chân dung người. Các kiểu đan vô cùng phong phú và đa dạng nhưng chủ yếu là sáng tạo của các nghệ nhân trên cơ sở những kiểu cơ bản. Đối với khía cạnh tạo dáng và trang trí sản phẩm, các kiểu đan chia thành các nhóm những kiểu đan tạo thành các loại rá rổ và các đồ dùng có hình bán cầu, miệng tròn, mắt thưa. Kiểu đan tạo hình các sản phẩm đáy tròn, thân cuốn hình trụ hay hình khum hay...ết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 18 Mây + Gỗ Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 19 Mây + Gỗ Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 20 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 21 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 22 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 23 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản bề mặt 24 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 25 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 26 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 27 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 28 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết hoa văn 29 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 30 Mây Quấn mây Hiệu ứng bề mặt 31 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết lượn sóng 32 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 261 33 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 34 Mây Quấn mây Họa tiết đan 35 Tre Đan nong mốt Họa tiết đan 36 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 37 Tre Xếp nan Kiểu dáng 38 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 39 Tre Đan nong mốt xếp chéo nan Họa tiết đan 40 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 41 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan, cài Tương phản bề mặt 42 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng Giai đoạn 2010-2019 1 Tre Đan hoa dâu Họa tiết đan 2 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 3 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 4 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 262 5 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản bề mặt 6 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 7 Mây Xâu xiên Kiểu dáng 8 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 9 Guột Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 10 Guột Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản màu sắc 11 Tre + Sơn mài Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 12 Guột Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản màu sắc 13 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản mau sắc 14 Tre+ Sơn mài Đan nong mốt Tương phản vật liệu 15 Tre + Sơn mài Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 16 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 17 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 18 Mây Xâu xiên Kiểu dáng 19 Mây Xâu xiên Tương phản vật liệu 20 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản vật liệu 263 21 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 22 Mây Xâu xiên Tương phản chất liệu 23 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 24 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 25 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 26 Mây Xâu xiên Họa tiết đan 27 Tre Đan nong mốt Kiểu dáng 28 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 29 Mây Xâu xiên Kiểu dáng 30 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 31 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 32 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 33 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 34 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản màu sắc 35 Mây Tết hoa Họa tiết đan 36 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 264 37 Mây Đan tự do Họa tiết đan 38 Mây Tết hoa Họa tiết đan 39 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 40 