BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
NGUYỄN THỊ BÍCH 
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ 
 TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, 
NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG) 
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN 
THÁI NGUYÊN - 2014 
 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN 
NGUYỄN THỊ BÍCH 
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ 
 TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, 
NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG) 
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam 
 Mã số: 62.22.01.21 
LUẬN ÁN TIẾ
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
177 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 4
              
            Tóm tắt tài liệu Luận án Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẾN SĨ NGỮ VĂN 
 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC 
 1. PGS.TS. Nguyễn Bích Thu 
 2. PGS.TS. Đào Thủy Nguyên 
THÁI NGUYÊN - 2014 
i 
LỜI CAM ĐOAN 
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các 
kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực và nội dung này chưa 
từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đó. 
 Thái Nguyên, tháng 03 năm 2014 
 Tác giả luận án 
 Nguyễn Thị Bích 
ii 
MỤC LỤC 
Lời cam đoan ................................................................................................................ i 
Mục lục ........................................................................................................................ ii 
Danh mục chữ viết tắt ................................................................................................ iv 
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 
1. Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .......................................................................... 4 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 4 
4. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 5 
5. Đóng góp mới của luận án ...................................................................................... 6 
6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................ 6 
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................................... 7 
1.1. Khái lược tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự .................................................... 7 
1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt 
Nam sau 1975 ............................................................................................................ 10 
1.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng .......................................... 18 
1.3.1. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 
của Nguyễn Minh Châu ............................................................................................ 18 
1.3.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 
1975 của Nguyễn Khải .............................................................................................. 21 
1.3.3. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 
của Ma Văn Kháng .................................................................................................... 24 
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC. 
KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 ....................... 28 
2.1. Một số vấn đề cơ bản của tự sự học ................................................................... 28 
2.1.1. Người kể chuyện ............................................................................................. 28 
2.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật ...................................................................................... 32 
2.1.3. Giọng điệu trần thuật ....................................................................................... 36 
2.2. Khái lược về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................... 40 
2.2.1. Quá trình vận động của truyện ngắn Việt Nam từ sau 1975 đến nay ............. 40 
iii 
2.2.2. Đổi mới tư duy nghệ thuật .............................................................................. 43 
2.2.3. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng trong dòng chảy của 
truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ................................................................................ 48 
CHƢƠNG 3: NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 
1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG .... 56 
3.1. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ ba của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, 
Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 56 
3.1.1. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên ngoài................................. 56 
3.1.2. Người kể chuyện ẩn mình kể theo điểm nhìn bên trong ................................. 63 
3.1.3. Người kể chuyện ẩn mình dịch chuyển điểm nhìn ......................................... 69 
3.2. Truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, 
Ma Văn Kháng .......................................................................................................... 80 
3.2.1. Người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất kể theo điểm nhìn đơn tuyến ............. 80 
3.2.2. Nhiều người kể chuyện xưng “tôi” kể theo điểm nhìn đa tuyến ..................... 90 
CHƢƠNG 4: GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN SAU 
1975 CỦA NGUYỄN MINH CHÂU, NGUYỄN KHẢI, MA VĂN KHÁNG ........ 101 
4.1. Giọng điệu khẳng định, ngợi ca ....................................................................... 101 
4.2. Giọng điệu trào lộng, châm biếm ..................................................................... 113 
4.3. Giọng điệu xót xa, thương cảm ........................................................................ 120 
4.4. Giọng điệu trầm tư, triết lý ............................................................................... 130 
4.5. Sự kết hợp, đan xen nhiều giọng điệu .............................................................. 139 
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN 
ĐẾN LUẬN ÁN ..................................................................................................... 151 
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 
Phụ lục .................................................................................................................... 167 
iv 
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT 
CTNT: Cốt truyện nghệ thuật 
ĐNBN: Điểm nhìn bên ngoài 
ĐNBT: Điểm nhìn bên trong 
ĐNĐaT: Điểm nhìn đa tuyến 
ĐNĐT: Điểm nhìn đơn tuyến 
ĐNPH: Điểm nhìn phức hợp 
ĐNNT: Điểm nhìn nghệ thuật 
NKC: Người kể chuyện 
NT1: Ngôi thứ nhất 
NT2: Ngôi thứ hai 
NT3: Ngôi thứ ba 
1 
MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
1.1. Roland Barthes từng nói: “Đã có bản thân lịch sử loài người, thì đã có tự 
sự” (câu nói quen thuộc ở phương Tây “History is astory / L’Hi storie est unrécit”) 
[165, tr. 12]. Tự sự gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của lịch sử loài 
người nhưng tự sự học (Narratology - một bộ môn nghiên cứu đặc thù của lí luận 
văn học, lấy nghệ thuật tự sự làm đối tượng nghiên cứu) thì phải đến thế kỉ XX mới 
được các nhà nghiên cứu tìm hiểu và trở thành một lĩnh vực học thuật được quan 
tâm. Những năm 60 của thế kỉ XX, các nhà lí luận Pháp đã đề cập về tự sự học và 
giải quyết các vấn đề liên quan đến chúng. Sau đó là các nhà nghiên cứu của Mĩ, 
Anh, Trung Quốc... Ở Việt Nam, tự sự học nhanh chóng trở thành lĩnh vực thu hút 
các nhà nghiên cứu. Nhiều công trình đã lấy lí thuyết tự sự làm cơ sở để khám phá 
cấu trúc văn bản truyện kể. Như vậy, tự sự học là “bộ phận không thể thiếu của 
hành trang nghiên cứu văn học hôm nay, và nói theo ngôn ngữ của Thomas Kuhn, 
thì đó là một bộ phận cấu thành của hệ hình (paradigme) lý luận hiện đại” [165, tr. 11]. 
Hơn nữa, tự sự học có thể mở rộng phạm vi nghiên cứu. Nó không đơn thuần là 
nghiên cứu các thể loại tự sự văn học mà còn nghiên cứu những lĩnh vực phi văn 
học như điện ảnh, nghệ thuật thị giác Miieke Bal cho rằng, tất cả các khách thể 
văn hoá (bộ luật, tranh ảnh, tư liệu lịch sử) đều ít nhiều có liên quan đến tự sự. 
Trần Đình Sử đã khẳng định tự sự học là “một bộ môn nghiên cứu liên ngành giàu 
tiềm năng” [165, tr. 10]. Vì vậy, tự sự là một thái độ văn hoá và nghiên cứu tự sự 
cũng là nghiên cứu văn hoá. 
Lí thuyết tự sự nghiên cứu nhiều phương diện phong phú và đa dạng liên quan 
đến nghệ thuật trần thuật (loại hình trần thuật, cốt truyện, nhân vật, người kể 
chuyện, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu) với nhiều quan điểm khác nhau. Vận 
dụng lí thuyết tự sự để nghiên cứu văn học đòi hỏi người nghiên cứu phải “nhìn” từ 
góc độ thi pháp. Luận án của chúng tôi vận dụng lí thuyết về ngôi kể, điểm nhìn và 
giọng điệu trần thuật trong cấu trúc văn bản truyện kể để nghiên cứu nghệ thuật tự 
2 
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, 
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng). 
1.2. Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 
chống Mĩ cứu nước. Đất nước trở lại quỹ đạo thời bình, xã hội trong cơn chuyển 
mình lớn và đối mặt với biết bao những vấn đề riêng - chung cần giải quyết. Các 
nhà văn Việt Nam thoát ra khỏi ánh hào quang của những hình mẫu kỳ diệu và lý 
tưởng để trở về nhịp điệu cuộc sống đời thường với tất cả những biểu hiện đa dạng, 
phức tạp của nó. Sự đổi mới trong quan niệm về hiện thực và con người đã “mở 
rộng biên độ” của văn học. Văn học tiếp cận đời sống một cách biện chứng. Người 
viết cũng có thể đưa ra nhiều quan điểm khác nhau, tính dân chủ được thể hiện rất 
rõ. Nhà văn không có quyền áp đặt người đọc theo một tư tưởng có sẵn. Độc giả 
cũng có quyền lựa chọn tác giả phù hợp với thị hiếu của riêng mình. Tác giả - nhân 
vật và người đọc được đặt trong mối quan hệ đa chiều để tranh biện và đi tìm chân 
lí. Người viết thường không ngại “xé rào” bước ra trò chuyện trực tiếp với bạn đọc. 
Các điểm nhìn trần thuật được gia tăng và gắn với nó là sự phong phú về giọng điệu 
trần thuật. Điều này thể hiện khá rõ trong truyện ngắn. Truyện ngắn đã chứng tỏ là 
thể loại năng động, có khả năng nắm bắt vấn đề một cách nhanh nhạy, kịp thời mà 
vẫn chuyển tải được những vấn đề quan trọng của đời sống đương thời. Thể loại 
này mang trong nó những dấu hiệu của sự vận động và biến đổi với nhiều khuynh 
hướng khác nhau: truyện ngắn viết theo lối truyền thống và tuân thủ những đặc 
trưng vốn có của thể loại; truyện ngắn cách tân trên nền truyền thống; truyện ngắn 
cách tân theo hướng hiện đại. Chúng tôi đi sâu nghiên cứu truyện ngắn của ba tác 
giả Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng (những nhà văn sáng tác 
theo khuynh hướng cách tân trên nền truyền thống) từ góc nhìn tự sự để thấy được 
sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật và sự vận động của cấu trúc thể loại trong bối 
cảnh mới. 
1.3. Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải 
và Ma Văn Kháng là những cây bút có “thương hiệu”. Họ đã góp phần làm nên diện 
mạo của văn học Việt Nam trong thời kỳ mới. Nguyễn Minh Châu được coi là một 
3 
hiện tượng của văn học Việt Nam ở nửa sau thế kỷ XX. Với quan niệm “nhà văn 
phải đứng hai chân giữa mặt đất đầy hiểm họa, giữa thập loại chúng sinh”, Nguyễn 
Minh Châu đã khắc khoải về nhân sinh để đi tìm những “hạt ngọc” cho đời. Là một 
nhà văn suốt đời khao khát đi tìm cái đẹp và sự chân thật của cuộc sống, Nguyễn 
Minh Châu đã cống hiến hết mình cho nghệ thuật. Ông có một vị trí đặc biệt quan 
trọng - người “tiền trạm đổi mới” (Phong Lê), “người mở đường đầy tài hoa và tinh 
anh” (Nguyên Ngọc) trong nền văn học đương đại Việt Nam. Còn Nguyễn Khải lại 
được đánh giá là một trong số ít người viết mà đời người, đời văn có mối liên quan 
chặt chẽ. Suốt nửa thế kỷ lao động sáng tạo, ngòi bút của ông đã gắn bó với lịch sử 
dân tộc. Bằng cái nhìn đa chiều, đa diện, Nguyễn Khải thể hiện trong sáng tác của 
mình nhãn quan tỉnh táo trước hiện thực đời sống. “Muốn hiểu con người thời đại 
với cái hay, cái dở của họ, nhất là muốn hiểu cách nghĩ của họ, phải đọc Nguyễn 
Khải” [20, tr. 61]. Bên cạnh Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 
là cây bút chuyên nghiệp đầy bản lĩnh và tài năng. Con người trước lăng kính tâm 
hồn nhà văn không chỉ là đối tượng ngợi ca mà còn là tiêu điểm để “đào bới bản 
thể ở chiều sâu tâm hồn” (Lã Nguyên). 
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những đại biểu tinh anh 
của phong trào đổi mới văn học sau 1975. Họ là những cây bút trưởng thành trong 
chiến tranh và trở về từ chiến tranh nhưng trong bối cảnh đổi mới, họ vẫn là những 
tác giả có nhiều bạn đọc. Cả ba nhà văn đều là những tấm gương lao động sáng tạo 
và được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh - giải thưởng cao quý về văn học nghệ thuật. 
Với những lí do như vậy, chúng tôi đi sâu nghiên cứu đề tài: “Nghệ thuật tự 
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh 
Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng)”. Ở luận án này, chúng tôi tiếp cận truyện 
ngắn của ba tác giả tiêu biểu thuộc thế hệ “3X” (Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, 
Nguyễn Khải sinh năm 1930 và Ma Văn Kháng sinh năm 1936) có cùng một hành 
trình, cùng một khởi điểm, cùng chung một mô hình sáng tác của cùng một thế hệ 
nhà văn (mở đầu cho văn học đổi mới và đều viết theo lối cách tân trên nền truyền 
thống) từ góc nhìn thi pháp để thấy được sự chuyển động của thể loại truyện ngắn 
trong bối cảnh mới của đời sống văn học. 
4 
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 
2.1. Mục đích nghiên cứu 
- Làm rõ nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 qua truyện 
ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng ở phương diện ngôi 
kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. 
- Tìm ra những điểm chung của thế hệ, điểm riêng trong phong cách của từng 
tác giả và khẳng định đóng góp của ba nhà văn trong sự vận động, đổi mới thể loại 
truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 
 - Vận dụng lý thuyết tự sự học hiện đại để tìm hiểu và phân tích truyện ngắn 
sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật 
giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của các tác phẩm, thấy được điểm chung, 
điểm riêng của ba nhà văn trong dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 
- Tìm hiểu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 
trong thế đối sánh với truyện ngắn Việt Nam sau 1975 để chỉ ra những nét riêng biệt, 
những thành công và giới hạn của thế hệ nhà văn trưởng thành trong chiến tranh, thấy 
được đặc điểm truyện ngắn Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn tự sự. 
