Luận án Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá trình độ tập luyện của nam vận động viên đua xe đạp lứa tuổi 13 - 15 một số tỉnh miền bắc Việt Nam (giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu)

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO LÊ ANH ĐỨC NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VÀ THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ TẬP LUYỆN CỦA NAM VẬN ĐỘNG VIÊN ĐUA XE ĐẠP LỨA TUỔI 13-15 MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN CHUYÊN MÔN HÓA BAN ĐẦU) LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO PHẠM THỊ HƯƠNG NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG CHUẨN KIẾN THỨC, KỸ NĂNG C

docx119 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá trình độ tập luyện của nam vận động viên đua xe đạp lứa tuổi 13 - 15 một số tỉnh miền bắc Việt Nam (giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ÁC MÔN THỂ THAO NÂNG CAO THEO CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TDTT HÀ NỘI (DẪN CHỨNG MÔN THỂ THAO NÂNG CAO ĐIỀN KINH) LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC HÀ NỘI - 2015. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN KHOA HỌC THỂ DỤC THỂ THAO LÊ ANH ĐỨC NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG HỆ THỐNG TIÊU CHUẨN VÀ THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ TRÌNH ĐỘ TẬP LUYỆN CỦA NAM VẬN ĐỘNG VIÊN ĐUA XE ĐẠP LỨA TUỔI 13-15 MỘT SỐ TỈNH MIỀN BẮC VIỆT NAM (GIAI ĐOẠN CHUYÊN MÔN HÓA BAN ĐẦU) Chuyên ngành: Huấn luyện thể thao Mã số: 62 14 01 04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC 1. GS.TS. Nguyễn Xuân Sinh 2. PGS.TS. Nguyễn Văn Trạch HÀ NỘI - 2017 HÀ NỘI - 2017 HÀ NỘI - 2017 Chuyên ngành: Giáo dục thể chất. Mã số: 62.14.01.03 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 1. PGS.TS. Vũ Đức Thu 2. PGS.TS. Phạm Xuân Thành HÀ NỘI - 2015. LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào. Tác giả luận án Lê Anh Đức MỤC LỤC Trang Trang bìa Trang phụ bìa Lời cam đoan Danh mục các bảng biểu, biểu đồ Danh mục các từ viết tắt PHẦN MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6 1.1. Đặc điểm huấn luyện nhiều năm trong quá trình đào tạo VĐV trẻ các môn thể thao 6 1.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện của VĐV thể thao 9 1.2.1. Khái niệm về trình độ tập luyện 9 1.2.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện 10 1.3. Tính chu kỳ và tính giai đoạn của những phản ứng thích nghi trong quá trình phát triển trình độ tập luyện 19 1.3.1. Tính chu kỳ của những phản ứng thích nghi 19 1.3.2. Tính giai đoạn của những biến đổi diễn ra trong cơ thể 21 1.4 Cơ sở di truyền học và các qui luật phát triển cơ thể, qui luật phát triển các tố chất thể lực trong đánh giá trình độ tập luyện của VĐV thể thao 24 1.4.1. Cở sở di truyền học trong đánh giá TĐTL 24 1.4.2. Các đặc điểm phát dục và đặc điểm phát triển các tố chất thể lực, là chỗ dựa quan trọng trong đánh giá TĐTL của VĐV 26 1.5. Các yếu tố xác định TĐTL của VĐV đua xe đạp 34 1.6. Đặc điểm tâm sinh lý VĐV thể thao lứa tuổi 13-15 36 1.6.1. Đặc điểm sinh lý thiếu niên lứa tuổi 13-15 36 1.6.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 13-15 40 1.7. Các công trình nghiên cứu đánh giá TĐTL của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước 41 1.7.1 Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 41 1.7.2 Các công trình nghiên cứu ở trong nước 43 1.8 Một số nét về xe đạp thể thao Việt Nam hiện nay 48 CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 51 2.1. Đối tượng nghiên cứu 51 2.1.1 Đối tượng nghiên cứu 51 2.1.2 Khách thể nghiên cứu 51 2.2. Phương pháp nghiên cứu 51 2.2.1. Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu 51 2.2.2. Phương pháp phỏng vấn bằng phiếu hỏi 52 2.2.3. Phương pháp kiểm tra sư phạm 52 2.2.4. Phương pháp kiểm tra y sinh 60 2.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm 64 2.2.6. Phương pháp toán thống kê 65 2.3. Tổ chức nghiên cứu 67 2.3.1. Thời gian nghiên cứu 67 2.3.2. Địa điểm nghiên cứu 68 CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 69 3.1. Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam 69 3.1.1. Nguyên tắc và các bước lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường miền bắc Việt Nam 69 3.1.2. Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện của VĐV xe đạp đường trường nước ta 71 3.1.3. Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường ở ngoài nước 72 3.1.4. Thực trạng huấn luyện của VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi 75 3.1.5. Lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá TĐTL cho VĐV xe đạp đường trường 13 - 15 tuổi, thành phố miền Bắc Việt Nam 82 3.1.6 Kiểm định tính thông báo và độ tin cậy của các chỉ tiêu, test đã lựa chọn 83 3.1.7 Bàn luận về việc lựa chọn các chỉ tiêu, test đánh giá TĐTL cho VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13-15 các tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam 88 3.2. Xây dựng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá trình độ luyện tập của VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh miền Bắc Việt Nam 93 3.2.1. Nghiên cứu diễn biến và tỷ trọng ảnh hưởng củacác chỉ tiêu đánh giá trình độ tập luyện của VĐV xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi ở một số tỉnh thành phía Bắc 93 3.2.2. Xây dựng tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTLcho nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13 – 15 một số tỉnh, thành phố miền bắc Việt Nam 99 3.3. Kiểm chứng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13 -15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc 100 3.3.1 Kiểm chứng độ tin cậy của hệ thống chỉ tiêu, thang điểm đã xây dựng. 100 3.3.2 Bàn luận về kết quả xây dựng tiêu chuẩn và thang điềm đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam. 103 3.3.3 Kiểm định độ tin cậy và hiệu quả của thang điểm đánh giá TĐTL 110 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 112 KẾT LUẬN 112 KIẾN NGHỊ 113 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC BẢNG SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN Tên Số Nội dung Trang Bảng 1.1 Độ di truyền của các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa có ý nghĩa với năng lực vận động 25 1.2 Độ di truyền của các chỉ tiêu quyết định tố chất vận động 25 1.3 Tỷ lệ % sự phát triển cơ thể các lứa tuổi so với tuổi trưởng thành 27 1.4 Sự phát triển các cơ quan nội tạng và cơ quan vận động của lứa tuổi 13-15 30 1.5 Tuổi nhạy cảm của phát triển các tố chất thể lực 31 1.6 Mô hình VĐV cấp cao môn đua xe đạp 35 2.1 Bảng trừ điểm trong đánh giá kỹ thuật chuyên môn 59 2.2 Bảng qui đổi test cooper thành VO2max 63 3.1 Thực trạng sử dụng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường Sau trang 72 3.2 Kết quả phỏng vấn xác định yêu cầu cơ bản đối với các chỉ tiêu đánh giá TĐTL được lựa chọn (n=18) 77 3.3 Kết quả phỏng vấn lựa chọn chỉ tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường 13 – 15 tuổi ở các tỉnh miền Bắc Sau trang 82 3.4 Kết quả tính chỉ số Wilcoxon 83 3.5 Hệ số tương quan giữa các chỉ tiêu đánh giá hình thái chức năng cơ thể với thành tích đua xe 20km Sau trang 84 3.6 Kết quả xác định tính đại diện của các giá trị trung bình của đối tượng lập test Sau trang 84 3.7 Các thông số thống kê so sánh trình độ phát triển các chỉ tiêu đánh giá TĐTT của VĐV 13 – 15 tuổi miền Bắc Việt Nam Sau trang 95 3.8 Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp thể thao lứa tuổi 13 (n = 14) 97 3.9 Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 14 (n = 13) Sau trang 97 3.10 Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 15 (n = 12) Sau trang 97 3.11 Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ số tương quan đa nhân tố với thành tích đạp xe 20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 13 tuổi Sau trang 98 3.12 Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ số tương quan đa nhân tố với thành tích đua xe 20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 14 tuổi Sau trang 98 3.13 Hệ số tương quan giữa các yếu tố thành phần và hệ số tương quan đa nhân tố với thành tích đua xe 20Km của nam VĐV xe đạp đường trường 15 tuổi Sau trang 98 3.14 Hệ số ảnh hưởng Bê ta của các yếu tố đánh giá TĐTL của VĐV nam xe đạp đường trường 13 -15 tuổi 99 3.15 Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe đạp 13 tuổi Sau trang 99 3.16 Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe đạp 14 tuổi Sau trang 99 3.17 Tiêu chuẩn đánh giá trình độ tập luyện VĐV đua xe đạp 15 tuổi Sau trang 99 3.18 Bảng điểm đánh giá tổng hợp phân loại TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13 - 15 tuổi. 100 3.19 So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với xếp hạng thành tích đua xe 20km của VĐV 13 tuổi trước thực nghiệm (n=15) 101 3.20 So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với xếp hạng thành tích đua xe 20km lứa tuổi 14 trước thực nghiệm (n=14) Sau trang 101 3.21 So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với thứ hạng thành tích đua xe 20km của VĐV 15 tuổi trước thực nghiệm (n=13) Sau trang 101 3.22 So sánh thứ hạng thành tích đua xe 20 km và thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp 13 tuổi lần kiểm tra thứ hai theo quy trình ngược lại 102 3.23 So sánh thứ hạng thành tích đua xe đạp 20 km và thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV 14 tuổi sau thực