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản bề mặt 41 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 42 Mây Gắn quả bông Hiệu ứng bề mặt 43 Mây Uốn nan Kiểu dáng 44 Mây Uốn nan Họa tiết đan 45 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Bề mặt 46 Mây Đan nong mốt Họa tiết đan 47 Mây Đan nong mốt xếp chéo nan Kiểu dáng 48 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 49 Mây Đan nong mốt Bề mặt 50 Mây Đan rối Họa tiết đan 51 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 52 Mây + Tre Đan rối Tương phản màu sắc, vật liệu 265 53 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản bề mặt, màu sắc 54 Tre Uốn nan Kiểu dáng 55 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Tương phản bề mặt 56 Tre Đan nong mốt Kết hợp nhiều kỹ thuật đan 57 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 58 Mây Đan tự do Họa tiết đan 59 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 60 Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Kiểu dáng 61 Mây + Tre Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 62 Tre Đan nong mốt Kiểu dáng 63 Mây Kết hợp nhiều kỹ thuật đan Họa tiết đan 64 Tre Uốn nan Kiểu dáng 266 Bảng 2.2. Bảng mô tả màu sắc của sản phẩm mây tre đan Hà Nội giai đoạn 1986-2019 STT Hình ảnh sản phẩm Màu sắc STT Hình ảnh sản phẩm Màu sắc Giai đoạn 1986-2000 1 2 3 4 5 6 Giai đoạn 2001-2009 1 2 3 4 267 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 268 Giai đoạn 2010-2019 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 269 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 270 PHỤ LỤC 3 MINH HỌA MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SÁNG TẠO SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN HÀ NỘI Hình 3-1. Sản phẩm đặc trưng kỹ thuật đan tranh ảnh của làng nghề Phú Vinh. Nguồn ảnh: Tác giả luận án chụp tháng 8 năm 2018 và tổng hợp nghiều nguồn. 271 Hình 3-2. Sản phẩm đặc trưng phương pháp xâu xiên của làng nghề Phú Vinh. Nguồn ảnh: Tác giả luận án chụp tháng 8 năm 2018 và tổng hợp nhiều nguồn. 272 Hình 3-3. Sản phẩm đặc trưng phong cách tết hoa của làng nghề Phú Vinh. Nguồn ảnh: Tác giả luận án chụp tháng 8 năm 2018 và tổng hợp nhiều nguồn. 273 Hình 3-4. Sản phẩm mây tre đan của NN Nguyễn Thị Lương, làng nghề Phú Túc. Nguồn ảnh: Sở Công thương. 274 Hình 3-5. Sản phẩm mây tre đan của NN Nguyễn Bá Bốt làng nghề Đông Phương Yên. Nguồn ảnh: Họa sỹ Vũ Hy Thiều. 275 Hình 3-6. Một số sản phẩm mây tre đan kết hợp sơn mài, NN Nguyễn Thị Thu. Nguồn ảnh: NN Nguyễn Thị Thu. 276 Hình 3-7. Một số sản phẩm đèn của NN Nguyễn Văn Tĩnh. Nguồn ảnh: NN Nguyễn Văn Tĩnh. 277 Hình 3-8. Một số sản phẩm túi tre đan kiểu dáng mới của NN Bùi Thu Nguyệt làng nghề Ninh Sở. Nguồn ảnh: Tác giả luận án chụp tháng 7 năm 2017. 278 Hình 3-9. Một số sản phẩm hoa tai mây tre đan. Nguồn ảnh: NN Nguyễn Thị Hân. 279 (a) (b) Hình 3-10. Một số họa tiết chữ Hán trên sản phẩm hoành phi của nghệ nhân Trần Văn Cửu (a) và Nguyễn Văn Cuộc (b). Nguồn ảnh: Họa sỹ Vũ Hy Thiều. 280 PHỤ LỤC 4 MINH HỌA SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN MỘT SỐ KHU VỰC Hình 4-1. Sản phẩm mây tre đan Bao La tham dự triển lãm MTƯD toàn quốc. Nguồn ảnh: Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm. 281 H.4-2a. Sản phẩm giỏ Liên Khê (Hưng Yên) H.4-2b. Sản phẩm mành Tăng Tiến (Bắc Giang) H.4-2c.Sản phẩm tranh tre Xuân Lai (Bắc Ninh) H.4-2d. Sản phẩm thúng Thạch Cầu (Nam Định) Hình 4-2. Sản phẩm mây tre đan một số làng nghề nổi tiếng ở Bắc Bộ. Nguồn ảnh: Triển lãm mỗi làng một sản phẩm OCOP và tổng hợp nhiều nguồn. 282 Hình 4-3. Một số sản phẩm túi mây đan của Indonesia, đang được sản xuất và tiêu thụ với những đơn hàng lớn. Nguồn ảnh: Internet, truy cập tháng 5 năm 2019. 283 Hình 4-4. Một số tác phẩm tre đan nghệ thuật của Nhật Bản triển lãm Modern Twist. Nguồn ảnh: Tổng hợp nhiều nguồn từ Internet, truy cập tháng 8 năm 2019. 284 Hình 4-5. Minh họa kỹ thuật đan tre Nhật Bản. Nguồn ảnh: https://www.geoex.com/blog/oita-odyssey/. Truy cập ngày 21 tháng 6 năm 2019. 