 - Thông qua việc tìm hiểu sự đổi mới mô hình tự sự của truyện ngắn Nguyễn 
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thêm một lần nữa khẳng định 
diện mạo tinh thần, vai trò, vị trí của họ trong sự vận động của thể loại truyện ngắn 
Việt Nam sau 1975 nói riêng và trong nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. 
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
 Đối tượng nghiên cứu của luận án là nghệ thuật tự sự trên các bình diện cơ bản như 
ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 (Qua truyện ngắn 
của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng). 
3.2. Phạm vi nghiên cứu 
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghệ thuật tự sự bao gồm nhiều phương diện. Ở 
luận án này, chúng tôi tập trung nghiên cứu vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu 
trần thuật. Đó là những yếu tố nổi bật tạo nên phong cách nghệ thuật của truyện 
ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 
5 
- Phạm vi tư liệu: 
+ Đề tài chủ yếu khảo sát toàn bộ truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, 
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhưng tập trung vào những sáng tác sau 1975. Đặc 
biệt, chúng tôi chú ý những tác phẩm trong tuyển tập truyện ngắn của ba nhà văn: 
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Minh Châu (2006) của Nhà xuất bản Văn học; 
Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải (2007) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn; Truyện 
ngắn chọn lọc Ma Văn Kháng (2002) của Nhà xuất bản Hội Nhà văn. 
+ Một số truyện ngắn tiêu biểu của các nhà văn cùng thế hệ và khác thế hệ (các 
nhà văn “6X”, “7X”, “8X”, “9X”) để so sánh. 
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Trong luận án này, người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: 
4.1. Phương pháp tiếp cận tự sự học 
Vận dụng lí thuyết tự sự để phân tích, lí giải những cách tân đổi mới trong 
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 
4.2. Phương pháp thống kê 
Phương pháp này được áp dụng trong quá trình khảo sát văn liệu để từ đó có 
thể đưa ra những kết luận khoa học về các phương diện của nghệ thuật tự sự trong 
truyện ngắn của ba nhà văn mà luận án quan tâm. 
4.3. Phương pháp hệ thống 
Phương pháp này giúp chúng tôi nhìn truyện ngắn của ba nhà văn như một hệ 
thống và đặt nó trong hệ thống lớn hơn là tiến trình văn học Việt Nam hiện đại. 
Đồng thời có thể đưa ra đánh giá về những đóng góp và giới hạn trong nghệ thuật 
trần thuật của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng một cách khách 
quan và toàn diện. 
4.4. Phương pháp loại hình, phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại 
 Nhằm tìm ra những đặc điểm tương đồng loại hình về phương diện nghệ thuật 
trần thuật, chỉ ra các kiểu, dạng NKC, phương thức trần thuật và giọng điệu trần 
thuật từ góc nhìn thể loại. 
4.5. Phương pháp so sánh 
Để có cái nhìn sâu hơn về đối tượng nghiên cứu, chúng tôi so sánh truyện ngắn 
của ba nhà văn với nhau và với truyện ngắn của các nhà văn khác, đồng thời đối 
6 
chiếu truyện ngắn của ba nhà văn ở hai giai đoạn sáng tác trước và sau 1975. Từ đó, 
chỉ ra những vận động về nghệ thuật trần thuật. 
4.6. Phương pháp tổng hợp 
Phương pháp này giúp chúng tôi đưa ra những khái quát trên cơ sở phân tích 
ngữ liệu cụ thể. 
5. Đóng góp mới của luận án 
 - Luận án vận dụng những thành tựu nghiên cứu tự sự học trên thế giới và ở 
Việt Nam để mô tả, phân tích sâu một số phương diện cơ bản của nghệ thuật tự sự 
như: ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của 
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng nhằm làm nổi bật giá trị nội 
dung, nghệ thuật của các tác phẩm. Từ đó, người viết xác định điểm tương đồng và 
khác biệt trong nghệ thuật tự sự và trong phong cách nghệ thuật của ba tác giả. 
- Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật tự 
sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975 của nhóm tác giả đã có vị trí và đóng góp 
to lớn trong nền văn học Việt Nam hiện - đương đại. Trên cơ sở nghiên cứu đó, 
người viết khẳng định sự đổi mới và những thành công về tổ chức tự sự trong 
truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn “gạo cội” - tiêu biểu cho thế hệ những nhà văn 
mở đường của nền văn học Việt Nam từ sau 1975. 
 - Từ thực tiễn sáng tác của ba nhà văn, từ sự đối chiếu, so sánh truyện ngắn 
của họ ở hai giai đoạn trước - sau 1975 và so sánh với truyện ngắn của các nhà văn 
khác, luận án chỉ ra sự vận động và đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 
- Luận án góp một tài liệu phục vụ cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học 
tập về truyện ngắn Việt Nam sau 1975 ở các trường đại học, cao đẳng, trung học. 
6. Cấu trúc của luận án 
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu 
Chương 2: Một số vấn đề cơ bản của tự sự học. Khái lược về truyện ngắn Việt 
Nam sau 1975 
Chương 3: Ngôi kể và điểm nhìn trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn 
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 
Chương 4: Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn 
Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng 
7 
CHƢƠNG 1 
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 
1.1. Khái lƣợc tình hình nghiên cứu lí thuyết tự sự 
 Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại” [165, tr. 11]. Chủ nghĩa 
hình thức Nga với những tên tuổi V. Shklovski (1893 - 1984), B. Eikhenbaum 
(1886 - 1959), B. Tomachevski (1890 - 1957) đã đặt nền móng cho những cơ sở 
ban đầu của lí thuyết tự sự. Họ đề cập đến nhiều phương diện cơ bản của cấu trúc tự 
sự ở phương diện lí thuyết như: kết cấu tác phẩm, cốt truyện, nhân vật hay nghệ 
thuật tổ chức thời gian 
B. Tomachevski vốn là một nhà phê bình thơ nhưng với tiểu luận Hệ chủ đề, 
ông đã trở thành người đầu tiên nghiên cứu thủ pháp của cốt truyện. Ông phân biệt 
khái niệm chuyện kể (fabula, fable) và cốt truyện (sujet): “tuyến hành động liên quan đến 
chuyện kể còn tuyến trần thuật liên quan đến cốt truyện ” (dẫn theo [165, tr. 30]). Ông 
phân biệt “thời gian của chuyện kể” và “thời gian trần thuật”, đồng thời trình 
bày nhiều thủ pháp như: trì hoãn, bình luận ngoại đề, che giấu bí mật, đảo lộn 
thời gian 
V. Shklovski qua các tiểu luận Nghệ thuật nhƣ là thủ pháp, Cấu trúc của 
truyện ngắn và tiểu thuyết cho rằng: “Nhiều tác phẩm tự sự là một tổ hợp các 
kết cấu vòng tròn và kết cấu bậc thang, trong đó các tình tiết được sắp xếp thành 
những tầng nấc kế tiếp nhau” (dẫn theo [165, tr. 31]). Ông còn nói đến “thủ pháp 
đóng khung và thủ pháp xâu chuỗi” (dẫn theo [165, tr. 32]) trong văn tự sự. 
B. Eikhenbaum trong tiểu luận Về lí thuyết văn xuôi đã cho rằng: 
“Truyện ngắn là hình thức sơ yếu của văn xuôi”, “nhà văn thường xây dựng 
truyện ngắn trên cơ sở một mâu thuẫn, một tan vỡ, một sai lầm hay một tương 
phản” (dẫn theo [165, tr. 34]). 
Chủ nghĩa hình thức Nga đặt viên gạch đầu tiên cho lí thuyết tự sự học nhưng 
góp phần hình thành bộ môn tự sự học thì phải kể đến Chủ nghĩa cấu trúc với những 
tên tuổi như R. Barthes, Tz. Todorov, A. J. Greimas, G. Genette Chủ nghĩa cấu 
trúc đi tìm mô hình cho hình thức tự sự. R.Barthes mở đầu với công trình Dẫn luận 
8 
phân tích tác phẩm tự sự (1968) và S/Z (1970) (tác phẩm này đã bắt đầu chuyển 
sang hậu cấu trúc chủ nghĩa). Todorov là một trong những người đầu tiên đề xuất 
thuật ngữ tự sự học với chuyên luận Thi pháp văn xuôi. Todorov còn có công trình 
Ngữ pháp “Câu chuyện mười ngày” Từ góc độ ngữ pháp, Todorov coi “nhân vật 
như danh từ, tình tiết là động từ” (dẫn theo [165, tr. 14]), G. Genette thì tuyên bố 
“mỗi câu chuyện là sự mở rộng của một câu” (dẫn theo [165, tr. 14]), R. Barthes 
cũng tán thành quan điểm đó Như vậy, mục đích của chủ nghĩa cấu trúc là “nghiên 
cứu bản chất ngôn ngữ, bản chất ngữ pháp của tự sự” (dẫn theo [165, tr. 14]). 
Tiếp theo phải kể đến các nhà tự sự học hậu cấu trúc chủ nghĩa như M. 
Bakhtin, I. U. Lotman, B. Uspenski Các tác giả này quan tâm đến các phương 
thức biểu đạt ý nghĩa khác nhau, lấy văn bản làm cơ sở (Jean - Claude Coquet). 
Hình thức tự sự chính là phương tiện biểu đạt ý nghĩa của tác phẩm. 
Tổng quan quá trình nghiên cứu của lí thuyết tự sự, nhà lí luận Mĩ Gerald 
Prince đã chia làm ba nhóm theo ba loại hình như sau: Nhóm thứ nhất (gồm những 
nhà tự sự học chịu ảnh hưởng của các nhà hình thức chủ nghĩa Nga như V. Propp, 
Todorov, Barthes, Remak, Norman Friedman, Northrop Frye, Etienne Souriau) 
chú ý tới cấu trúc của câu chuyện được kể, bỏ qua hoặc không đi sâu vào đặc trưng 
biểu đạt của chất liệu; nhóm thứ hai (gồm G. Genette, Dolezel, Micke Bal) xem 
nguồn gốc của tự sự là dùng ngôn ngữ biểu đạt và vai trò của người trần thuật là 
quan trọng nhất; nhóm thứ ba (đại diện là Gerald Prince và Seymour Chatman) lại 
coi trọng phương pháp nghiên cứu tổng thể. 
Lí thuyết tự sự học hiện đại lần đầu tiên cho người ta thấy sự phức tạp của 
cấu trúc tự sự với các vấn đề cần phải tìm tòi, suy ngẫm như vấn đề NKC, điểm 
nhìn, dòng ý thức, không gian, thời gian, giọng điệu nghệ thuật Lí thuyết tự sự sẽ 
giúp cho ta nghiên cứu nghệ thuật tự sự của các thể loại nói chung và của từng tác 
phẩm văn học cụ thể nói riêng, qua đó cho thấy cả truyền thống văn học, văn hoá 
của mỗi dân tộc. 
Ở Việt Nam, năm 2001, hội thảo quy mô toàn quốc về tự sự học đã được tổ 
chức tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Trong bài viết Tự sự học - một bộ môn 
9 
nghiên cứu liên ngành giàu tiềm năng, Trần Đình Sử đã hệ thống, khái lược 
những vấn đề tự sự từ chủ nghĩa hình thức Nga, ngôn ngữ học Saussure, Platon, 
Aritoste, Tz. Tododov, Genette Qua đó, ông khẳng định vai trò quan trọng của tự 
sự học. Trong công trình Dẫn luận thi pháp học [167], Trần Đình Sử đã xác định vị 
trí của thi pháp học trong khoa nghiên cứu văn học, đối tượng phạm trù và phương 
pháp nghiên cứu thi pháp, ông tập trung đi sâu hệ thống, cắt nghĩa những khái niệm 
thuộc về trần thuật học như quan niệm nghệ thuật về con người, thời gian - không 
gian nghệ thuật, tác giả và kiểu tác giả, tính quan niệm và cấu trúc thể loại, cấu 
trúc của văn bản trần thuật, ngôn từ nghệ thuật 
Trần thuật học - Nhập môn lí thuyết trần thuật học của tác giả Manfred Jahn 
công bố vào ngày 28 - 07 - 2003 [131], đăng tải trên trang web 
koeln.de đã xây dựng một hệ thống những khái niệm nền tảng về truyện kể và chỉ ra 
cách sử dụng chúng khi phân tích tác phẩm. Những định nghĩa này được dựa trên 
một loạt bài nhập môn cổ điển như cấu trúc của trần thuật, kể chuyện tiêu điểm và 
tình huống trần thuật, thì, thời và thức trần thuật, nhân vật và diễn ngôn 
Cao Kim Lan trong bài viết Lí thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và 
R. Kellogg [113] đã dựa vào cuốn Bản chất của tự sự (The nature of Narrative, 
Oxford University, tái bản 1968) để giới thiệu về điểm nhìn nghệ thuật và sự chi 
phối của điểm nhìn trong truyện kể, vấn đề quyền năng của NKC với điểm nhìn của 
nhân vật, điểm nhìn của NKC và điểm nhìn của người đọc 
Lê Phong Tuyết trong bài Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần 
thuật [201] đã giới thiệu về Genette và lí thuyết của ông một cách hệ thống với 
những khái niệm liên quan đến trần thuật. Trong đó, tác giả tập trung làm rõ hai vấn 
đề mới mẻ với giới nghiên cứu và bạn đọc Việt Nam là tình huống trần thuật và 
người nghe chuyện. 