nghiệm Sau trang 102 3.24 So sánh thứ hạng thành tích đua xe đạp 20 km và thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV 15 tuổi sau thực nghiệm Sau trang 102 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ HLTT Huấn luyện thể thao HLV Huấn luyện viên TDTT Thể dục thể thao TĐTL Trình độ thể lực VĐV Vận động viên XĐTT Xe đạp thể thao PHẦN MỞ ĐẦU Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 năm 1986 đã đánh dấu bước ngoặt của nền kinh tế xã hội Việt Nam. Cả nước ta bắt đầu bước vào thời kỳ cải cách mở cửa. Nhờ đó mà kinh tế xã hội trong đó có Thể dục thể thao (TDTT) đã bắt đầu khởi sắc. Năm 1989 Việt Nam đã bắt đầu tham dự Seagames tuy thành tích lúc đó chỉ xếp hạng thứ 5 của đại hội song cũng đã thể hiện Thể thao Việt Nam bắt đầu hoà nhập vào thể thao quốc tế. Song chỉ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 7 năm 1991 và đặc biệt là sau khi có Chỉ thị 36 CT/TW của Ban bí thư Trung ương thể thao mới thực sự có được phương hướng và cơ hội khởi sắc mạnh mẽ. Từ năm 1994, khắp các tỉnh thành trong cả nước đã tiến hành xây dựng các trung tâm thể thao thành tích cao. Hàng loạt môn thể thao trong đó có môn đua xe đạp đã được đưa vào huấn luyện. Vì vậy từ năm 1995 trong các kỳ đại hội Seagames lần thứ 17 trở đi thể thao Việt Nam liên tục gặt hái được thành quả lần sau cao hơn lần trước và đỉnh cao là Seagames lần thứ 22 năm 2003 tổ chức ở Việt Nam, đoàn thể thao Việt nam đã lần đầu tiên bước lên ngôi vị hàng đầu của đấu trường khu vực Đông Nam Á. Trong Chiến lược phát triển thể dục, thể thao của Việt Nam đến năm 2020 Thủ tướng Chính phủ đã xác định: “Thể thao thành tích cao là một trong ba nhiệm vụ chiến lược của ngành, nhằm mục tiêu nhanh chóng dẫn đầu trình độ thể thao của khu vực, đồng thời từng bước hòa nhập với trình độ thể thao Châu Á và thế giới, cụ thể là: từ nay đến năm 2020, phấn đấu là 1 trong 15 nước có thành tích cao tại Châu Á. Giữ vững vị trí top 3 của thể thao khu vực Đông Nam Á(Seagames). Phấn đấu có khoảng 45 vận động viên (VĐV) vượt qua các cuộc thi vòng loại có huy chương tại Đại hội thể thao Olympic lần thứ 32, trước mắt hình thành hệ thống đào tạo tài năng quốc gia về thể thao đào tạo được một lực lượng VĐV trẻ có khả năng tiếp cận các thành tựu thể thao tiên tiến của thế giới trước hết là các môn thể thao trọng điểm. Đóng góp cho sự thành công đó của thể thao Việt Nam có sự có mặt của môn đua xe đạp. Các VĐV đua xe đạp của Việt Nam như Mai Công Hiếu, Trịnh Phát Đạt... đã giành về cho đoàn thể thao 6 tấm huy chương trong đó có 3 HCV và 3HCĐ tại Đại hội thể thao Đông Nam Á. Tuy vậy, khách quan mà nhìn nhận trình độ tập luyện (TĐTL) và thành tích thể thao của VĐV đua xe đạp nước ta còn có khoảng cách thua kém nhất định so với các VĐV đua xe đạp xuất sắc của khu vực và châu lục. Điều này đã và đang thôi thúc các nhà quản lý, các HLV đua xe đạp cũng như các nhà khoa học TDTT cần phải tìm ra các giải pháp tiếp tục nâng cao bền vững thành tích môn đua xe đạp của Việt Nam. Như chúng ta đã biết, TĐTL là chỉ trình độ phát triển của phức hợp các yếu tố hình thái cơ thể, chức năng cơ thể, tố chất thể lực, năng lực chuyên môn và phấm chất tâm lý, trí tuệ. TĐTL của VĐV các môn thể thao khác nhau còn phụ thuộc vào đặc trưng mô hình thể thao ở môn thể thao đó. TĐTL của một VĐV được quyết định bởi năng lực thể thao tiên thiên và tác động hậu thiên của yếu tố huấn luyện. Đánh giá TĐTL trong thể thao hiện đại có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng giúp cho huấn luyện viên (HLV) trong quá trình huấn luyện, xem xét một cách khách quan đúng đắn sự tác động của lượng vận động tập luyện, nhằm kịp thời điều chỉnh kế hoạch và phương pháp huấn luyện, đồng thời cũng giúp cho VĐV có thể tự đánh giá được năng lực của mình. Trong quy trình đào tạo VĐV với mục đích đạt được thành tích thể thao cao thì yếu tố hết sức quan trọng và không thể thiếu được trong quá trình giảng dạy và huấn luyện là việc đánh giá đúng TĐTL của VĐV. Việc đánh giá đúng TĐTL của VĐV các cấp theo độ tuổi, giới tính và môn thể thao chuyên sâu rất có ý nghĩa về mặt thực tiễn và lý luận đặc biệt là trong tuyển chọn và huấn luyện. Đánh giá TĐTL là một quá trình phức tạp, tổng hợp gồm nhiều thành tố y sinh học, tâm lý học, kỹ năng chiến thuật, tố chất thể lực. Những vấn đề trên ngày càng được nâng cao hơn nhờ ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài của lượng vận động tập luyện và thi đấu cũng như các biện pháp hỗ trợ ngoại sinh khác. Khái niệm về quá trình biến đổi lâu dài của TĐTL luôn luôn gắn liền với phạm trù “thích nghi” và “phát triển”. Vì vậy, việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL chẳng những là yêu cầu bức thiết của công tác