285 Hình 4-6. Minh họa kỹ thuật đan tre Đài Loan. Nguồn ảnh: Trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội. 286 PHỤ LỤC 5 THỐNG KÊ CÁC SẢN PHẨM MÂY TRE ĐAN KHẢO SÁT Bảng 5.1. Danh mục các sản phẩm tiêu biểu giai đoạn 1986-2000 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ Cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng Hội thi Truyền thống mùa xuân năm 1986 1 Hộp lá dừa Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhất tỉnh Hà Sơn Bình (cũ), Huy chương Vàng toàn quốc 2 Hộp quả na Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhì tỉnh Hà Sơn Bình (cũ), Huy chương Đồng toàn quốc Hội thi Truyền thống mùa xuân năm 1987 3 Hộp quả dứa Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhất tỉnh Hà Sơn Bình (cũ), Huy chương Vàng toàn quốc 4 Hộp giang đan Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhì tỉnh Hà Sơn Bình Giải thưởng Sản phẩm nông nghiệp nông thôn tiêu biểu năm 1987 5 Cặp sách tròn đan mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhất 6 Lồng bàn cổ đan mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh 7 Hộp trang sức đan mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Triển lãm "Coca Cola và nghệ thuật dân tộc" (Chào mừng Olympic Atlanta năm 1996 tại Mỹ) 287 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ Cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng 8 Chai Coca Cola đội nón bài thơ Lê Huy Văn – Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhất khu vực châu Á Kỷ niệm 100 năm hãng xe đạp Diamant của CHLB Đức 9 Xe đạp mini bằng mây đan Lê Huy Văn – Các nghệ nhân Hà Nội Được đặt hàng thiết kế bởi khách nước ngoài Haymann Kollektion 10 Va-li mây đan Lê Huy Văn – Các nghệ nhân Hà Nội Bảng 5.2. Danh mục các sản phẩm tiêu biểu giai đoạn 2001-2019 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc lần I năm 2004 1 Hộp tre bộ Ba Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Huy chương Bạc Cuộc thi Tinh hoa Việt năm 2005 2 Đèn lồng tre đan Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhất Cuộc thi Sáng tác kiểu dáng sản phẩm “Golden-V” năm 2005 (Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức) 3 Lọ hoa gài xiên Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải “Sáng tạo kiểu dáng mới” Cuộc thi Sáng tác kiểu dáng sản phẩm “Golden-V” năm 2006 288 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng 4 Bộ hộp nữ trang Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải “Sáng tạo kiểu dáng mới” 5 Đèn treo mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhất 6 Đèn đan mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Khuyến khích Cuộc thi Thiết kế sáng tạo do Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) tổ chức năm 2006 7 Lồng bàn cổ đan mây Nguyễn Trọng Tân Phú Vinh Giải Nhất Cuộc thi Thiết kế mẫu Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam 2007 (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức) 8 Bộ giỏ đựng trái cây Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Ba Cuộc thi Thiết kế mẫu Sản phẩm thủ công mỹ nghệ Việt Nam 2009 9 Đèn treo đan thưa Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhì 10 Bộ bình mây cha và con Nguyễn Văn Bình Phú Vinh Giải Khuyến khích 11 Cây đèn đan hoa văn Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Khuyến khích 12 Vali Hoàng Văn Thịnh Phú Vinh Giải Khuyến khích Hội hoa 2009 289 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng (Chào mừng đại lễ 1000 năm Thăng Long Hà Nội năm 2010) 13 Bình hoa sen mây Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Sách Kỷ lục Việt Nam công nhận Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc lần II (năm 2009) 14 Bộ đèn trang trí Nguyễn Thị Hân Phú Vinh Giải Khuyến khích 15 Đèn treo thập nhị tâm Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Huy chương Bạc “Cúp 1000 năm Thăng Long” năm 2010 16 Bộ đèn hoa