Một trong những công trình có ý nghĩa lớn với việc giới thiệu lí thuyết tự sự 
vào Việt Nam đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử [165] do 
Trần Đình Sử chủ biên. Trong đó, Phan Thu Hiền có bài viết Về lí thuyết tự sự của 
Northrop Frye [165, tr. 56 - 70]. Tác giả giới thiệu Northrop Frye là đại biểu quan 
10 
trọng có ảnh hưởng sâu sắc nhất của lí thuyết Phê bình huyền thoại (Mythcritic) còn 
gọi là lí thuyết Phê bình nguyên mẫu (archetypal critism) với quan niệm cho rằng 
mục tiêu của văn chương là đạt đến sự giới thiệu, sự trình bày cuộc sống. Nguyễn 
Đức Dân giới thiệu về Greimas trong bài Greimas - Ngƣời xây nền cho trƣờng 
phái kí hiệu học Pháp [165, tr. 39 - 55] với mô hình vai hành động, cấu trúc cơ sở 
của nghĩa, mô hình cấu tạo. 
Tiếp theo, đó là cuốn Tự sự học - Một số vấn đề lí luận và lịch sử (Tập 1 và 
tập 2) [166] cũng do Trần Đình Sử chủ biên. Ở đây, chúng tôi quan tâm đến bài viết 
Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật của Phương Lựu, Ngƣời kể chuyện - nhân 
vật mang tính chức năng trong tác phẩm tự sự [165, tr. 196 - 208] của Nguyễn 
Thị Hải Phương, Bàn về một vài thuật ngữ thông dụng trong truyện kể của 
Đặng Anh Đào [165, tr. 169 - 178]. Qua những bài viết này, các tác giả đã góp phần 
làm rõ các khái niệm tự sự học như: NKC, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn 
Như vậy, lí thuyết tự sự luôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm. Nó 
có vai trò quan trọng và cần thiết trong việc tiếp cận tác phẩm văn học, đặc biệt là 
tác phẩm văn xuôi. Ở Việt Nam, ngoài những tác phẩm dịch thuật, ít có công trình 
nghiên cứu sâu về nghệ thuật tự sự từ phương diện lí thuyết. Giới nghiên cứu tự sự 
tập trung tìm hiểu, nghiên cứu về các phương diện của tự sự như: thời gian và 
không gian trần thuật, cấu trúc của văn bản trần thuật, ngôn ngữ trần thuật, tình 
huống trần thuật, điểm nhìn, giọng điệu, ngôi phát ngôn Nói tóm lại, tất cả các 
thành phần của nghệ thuật tự sự đều được các học giả nghiên cứu và làm rõ qua các 
tác phẩm văn học. 
1.2. Những công trình nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt 
Nam sau 1975 
 Trong quá trình khảo sát tư liệu, chúng tôi được tiếp xúc nhiều với bài viết và 
công trình lý luận có quy mô khác nhau. Trước thành tựu của công cuộc đổi mới 
văn học dân tộc sau 1975, đặc biệt là thể loại truyện ngắn, các nhà nghiên cứu phê 
bình đã tập trung bút lực nhằm giúp bạn đọc tiếp cận và thẩm định những cách tân 
mới mẻ trong “bước ngoặt” của dòng chảy văn học hiện đại Việt Nam. 
11 
Truyện ngắn Việt Nam sau 1975 đã được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình quan 
tâm, đặc biệt là nghiên cứu từ góc nhìn tự sự, một vấn đề lí luận mới mẻ và còn 
nhiều “lời ngỏ”. Cuốn 50 năm - Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám 
[153] được chia làm ba phần: Đặc điểm, diện mạo, hướng tiếp cận; Văn học và 
chiến tranh cách mạng; Những vấn đề thi pháp thể loại. Trong đó, chúng tôi chú ý 
đến bài viết Mấy nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau 1975 của 
Nguyễn Thị Bình [153, tr. 207 - 227]. Sau khi xác định tiêu chí, nguyên tắc xây 
dựng nhân vật của văn học sau 1975 trong thế đối sánh với văn học trước 1975, tác 
giả bài viết đã khẳng định nét mới rõ nhất trong việc xây dựng nhân vật là sự thay 
đổi mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật, giữa nhà văn và bạn đọc. Đó là “mối quan 
hệ bình đẳng, là xu thế đối thoại dân chủ giữa nhiều ý thức, mỗi nhân vật có thể có 
một điểm nhìn đời sống độc lập với điểm nhìn của tác giả” [153, tr. 218]. 
Văn học Việt Nam thế kỷ XX - Những vấn đề lịch sử và lí luận [46] là công 
trình khoa học trọng điểm của Đại học Quốc Gia Hà Nội do một tập thể Viện sĩ, 
Giáo sư, Phó giáo sư, Tiến sĩ thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Viện 
Văn học, Đại học Sư phạm Hà Nội hợp tác biên soạn. Công trình đã dành hẳn phần 
ba để nghiên cứu về “Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 2000”. Trong đó, 
chương VI đề cập đến “Một số vấn đề thi pháp truyện ngắn hiện đại Việt Nam”. Các 
tác giả cho rằng giai đoạn 1975 - 2000 là “thời của truyện ngắn”, truyện ngắn thực 
sự khởi sắc, “các nhà văn đã có công tìm tòi nghệ thuật làm cho thể loại “nhỏ” có sức 
chứa”, “có khả năng khái quát hóa nghệ thuật đời sống theo chiều sâu” [46, tr. 261]. 
Và sau đó, họ tập trung nghiên cứu vào hai nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn 
Huy Thiệp - những tên tuổi được dư luận quan tâm và có vị trí trên văn đàn. 
Nguyễn Minh Châu được đánh giá là “một phong cách đa dạng và biến ảo vì thế 
giọng điệu cũng luân phiên cho phù hợp với đối tượng” với “giọng chủ âm là trữ 
tình lo âu”, gần cuối đời có hiện tượng pha ...đã đi sâu 
nghiên cứu, đánh giá về nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng theo chiều 
dài thời gian cầm bút gần 50 năm, đồng thời làm sáng tỏ thế giới nghệ thuật phong phú 
và độc đáo của nhà văn này. Tác giả luận án đã đi sâu vào vấn đề nghệ thuật tự sự trong 
tác phẩm mang tính sử thi và trong tác phẩm về thế sự, đời tư ở ba phương diện: cốt 
truyện, nhân vật, trần thuật. Trong đó, người viết có đề cập đến vấn đề NKC với các 
luận điểm: NKC trong tác phẩm thế sự, đời tư đã kéo đối tượng trần thuật xích lại gần 
25 
hơn; NKC hàm ẩn trong tác phẩm của Ma Văn Kháng do nhìn đối tượng trần thuật 
bằng cái nhìn gần gũi, thân mật, suồng sã nên đã mở cánh cửa chia cắt quá khứ với 
hiện tại; đa số được kể ở NT3 với người kể hàm ẩn. Đỗ Phương Thảo cũng chỉ ra một 
số đặc điểm của lời văn trần thuật: Dòng trần thuật đan xen kể - tả với bình luận; trữ 
tình ngoại đề và mạch trần thuật nhiều giọng điệu. Luận án khẳng định: “Giọng NKC 
mạnh hơn giọng nhân vật nhưng điều đáng nói là lời văn trong tác phẩm thế sự, đời tư 
của Ma Văn Kháng không đơn điệu về phương diện phong cách”; “Ma Văn Kháng sử 
dụng rộng rãi khẩu ngữ dân gian, đem văn nói hòa trộn văn viết tạo nên thứ ngôn ngữ 
đặc biệt dung dị, đời thường mà vẫn sâu sắc, gợi cảm” [178, tr. 176]. 
Bài viết Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn [143] của Lã 
Nguyên xác định diện mạo, hình hài riêng của truyện ngắn Ma Văn Kháng. Ngay 
những sáng tác đầu tay, người cầm bút đã đến với người đọc trong tư cách một nhà 
văn có ý thức về chỗ đứng của mình. Người viết đưa ra những nhận định rất xác 
đáng: “Người kể chuyện thường xuyên bắt mạch tả, mạch kể phải dừng lại để bình 
luận, đánh giá, giải thích hoặc cất lên tiếng nói trữ tình đầy thâm trầm, sâu lắng” 
[143, tr. 27]. Trong bài này, Lã Nguyên cũng cho rằng ở truyện ngắn của Ma Văn 
Kháng “giọng tranh biện cất lên từ mạch trần thuật, ngôn ngữ nhân vật, từ những 
hình tượng được xây dựng cứ như là để đối chọi lại với hình tượng nghệ thuật trong 
sáng tác của một nhà văn nào đó” [143, tr. 6]. Một số bài viết khác quan tâm đến 
nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn sau 1975 của Ma Văn Kháng như Tƣ duy mới 
về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80 của Nguyễn Thị 
Huệ [83], Trữ lƣợng Ma Văn Kháng của Phong Lê [117], Con ngƣời giữa dòng 
xoáy của những ham muốn đời thƣờng của Nguyễn Ngọc Thiện [180] 
Cùng hướng nghiên cứu ấy, luận văn thạc sĩ với đề tài Đặc điểm nghệ thuật 
truyện ngắn Ma Văn Kháng từ sau 1980 [3] của Phạm Mai Anh đã phát hiện ra 
một số phương diện nổi bật về nghệ thuật truyện ngắn Ma Văn Kháng như cốt 
truyện, các kiểu kết cấu, nhân vật, một số nét về ngôn ngữ, lời thuyết minh, luận 
bàn Đề tài thạc sĩ Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng thời 
kì đổi mới [206] đã tìm hiểu nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 
26 
ở các phương diện điểm nhìn, giọng điệu, ngôn ngữ, không gian và thời gian trần 
thuật. Từ đó, người viết khẳng định sự đổi mới, sáng tạo trong nghệ thuật trần thuật 
của nhà văn. Luận văn khảo sát về điểm nhìn trong truyện ngắn của Ma Văn Kháng 
và làm rõ các luận điểm như: Điểm nhìn bên ngoài; Điểm nhìn bên trong; Sự dịch 
chuyển và kết hợp các điểm nhìn trần thuật. Khi nghiên cứu, khảo sát về giọng điệu 
trần thuật, tác giả đã phát hiện những giọng điệu chính trong truyện ngắn của Ma 
Văn Kháng thời kỳ đổi mới như giọng điệu ngợi ca; giọng điệu xót xa, ngậm ngùi; 
giọng điệu triết lý, tranh biện; giọng điệu trào lộng, trang nghiêm. Bên cạnh đó là 
những luận văn thạc sĩ đi sâu định hình phong cách tác giả như: Phong cách Ma 
Văn Kháng trong truyện ngắn sau 1975 [182]; Nghệ thuật trần thuật trong 
truyện ngắn Ma Văn Kháng sau 1975 [141]; Thế giới nhân vật trong truyện ngắn 
Ma Văn Kháng thời kỳ đổi mới [112]. 
Đề tài cấp Bộ của Đào Thuỷ Nguyên Đặc điểm truyện ngắn của Ma Văn 
Kháng về đề tài dân tộc và miền núi [147] đã đi sâu nghiên cứu và khẳng định một 
cách đầy thuyết phục những vấn đề nhân sinh, thế sự, những thành công đặc sắc về 
nghệ thuật xây dựng nhân vật và sử dụng ngôn từ trong truyện ngắn viết về đề tài 
dân tộc và miền núi của Ma Văn Kháng. Nhận xét về cách xây dựng nhân vật, các 
tác giả cho rằng: “Dịch chuyển điểm nhìn trần thuật từ bên ngoài vào bên trong thế 
giới tâm hồn nhân vật, bằng một ngôn ngữ nửa trực tiếp, Ma Văn Kháng còn có 
khả năng diễn tả lời nội tâm của người dân miền núi theo đúng cách cảm cách nghĩ 
của họ” [147, tr. 76]. Tuy nhiên, đề tài không nghiên cứu theo hướng tìm hiểu truyện 
ngắn Ma Văn Kháng từ phương diện tự sự học. 
Qua khảo sát, có thể nhận thấy hầu hết các chuyên luận đã đề cập đến nhiều 
vấn đề có liên quan đến nghệ thuật tự sự như đề tài, cốt truyện, nhân vật, ngôn 
ngữ Dù vậy, những vấn đề đưa ra không phải là đã được lí giải hoàn toàn thấu 
đáo, nhiều điều vẫn còn bỏ ngỏ, chưa được quan tâm, xem xét như các hình thức kể 
chuyện, dấu hiệu nhận biết, các phương tiện biểu hiện giọng điệu trần thuật 
Có thể nói, vấn đề NKC đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Các bài 
viết đã ít nhiều đề cập đến ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật. Song, đó 
27 
dường như chỉ là những nhận xét rút ra từ việc tìm hiểu nội dung, tư tưởng tác phẩm 
mà chưa hướng tới một cái nhìn toàn diện, sâu sắc về vấn đề NKC theo lý thuyết tự 
sự học. Vì vậy, cần có một cái nhìn tổng thể để thấy được nghệ thuật tự sự của từng 
tác phẩm trong sáng tác của mỗi nhà văn và nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt 
Nam sau 1975. 
Qua việc khảo sát lịch sử vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đi đến một số nhận 
định sau: 
- Ở nước ngoài, nghiên cứu văn học dựa trên lí thuyết tự sự là hướng nghiên 
cứu được quan tâm. 
- Ở Việt Nam đã có những công trình vận dụng lí thuyết tự sự học để nghiên 
cứu tác phẩm văn học. 