tuyển chọn khoa học đối với VĐV mà còn là yêu cầu bức thiết để làm một loại "thuốc thử" trong kiểm tra đánh giá tính khoa học của huấn luyện. Để từ đó, giúp HLV có thể điều chỉnh phương pháp, biện pháp và nội dung huấn luyện hợp lý hơn, giúp nâng cao hiệu quả huấn luyện. Do vai trò quan trọng đó của hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL, mà nhiều nước có nền thể thao phát triển, như Nga, Đức, Mỹ, Trung Quốc... sớm đã đầu tư nghiên cứu xây dựng nên hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá trong tuyển chọn và đào tạo VĐV trẻ các môn thể thao rất khác nhau. Điển hình là các công trình của các tác giả như A.Kotop, A.Malkin, A.Nôvicôp, L.Mátvêép, V.Zaxiopski, I.Aulic (Nga), Maglac, D.Harre (Đức), Zon Mackes (Mỹ), Hình Văn Hoa, Tăng Phàn Huy ( Trung Quốc)... họ đã gặt hái được những thành tích thể thao to lớn trong những năm gần đây. Ở Việt nam, một số nhà khoa học TDTT như Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Văn Trạch, Lê Nguyệt Nga, Chung Tấn Phong, Lê Đức Chương, Đàm Quốc Chính, Đàm Tuấn Khôi, Nguyễn Kim Xuân, Nguyễn Kim Lan, Hà Minh Dịu, Phạm Văn Liệu... đã từ những góc độ sư phạm và y sinh để nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn thang điểm đánh giá cho các môn thể thao như bơi lội, bóng rổ, bóng ném, điền kinh, thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, cờ vua và môt số môn thể thao khác. Tuy vậỵ đối với môn thể thao đua xe đạp ở Việt Nam ngoài công trình nghiên cứu về đặc điểm thể hình của VĐV đua xe đạp nữ ở Việt Nam (năm 2005) của Nguyễn Ngọc Vũ, đến nay vẫn chưa hề có công trình nào nghiên cứu về vấn đề đánh giá TĐTL của VĐV đua xe đạp đường trường nam 13-15 tuổi. Để góp phần nhanh chóng nâng cao thành tích thi đấu của môn đua xe đạp đường trường ngang tầm với các nước trong khu vực và châu lục, ta cần thiết hình thành và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL cho VĐV giúp huấn luyện viên có cơ sở cải tiến phương pháp huấn luyện. Với lý do này tôi nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá trình độ tập luyện của nam VĐV đua xe đạp lứa tuổi 13 - 15 một số tỉnh miền Bắc Việt Nam (giai đoạn chuyên môn hoá ban đầu)”. Mục đích nghiên cứu Thông qua nghiên cứu đề tài, hướng nghiên cứu là cơ sở lý luận và thực tiễn trình độ tập luyện của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi các tỉnh, thành phố miền Bắc, ứng dụng các phương pháp khoa học để lập tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp 13-15 tuổi, góp phần nâng cao hiệu quả huấn luyện và tuyển chọn VĐV. Mục tiêu nghiên cứu Để giải quyết được mục đích nghiên cứu trên đề tài tiến hành thực hiện các mục tiêu nghiên cứu sau: Mục tiêu 1: Lựa chọn chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường lứa tuổi 13-15 một số tỉnh, thành phố miền Bắc. Mục tiêu 2: Xây dựng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐLT của VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh miền Bắc Việt Nam. Mục tiêu 3: Kiểm chứng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13 -15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc. * Giả thuyết khoa học Thành tích thể thao của VĐV đua xe đạp đường trường phụ thuộc chủ yếu vào các yếu tố thể hình, chức năng cơ thể, thể lực, năng lực chuyên môn và phẩm chất tâm lý. Nếu xây dựng thang điểm đánh giá chính xác được TĐLT của VĐV thì sẽ giúp cho các HLV điều chỉnh kế hoạch huấn luyện nhằm nâng cao TĐTL và thành tích thi đấu của VĐV. CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Đặc điểm huấn luyện nhiều năm trong quá trình đào tạo VĐV trẻ các môn thể thao: HLTT là một quá trình sư phạm thống nhất vận dụng các quy luật về sự phát triển nhân cách và năng lực thể thao. Ngoài ảnh hưởng của di truyền hiệu quả HLTT phần lớn phụ thuộc quá trình luyện tập, môi trường và xã hội. Theo quan điểm của Harre, quá trình đào tạo VĐV chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn huấn luyện VĐV trẻ (tạo nên các tiền đề chung và chuyên môn cho thành tích thể thao cao nhất) và giai đoạn huấn luyện VĐV cấp cao. Trong đó giai đoạn huấn luyện VĐV trẻ chia thành hai giai đoạn nhỏ là huấn luyện ban đầu và chuyên môn hóa. Tác giả Nabátnhicôva, Philin cho rằng quá trình đào tạo VĐV trẻ gồm các giai đoạn: Huấn luyện ban đầu; Chuyên môn hóa (từ 9 - 10 tuổi); Hoàn thiện thể thao (16 tuổi trở lên) [44]. Quan điểm của các tác giải A.Nôvicốp, L.MátVêép lại chia quá trình HLTT nhiều năm các giai đoạn lớn: Giai đoạn chuẩn bị thể thao sơ bộ; Giai đoạn chuyên môn hóa bước đầu là tạo nền tảng đầy đủ và có chất lượng cho những thành tích tương lai [1]. Tác giả Bulgacôva N.G (1983) cho rằng: Đánh giá quá trình huấn luyện đi liền với đánh giá hình thái, chức năng, thể