sen Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Đoạt giải và được chọn trưng bày Triển lãm tại 3 miền Bắc - Trung - Nam “Bình chọn Quốc hoa” Triển lãm MTƯD chuyên đề: Thiết kế mẫu và sản phẩm mây, tre (năm 2011) 17 Bộ đèn sàn Hương Việt Nguyễn Văn Bình Phú Vinh Giải Nhất 18 Bộ đèn treo quả bông Nguyễn Thị Hân Phú Vinh Giải Nhì 19 Bộ bàn ghế song mây Nguyễn Hữu Hạnh Hà Nội Giải Nhì 20 Đèn mây, tre hai lớp Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhì 290 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng 21 Đèn hoa sen Nguyễn Thị Thu Ninh Sở Giải Nhì 22 Giỏ để rượu Hoàng Văn Hời Phú Vinh Giải Ba 23 Đèn sàn hình trụ Hoàng Văn Hạnh Phú Vinh Giải Ba 24 Lẵng hoa bàn Nguyễn Trọng Hiếu Hà Nội Giải Ba 25 Bộ khay tre Đỗ Huy Kiều Hà Nội Giải Ba 26 Lồng chim 1 Nguyễn Văn Nghệ Hà Nội Giải Ba 27 Bộ đăng nhất tâm Trần Ngọc Phước Phú Vinh Giải Ba 28 Bộ đèn ống, đèn trụ Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Ba 29 Túi hoa hộp Hoàng Văn Thịnh Hà Nội Giải Ba 30 Đèn cây đan mây Nguyễn Văn Tuấn Hà Nội Giải Khuyến khích 31 Lọ tròn Đỗ Thị Tha Hà Nội Giải Khuyến khích 32 Làn mây Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Khuyến khích 33 Đèn đan rối Nguyễn Văn Việt Hà Nội Giải Khuyến khích Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc lần III (năm 2014) 291 STT Tên sản phẩm Tên tác giả/ cơ sở sản xuất Địa chỉ Giải thưởng 34 Gia đình nhà ốc Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh 35 Khay tre hình chữ nhật, đèn lồng vuông Đỗ Huy Kiều Hà Nội Giải Ba 36 Lọ gài hoa Tre Hồ Mi Xa Hà Nội Giải Khuyến khích 37 Bộ đèn lồng vuông Đỗ Thị Len Hà Nội Giải Khuyến kích 38 Bộ đèn treo hình trám lệch Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Khuyến kích Triển lãm Mỹ thuật ứng dụng toàn quốc lần IV (năm 2019) 39 Bộ đèn đan vẩy rồng Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhất 40 Bộ bàn ghế mây Hoàng Văn Hời Phú Vinh Giải Nhì 41 Bộ đĩa, lồng, hộp mây Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Ba 292 Bảng 5.3. Sản phẩm tiêu biểu tại các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ Hà Nội 2010-2019 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 1 Bộ trải bàn ăn đan mây hoa thổ cẩm Nguyễn Thị Hân Phú Vinh Giải Nhất 2 Bộ đèn đan vân mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhì 3 Bát mây bộ đôi đan hình cánh quạt Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Nhì 4 Hộp hoa sóng rắn hình chữ nhật Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Nhì 5 Hộp tròn vân sóng Đỗ Huy Kiều Hà Nội Giải Ba 6 Khay để hoa quả đan mắt cáo 3D Hoàng Văn Hời Phú Vinh Giải Ba 7 Bộ đĩa mây trang trí tranh dân gian Nguyễn Văn Bình Phú Vinh Giải Ba 8 Túi đeo hoa sóng rắn hộp tròn Hoàng Văn Hạnh Phú Vinh Giải Khuyến khích 293 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 9 Làn mây giằng chéo hình bầu dục Nguyễn Thị Minh Huệ Phú Vinh Giải Khuyến khích 10 Bộ rổ mây đựng hoa quả Nguyễn Thị Phương Phú Vinh Giải Khuyến khích 11 Hộp hoa rế hình bầu dục Nguyễn Thị Nhài Phú Vinh Giải Khuyến khích 12 Đèo treo hình quả trám Nguyễn Đức Nhu Phú Vinh Giải Khuyến khích 13 Lẵng xách tre Đỗ Huy Cường Hà Nội Giải Ba 14 Hộp tròn đựng trang sức 15 Lọ lục bình trắng trám trắng Nguyễn Thị Lương Phú Vinh Giải Khuyến khích 16 Đèn treo trang trí Nguyễn Văn Trung Phú Vinh Giải Khuyến khích 17 Hộp tròn dào guột Nguyễn Đình Lượng Phú Vinh Giải Khuyến khích 18 Thời công chúa Nguyễn Đình Hoạt Phú Vinh Giải Khuyến khích 19 Khay mấn bộ 3 Nguyễn Văn Thịnh Phú Vinh Giải Khuyến khích 20 Hộp kẹo 4 ngăn 21 Bộ 3 bát mặt trăng Trần Thị Tươi Phú Vinh Giải Khuyến khích 294 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 22 Bộ 3 bát mặt trời 23 Hộp mây tre đan Nguyễn Văn Việt Phú Vinh Giải Khuyến khích 24 Lồng bàn tre Đỗ Huy Kiều Phú Vinh Giải Khuyến khích 25 Đèn treo mây Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Khuyến khích 26 Bộ sản phẩm gốm xiên mây Vũ Hùng Phương Bát Tràng Giải