- Đã có những công trình, luận án, luận văn bàn về các yếu tố của của cấu trúc 
tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 
- Chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống nghệ thuật tự sự trong 
truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng - 
những nhà văn tiên phong trong việc đổi mới thể loại ở một chặng đường chuyển 
tiếp đầy khó khăn. 
Tiểu kết: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng là những tác giả 
được bàn đến rất nhiều trong những năm qua. Tuy nhiên, việc tiếp cận, nghiên cứu 
sáng tác của họ từ góc độ tự sự học thì vẫn còn những khoảng thưa vắng. Nhiều ý kiến 
đề cập đến vấn đề ngôi kể, điểm nhìn và giọng điệu trần thuật nhưng chủ yếu vẫn là 
những bài viết đơn lẻ, những nhận định về một tác phẩm, tác giả, chưa có công trình 
nghiên cứu hệ thống về truyện ngắn của ba nhà văn tiêu biểu cho thế hệ “mở đường” 
của văn xuôi hiện - đương đại Việt Nam. Với mong muốn ứng dụng lí thuyết tự sự học 
vào việc tìm hiểu các tác phẩm văn học, cụ thể là truyện ngắn Việt Nam đương đại, 
chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Việt Nam sau 
1975 (Qua truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải và Ma Văn Kháng)”. 
Kế thừa những kết quả nghiên cứu của người đi trước, chúng tôi sẽ cố gắng nghiên cứu 
chuyên sâu vào các phương diện ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu trầ thuật trong truyện 
ngắn của ba nhà văn tiêu biểu cùng thế hệ để có cái nhìn biện chứng về những điểm 
chung, điểm riêng và sự vận động, đổi mới của truyện ngắn Việt Nam sau 1975. 
28 
CHƢƠNG 2 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TỰ SỰ HỌC. 
KHÁI LƢỢC VỀ TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM SAU 1975 
2.1. Một số vấn đề cơ bản của tự sự học 
Tự sự là “phương thức tái hiện đời sống, bên cạnh hai phương thức khác là 
trữ tình và kịch được dùng làm cơ sở để phân loại tác phẩm văn học” [165, tr. 328]. 
Tác phẩm tự sự tái hiện đời sống trong toàn bộ tính khách quan nhưng tự sự không 
có ý nghĩa chỉ một loại hình nghệ thuật. Như vậy, tự sự ngày nay còn được hiểu là 
một phương thức tạo nghĩa và truyền đạt thông tin. 
Tự sự học là “một nhánh của thi pháp học hiện đại, hiểu theo nghĩa rộng 
nghiên cứu cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề liên quan hoặc nói cách khác 
là nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật trần thuật của văn bản tự sự nhằm tìm một cách 
đọc” [165, tr. 11]. Như vậy, đối tượng chủ yếu của tự sự học là tự sự văn học. Ngày 
nay, nó trở thành một khuynh hướng học thuật chứ không chỉ đơn thuần là một bộ 
môn nghiên cứu. 
Lí thuyết tự sự hiện đại cho thấy tính phức tạp của cấu trúc tự sự với các vấn 
đề cần tìm tòi, suy ngẫm như: cốt truyện, người kể chuyện, điểm nhìn, dòng ý thức, 
không gian, thời gian, giọng điệu trần thuật Tự sự học hiện đại đã đi sâu nghiên 
cứu các thành phần tạo nên cấu trúc tự sự. Dưới đây, chúng tôi chỉ đi sâu vào một 
số phương diện cơ bản của lí thuyết tự sự sẽ được vận dụng để tìm hiểu và nghiên 
cứu truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. 
2.1.1. Người kể chuyện 
 Người kể chuyện là một phương diện quan trọng của lí thuyết tự sự. Vấn đề 
này cho đến nay vẫn chưa được các nhà lí luận văn học thống nhất hoàn toàn. 
 Theo Pospelov, NKC có thể hiểu là “người môi giới giữa các hiện tượng được 
miêu tả và người nghe (người đọc), là người cắt và cắt nghĩa các sự việc xảy ra” 
(dẫn theo [165, tr. 196]). 
 W. Keyser cho rằng: “Đó là một hình hài được sáng tạo ra, thuộc về toàn bộ chỉnh 
thể tác phẩm văn học,, là vai mà tác giả bịa ra và chấp nhận” (dẫn theo[165, tr. 196]). 
29 
 Tz. Todorov lại quan niệm: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong 
việc kiến tạo thế giới hư cấu. Chính NKC là hiện thân của những khuynh hướng 
mang tính xét đoán và đánh giá” (dẫn theo [166, tr. 196]); “Người kể chuyện là yếu 
tố tích cực trong việc kiến tạo thế giới tưởng tượng Người kể chuyện không nói 
như các nhân vật tham thoại khác mà kể chuyện. Như vậy, kết hợp đồng thời trong 
mình cả nhân vật và người kể, nhân vật mà nhân danh nó cuốn sách được kể có một 
vị thế hoàn toàn đặc biệt” (dẫn theo [165, tr. 117]). 
 Phân biệt rạch ròi NKC và tác giả, R. Barther khẳng định: “Người kể chuyện 
và những nhân vật của anh ta bản chất là những “thực thể trên giấy”, tác giả (thực tế) 
của văn bản không có điểm gì chung với NKC” (dẫn theo [165, tr. 117]). 
 Thấy được mối quan hệ giữa vấn đề NKC và vấn đề điểm nhìn, P. Lubbock 
khẳng định: “Toàn bộ vấn đề rắc rối về phương pháp trong nghệ thuật sáng tác phụ 
thuộc vào vấn đề điểm nhìn - vấn đề thái độ của người NKC với việc trần thuật” 
(dẫn theo [165, tr. 118]). 
 Theo Từ điển thuật ngữ văn học, NKC là “hình tượng ước lệ về người trần 
thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một 
nhân vật cụ thể trong tác phẩm” [70, tr. 191]. 
Như vậy, NKC là hình tượng nghệ thuật đặc biệt và tất yếu trong một tác phẩm 
tự sự. Bởi lẽ “không thể có trần thuật thiếu NKC” (Tz. Todorov); “không thể có lời 
kể chuyện mà chẳng có NKC” (D. GrrojnowSki). Người kể chuyện có mối quan hệ 
đặc biệt với tác giả nhưng không đồng nhất với tác giả. Người kể chuyện thực chất 
là những “sinh thể” trên giấy, tồn tại trong thế giới hư cấu và tưởng tượng, là nhân 
vật do tác giả sáng tạo ra có nhiệm vụ tổ chức kết cấu tác phẩm và môi giới, dẫn dắt 
người đọc tiếp cận thế giới nghệ thuật, thay mặt nhà văn bày tỏ quan điểm về con 
người, cuộc đời. Tác giả là chủ thể sáng tạo, ở bên ngoài tác phẩm, là người thật có 
tên, tuổi, tiểu sử... Như vậy, tác giả có trách nhiệm về tác phẩm nghệ thuật do mình 
sáng tạo ra, còn NKC có chức năng kể chuyện. Chỉ trong những tác phẩm tự thuật 
thực sự và trong thể loại tự thuật thì NKC mới đồng nhất với tác giả. Mỗi tác phẩm 
có thể có một hoặc nhiều NKC. Người kể chuyện có mối quan hệ với các yếu tố 
30 
trong cấu trúc văn bản như: điểm nhìn, tiêu điểm, tiêu cự, ngôn ngữ, nhân vật, 
không gian, thời gian, người quan sát, người được tiêu điểm hóa và các yếu tố 
khác như: người nghe chuyện, tác giả hàm ẩn, tác giả thực và độc giả thực. Người 
kể chuyện đảm nhiệm hai vai trò đồng thời: vai trò giới thiệu, dẫn dắt câu chuyện 
(chức năng trần thuật) và vai trò điều khiển (chức năng kiểm soát). 
Có nhiều tiêu chí để phân loại các kiểu NKC: 
 Trong Figures III, Genette có đề cập đến việc phải lưu ý về sự nhầm lẫn có thể 
có giữa thức (mode) và giọng (voice), tức là sự khác nhau giữa hai câu hỏi: ai nhìn? 
và ai nói? Nói cụ thể hơn là sự khác biệt giữa vấn đề ai là nhân vật và ai là NKC? 
Từ đó, ông đưa ra ba thuật ngữ: NKC toàn tri (tức NKC biết nhiều hơn nhân vật), 
NKC bằng nhân vật (tức NKC chỉ nói những gì anh ta biết) và NKC nhỏ hơn nhân 
vật (NKC nói ít hơn những gì nhân vật biết). 
 Dựa trên quyền năng của NKC, R. Scholes và R. Kellogg phân chia làm bốn loại: 
NKC truyền thống, NKC sử quan, NKC chứng nhân, NKC toàn tri [166, tr. 134 - 148]. 
 Trong Trần thuật học - nhập môn lí thuyết trần thuật, dựa vào sự tồn tại của 
NKC được báo hiệu như thế nào trong văn bản, người ta phân biệt NKC giấu mặt và 
NKC lộ diện [131, tr. 37 - 38]. 
Trong văn học truyền thống, vấn đề ngôi kể chưa được đặt ra. Các tác giả chủ 
yếu sử dụng kinh nghiệm cộng đồng để kể và kể hoàn toàn theo NT3. Người kể 
chuyện thông thái đóng vai trò là người “biết tuốt” mọi chuyện, có vai trò dẫn dắt 
câu chuyện và định hướng cách tiếp nhận của độc giả. Đến thế kỷ XIX, với sự xuất 
hiện của các truyện kể theo NT1 gắn với cái “tôi” được ý thức, người ta mới có sự 
phân biệt NKC theo ngôi kể. 
Vận dụng lí thuyết tự sự học, chúng tôi cho rằng có ba kiểu NKC chủ yếu, sắp 
xếp theo logic thói quen sử dụng và sự vận động của ngôi kể trong nghệ thuật trần 
thuật của văn học hiện đại Việt Nam, gồm: 
Người kể chuyện ở ngôi thứ ba (Keterotegetu narrative) còn gọi là người kể 
giấu mặt hay người kể ẩn tàng: Câu chuyện được kể lại bởi NKC không xuất hiện 
trực tiếp, không tham gia vào diễn biến của các sự kiện. Tiền tố “hetero” nhắc nhở 
31 
đến bản chất khác nhau giữa thế giới của người kể với thế giới của hành động. Như 
vậy, NKC không thuộc vào thế giới của truyện kể mà luôn đứng ở vị trí khách quan, 
tưởng như không liên quan tới câu chuyện nhưng lại đóng vai trò quan trọng trong 
tác phẩm, không chỉ là người dẫn chuyện, tổ chức cốt truyện mà còn giữ vai trò 
phân tích, bình giá làm rõ các mối quan hệ trong tác phẩm (truyện ngắn Ma Văn 
Kháng chủ yếu lựa chọn NKC dạng này). 
 Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất (Homodiegetic narrative) còn gọi là người kể 
tường minh hay người kể lộ diện: Câu chuyện được kể lại bởi một NKC hiện diện 
như một nhân vật trong truyện. Tiền tố “homo” chỉ ra rằng NKC cũng là một nhân 
vật ở cấp độ hành động. Thường thì NKC xuất hiện trực tiếp dưới hình thức “tôi”. 
Người kể chuyện có thể thuộc vào thế giới nhân vật được miêu tả, trực tiếp tham gia 
vào diễn biến truyện nhưng nhiều khi cũng chỉ đóng vai trò là người chứng kiến, 
dẫn dắt câu chuyện. “Tôi” có thể kể chuyện của chính “tôi” với những sự kiện, sự 
việc liên quan trực tiếp đến mình (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu); 
“tôi” có thể kể về người khác với vai trò là người quan sát, chứng kiến (Chị Thiên 
của tôi - Ma Văn Kháng). 
 Người kể chuyện ở ngôi thứ hai: Người kể chuyện rời bỏ vị trí trần thuật (ở 
NT1 hoặc NT3) để tham gia đối thoại, tranh luận với độc giả, không còn khoảng 
cách trần thuật. Độc giả bị kéo cùng các nhân vật trực tiếp tham gia vào diễn biến 
câu chuyện. Đây là dạng NKC đặc biệt, không phổ biến và rất ít được sử dụng. 
Tóm lại, NKC là một yếu tố trong cấu trúc của văn bản tự sự. Người kể chuyện 
ở NT1, NT2, NT3 chỉ có tính chất ước lệ, tương đối. Bởi lẽ, NKC dù ở NT1 nhưng 
kể câu chuyện của người khác thì anh ta cũng chỉ mang đặc điểm của NKC ở NT3 
hay NKC dù ở NT3 nhưng trong quá trình kể đã nhập thân vào đối tượng trần thuật 
thì bản thân anh ta lại mang đặc điểm của NKC NT1 xưng “tôi”. Đây là hiện tượng 
đánh tráo chủ thể trần thuật (Đứa ăn cắp của Nguyễn Minh Châu; Lãng tử của 
Nguyễn Khải; Vệ sĩ của quan châu của Ma Văn Kháng). Có thể nói, mỗi hình 
thức kể có giá trị riêng. Ngôi kể thứ nhất gợi cho câu chuyện tính chân thật, dễ tin 
bởi NKC cũng là người chứng kiến hoặc tham gia vào diễn biến các sự kiện. Lối kể 
32 
ở NT3 lại giúp độc giả có thể chiếm lĩnh nhiều phạm vi hiện thực khách quan bởi vị 
trí quan sát không bị hạn chế. Ngôi kể thứ hai nhằm “đào sâu thêm ẩn ý của tác 
phẩm” (M. B. Khravchenko). Trong ba hình thức kể chuyện thì hình thức kể ở NT3 
ra đời sớm hơn cả. Hình thức kể chuyện ở NT2 nhìn chung không được sử dụng 
phổ biến bằng hai hình thức kia. 