lực, kỹ thuật và tâm lý để xác định năng lực tiềm tàng của VĐV nhằm đạt được những thành tích nhất định trong môn thể thao lựa chọn. Năng lực này được biểu hiện cụ thể ở mức chuẩn bị về kỹ thuật, chiến thuật, thể lực, đạo đức - ý chí và trí tuệ. Giữa hình thái, chức năng, trình độ thể lực, kỹ thuật, tâm lý và TĐTL có mối liên quan đến nhau nó phụ thuộc vào yêu cầu vận động chuyên môn của môn thể thao sở trường. Tác giả Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Tấn Di Trọng chia quá trình huấn luyện VĐV trẻ thành 4 giai đoạn: Huấn luyện sơ bộ; Huấn luyện ban đầu; Huấn luyện chuyên môn hóa; Hoàn thiện thể thao. Huấn luyện ban đầu còn được gọi là giai đoạn dự bị năng khiếu [69], [71], [72]. Tác giả Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn chia quá trình huấn luyện nhiều năm làm 3 giai đoạn chính: Giai đoạn đào tạo ban đầu, Giai đoạn thực hiện tối đa khả năng thể thao; Giai đoạn duy trì thành tích thể thao [66]. Dưới quan điểm tuyển chọn tài năng thể thao theo các tác giả Nguyễn Ngọc Cừ, Bùi Quang Hải giai đoạn chuyên môn hóa khoảng 4-6 năm. Giai đoạn này nên đào thải những VĐV phát dục sớm cuối mỗi năm nên tổ chức đánh giá TĐTL để tuyển chọn lại. Trong giai đoạn này nên đo lường và đánh giá nhiều chỉ số hơn giai đoạn trước (về thể hình, chức năng, tố chất, thể lực chuyên môn, kỹ - chiến thuật). Ngoài ra nên chú ý tới yếu tố ý chí, khả năng chịu đựng lượng vận động trong tập luyện. Trong giai đoạn này cũng nên kiểm tra sức khỏe chung để loại trừ các trường hợp có sức khỏe yếu [11], [12], [22] . Theo tác giả Ôđôlin M.G quá trình huấn luyện nhiều năm của VĐV chạy ngắn được chia thành 4 giai đoạn: Huấn luyện ban đầu (từ 9 tuổi và kéo dài trong khoảng 3 năm); Chuyên môn hóa ban đầu (từ lứa tuổi 12 - 13 và kéo dài tới 15 - 16 tuổi); Chuyên môn hóa sâu (từ lứa tuổi 15 - 16 và kéo dài tới 18-19 tuổi); Hoàn thiện thể thao (từ 19 tuổi hoặc lớn hơn và đạt được thành tích cao nhất ở đội tuổi 22 - 28). Trong đó nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là huấn luyện thể lực toàn diện, nâng cao mức độ chịu đựng chung của cơ thể tạo được vốn kỹ năng vận động, tăng tri thức để hình thành những nền tảng ban đầu của tài năng thể thao. Theo tác giả V.Phi Lin và Điền Mạnh Cửu hệ thống luyện nhiều năm VĐV xe đạp thể thao bao gồm 4 giai đoạn chủ yếu sau: Huấn luyện thể thao sơ bộ (10 - 12 tuổi) ; Chuyên môn hóa ban đầu (13-15 tuổi); Chuyên môn hóa sâu (16 - 19 tuổi); Hoàn thiện thể thao (19 tuổi và nhiều hơn). Việc chia thành các giai đoạn huấn luyện mang tính quy ước vì sự khác nhau trong việc phát triển về mặt sinh học của các VĐV trẻ có thể từ 2 - 3 năm hoặc nhiều hơn. Từ kết quả phân tích và tổng hợp tài liệu cho thấy đề tài lựa chọn đối tượng nam VĐV xe đạp thể thao đường trường lứa tuổi 13-15 giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là phù hợp với cơ sở lý luận và đặc thù chuyên môn môn xe đạp thể thao. Đồng thời lứa tuổi 13-15 là giai đoạn cuối của giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu và chuẩn bị chuyển tiếp sang giai đoạn chuyên môn hóa sâu. Vì vậy việc đòi hỏi TĐTL của VĐV nói chung và tố chất thể lực nói riêng cần phải đáp ứng được nhiệm vụ và chỉ tiêu đặt ra. Theo các tác giả Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn, Lê Văn Lẫm giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là giai đoạn chuyên môn hóa cơ sở. Ở giai đoạn chuyên môn hóa thể thao ban đầu cần tận dụng thời kỳ phát triển “nhạy cảm” theo lứa tuổi của cơ thể tránh chuyên môn hóa quá hẹp, sớm. Theo tác giả Mátvêep L, đặc điểm chuyên biệt của quá trình tập luyện ở giai đoạn chuyên môn hóa ban đầu là: Hiệu quả cao của lượng vận động được thể hiện ở chỗ lượng vận động tăng trưởng ít, song mức tăng thành tích tương đối lớn; tính đều đặn tương đối của nhịp độ tăng hàng năm về khối lượng của lượng vận động tập luyện thể hiện tính đặc thù, nhưng hiệu quả của chúng lại có phạm vi rộng thể hiện ở khả năng “chuyển” TĐTL khi sử dụng những phương tiện huấn luyện khác nhau có biên độ lớn hơn so với giai đoạn sau. Kết quả phân tích và tổng hợp các quan điểm của các tác giả trong và ngoài nước về đặc điểm các giai đoạn của quy trình huấn luyện nhiều năm đối với các môn thể thao nói chung XĐTT nói riêng cho thấy: Phân chia các giai đoạn huấn luyện có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau song điều kiện tiên quyết là phải dựa vào quy luật phát triển sinh học tự nhiên của con người. Trong quá trình huấn luyện phải tuân thủ quy luật phát triển sinh học để hoàn thành mục đích, nhiệm vụ trong từng giai đoạn huấn luyện đặt ra trong quy trình huấn luyện hệ thống. Một hệ thống huấn luyện nhiều năm phải gắn liền với giới hạn tuổi của VĐV ở mỗi