Khuyến khích 27 Đĩa hoa tám cạnh Nguyễn Bá Bốt Đông Phương Yên Giải Khuyến khích 28 Bộ ba có đai nan cột tự nhiên Nguyễn Bá Trình Đông Phương Yên Giải Khuyến khích 29 Lọ tế đỏ Trần Thị Luyên Phú Túc Giải Khuyến khích 30 Đĩa tròn bộ ba Nguyễn Văn Việt Phú Vinh Giải Khuyến khích 31 Thùng đựng quần áo bằng cói Công ty MTĐ Trường Vượng Đông Phương Yên Giải Ba 32 Làn Công ty MTĐ Thu Nguyệt Ninh Sở Giải Khuyến khích 33 Chậu thau tròn Nguyễn Văn Tuấn Phú Vinh Giải Khuyến khích 34 Đèn nguyệt đăng Nguyễn Bá Điệp Đông Phương Yên Giải Khuyến khích 35 Ghế mây nằm, ngồi Nguyễn Hữu Hạnh Thạch Thất Giải Khuyến khích 295 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 36 Làn đựng kim chỉ Công ty Mỹ thuật MBB Thanh Trì Giải Khuyến khích 37 Đèn treo hình cầu Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Khuyến khích 38 Mũ lưỡi trai nam MTĐ Tân Tiến Ninh Sở Giải Khuyến khích 39 Đồng hồ xanh Phạm Đăng Minh Sóc Sơn Giải Khuyến khích 40 Lọ hoa đan tre MTĐ Duy Thắng Hà Đông Giải Ba 41 Đèn mây tre đan để bàn Trần Thị Tuyết Phú Vinh Giải Khuyến khích 42 Đèn mây tre chữ nhật Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Khuyến khích 43 Bát hộp tròn mây tre đan MTĐ Tân Tiến Ninh Sở Giải Khuyến khích 44 Đèn cây mây tre trang trí phòng khách Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Khuyến khích 45 Giỏ hoa mây tre Nguyễn Trọng Hiếu Phú Vinh Giải Khuyến khích 46 Giỏ đựng đồ đan mây Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Khuyến khích 47 Giỏ trái cây chất liệu mây tre Hoàng Văn Hời Phú Vinh Giải Khuyến khích 48 Đèn ngủ ống tre Kiều Quốc Công Phú Vinh Giải Khuyến khích 296 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 49 Rổ mây tre hình lục lăng Nguyễn Bá Bốt Đông Phương Yên Giải Khuyến khích 50 Đèn ngủ mây tre Cơ sở sản xuất Nguyễn Văn Mùa Phú Túc Giải Khuyến khích 51 Giỏ mây tre Nguyễn Đình Hoàng Phú Vinh Giải Khuyến khích 52 Ếch mây tre đan guột Nguyễn Thị Thơm Phú Túc Giải Khuyến khích 53 Âu mây Nguyễn Thị Hân Phú Vinh Giải Khuyến khích 54 Bộ đèn treo cài hoa văn Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Nhất 55 Chao đèn mây tre bộ Ba hình trám lệch Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Nhì 56 Đèn lồng mây Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Ba 57 Bộ chao đèn Nguyễn Văn Vinh Phú Vinh Giải Khuyến khích 58 Bộ lồng đèn vuông Đỗ Thị Len Phú Vinh Giải Khuyến khích 59 Đèn treo đan thưa Nguyễn Văn Tĩnh Phú Vinh Giải Nhì 60 Bộ bình mây cha và con Nguyễn Văn Bình Phú Vinh Giải Khuyến khích 61 Cây đèn đan hoa văn Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Khuyến khích 297 STT Tên sản phẩm Tác giả Địa chỉ Giải thưởng 62 Va ly Hoàng Văn Thịnh Phú Vinh Giải Khuyến khích 63 Bộ giỏ đựng trái cây Nguyễn Phương Quang Phú Vinh Giải Ba 298 PHỤ LỤC 6 6.1. Ý kiến của chuyên gia Họa sỹ Vũ Hy Thiều (76 tuổi, họa sỹ, chuyên gia thủ công mỹ nghệ Việt Nam, Hà Nội) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 8 năm 2019 Hỏi: Ông nhận định thế nào về nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội nói chung? Trả lời: Nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan có nhiều nét đặc sắc đặc biệt ở các làng nghế PhúVinh, Ninh Sở, Đông Phương Yên với những sản phẩm có tính nghệ thuật cao, được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế. Hỏi: Theo ông, nghệ thuật tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan Hà Nội đặc sắc ở những điểm nào? Trả lời: Với Ninh Sở, nét đặc sắc thể hiện ở kỹ thuật biến đổi nan trên sản phẩm tre đan, các sản phẩm Đông Phương Yên thì đan đáy, các nan được chế tác biến đổi phong phú, còn Phú Vinh chỉ sử dụng kích thước nan nhỏ. Đặc biệt Ninh Sở có sự thay đổi kích thước các nan đan để tạo nhịp điệu trang trí trên sản phẩm. Với Phú Vinh thì đặc sắc là kỹ thuật đan đen trắng với các sản phẩm tranh ảnh, các kỹ thuật tết hoa. Các sản phẩm của Ninh Sở thì quá trình đan được thực hiện liên tục còn các sản phẩm của