2.1.2. Điểm nhìn nghệ thuật 
Lý luận văn học phương Tây thế kỷ XX xuất hiện nhiều thuật ngữ liên quan 
đến điểm nhìn như: “Điểm nhìn trần thuật” (C. Brooks & R. P. Warrren - 1943), 
“Tiêu cự - Focalisation” (G. Gennette - 1972), “Thể diện Aspect” (T. Todorov -
1998), “Góc nhìn - Angle” (Vision), “Phối cảnh” (Perspective) cùng với nó là 
những quan niệm về điểm nhìn. 
Theo M. H. Abrahams (Từ điển thuật ngữ văn học - A Glossary of Literature 
terms), điểm nhìn xác định “những cách thức mà một câu chuyện được kể đến - một 
hay nhiều phương thức được thiết lập bởi tác giả bằng ý nghĩa mà độc giả được 
giới thiệu với những cá tính, đối thoại, những hành động, sự sắp đặt và những sự 
kiện mà trần thuật cấu thành trong một tác phẩm hư cấu” [207, tr. 274]. 
V. M. Tolmachev định nghĩa: “Điểm nhìn là sự lựa chọn cự ly trần thuật nào 
đó loại trừ được sự can thiệp của tác giả vào các sự kiện được miêu tả và cho phép 
văn xuôi trở nên tự nhiên hơn, phù hợp với cuộc sống hơn” [124, tr. 61]. 
Henry James xác lập điểm nhìn là “mô tả cách thức tồn tại của tác phẩm như 
một hành vi mang tính bản thể hoặc một cấu trúc hoàn chỉnh, tự trị đối với cá nhân 
nhà văn” (dẫn theo [166, tr. 135]). 
Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử: “Điểm nhìn mang tính ẩn dụ, bao gồm 
mọi nhận thức, đánh giá, quan sát, cảm thụ của chủ thể đối với thế giới. Nó là các 
vị trí dùng để quan sát, cảm nhận đánh giá bao gồm cả khoảng cách giữa chủ thể 
và khách thể, cả phương diện vật lí, tâm lí, văn hoá” [167, tr. 149]. 
 Các tác giả Từ điển thuật ngữ văn học cũng quan niệm: “Không thể có nghệ 
thuật nếu không có điểm nhìn, bởi nó thể hiện sự chú ý, quan tâm và đặc điểm của 
chủ thể trong việc tạo ra cái nhìn nghệ thuật. Giá trị của sáng tạo nghệ thuật một 
33 
phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới đối với cuộc 
sống. Sự thay đổi nghệ thuật bắt đầu từ đổi thay điểm nhìn” [70, tr. 113]. 
Như vậy, tương quan “khoảng cách” giữa người trần thuật đối với các hiện 
tượng được miêu tả, “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và mô tả sự vật trong tác 
phẩm” [69, tr. 113] được gọi là ĐNNT. Hiểu một cách đơn giản nhất, điểm nhìn 
chính là một “mánh khoé” thuộc về kỹ thuật, một phương tiện để chúng ta có thể 
tiến đến cái đích tham vọng nhất: sức hấp dẫn của truyện kể. Và dù có sử dụng cách 
thức nào, phương pháp hay kỹ thuật nào thì mục đích cuối cùng của người sáng tạo 
là kéo độc giả đồng sáng tạo với nhà văn. 
Ở những thời điểm khác nhau, các nhà nghiên cứu đã tiến hành nhiều hình 
thức phân loại điểm nhìn và mô hình tự sự khác nhau: 
Stancer đã tiến hành chia “Tình huống trần thuật” gồm: trần thuật kiểu tác giả 
điều gì cũng biết; trần thuật kiểu dựa trên điểm nhìn của một nhân vật và trần thuật 
dựa trên điểm nhìn của nhiều nhân vật (dẫn theo [27, tr. 43]). 
N. Friedman dựa vào bốn nguyên tắc như: ai là người kể, vị trí kể, kênh thông 
tin mà người kể qua đó đem câu chuyện đến cho người đọc, khoảng cách giữa câu 
chuyện và người đọc để chia thành tám loại hình tự sự: hai loại hình tự sự điều gì 
cũng biết (có sự hiện diện của tác giả và không có sự hiện diện của tác giả), hai loại 
hình tự sự NT1 (“Tôi” là người chứng kiến và “tôi” là nhân vật trong truyện), hai 
loại hình tự sự với điểm nhìn có giới hạn (nhiều điểm nhìn và một điểm nhìn) và hai 
loại hình tự sự khách quan thuần tuý (tự sự kiểu kịch, tự sự kiểu điện ảnh) (dẫn theo 
[27, tr. 44]). 
L. Dolezel dựa vào ba tiêu chí là truyện sử dụng ngôi kể thứ nhất hay thứ ba, 
NKC có phải là một nhân vật trong tác phẩm hay không và NKC có thể hiện thái độ chủ 
quan của mình hay không đã đề xuất sáu phương thức tự sự: ba biến thể của hình thức tự 
sự NT1 (khách quan = bàng quan, tu từ, chủ quan = cá nhân) và ba biến thể của hình 
thức tự sự NT3 (khách quan, tu từ, chủ quan) (dẫn theo [27, tr. 44]). 
Dựa vào dung lượng biết của NKC, Diệp Tú Sơn - nhà nghiên cứu Trung 
Quốc, sử dụng thuật ngữ “góc nhìn” đã phân chia thành: tự sự góc nhìn toàn tri, tự 
sự góc nhìn hạn tri, tự sự góc nhìn tự tri [168, tr. 34]. 
34 
 Genette đưa ra thuật ngữ tiêu điểm để chỉ mối quan hệ giữa cái nhìn và cái 
được nhìn thấy, được cảm biết. Ông đặt vấn đề “phối cảnh” (perspective) và phân 
biệt “nhân vật nào mà điểm nhìn hướng vào phối cảnh kể chuyện” hoàn toàn khác 
với câu hỏi “ai thấy?” và “ai nói?” [165, tr. 90 - 91]. Vì vậy, ông chia thành ba loại 
hình tự sự: Tự sự không có tiêu điểm (focaliration zero) là loại hình trần thuật với 
tiêu cự bằng không (NKC đóng vai trò “thượng đế” biết hết mọi chuyện và không 
thuộc vào thế giới của truyện, khoảng cách giữa sự việc và người kể là không có), 
tự sự tiêu điểm bên trong (internal focaliration) là loại hình trần thuật với tiêu cự 
bên trong (NKC đóng vai là nhân vật trong truyện). Vì vậy, điểm nhìn của anh ta 
bằng với điểm nhìn của nhân vật, NKC có thể chỉ là một nhân vật kể mọi chuyện 
hoặc nhiều nhân vật kể những chuyện khác nhau hay có thể là nhiều nhân vật cùng 
kể một câu chuyện), tự sự tiêu điểm bên ngoài (external focalization) là loại hình tự 
sự với tiêu cự bên ngoài (NKC nằm ngoài câu chuyện, giữ khoảng cách với nhân 
vật, chỉ kể về những gì anh ta thấy và kể lại một cách khách quan). 
Trên cơ sở tiếp thu và vận dụng lí thuyết tự sự học, chúng tôi tiến hành khảo 
sát và phân loại các hình thức tự sự như sau: 
Tự sự NT3 gồm: 
Tự sự ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên ngoài: Tự sự theo ĐNBN là lối kể khách 
quan, tái hiện trực tiếp hiện thực qua hoạt động bên ngoài của thế giới nhân vật. 
Người kể chuyện chỉ kể những điều anh ta thấy. Ở đây, không có sự miêu tả những 
ý nghĩ bên trong, không có sự lược thuật, hồi tưởng về quá khứ của nhân vật. Người 
đọc phải chủ động suy đoán để đưa ra kết luận cho riêng mình. Trong truyện ngắn 
kể theo ĐNBN, nhân vật và các chi tiết thường nhiều, đòi hỏi năng lực quan sát 
cũng như cảm nhận tinh tế của NKC. Và người đọc muốn hiểu được những điều 
nhà văn thể hiện trong tác phẩm phải có tri thức, có sự hiểu biết nhất định, phải tinh 
tế, nhạy cảm. Khi người kể tự hạn chế điểm nhìn trong một giới hạn thực chất là 
anh ta muốn mở ra một giới hạn mới cho người đọc khám phá. Hình thức trần thuật 
này có tính khơi gợi rất lớn. 
Tự sự ngôi thứ ba theo điểm nhìn bên trong: Tự sự theo ĐNBT là hình thức 
mà NKC lấy thế giới nội tâm của nhân vật làm “chỗ đứng” trần thuật của mình. 
Người kể chuyện nhìn sự vật, hiện tượng theo điểm nhìn của nhân vật. Trong những 
35 
truyện kể ở NT3 theo ĐNBT vì có sự tự hạn chế của NKC vào một phạm vi ý thức 
chủ quan nào đó nên thường thấy có sự can dự khá rõ của người kể. Ta thường bắt 
gặp trong các tác phẩm hiện tượng lời người kể xen lẫn lời nội tâm của nhân vật. 
NKC có thể kể theo điểm nhìn của một hoặc nhiều nhân vật kết hợp với điểm nhìn 
của NKC. 
Tự sự ngôi thứ ba theo điểm nhìn phức hợp: Tự sự theo ĐNPH là hình thức tự 
sự có phối hợp nhiều quan điểm trần thuật. Trong tác phẩm luôn có sự dịch chuyển 
điểm nhìn (từ ĐNBN thành ĐNBT và ngược lại) tùy thuộc vào sự phát triển của các 
tình tiết. Nhờ có sự dịch chuyển góc nhìn thường xuyên, nhà văn mở rộng tầm khái 
quát, giúp người đọc tiếp cận sâu hơn hiện thực để nhận thức bản chất của nó một 
cách toàn diện hơn. 
Tự sự NT1 gồm: 
Tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đơn tuyến: Tự sự NT1 theo ĐNĐT là hình 
thức tự sự mà ở đó tác giả chọn một nhân vật xưng “tôi” để kể chuyện. Đó là cái 
“tôi” suy ngẫm, độc thoại, tự ý thức. 
 Tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đa tuyến: Tự sự NT1 theo ĐNĐaT là hình 
thức tự sự mà ở đó điểm nhìn có sự dịch chuyển trên hai hay nhiều NKC xưng 
“tôi”. Cái “tôi” này không phải là sự phân thân của một cái “tôi” nào đó. Chúng tồn 
tại với tư cách là những chủ thể độc lập, thể hiện rõ sự mâu thuẫn nội tại trong ý 
thức. Nói cách khác, mỗi cái “tôi” đều được miêu tả như một ý thức. Có trường hợp 
người kể xưng “tôi” giữ vai trò giới thiệu nhân vật, dẫn ra câu chuyện rồi sau đó 
“bàn giao” việc kể cho một cái “tôi” khác, cũng có thể NKC ở NT1 là những nhân 
vật tham gia vào các tình tiết và có sự giao lưu với các nhân vật khác hoặc là nhiều 
NKC lồng ghép hai mạch kể trong thế đối sánh, lời của hai người kể bổ sung, xen 
kẽ cho nhau, điểm nhìn cứ di động từ cái “tôi” này qua cái “tôi” khác, có tác dụng 
“khiêu khích đối thoại”. 
Ngôi kể và điểm nhìn luôn gắn liền nhau. Điểm nhìn nghệ thuật (the point of 
view) là vấn đề cơ bản, then chốt của kết cấu tự sự. Điểm nhìn trong ĐNNT không 
chỉ là “vị trí từ đó người trần thuật nhìn ra và miêu tả sự vật” mà nó còn mang tính 
36 
chất tâm lí, là “chỗ đứng” thể hiện lập trường, tư tưởng, quan điểm của nhà văn. 
Trong tác phẩm tự sự, tương quan giữa nhà văn và chủ đề trần thuật hay giữa điểm 
nhìn của người trần thuật với những gì anh ta kể là điều đặc biệt quan trọng. Có 
nhiều người đề xuất cách gọi “điểm nhìn” là “nhãn quan”, “điểm quan sát”, “tiêu cự 
trần thuật” nhưng theo chúng tôi, dùng khái niệm “điểm nhìn” là phù hợp hơn cả 
vì điểm nhìn còn thể hiện lập trường, tư tưởng của nhà văn. Khi nghiên cứu ĐNNT, 
người ta chia điểm nhìn thành các loại như điểm nhìn tác giả, điểm nhìn nhân vật, 
điểm nhìn không gian, điểm nhìn thời gian, điểm nhìn tâm lý, điểm nhìn tư tưởng, 
điểm nhìn tu từ Điểm nhìn nghệ thuật dẫn dắt người đọc vào mê cung văn bản 
ngôn từ. Trong nghệ thuật trần thuật, sáng tạo của nhà văn trước hết thể hiện ở cách 
“ứng xử” với câu chuyện để tạo ra sự đa dạng của các ĐNNT. 