giai đoạn và tuổi đạt thành tích đỉnh cao ở môn thể thao cụ thể. Quá trình huấn luyện VĐV nói chung và VĐV xe đạp đường trường nói riêng được chia thành các giai đoạn huấn luyện cụ thể và diễn ra nối tiếp trong nhiều năm. Việc phân chia thành các giai đoạn huấn luyện chỉ mang tính khái quát tương đối, song nó luôn có tính kế thừa và hợp nhất. Căn cứ vào đặc trưng, đặc thù của mỗi môn thể thao mà xây dựng nên các chỉ tiêu chuẩn cho từng giai đoạn huấn luyện. Để đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường cần phải căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ của từng giai đoạn huấn luyện. Từ đó lựa chọn được các phương pháp, phương tiện huấn luyện và xuyên suốt trong kế hoạch huấn luyện. 1.2. Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện của VĐV thể thao: 1.2.1. Khái niệm về trình độ tập luyện: TĐTL là một phức hợp gồm nhiều thành tố sinh học, tâm lý, kỹ chiến thuật, tố chất thể lực hợp thành và được hoàn thiện nhờ ảnh hưởng của quá trình tập luyện, thi đấu và các biện pháp hỗ trợ từ bên ngoài. Đánh giá TĐTL là nhiệm vụ quan trọng trong HLTT để hỗ trợ cho công tác huấn luyện và tuyển chọn của người HLV. Để đánh giá đúng về TĐTL cần có một đội ngũ đông đảo các nhà khoa học bao gồm: bác sỹ, HLV, kỹ thuật viên, nhân viên thí nghiệm hỗ trợ thêm công tác huấn luyện. Mục đích tập luyện của con người là tăng cường sức khỏe và nâng cao thành tích thể thao. Tập luyện tăng cường sức khỏe là mục đích chung của người tập là quá trình tập luyện liên tục TDTT hàng ngày. Đối với VĐV thể thao quá trình tập luyện không ngừng hệ thống các bài tập chuyên môn. Mục đích và nhiệm vụ tập luyện khác nhau thì trình độ cũng rất khác nhau. Đối với người tập luyện vì mục đích sức khỏe dựa vào năng lực tập luyện để đánh giá, còn đối với VĐV cần phải xác định TĐTL để định ra các kế hoạch huấn luyện khoa học và các bài tập có tính đặc hiệu. Đánh giá TĐTL cần phải thông qua các chỉ tiêu, chức năng sinh lý và các chỉ tiêu chuyên môn. Khi tiến hành thực nghiệm phải phân tích đối chiếu các chỉ tiêu biến đổi sinh lý ở các trạng thái yên tĩnh và chịu đựng lượng vận động. TĐTL là một trạng thái động luôn luôn phát triển và tuân theo các quy luật phát triển của thành tích thể thao cũng như đặc điểm giới tính, độ tuổi và môn thể thao chuyên sâu. Đánh giá TĐTL của VĐV cần lưu ý đến các chỉ số chịu sự tác động của di truyền như: phản xạ vận động, sức mạnh bột phát, lực cơ tương đối, sức nhanh, nhịp tim tối đa, lượng oxy hấp thụ tối đa so với trọng lượng cơ thể, các chỉ số chuyển hóa yếm khí, hô hấp tế bào. Mặt khác còn phải quan tâm đến một số chỉ tiêu chịu sự ảnh hưởng của môi trường giáo dục và huấn luyện như tần số động tác, lực cơ tối đa. Khi đánh giá TĐTL của VĐV cấp cao cần phải định lượng được những thành tố bên trong cơ thể đó là các chỉ tiêu y sinh bao gồm hình thái, sinh lý, sinh cơ, đồng thời xác định những thành tố biểu hiện bên ngoài đó là các chỉ số sư phạm về tố chất thể lực chung và thể lực chuyên môn, kỹ- chiến thuật và các phẩm chất tâm lý của từng VĐV vào những thời điểm sung mãn nhất, tức là trước lúc thi đấu. Chỉ số cơ bản để đánh giá TĐTL của VĐV là thành tích thể thao đạt được sau nhiều năm tập luyện một cách liên tục, bền bỉ, công phu và khoa học. Thành tích thể thao chỉ đạt được trong một giai đoạn ngắn nào đó trong mỗi chu kỳ tập luyện (trạng thái sung sức thể thao). Thành tích thể thao là hiện tượng đa nhân tố, phụ thuộc vào nhiều vấn đề. Trong các điều kiện giống nhau thành tích thể thao phụ thuộc vào năng khiếu và mức độ đào tạo của nguồn VĐV. Năng khiếu của VĐV là bẩm sinh còn trình độ đào tạo, huấn luyện thì luôn thay đổi nhờ kết quả của quá trình tập luyện. 1.2.2 Các quan điểm trong đánh giá trình độ tập luyện: Cho đến nay quan điểm đánh giá về TĐTL được các nhà khoa học trong và ngoài nước mặc dù khó thống nhất song có những cách thể hiện và cách nhìn rất khác nhau. 1.2.2.1 Ở ngoài nước: Theo từ điển TDTT của Trung Quốc xuất bản năm 1991 cho rằng: “Đánh giá TĐTL là đánh giá mức độ khả năng thích nghi của cơ thể VĐV với vận động. Do ảnh hưởng của lượng vận động trong tập luyện, tính thích nghi và mặt sinh học của cơ thể cũng thay đổi tức là nâng cao năng lực hoạt động chức năng của các tổ chức, cơ quan, hệ thống và năng lực tiềm tàng của VĐV cũng như cải thiện năng lực điều tiết của hệ thống thần kinh trung ương đối với chức năng của các tổ chức, cơ quan”. Trong hoạt động TDTT được biểu hiện ở mức độ phát triển tổng hợp về các mặt tố chất thể lực, kỹ thuật môn chính, tâm lý và trí tuệ thì TĐTL càng cao, năng lực thể thao càng mạnh, thành tích thể thao càng tốt. Khi đánh giá TĐTL của VĐV cần tổ chức kiểm tra chuyên môn và đánh giá theo các số liệu đã