Phú Vinh có thể đan chi tiết rồi ghép sản phẩm. Nhóm sản phẩm tiêu biểu của Đông Phương Yên là các loại hộp, khay có tính trang trí cao, sử dụng màu sơn tạo nhiều màu sắc đa dạng cho sản phẩm đan. Đặc biệt các sản phẩm tre đan Đông Phương Yên có sự đặc sắc trong việc thay đổi kích thước nan đan tạo ra những mảng họa tiết phong phú, kết hợp với màu sắc tương phản của sợi nan, tiêu biểu là sản phẩm của nghệ nhân Nguyễn Bá Bốt. 299 Hỏi: Ông nhận định thế nào về xu hướng phát triển sản phẩm mây tre đan? Trả lời: Nên đi theo cả 2 xu hướng sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục phát huy những sản phẩm trang trí, lưu niệm có giá trị nghệ thuật. Hỏi: Có ý kiến cho rằng sản phẩm các làng nghề hiện nay không có gì đổi mới, chưa có sự sáng tạo, ông nhận định thế nào về ý kiến này? Trả lời: Thông qua các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc biệt là từ sau năm 2000, có thể thấy sức sáng tạo của các nghệ nhân rất tiềm tàng, chỉ khi có những cuộc thi họ mới có cơ hội thể hiện. Những người nghệ nhân khi làm sản phẩm phải có mục đích, làm sản phẩm để bán hoặc tham gia các cuộc thi thì phải đạt giải. Tôi đánh giá cao vai trò của các cuộc thi trong kích thích sức sáng tạo của người nghệ nhân. Hỏi: Theo ông, tác động của thiết kế đối với sản phẩm mây tre đan? Trả lời: Điều quan trọng trong thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ nói chung, mây tre đan nói riêng là tìm những hình dáng phù hợp với kỹ thuật thể hiện, không những nghề mây tre đan mà các nghề thủ công mỹ nghệ khác đều cẩn đầu tư về mặt tạo dáng để đem đến cho sản phẩm giá trị hàng hóa. Hỏi: Ông đánh giá thế nào về một số mẫu sản phẩm mây tre đan của Hà Nội qua các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ gần đây? Trả lời: Mẫu mã sản phẩm mây tre đan của Hà Nội đa dạng và phong phú về tạo dáng và trang trí. Một số sản phẩm có tính nghệ thuật cao, ví dụ Đèn treo đan mây của tác giả Nguyễn Văn Tĩnh là một trong những sản phẩm xuất sắc của nghệ thuật mây tre đan Việt Nam. Sản phẩm có hình khối tròn với đường chu vi uốn lượn khỏe mạnh. Mỗi phần trên sản phẩm được đan bằng một kiểu đan truyền thống khác nhau, đều hết sức tinh xảo, đều bằng chất liệu mây tre đan. 300 6.2. Ý kiến nghệ nhân Nghệ nhân Nguyễn Văn Tĩnh (58 tuổi, làng Phú Vinh, Chương Mỹ) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 8 năm 2019 Hỏi: Theo ông, điều gì là quan trọng nhất trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan? Trả lời: Theo tôi điều quan trọng là chất lượng của vật liệu, trước khi thiết kế sản phẩm, khâu lựa chọn vật liệu là rất quan trọng, vật liệu không non quá không già quá, tiếp đến là khâu xử lý và chế biến vật liệu, sau đó là sự sáng tạo của nghệ nhân kế thừa từ kho tàng kỹ thuật đan vô cùng phong phú của cha ông. Hỏi: Theo ông đặc trưng nhất của sản phẩm mây tre đan Phú Vinh là gì? Trả lời: Vào thời vua Thành Thái, làng nghề truyền thống Phú Vinh có 9 cụ nghệ nhân trong làng đã được nhà vua phong sắc. Ở Phú Vinh từ xa xưa đã có các kỹ thuật căng đáy, đan tết các loại hoa văn bằng ruột mây, các loại đĩa, hộp, khay được xuất khẩu nhiều và cho đến nay vẫn đang được sản xuất số lượng lớn. Các loại hộp khay đĩa tròn, hình chữ nhật, vuông Nét độc đáo của làng nghề mây tre đan Phú Vinh nổi tiếng bởi vì chất, về kỹ năng, kỹ thuật cũng như là các đường đan rất đặc biệt, cầu kỳ, tỷ mỉ. Chúng tôi có các hoa văn đan tết mà chỉ có ở làng nghề Phú Vinh mới có. Các loại tết hoa văn ở Phú Vinh cũng rất đa dạng. Có tới hàng vài chục kiểu đan tết hoa văn mà đặc trưng chỉ có ở Phú Vinh không có ở làng nghề khác. Hỏi: Hiện nay, một số sản phẩm mây tre đan hiện đại có sự kết hợp vật liệu khác, ông đánh giá thế nào về sự kết hợp này? Trả lời: Sản phẩm mây tre đan hiện nay có sự kết hợp với gốm sứ, kim loại, gỗ tuy nhiên dễ đẹp nhất là kết hợp với gốm. 301 Hỏi: Theo ông sản phẩm mây tre đan Hà Nội chịu ảnh hưởng nhiều từ đâu? Trả lời: Sản