2.1.3. Giọng điệu trần thuật 
Các nhà nghiên cứu nước ngoài thường phân biệt voice (giọng) và tone (giọng 
điệu). Trong A dictionary of stylistics (Từ điển phong cách học), Katie Wales quan 
niệm: voice được dùng “để miêu tả ai là người nói trong trần thuật”; tone “được 
dùng với nghĩa một phẩm chất âm thanh đặc biệt nào đó có liên quan đến những 
cảm xúc hoặc tình cảm đặc biệt nào đó” (dẫn theo [27]). Ở Giọng điệu trong thơ 
trữ tình, Nguyễn Đăng Điệp có dẫn ra những quan niệm về voice và tone: Bách 
khoa thư Mỹ diễn giải voice là “âm thanh do sinh vật phát ra”, tone là “âm thanh 
được xét trong sự can thiệp của trường độ, cường độ, âm sắc và âm lượng của nó”; 
M.Bakhihtin sử dụng khái niệm golos (phát ngôn âm thanh mang tính cảm xúc, thái 
độ, lập trường của chủ thể) khi nói về giọng điệu. Từ đó, tác giả đưa ra kết luận: 
“Nhìn một cách tổng quát, giữa voice và tone có điểm gặp gỡ: đều mang đặc tính 
âm thanh. Sự khác biệt giữa hai khái niệm này là ở chỗ, so với voice, tone hàm 
chứa màu sắc, thái độ, cảm xúc, quan niệm của người nói rõ hơn” [50, tr. 33 - 34]. 
Từ điển Tiếng Việt định nghĩa về giọng: “1. Độ cao thấp, mạnh yếu của lời nói, 
tiếng hát; 2. Cách phát âm riêng của một địa phương; 3. Cách diễn đạt bằng ngôn 
ngữ, biểu thị tình cảm, thái độ nhất định; 4. Gam đã xác định âm chủ” [152, tr. 424] 
và giọng điệu là “giọng nói, lối nói biểu thị một thái độ nhất định” [152, tr. 424]. 
37 
Trần Đình Sử đã đưa ra nhận định cô đọng về vấn đề nghiên cứu giọng điệu: “Trên 
thế giới, vấn đề giọng điệu được nghiên cứu khi thì nghiêng về vấn đề giọng nói, âm 
thanh (voice, golos) như M. Bakhtin (1895 - 1975) và W. Boothe (1921 - 1985), khi 
thì nghiêng về điệu, chủ điệu (tone) như I. A.Richards (1893 - 1981). Khái niệm 
tiếng Việt “giọng điệu” hình như bao hàm được một lúc cả hai mặt đó ” [50, tr. 7]. 
Như vậy, ta có thể hiểu giọng là âm thanh được xét ở góc độ vật lí như cường độ, 
trường độ, cách phối âm, âm lượng còn giọng điệu là âm thanh được xét ở góc độ 
tâm lí, biểu hiện thái độ buồn vui, giận hờn, yêu ghét, trân trọng 
Khái niệm “giọng điệu” được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm: 
 Phan Cự Đệ cho rằng: “Giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc tạo nên 
phong cách nhà văn và tác dụng truyền cảm cho người đọc.” [47, tr. 113]. 
 Tác giả cuốn Những vấn đề thi pháp của truyện khẳng định: “Giọng điệu 
chính là mối quan hệ giữa chủ thể và hiện thực khách quan thể hiện bằng hành vi 
ngôn ngữ trong đó bao hàm cả việc định hướng đánh giá và thói quen cá nhân sử 
dụng ngôn từ trong khía cạnh tình huống cụ thể.” [78, tr. 154]. 
 K.Danliger và Johnson trong Nhập môn phê bình văn học đã viết: “Giọng 
điệu là phạm trù có liên quan đến tất cả các yếu tố tạo nên văn phong như cách 
diễn đạt, hình tượng, cú pháp là biểu hiện của thái độ về đối tượng.” [13, tr. 67]. 
 Lê Huy Bắc cũng chỉ ra: “Giọng điệu là âm thanh được xét ở góc độ tâm lý, 
biểu hiện thái độ buồn, vui, giận” [13, tr. 67]. 
 Nguyễn Đăng Điệp quan niệm giọng điệu như một hiện tượng nghệ thuật. 
“Giọng điệu biểu thị thái độ, cảm xúc, tư thế của chủ thể phát ngôn qua lời văn 
nghệ thuật”, “Giọng điệu là sự thể hiện lập trường xã hội, thái độ, tình cảm, thị 
hiếu thẩm mĩ, sở trường ngôn ngữ của tác giả, nó gắn chặt với đối tượng giao tiếp 
và cách thức tổ chức lời lẽ diễn đạt” [49, tr. 34 - 35]. 
 Nhà nghiên cứu Bích Thu cũng đồng quan điểm: “Giọng điệu được thiết kế 
bởi mối quan hệ, thái độ lập trường, tình cảm của NKC với các hiện tượng, các 
sự kiện được miêu tả cũng như người nghe thì tạo thành giọng điệu trần thuật” 
[79, tr. 123]. 
38 
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về giọng điệu nhưng hầu hết các 
ý kiến đều thống nhất cho rằng:“Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường tư 
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn 
quy định cách xưng hô, gọi tên dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, 
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [70, tr. 113]. 
Trong Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật, người viết đã phân 
biệt: Giọng điệu thuộc văn bản (hoặc trong văn bản) là những giọng điệu của NKC 
(bằng “giọng điệ...gành nghiên cứu 
văn học ở Việt Nam”, Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch sử, tr. 46 - 55. 
9. Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Thị Hoài Thanh (sưu tầm và biên 
soạn) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Nxb Hội 
Nhà văn, Hà Nội. 
10. Đào Tuấn Ảnh (2005), “Quan niệm thực tại và con người trong văn học hậu 
hiện đại”, phebinhvanhoc.com.vn/?p=1823, ngày 02/06/2012. 
11. Đào Tuấn Ảnh (2007), “Những yếu tố hậu hiện đại trong văn xuôi Việt Nam 
qua so sánh với văn xuôi Nga”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (12), tr. 39 - 57 
12. Lê Huy Bắc (1996), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 45 - 50. 
13. Lê Huy Bắc (1998), "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại", Thi pháp 
học ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 335 - 346. 
153 
14. Lê Huy Bắc (tuyển chọn và giới thiệu) (2003), Truyện ngắn hậu hiện đại thế 
giới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
15. Lê Huy Bắc (2005), Truyện ngắn lí luận tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
16. Bakhtin M. (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại 
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
17. Barthes & Roland. (2004), Nhập môn phân tích cấu trúc truyện kể (Tôn Quang 
Cường dịch từ bản tiếng Nga), trang web http:// evan.vnexpress.net 
News/phe-binh/ly-luan/2004/01/3B9AD49E. 
18. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau 
1975 (Khảo sát trên nét lớn), Luận án phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn, Trường 
Đại học Sư phạm Hà Nội. 
19. Nguyễn Thị Bình (1996), Mấy nhận xét về nhân vật của Văn xuôi Việt Nam sau 
1975,50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Đại học 
Quốc gia, Hà Nội, tr. 217 - 226. 
20. Nguyễn Thị Bình (1998), “Nguyễn Khải và tư duy tiểu thuyết”, Tạp chí Văn 
học, (9), tr. 69 - 75. 
21. Nguyễn Thị Bình (2003), “Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong văn 
xuôi nước ta từ sau 1975”, Tạp chí Văn học (4), tr. 25. 
22. Nguyễn Thị Bình (2007), “Đổi mới ngôn ngữ và giọng điệu - một thành công 
đáng chú ý của văn xuôi sau 1975”, Tự sự học - một số vấn đề lí luận và lịch 
sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội, tr. 351 - 367. 
23. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995, những đổi mới cơ 
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
24. Ngô Vĩnh Bình (2003), “Nguyễn Minh Châu - cuộc đời và văn nghiệp”, Nguyễn 
Minh Châu về tác gia và tác phẩm, tr. 419 - 421. 
25. Boyd W. (2006), Lược sử truyện ngắn, Hà Linh dịch, (nguồn Tạp chí Prospect) 
Http:///evan.vnexpress.net/News/phe-binh/nghien- cuu/2006/05/3B9ACF93/ 
26. Nguyễn Thị Mai Chanh (2004), Nghệ thuật trần thuật trong hai tập truyện ngắn 
“Gào thét” và “Bàng hoàng” qua các tác phẩm kể theo ngôi thứ 3 của Lỗ 
Tấn, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm, Đại học 
Thái Nguyên. 
154 
27. Nguyễn Thị Mai Chanh (2008), Nghệ thuật tự sự của Lỗ Tấn qua hai tập truyện 
ngắn Gào thét và Bàng hoàng, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, chuyên ngành: Văn 
học Trung Quốc, Viện Văn học 
28. Nguyễn Minh Châu (1983), “Nghĩ về truyện ngắn”, Báo Văn nghệ, số ra ngày 4/5. 
29. Nguyễn Minh Châu (1986), Bến quê (tập truyện ngắn), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
30. Nguyễn Minh Châu (1987), “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ 
minh họa”, phebinhvanhoc.com.vn/?p=134 , ngày 15/04/2012. 
31. Nguyễn Minh Châu (2001), Toàn tập, tập 5, Nxb Văn học, Hà Nội. 
32. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn (Tôn Phương Lan sưu tầm, 
tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
33. Nguyễn Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 
34. Nguyễn Minh Châu (2009), Di cảo Nguyễn Minh Châu, Nxb Văn học, Hà Nội. 
35. Nguyễn Minh Châu (2011), Tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học, Hà Nội. 
36. Combley, Paul (2008), “Chủ nghĩa hiện thực và giọng kể tự sự” (Phạm Phương 
Chi dịch), Tạp chí Văn học nước ngoài, (5), tr. 137. 
37. Nguyễn Đức Dân (2000), “Hiện tượng đa thanh từ góc nhìn ngôn ngữ học”, Tạp 
chí Văn học, (3), tr. 27 - 32. 
38. Daniel Grojnowski (1993), Đọc truyện ngắn, (Trần Hinh, Phùng Ngọc Kiên 
dịch, tài liệu ở dạng bản thảo). 
39. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội. 
40. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội. 
41. Hà Huy Dũng (2007), Người kể chuyện trong truyện ngắn và tiểu thuyết 
Nguyễn Khải, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành 
phố Hồ Chí Minh. 
42. Phạm Văn Dũng (2010), Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Minh Châu sau 1975 
nhìn từ góc độ thi pháp, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
155 
43. Đặng Anh Đào (2002), “Sự phát triển nghệ thuật tự sự ở Việt Nam - một vài 
hiện tượng đáng lưu ý”, Tự sự học, một số vấn đề lịch sử và lí luận, tr. 170 - 184. 
44. Đặng Anh Đào (2002), “Từ nguyên tắc đa âm tới một số hiện tượng văn học 
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, (6), tr. 24. 
45. Phan Cự Đệ (1983), Các nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung học 
chuyên nghiệp, Hà Nội 
46. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
47. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam Lịch sử - Thi pháp - Chân dung, 
Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
48. Trần Thanh Địch (1998), Tìm hiểu truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 
49. Nguyễn Đăng Điệp (1996), “M. Bakhtin và lí thuyết về giọng điệu đa thanh 
trong tiểu thuyết”, Văn học nước ngoài, (1), tr. 212 - 216. 
50. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 
51. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội. 
52. Nguyễn Đăng Điệp, Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập, (tập 2), NXB Giáo dục, 
Hà Nội. 
53. Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng (2010), Thi pháp học ở Việt Nam (tuyển 
chọn và biên soạn), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
54. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn, Hà Nội. 
55. Trịnh Bá Đĩnh (2007), “Phân tích văn học theo phương pháp cấu trúc”, Lí luận - 
Phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
56. Trịnh Bá Đĩnh (2011), Chủ nghĩa cấu trúc trong văn học, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 
57. Nguyễn Trung Đức (1993), “Tự sự nhiều người kể trong “Kí ức về một cái chết 
được báo trước” của G. Macket”, Tạp chí Văn học, (2), tr. 63 - 68. 
58. Hà Minh Đức (1988), Đi tìm chân lí nghệ thuật, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội 
59. Hà Minh Đức (2001), Văn chương tài năng và phong cách, Nxb Khoa học Xã 
hội, Hà Nội. 
60. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
156 
61. Hoàng Minh Đức (2010), Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Tô Hoài sau 
1945, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
62. Hoàng Cẩm Giang (2007), Cấu trúc thể loại tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỉ 
XXI, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 
Đại học Quốc gia Hà Nội. 
63. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người 
trong văn xuôi Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, Chương trình KHCN 
cấp Nhà nước KX - 07. 
64. Lê Thị Thanh Hà (1996), Tìm hiểu một vài thành tựu đổi mới nổi bật về văn 
xuôi Việt Nam từ sau 1975 qua hai tác giả Nguyễn Minh Châu và Nguyễn 
Khải, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
65. Nguyễn Việt Hà (2006), Hình tượng tác giả trong truyện ngắn sau 1975 
của Nguyễn Minh Châu, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư 
phạm, Đại học Thái Nguyên. 
66. Hồ Thế Hà (2008), “Hướng dẫn tiếp cận từ phân tâm học trong truyện ngắn 
Việt Nam từ sau 1975”,  ngày 9/6/2008. 