đo đạc được so với các tài liệu có liên quan. TĐTL là thước đo đánh giá hiệu quả huấn luyện. Tìm hiểu trình độ huấn luyện có tác dụng quan trọng đối với việc khắc phục sự mù quáng, nâng cao tính tích cực tự giác của VĐV, điều khiển quá trình huấn luyện một cách khoa học. Theo các tác giả Trung Quốc TĐTL bao gồm các nội dung chính sau: TĐTL là một trạng thái động. Thành tích thể thao là nhân tố cơ bản của TĐTL. TĐTL được nâng cao thông qua con đường tập luyện thể thao. Các tác giả cũng phân biệt TĐTL chung và TĐTL chuyên môn. TĐTL chung được biến đổi một cách hợp lý dưới tác động của bài tập nhằm củng cố sức khỏe nâng cao mức độ phát triển thể lực và các khả năng chức năng của cơ quan, tổ chức cơ thể trong các hoạt động cơ bắp khác nhau. Để đạt được thành tích cao trong một môn thể thao nào đó các VĐV phải có các tố chất thể lực khác nhau trong đó có thể bao gồm: mức độ và phát triển hình thể như: chiều cao, cân nặng; sự phát triển cơ bắp, độ dài chân, tay; loại thể hình hay loại Xôma (yếu, bình thường, khỏe mạnh). Sự phối hợp vận động, thời gian tiềm phục của phản ứng vận động trình độ kỹ chiến thuật; các phẩm chất tâm lý, ý chí, các tố chất thể lực sức nhanh, sức mạnh, sức bền, khéo léo, độ mềm dẻo và các tố chất thể lực chuyên môn. Trong huấn luyện các tố chất này thuộc về yếu tố của TĐTL. Nguyên tắc cơ bản của việc đánh giá TĐTL là giải quyết một cách tổng hợp. Đôi khi hai hay ba thử nghiệm đơn giản nhưng xác thực, phản ảnh được những khía cạnh của TĐTL có thể cung cấp một lượng thông tin có ích lớn hơn nhiều so với việc sử dụng chính những thiết bị phức tạp với hàng chục chỉ số nhưng những yếu tố này không bao gồm hết được các yếu tố chủ yếu. Lượng vận động tập luyện và lượng vận động có ảnh hưởng quan trọng đến TĐTL. Để đánh giá TĐTL người ta phải tiến hành kiểm tra TĐTL. Cũng theo như các nhà khoa học Trung Quốc thì kiểm tra TĐTL là một trong những giai đoạn huấn luyện nhất định, dùng các phương pháp và công cụ (các dụng cụ và phương tiện) kiểm tra thích hợp, có thể nhận được những tư liệu, cũng có thể phản ánh được TĐTL của VĐV bao gồm hình thái và chức năng cơ thể, tố chất vận động, kỹ thuật, chiến thuật, trí thức cơ bản về TDTT, lý luận môn chuyên sâu phẩm chất tâm lý. Kiểm tra phải có độ tin cậy (kết quả kiểm tra lặp lại giống nhau), tính hiệu quả (kết quả kiểm tra) có thể phản ánh chính xác một mặt nào đó của TĐTL, tính khách quan những người kiểm tra khác nhau cho kết quả khác nhau trên cùng một đối tượng kiểm tra. Theo các tác giả Trung Quốc, TĐTL thể lực và thành tích thể thao đều có các đặc thù khác nhau do đó việc phát triển các tố chất thể lực là nhằm đáp ứng nhu cầu của môn thể thao cũng như cấu trúc của thi đấu rất quan trọng để thành công trong đào tạo HLTT. Vì vậy, khái niệm trình độ thể lực là chủ yếu nói tới những biến đổi thích nghi về mặt sinh học (chức năng và hình thái) diễn ra trong cơ thể VĐV dưới tác động của tập luyện và biểu hiện ở năng lực hoạt động cao hoặc thấp. Theo A.D.Nô Vi cốp và L.P Mát vê ép (1980) TĐTL chủ yếu liên quan đến những biến đổi thích ứng về mặt sinh học (hình thái và chức năng xảy ra tron...Hệ thống xương Nam Thời kỳ thai -> thời kỳ thanh xuân Nữ Thời kỳ thai -> thời kỳ thanh xuân Hệ cơ Nam Thời kỳ thai -> thời kỳ thanh xuân Nữ Thời kỳ thai -> thời kỳ thanh xuân Hệ thần kinh Nam Thời kỳ sơ sinh -> thời kỳ nhỏ dại (trước 3 tháng) (trước 3 tuổi) Nữ Thời kỳ sơ sinh -> thời kỳ nhỏ dại (trước 3 tháng) (trước 3 tuổi) Hệ tim mạch Nam Thời kỳ sơ sinh -> thời kỳ thanh xuân Nữ Thời kỳ sơ sinh -> thời kỳ thanh xuân Hệ phân tích tiền đình Nam Thời kỳ sơ sinh -> thời kỳ thanh xuân Nữ Thời kỳ nhỏ dại -> thời kỳ nhi đồng (trước 3 tuổi) (trước 7 tuổi) Hệ cảm thụ bản thể Nam Thời kỳ nhỏ dại -> thời kỳ nhi đồng (trước 3 tuổi) (trước 7 tuổi) Nữ Thời kỳ nhỏ dại -> thời kỳ nhi đồng (trước 3 tuổi) (trước 7 tuổi) Quá trình phát dục trưởng thành của thiếu niên nhi đồng là quá trình cơ thể không ngừng thích ứng với hoàn cảnh bên ngoài, là quá trình của các điều kiện phản xạ của hệ thống tín hiệu thứ nhất, thứ hai được hình thành để đáp lại các kích thích bên ngoài. Quá trình phát dục là quá trình mâu thuẫn và thống nhất của cơ thể và hoàn cảnh bên ngoài của di truyền và thích ứng. Di truyền quyết định khả năng phát dục của cơ thể, còn điều kiện hoàn cảnh thì ảnh hưởng tới tốc độ phát dục và mức độ đạt đến cuối cùng. Không có hoàn cảnh bên ngoài duy trì sự tồn tại của cơ thể, thì cơ thể, cũng khó tồn tại. Có thể nhận thấy, các nhân tố ảnh hưởng sinh trưởng phát dục là tương đối nhiều. 