phẩm mây tre đan Hà Nội nói chung và Phú Vinh nói riêng thì chịu ảnh hưởng nhiều từ Nhật Bản. Khách hàng Nhật đặt hàng nhiều và một trong những điều khiến họ hài lòng là sản phẩm Phú Vinh rất tinh, người Nhật rất kỹ tính, yêu cầu những sản phẩm cần độ tinh xảo cao mà chỉ ở Phú Vinh mới làm được. Trong quá trình thực hiện các sản phẩm cho người Nhật, người thợ Phú Vinh cũng học hỏi được nhiều về kiểu dáng, mẫu mã và có thể từ đó tạo ra các sản phẩm mang nét riêng. Hỏi: Là người đạt nhiều giải thưởng tại các cuộc thi thiết kế mẫu sản phẩm thủ công mỹ nghệ, theo ông điều gì là quan trọng nhất trong sáng tạo sản phẩm mây tre đan? Trả lời: Theo tôi để có thể theo đuổi nghề này, điều quan trọng nhất là niềm đam mê, đôi khi chỉ để ý một chút là có thể sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo. Nghệ nhân Nguyễn Văn Trung (62 tuổi, Làng Phú Vinh, Phú Nghĩa) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 5 năm 2019 Hỏi: Ông có thể cho biết một số cách thức tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan nói chung và Phú Vinh nói riêng? Trả lời: Tạo dáng sản phẩm mây tre đan có thể theo kiểu dáng cổ truyền, có thể kiểu dáng lấy ý tưởng từ những hiện tượng, sự vật trong thiên nhiên đến các kiểu khối hình học hiện đại, tối giản. Trong thiết kế sản phẩm mây tre đan, điều quan trọng là việc vận dụng linh hoạt các kiểu đan tạo tính thẩm mỹ cho các chi tiết hoặc toàn bộ sản phẩm. Tạo dáng sản phẩm mây tre đan là sắp xếp, tổ chức các thành phần sản phẩm theo các nguyên tắc nhằm tạo ra sản phẩm đẹp, hợp lý, hoặc chuyển tải được ý đồ mong muốn của tác giả. Việc tạo dáng sẽ tạo nên sản 302 phẩm có bố cục đẹp và hấp dẫn, đạt tính thẩm mỹ cao và đảm bảo sự tương quan hài hòa giữa các thành phần. Hỏi: Những sản phẩm nào hiện nay cơ sở của ông đang sản xuất? Trả lời: Hiện nay cơ sở sản xuất Hoa Sơn của tôi đang sản xuất các mặt hàng mây tre nhiều chủng loại phục vụ thị trường trong nước và xuất khẩu như các mặt hàng giỏ, lẵng, chao đèn với nhiều hình thức kết hợp vật liệu mới. Tuy nhiên chúng tôi vẫn duy trì thế mạnh là đan các sản phẩm tranh ảnh và các sản phẩm sử dụng kỹ thuật đan tranh ảnh của làng nghề. Nghệ nhân Nguyễn Thị Thu (54 tuổi, xã Ninh Sở, Thường Tín) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 12 năm 2018 Hỏi: Theo chị, sản phẩm mây tre đan Ninh Sở có gì đặc sắc nhất? Trả lời: Trước kia, khi tôi còn nhỏ, những sản phẩm đặc trưng của Ninh Sở là làn, vali đặc biệt là bồ đựng giấy với những họa tiết hoa văn hình học tạo bởi kỹ thuật đan nong mốt, nong đôi, nong ba và sự tương phản màu sắc nan đan, bên cạnh đó là các các thức đan cài nan vào sản phẩm để tạo tính trang trí. Sau này các sản phẩm Ninh Sở chủ yếu vẫn vận dụng những kỹ thuật đan đã có với những sáng tạo kiểu dáng mới. Hỏi: Hiện nay sản phẩm mây tre đan Ninh Sở có những chuyển biến gì so với sản phẩm truyền thống trước kia? Trả lời: So với những sản phẩm truyền thống trước kia, sản phẩm hiện nay được cải tiến nhiều hơn về mặt kiểu dáng, xuất hiện những sản phẩm kiểu dáng mới theo nhu cầu của thị trường, một số sản phẩm tôi sáng tác đem dự thi thì có sự kết hợp với sơn mài để tạo sự độc đáo, khác biệt với các sản phẩm đã có. 303 Hỏi: Theo chị, yếu tố nào quan trọng trong tạo dáng, trang trí sản phẩm mây tre đan? Trả lời: Đầu tiên là khâu lựa chọn vật liệu, nếu chất lượng vật liệu đảm bảo thì sản phẩm sẽ giữ được bền. Sau đó là kỹ thuật đan, các họa tiết đan đảm bảo sự đều đặn, tạo được sản phẩm có sự mượt mà, các họa tiết đan được sắp xếp bố cục hợp lý. Đối với sản phâm tre đan phải cùng một lúc vừa đan vừa tạo dáng, trong quá trình thực hiện người nghệ nhân sẽ cân đối và điều chỉnh để có một tạo dáng ưng ý nhất. Đối với sản phẩm tre đan, quá trình tạo dáng là liên tục, còn đối với sản phẩm mây đan có thể dùng phương pháp lắp ghép từng phần mà không ảnh hưởng đến tổng thể sản phẩm. Nghệ nhân Nguyễn Phương Quang (36 tuổi, Làng Phú Vinh, Chương