67. Nguyễn Thị Thanh Hải (2011), Yếu tố triết luận trong truyện ngắn của Nguyễn 
Minh Châu sau năm 1975, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa 
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
68. Hamburger & Kate (2004), Lô gíc học các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch, 
Trần Ngọc Vương dịch, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
69. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (2004), Từ điển thuật 
ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
70. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2009), Từ điển 
Thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
71. Lê Thị Tuyết Hạnh (2003), Thời gian nghệ thuật trong cấu trúc văn bản tự sự, 
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 
157 
72. Nguyễn Thị Thúy Hạnh (2005), Lời văn nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn 
Minh Châu sau 1975, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học 
Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
73. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
74. Hoàng Ngọc Hiến (2008), Tiếp nhận những cách tân của chủ nghĩa hiện đại và 
chủ nghĩa hậu hiện đại,  
75. Đỗ Thị Hiên (2007), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn của Nguyễn Khải 
và Nguyễn Minh Châu, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học 
xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
76. Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới đọc và bình văn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
77. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
78. Nguyễn Thái Hòa (2000) , Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, H. 
79. Nguyễn Trọng Hoàn (2007), Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội. 
80. Phạm Thị Hồng (2010), Nghệ thuật trần thuật trong sáng tác của Nguyễn Minh 
Châu, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
81. Nguyễn Thị Huệ (1998), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt Nam từ 
1980 đến 1986 qua bốn tác giả: Nguyễn Minh Châu - Nguyễn Khải - Ma Văn 
Kháng - Nguyễn Mạnh Tuấn, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học. 
82. Hoàng Thị Huệ (2012), Khuynh hướng tiểu thuyết ngắn trong văn học đương 
đại Việt Nam (từ 1986 đến nay), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học 
Xã hội. 
83. Nguyễn Thị Huệ (1998), "Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn 
Kháng những năm 80", Tạp chí Văn học, (2), tr. 49 - 57. 
84. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam 1975 - 
1995, Luận án phó tiến sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp 
Hà Nội. 
85. Mai Hương (1999), Văn học - một cách nhìn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
86. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2001), Nguyễn Minh Châu, tài năng và 
sáng tạo nghệ thuật, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
158 
87. Mai Hương (chủ biên) (2010), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam, tập 3 (từ 
sau năm 1975), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
88. Nguyễn Khải (1960), Mùa lạc, (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, Hà Nội. 
89. Nguyễn Khải (1961), Xung đột (truyện dài), Nxb Văn học, Hà Nội. 
90. Nguyễn Khải (1976), Tháng Ba ở Tây Nguyên (ký sự), Nxb Quân đội nhân dân, 
Hà Nội. 
91. Nguyễn Khải (1978), Chủ tịch huyện, Nxb Văn học, Hà Nội. 
92. Nguyễn Khải (1980), Một người Hà Nội (tập truyện), Nxb Hội Nhà văn, 
Hà Nội. 
93. Nguyễn Khải (1984), Văn học giai đoạn cách mạng mới, Nxb Tác phẩm mới, 
Hà Nội. 
94. Nguyễn Khải (1997), Truyện ngắn và Tạp văn, Nxb Trẻ, Hà Nội. 
95. Nguyễn Khải (1997), Truyện ngắn và Tạp văn, Nxb Trẻ, Hà Nội. 
96. Nguyễn Khải (1999), Chuyện nghề, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
97. Nguyễn Khải (2004), Tạp văn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
98. Nguyễn Khải (2007), Tuyển tập truyện ngắn Nguyễn Khải, Nxb Hội Nhà văn, 
Hà Nội. 
99. Ma Văn Kháng (1980), Góc rừng xinh xắn (tập truyện ngắn), Nxb Thanh niên, 
Hà Nội. 
100. Ma Văn Kháng (1987), “Cần chú ý tình huống và ngôn ngữ truyện ngắn”, Tạp 
chí Văn nghệ quân đội, (10). 
101. Ma Văn Kháng (1996), Truyện ngắn Ma Văn Kháng, Nxb Công an nhân dân, 
Hà Nội. 
102. Ma Văn Kháng (1997), Lá xanh, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
103. Ma Văn Kháng (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
104. Ma Văn Kháng (2008), Trốn nợ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 
105. Ma Văn Kháng (2010), Một chiều dông gió (tập truyện ngắn), Nxb Hội Nhà 
văn, Hà Nội. 
106. Ma Văn Kháng (2013), Phút giây huyền diệu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
159 
107. M.B. Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn 
học, Lê Sơn - Nguyễn Minh dịch, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 
108. M.B. Khrapchenkô (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Nxb 
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
109. Tôn Phương Lan (1996), "Giọng điệu và ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn 
Minh Châu”, Nguyễn Minh Châu về tác gia và tác phẩm, tr. 278 - 296. 
110. Tôn Phương Lan (2003), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu, Nxb 
Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
111. Tôn Phương Lan (2005), Văn chương và cảm nhận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
112. Phạm Thị Lan (2001), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Ma Văn Kháng 
thời kỳ đổi mới, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm, Đại 
học Thái Nguyên. 
113. Cao Kim Lan (2008), “Lý thuyết về điểm nhìn nghệ thuật của R. Scholes và R. 
Kellogg”, Nghiên cứu Văn học (10), tr. 26. 
114. Phong Lê (1992), Mấy vấn đề văn xuôi Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Khoa học 
Xã hội, Hà Nội. 
115. Phong Lê (1993), “Văn học những năm 80”, Tạp chí Văn học, (3), tr. 66 - 70. 
116. Phong Lê (1994), Văn học công cuộc đổi mới, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
117. Phong Lê (2005), “Trữ lượng Ma Văn Kháng”, Tạp chí Văn nghệ, (20), tr. 19 - 21. 
118. Phong Lê (2008), Đến với tiến trình văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà 
văn, Hà Nội. 
119. Nguyễn Văn Long (2001), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách 
mạng tháng Tám, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
120. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo 
dục, Hà Nội. 
121. Nguyễn Văn Long, Trịnh Thu Tuyết (2007), Nguyễn Minh Châu và công cuộc 
đổi mới văn học Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
122. Nguyễn Văn Long (2009), Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ 
góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
160 
123. Nguyễn Văn Long (chủ biên) (2012), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại, 
tập 2 (từ sau Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
124. ILin. I. P. và Atzrganova. E. A. (chủ biên) (2003), Các khái niệm và thuật ngữ 
của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu Hoa Kì thế kỉ 20, (Đào Tuấn 
Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
125. Lotman I. U. M. (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, 
Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
126. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
127. Phương Lựu (2005), Cây bút đời người, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 
128. Phương Lựu (2008), “Vấn đề phân loại góc nhìn trần thuật”, Tự sự học - một số 
vấn đề lý luận và lịch sử (phần 2), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, tr. 190 - 208. 
129. Phương Lựu (chủ biên) (2008), Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
130. Nguyễn Thị Mai (2011), Tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới dưới góc 
nhìn tự sự, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. 
131. Manfred J. (2005), Trần thuật học: Nhập môn lí thuyết trần thuật (Nguyễn Thị 
Như Trang dịch, tài liệu ở dạng bản thảo). 
132. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Những ngày tháng cuối cùng gặp Nguyễn Minh 
Châu; Nguyễn Minh Châu - con người và tác phẩm, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
133. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Nxb Đại 
học Sư phạm, Hà Nội. 
134. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà 
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
135. Nguyễn Thị Tuyết Nga (2002), Tìm hiểu phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, 
Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Văn học. 
136. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, Nxb Hội nhà văn, Hà 
Nội. 
137. Hồ Thị Thanh Nga (2011), Lạ hóa trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn 
Minh Châu, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
161 
138. Phạm Thị Thanh Nga (2012), Lời văn nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn 
Minh Châu, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội. 
139. Phạm Duy Nghĩa (2006), Nhà văn Nguyễn Minh Châu và cảm hứng nhân văn, 
Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
140. Nguyên Ngọc (1991), “Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật 
phát triển”, Tạp chí Văn học, (4), tr. 9 - 13. 
141. Lê Thanh Ngọc (2004), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn 
Kháng sau 1975, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn. 
142. Nguyễn Tri Nguyên (1966), “Những đổi mới về thi pháp trong sáng tác của 
Nguyễn Minh Châu sau năm 1975”,50 năm văn học Việt Nam sau Cách 
mạng tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, tr. 249 - 256. 
143. Lã Nguyên (1999), "Khi nhà văn đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn", 
vanhoanghean.com.vn, ngày 31/1/2012. 
144. Lữ Huy Nguyên (2000), Ấn tượng văn chương, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 
145. Đào Thủy Nguyên (2003), Cảm hứng nghệ thuật và thế giới nhân vật trong 
sáng tác của Nguyễn Khải, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trung tâm Khoa học 
xã hội và Nhân văn Quốc gia. 
146. Đào Thủy Nguyên (2007), “Vùng biên ải - vùng thẩm mĩ đặc sắc trong hành 
trình sáng tạo nghệ thuật của Ma Văn Kháng”, Tạp chí Khoa học & Công 
nghệ, (3), Đại học Thái Nguyên, tr. 15 - 20. 
147. Đào Thủy Nguyên (2008), “Truyện ngắn Ma Văn Kháng và vấn đề thức tỉnh 
tinh thần con người vùng cao”, Tạp chí Khoa học & Công nghệ, (3), Đại 
học Thái Nguyên, tr. 56 - 63. 
148. Đào Thuỷ Nguyên (2008), Phương pháp tiếp cận sáng tác của Nguyễn Khải 
trong giảng dạy văn học Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
149. Đào Thuỷ Nguyên (chủ nhiệm đề tài) (2009), Đặc điểm truyện ngắn của Ma 
Văn Kháng về đề tài dân tộc và miền núi, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp 
Bộ, Đại học Thái Nguyên. 
162 
150. Vương Trí Nhàn (1996), Lời giới thiệu tuyển tập Nguyễn Khải (tập 1), Nxb 
Văn học, Hà Nội. 
151. Nhiều tác giả (1984), Văn học Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, Nxb 
Tác phẩm mới, Hà Nội. 
152. Nhiều tác giả (1988), Từ điển tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Khoa học 
xã hội, Hà Nội. 
153. Nhiều tác giả (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám, 
Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 
154. Nhiều tác giả (1997), Hồi sinh cho một kiếp người (truyện ngắn và ký chọn 
lọc), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội. 
155. Nhiều tác giả (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn học, Hà Nội. 
156. Nhiều tác giả (1998), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng. 
157. Nhiều tác giả (2001), Truyện ngắn Việt Nam thời kì đổi mới, Nxb Hội Nhà 
văn, Hà Nội. 
158. Nhiều tác giả (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 - những vấn đề nghiên cứu 
và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
159. Đỗ Hải Phong (2007), “Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện 
đại”, Tự sự học - một số vấn đề lịch sử và lí luận, Nxb Đại học Sư 
phạm Hà Nội, tr. 116 - 125. 
160. Vũ Đình Phùng (2005), Tìm hiểu nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện 
ngắn đương đại (Qua truyện ngắn Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Huy 
Thiệp), Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và 
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
161. Nguyễn Thị Hải Phương (2004), Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn 
Minh Châu, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
162. Pospelov. G. N (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, Nxb Giáo dục, H. 
163. Bùi Huy Quảng (chủ biên) (2010), Văn học Việt Nam sau năm 1975 và các tác 
phẩm được đưa vào chương trình phổ thông, Nxb Đại học Thái Nguyên. 
163 
164. De Saussure F. (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (Bản dịch Cao 
Xuân Hạo), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
165. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, 
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
166. Trần Đình Sử, Trần Đăng Suyền, Lê Lưu Oanh (2008), Tự sự học - một số vấn 
đề lý luận và lịch sử, tập 1 - 2, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 
167. Trần Đình Sử (2010), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
168. Diệp Tú Sơn (1991), Mỹ học tiểu thuyết (Kim Sơn dịch), Nxb Đông Phương 
169. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (tuyển chọn và giới thiệu) (2004), Nguyễn 
Khải về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
170. Lê Thời Tân (2008), “Tự sự học: Tên gọi, lược sử và một số vấn đề lí thuyết”, 
phebinhvanhoc.com.vn/?p=4406 , ngày 8/12/2012. 
171. Lê Thời Tân (2013), “Tiếp cận Diễn ngôn: Cấu trúc nhị nguyên luận F. de 
Saussure và Ngôn quyển đối thoại luận của M. Bakhtin”, phebinhvanhoc. 
com.vn, ngày 16/ 5/ 3013. 
172. Bùi Việt Thắng (1993), “Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh 
Châu (một khía cạnh thi pháp thể loại)”, Kỉ yếu Hội thảo 5 năm ngày mất 
Nguyễn Minh Châu, Hội Văn nghệ Nghệ An. 
173. Bùi Việt Thắng (1999), Bình luận truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội. 
174. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể 
loại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
175. Nguyễn Thị Minh Thanh (2005), Khuynh hướng triết luận trong một số sáng 
tác gần đây của Nguyễn Khải, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Viện Văn học. 
176. Hồ Thị Thanh (2011), Lạ hóa trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh 
Châu, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
177. Lê Nguyễn Hạnh Thảo (2010), Tính chất triết luận trong văn xuôi Nguyễn 
Khải thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm 
Thành phố Hồ Chí Minh. 
164 
178. Đỗ Phương Thảo (2007), Nghệ thuật tự sự trong sáng tác của Ma Văn Kháng 
(qua một số tác phẩm tiêu biểu), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa 
học xã hội. 
179. Phùng Gia Thế (2007), Có hay không những dấu ấn hậu hiện đại trong văn 
học Việt Nam sau 1986,  
180. Nguyễn Ngọc Thiện (2000), "Con người giữa dòng xoáy của những ham 
muốn đời thường", Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, tr. 7 - 8. 