Mỹ) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 8 năm 2019 Hỏi: Là một nghệ nhân trẻ, anh nhận định thế nào về nghề mây tre đan truyền thống của Phú Vinh? Trả lời: Phú Vinh là một nghề truyền thống lâu đời với nhiều nghệ nhân giỏi nghề như ông tôi là nghệ nhân Nguyễn Văn Khiếu, cụ Hoàng Văn Khu với những tác phẩm đạt đến đỉnh cao của nghề đan mây tre. Ông tôi là người đầu tiên đan chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh bằng mây. Hỏi: Theo anh sản phẩm thế mạnh của Phú Vinh hiện nay là gì? Trả lời: Phú Vinh từ xưa nổi tiếng với các loại tranh ảnh chân dung, phong cảnh với lối đan đen trắng. Hiện nay như gia đình tôi thì ngoài sản xuất các mặt hàng truyền thống mây xiên thì còn làm nhiều loại chao đèn với những kiểu dáng khác nhau, mang nhiều tính sáng tạo. Nghệ nhân Nguyễn Thị Hân (39 tuổi, Làng Phú Vinh, Chương Mỹ) 304 Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 7 năm 2018 Hỏi: Là người sáng tạo ra cách kết hợp vật liệu gốm sứ quấn mây, chị thấy điều gì thuận lợi và khó khăn khi kết hợp hai loại vật liệu này? Trả lời: Ban đầu việc thực hiện rất khó khăn vì để có thể đan các sợ mây lên những chiếc bình gốm sứ là hết sức khó khăn và đòi hỏi sự tỉ mỉ rất cao. Điều khó nhất là làm sao cho các sợi mây nhỏ có thể gắn chặt được với bình gốm. Tôi đã thử rất nhiều kiểu đan khác nhau nhưng không thành do các kiểu đan không ăn khớp với gốm nên không có điểm nhấn, sau đó tôi nghiên cứu lại kích thước và màu sắc của mây và nhận thấy màu song mây rất giống màu của gốm. Sau khi so sánh màu sắc, tôi nghĩ ngay đến lối đan quấn song cổ xưa và tiếp tục ngồi thử nghệm và thấy cách nay rất ăn khớp với gốm sứ. Cuối cùng cũng thành công với chiếc bình gốm đầu tiên quấn mây. Mỗi chiếc bình gốm lại cần có các cách đan quấn song khác nhau. Hỏi: Cơ sở sản xuất của chị hiện nay đang sản xuất mặt hàng gì là nhiều nhất? Trả lời: Hiện nay ở cơ sở sản xuất của gia đình hiện nay đang chủ yếu sản xuất mặt hàng mây xiên, một trong những mặt hàng truyền thống của Phú Vinh, chúng tôi tập trung vào các mặt hàng tiêu dùng và hiện nay một số mặt hàng phụ kiện thời trang như vòng tay, hoa tai mây xiên cũng rất được ưa chuộng. Hỏi: Theo chị sản phẩm mây tre đan thế nào là một sản phẩm đạt yêu cầu về thẩm mỹ? Trả lời: Một sản phẩm đạt chất lượng khi tổng thể hình dáng sản phẩm cân đối, bề màu sắc hài hòa, trên bề mặt sản phẩm các mắt đan đều, mượt mà. 305 Nghệ nhân Bùi Thu Nguyệt (42 tuổi, Thôn Xâm Dương, Ninh Sở, Thường Tín) Thời gian thực hiện phỏng vấn: Tháng 7 năm 2018 Hỏi: Cơ sở sản xuất của chị tập trung vào mặt hàng gì? Trả lời: Hiện nay, ngoài hoàn thiện 1 số đơn hàng xuất khẩu, cơ sở sản xuất của gia đình chủ yếu tập trung sản xuất các mặt hàng đồ trang trí, trang sức, đồ lưu niệm để phục vụ tiêu dùng nội địa. Hiện nay gia đình tôi vẫn tập trung sản xuất mặt hàng túi xách với các chủng loại kiểu dáng khác nhau, phục vụ cho thị trường trong nước và nước ngoài. Hỏi: Những gì đặc trưng cho những sản phẩm của chị? Trả lời: Sản phẩm của gia đình tôi được chia ra nhiều công đoạn và được chuyên môn hóa từng khâu, chúng tôi kế thừa các kiểu họa tiết hoa văn truyền thống của cha ông và ứng dụng trong thiết kế các mặt hàng theo yêu cầu thị trường, hoa văn họa tiết trên sản phẩm rất phong phú chủ yếu là các kiểu đan các cụ để lại như hoa chanh, các loại họa tiết hình học Hàng sản xuất đại trà ở địa phương trước đây không đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu. Do vậy, cơ sở phải đặt hàng các nghệ nhân đan phần thô, sau đó nhận về gia công lại mới ra một sản phẩm hoàn thiện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_nghe_thuat_tao_dang_trang_tri_san_pham_may_tre_dan_h.pdf
  • pdfThong tin tom tat ket luan moi tieng Anh.pdf
  • pdfThong tin tom tat ket luan moi tieng Viet.pdf
  • pdfTom tat luan an.pdf
  • pdfTrich yeu luan an tiêng Anh.pdf
  • pdfTrich yeu luan an tiêng Viet.pdf
Tài liệu liên quan