181. Nguyễn Ngọc Thiện (2010), Lý luận phê bình đời sống văn chương, Nxb Hội 
Nhà văn, Hà Nội. 
182. Đào Tiến Thi (1996), Phong cách Ma Văn Kháng trong truyện ngắn sau năm 
1975, Luận văn thạc sĩ Văn học. 
183. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ 
thống mô típ chủ đề", Tạp chí Văn học, (4), tr. 24 - 28. 
184. Bích Thu (1996), “Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975”, Tạp chí Văn 
học, (9), tr. 32 - 36. 
185. Bích Thu (1997), “Giọng điệu trần thuật trong truyện ngắn Nguyễn Khải 
những năm tám mươi đến nay”, Tạp chí Văn học, (10), tr. 56 - 65. 
186. Nguyễn Thị Bích Thu (2007), Truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 
(nhìn từ góc độ thi pháp thể loại), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Viện Khoa học 
xã hội Việt Nam. 
187. Lý Hoài Thu (2001), “Sự vận động của các thể loại văn xuôi trong văn học 
thời kỳ đổi mới”, tapchisonghuong.com.vn, ngày 7/9/2009. 
188. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình - tác giả - tác phẩm, Nxb 
Khoa học xã hội, Hà Nội. 
189. Ngô Thu Thuỷ (2013), Văn xuôi Việt Nam thời kỳ hậu chiến (1975-1985), 
Luận án tiến sĩ Văn học, Học viện Khoa học Xã hội. 
190. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Ngôn ngữ kể chuyện trong truyện ngắn Việt 
Nam sau 1975 (Điểm nhìn và ngôn ngữ kể chuyện), Luận án tiến sĩ Ngữ 
văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
165 
191. Lê Thị Hương Thủy (2013), Truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay (nhìn từ 
góc độ thể loại), Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học Xã hội. 
192. Todorv T. (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch) (2004), Thi pháp văn xuôi, 
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
193. Lê Ngọc Trà (2002), “Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới”, 
phebinhvanhoc.com.vn, ngày 22/8/2012. 
194. Lê Dục Tú (2012), “Truyện ngắn đương đại về đề tài chiến tranh - những đổi mới 
trong tư duy thể loại”, bichkhe.org/home.php?cat_id=147&id=2344 , nguồn Tạp 
chí Văn nghệ quân đội. 
195. Lê Dục Tú (2012), “Đội ngũ nhà văn Việt Nam viết truyện ngắn đương đại”, 
tonvinhvanhoadoc.vn, nguồn Tạp chí Văn nghệ quân đội. 
196. Hoàng Ngọc Tuấn (1999), “Viết: từ hiện đại đến hậu hiện đại”, vietbao.vn/ 
Van-hoa, ngày 13/9/2006. 
197. Phùng Văn Tửu (1996), “Một phương diện của truyện ngắn”, Tạp chí Văn học, 
(2), tr. 15 - 19. 
198. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại - những tìm tòi đổi mới, 
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
199. Phạm Thị Tuyên (2002), Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu 
Huệ, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh. 
200. Trịnh Thu Tuyết (2001), Sáng tác của Nguyễn Minh Châu trong sự vận động của 
văn xuôi đương đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
201. Lê Phong Tuyết (2005), "Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật", 
Tạp chí Nghiên cứu văn học, (8), tr. 75 - 89. 
202. Lê Phong Tuyết (2008), “Người kể chuyện trong văn xuôi”, Văn học nước 
ngoài, (5), tr. 120 - 136. 
203. Trần Thanh Việt (2010), Một số vấn đề về đổi mới thi pháp thể loại trong 
truyện ngắn Việt Nam đương đại, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại 
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
166 
204. Trần Thị Xuyến (2007), Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Cao, Luận 
văn thạc sỹ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
205. Trần Đăng Suyền (chủ biên) (2010), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại 
(tập 1) (từ đầu thế kỷ XX đến 1945), Nxb Văn học, Hà Nội. 
206. Nguyễn Thị Hải Yến (2010), Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Ma Văn 
Kháng thời kì đổi mới, Luận văn thạc sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm, 
Đại học Thái Nguyên. 
TIẾNG ANH 
207. Abrams M. H. (1993), A glossary of literary terms (sixth edition), Harcourt 
Brace Jovanovich College Pulishers, The United States of America. 
208. Brian Edwards (1998), Theories of play and postmodern fiction, Garland 
publicshing, Inc, pp xii 
209. Brooks C. & Waren R. P. (1961), Modern Rhetoric (Shorter Ediction), 
Harcout, Brace & World, Inc. 
210. Clayton & Jay (2008), Genette: The non - Narrative Moment and the Impossibility 
of Repetition,  
211. Derek P. R. (2006), Getting through Genette’s Narrative Disourse (Narrative 
Theory),  
212. Landa J. A. G. (2005), Time structure in story (Narriative Theory), University 
of Zaragoza,  
167 
Phụ lục 
NGÔI KỂ VÀ ĐIỂM NHÌN 
STT TÊN TÁC PHẨM 
NGÔI THỨ BA NGÔI THỨ NHẤT 
Điểm 
nhìn bên 
ngoài 
(ĐNBN) 
Điểm 
nhìn bên 
trong 
(ĐNBT) 
Điểm 
nhìn phức 
hợp 
(ĐNPH) 
Điểm 
nhìn đơn 
tuyến 
(ĐNĐT) 
Điểm 
nhìn đa 
tuyến 
(ĐNĐaT) 
I. Nguyễn Minh Châu 
1 Bức tranh ĐNĐT 
2 
Người đàn bà trên chuyến 
tàu tốc hành 
 ĐNĐaT 
3 Cơn giông ĐNPH 
4 Mẹ con chị Hằng ĐNPH 
5 Đứa ăn cắp ĐNPH 
6 Sắm vai ĐNĐT 
7 Hương và Phai ĐNBN 
8 Lũ trẻ ở dãy K ĐNBN 
9 Dấu vết nghề nghiệp ĐNĐT 
10 Bến quê ĐNBT 
11 Chiếc thuyền ngoài xa ĐNĐaT 
12 Một lần đối chứng ĐNĐT 
13 Khách ở quê ra ĐNPH 
14 Sống mãi với cây xanh ĐNĐaT 
15 Cỏ lau ĐNĐaT 
16 Mùa trái cóc ở Miền Nam ĐNĐaT 
17 Phiên chợ Giát ĐNPH 
Tỷ lệ 2/17 1/17 5/17 4/17 5/17 
II Nguyễn Khải 
1 
Hai ông cháu ở Đồng Tháp 
Mười 
 ĐNĐaT 
2 Người ngu ĐNĐT 
3 Nắng chiều ĐNĐaT 
4 Một người Hà Nội ĐNĐaT 
168 
STT TÊN TÁC PHẨM 
NGÔI THỨ BA NGÔI THỨ NHẤT 
Điểm 
nhìn bên 
ngoài 
(ĐNBN) 
Điểm 
nhìn bên 
trong 
(ĐNBT) 
Điểm 
nhìn phức 
hợp 
(ĐNPH) 
Điểm 
nhìn đơn 
tuyến 
(ĐNĐT) 
Điểm 
nhìn đa 
tuyến 
(ĐNĐaT) 
5 Đời khổ ĐNĐT 
6 Luật trời ĐNPH 
7 
Cặp vợ chồng ở chân động 
Từ Thức 
 ĐNĐT 
8 Hậu duệ dòng họ Ngô Thì ĐNĐT 
9 Chuyện tình của mỗi người ĐNĐaT 
10 Anh hùng bĩ vận ĐNĐT 
11 Đổi đời ĐNĐT 
12 Sống giữa đám đông ĐNĐT 
13 Nơi về ĐNBN 
14 Những người già ĐNĐT 
15 Mẹ và bà ngoại ĐNĐT 
16 Thầy Minh ĐNĐT 
17 Ông cháu ĐNPH 
18 Đã từng có những ngày vui ĐNĐT 
19 Lính chữa cháy ĐNĐT 
20 Lãng tử ĐNPH 
21 Một bàn tay và chín bàn tay ĐNĐT 
22 Đàn ông ĐNĐaT 
23 Một chiều mùa đông ĐNĐT 
24 Phía khuất mặt người ĐNĐT 
25 Đàn bà ĐNPH 
26 Chị Mai ĐNĐaT 
27 Mẹ và các con ĐNĐT 
28 
Sư già chùa Thắm và ông 
Đại tá về hưu 
 ĐNBT 
169 
STT TÊN TÁC PHẨM 
NGÔI THỨ BA NGÔI THỨ NHẤT 
Điểm 
nhìn bên 
ngoài 
(ĐNBN) 
Điểm 
nhìn bên 
trong 
(ĐNBT) 
Điểm 
nhìn phức 
hợp 
(ĐNPH) 
Điểm 
nhìn đơn 
tuyến 
(ĐNĐT) 
Điểm 
nhìn đa 
tuyến 
(ĐNĐaT) 
29 Cái thời lãng mạn ĐNĐT 
30 Những năm tháng yên tĩnh ĐNĐT 
Tỷ lệ 1/30 1/30 4/30 18/30 6/30 
III Ma Văn Kháng 
1 Vệ sĩ của quan châu ĐNPH 
2 Giàng Tả, kẻ lang thang ĐNPH 
3 Móng vuốt thời gian ĐNBN 
4 Seo Ly, kẻ quấy động tình trường ĐNBN 
5 Trung du chiều mưa buồn ĐNĐT 
6 Trái chín mùa thu ĐNPH 
7 Xóm giềng ĐNBN 
8 Mẹ và con ĐNBT 
9 Người giúp việc ĐNĐT 
10 Tóc Huyền màu bạc trắng ĐNĐaT 
11 Trăng soi sân nhỏ ĐNPH 
12 Thanh minh trời trong sáng ĐNBN 
13 Những người đàn bà ĐNBN 
14 Chọn chồng ĐNBN 
15 Bến bờ ĐNBT 
16 Chợ hoa phiên áp tết ĐNBN 
17 Miền an lạc vĩnh hằng ĐNĐT 
18 Nhiên ! Nghệ sỹ múa ĐNĐaT 
19 Nợ đời ĐNĐaT 
20 Một chiều giông gió ĐNPH 
170 
STT TÊN TÁC PHẨM 
NGÔI THỨ BA NGÔI THỨ NHẤT 
Điểm 
nhìn bên 
ngoài 
(ĐNBN) 
Điểm 
nhìn bên 
trong 
(ĐNBT) 
Điểm 
nhìn phức 
hợp 
(ĐNPH) 
Điểm 
nhìn đơn 
tuyến 
(ĐNĐT) 
Điểm 
nhìn đa 
tuyến 
(ĐNĐaT) 
21 Suối mơ ĐNĐT 
22 Chị Thiên của tôi ĐNĐT 
23 Thầy Khiển ĐNĐT 
24 Quê nội ĐNBN 
25 Đợi chờ ĐNBT 
26 Ngày đẹp trời ĐNPH 
27 Mất điện ĐNBN 
28 Kiểm - chú bé - con người ĐNPH 
29 Một chốn nương thân ĐNPH 
30 Ngẫu sự ĐNBN 
31 Heo may gió lộng ĐNPH 
32 Hoa gạo đỏ ĐNBN 
33 Bồ nông ở biển ĐNPH 
34 Anh thợ chữa khóa ĐNĐT 
35 Cái Tý Ngọ ĐNBN 
36 Ngoại thành ĐNBN 
37 Phép lạ thường ngày ĐNPH 
38 San Cha Chải ĐNBN 
Tỷ lệ 14/38 3/38 11/38 7/38 3/38 
Dựa vào lý luận tự sự học hiện đại, chúng tôi tiến hành khảo sát và phân loại 
các hình thức trần thuật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu, 
Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng và nhận thấy hình thức tự sự ở ngôi thứ hai hoàn toàn 
vắng bóng. Hình thức tự sự ở NT1 và NT3 được vận dụng biến hóa, linh hoạt và 
đều được đặc biệt quan tâm. Trong các tác phẩm kể ở NT1 (gồm ĐNĐT và 
171 
ĐNĐaT) thì ĐNĐT chiếm tỉ lệ lớn hơn (Nguyễn Minh Châu: ĐNĐT chiếm 4/17 
truyện, ĐNĐaT chiếm 5/17; Nguyễn Khải: ĐNĐT chiếm 18/30 truyện, ĐNĐaT 
chiếm 6/30 truyện; Ma Văn Kháng: ĐNĐT chiếm 7/38, ĐNĐaT chiếm 3/38 
truyện). Trong các tác phẩm kể ở NT3, tác giả sử dụng chủ yếu là ĐNBN và ĐNPH 
(Nguyễn Minh Châu: ĐNBN chiếm 2/17 truyện, ĐNBT chiếm 1/17 truyện, ĐNPH 
chiếm 5/17 truyện; Nguyễn Khải: ĐNBN chiếm 1/30 truyện, ĐNBT chiếm 1/30 
truyện, ĐNPH chiếm 4/30 truyện; Ma Văn Kháng: ĐNBN chiếm 14/38 truyện, 
ĐNBT chiếm 3/38 truyện, ĐNPH chiếm 11/38 truyện). Qua khảo sát, chúng tôi 
nhận thấy, Nguyễn Minh Châu thường sử dụng lối kể NT1 theo ĐNĐaT (5/17); 
Nguyễn Khải chủ yếu kể theo NT1 với ĐNĐT (18/30 truyện) còn Ma Văn Kháng 
lại chủ yếu kể theo NT3 với ĐNBN (14/38 truyện).