1.4.2.2. Các đặc điểm phát triển các tố chất thể lực của thiếu niên nhi đồng: Các nhà sinh lý thể thao trong và ngoài nước, như Vôn Cốp (Nga), Dương Tích Nhượng (Trung Quốc), Lưu Quang Hiệp (Việt Nam) cũng như các học giả tuyển chọn khoa học VĐV và các học giả nhân tài học như: Bungacôva (Nga), Tăng Phàn Huy (Trung Quốc), Triệu Quế Ngân, Vương Chính Âu (Trung Quốc) đều cho rằng trong quá trình phát triển các tố chất thể lực của nam nữ VĐV thể thao đều có những đặc điểm cơ bản sau: Sự phát triển các tố chất thể lực của các VĐV thiếu niên, nhi đồng là một đường gấp khúc đi lên. Các học giả trên cho rằng thành tích phát triển tất cả các chỉ số thể lực của thiếu niên nhi đồng được tăng dần theo lứa tuổi. Song không phải là sự tăng lên đồng đều và có giai đoạn nhanh, giai đoạn chậm. Quá trình đó tạo thành một đường gấp khúc đi lên. Vì vậy sự phát triển ở mỗi một tố chất lại có thời kỳ nhạy cảm khác nhau. Ỏ thời kỳ nhạy cảm này thành tích tăng nhanh hơn các thời kỳ không nhạy cảm. Theo các nhà khoa học Trung Quốc và Việt Nam, như Dương Tích Nhượng, Triệu Quế Ngân (Trung Quốc), Lưu Quang hiệp (Việt Nam), thì các tố chất có các thời kỳ nhạy cảm ở các độ tuổi, như bảng 1.5 trình bày. Bảng 1.5. Tuổi nhạy cảm của phát triển các tố chất thể lực Tố chất thể lực Khả năng thăng bằng Khả năng bắt chước Tốc độ phản ứng Khả năng phối hợp vận động Tính linh hoạt Độ mềm dẻo Tính nhịp điệu Tốc độ Sức mạnh Sức bền Tuổi phát triển nhanh nhất 6-8 9-12 9-12 10-12 10-12 10-12 10-12 13-16 13-17 16-18 Dương Tích Nhượng (1991) Do vậy, trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho các nhóm tuổi khác nhau cũng cần quan tâm tới các thời kỳ nhạy cảm này để đảm bảo tính khoa học chính xác trong đánh giá. Một đặc điểm khác nữa của quá trình phát triển các tố chất thể lực ở tuổi thiếu niên nhi đồng là các tố chất thể lực khác nhau, đều có những đặc điểm phát triển riêng: Các học giả về huấn luyện học, như Điền Mạnh Cửu (Trung Quốc), Diên Phong (Trung Quốc) cho rằng: quá trình phát triển các tố chất thể lực đã bộc lộ ra những đặc điểm riêng của sự phát triển ở mỗi tố chất. Đối với tố chất tốc độ: Theo qui luật biến đổi tốc độ của các VĐV các môn thể thao chu kỳ như chạy, bơi, đua xe đạp, chèo thuyền v.v thì trước 13 tuổi sự phát triển tốc độ của nam và nữ gần như song song. Giai đoạn 13 - 16 tuổi giữa nam và nữ có sự phát triển khác nhau rõ rệt. Nhìn tổng thể quá trình phát triển tốc độ của VĐV thiếu niên nhi đồng, có hai đỉnh cao. Đỉnh thứ nhất ở vào lứa tuổi từ 8-13 tuổi trong đó nam ở tuổi 8-13, nữ ở tuổi 9-13 tuổi. Đỉnh thứ 2: ở vào lứa tuổi từ 13-16 trong đó nam tăng nhanh ở tuổi 13-14, còn nữ từ 13-16, nhưng tốc độ chậm hơn nam. Đối với tố chất sức bền: Các kết quả nghiên cứu về sức bền của VĐV thiếu niên đã chứng minh từ lúc 10 tuổi các VĐV nam bắt đầu phát triển lần đầu mạnh nhất và đến 13 tuổi lại xuất hiện một lần phát triển nhanh nữa đặc biệt thời gian duy trì cường độ chạy 90% càng biểu hiện rõ rệt hơn. Đến 16 tuổi các em lại có 1 làn sóng phát triển sức bền cao hơn sau 16 tuổi sức bền mới phát triển chậm lại. Ở nữ 2 năm sau khi có kinh nguyệt sức bền phát triển giảm sút đặc biệt là nữ VĐV ở tuổi 15-16. Sức bền giảm sút rõ nét và với mức lớn nhất sau đó tốc độ giảm sút chậm lại. Theo một số nhà sinh lý học, như Dương Tích Nhượng(Trung Quốc), Trịnh Hùng Thanh, Nguyễn Ngọc Cừ (Việt Nam) thì đặc điểm này cũng thể hiện ở các môn thể thao có chu kỳ khác như bơi lội, xe đạp thể thao, đua thuyền v.v Đồng thời các học giả trên còn khẳng định: Không nên ngộ nhận cho rằng các VĐV thiếu niên đã đạt được thành tích xuất sắc ở các cự ly chạy, bơi, đua xe cự ly dài và trung bình đã là những VĐV có đầy đủ sức bền. Đặc điểm phát triển sức mạnh. Như chúng ta đã biết có nhiều loại sức mạnh như sức mạnh tối đa, sức mạnh bền, sức mạnh tốc độ v.v Đối với sức mạnh tối đa quá trình phát triển tố chất này ở VĐV thiếu niên nhi đồng có 1 số đặc điểm sau: VĐV nam nên bắt đầu tập sức mạnh từ 11-12 tuổi, nữ có thể sớm hơn 1 đến 2 tuổi. Quá trình phát triển sức mạnh cho VĐV thiếu niên nhi đồng được chia thành các giai đoạn: Giai đoạn 1: Là giai đoạn từ 10- 13 tuổi sức mạnh phát triển rất nhanh đặc biệt là các cơ co. Trong vòng 3 năm tổng sức mạnh tuyệt đối có thể tăng lên 46%. Giai đoạn 2: Là giai đoạn từ 13-15 tuổi. Ở giai đoạn này sự tăng trưởng sức mạnh giảm đi rõ rệt tổng sức mạnh tuyệt đối chỉ tăng 8%. Giai đoạn 3: Từ 15-16 tuổi, giai đoạn này tổng sức mạnh tăng 12%. Giai đoạn 4: Từ 16-21 tuổi sức mạnh tuyệt đối tăng chậm chỉ khoảng 6%. Sự phát triển sức mạnh tuyệt đối ở nam và nữ từ 11 tuổi trở đi có sự khác biệt ngày càng rõ rệt, sức mạnh của cả nam và nữ chững lại ở sau tuổi 25 (Dương Tích Nhượng và Lưu Quang Hiệp) Đặc điểm phát triển sức mạnh tương đối Sức mạnh tương đối ở tuổi thiếu niên nhi đồng phát triển tương đối chậm. Ở 12-14 tuổi do trọng lượng cơ thể của các em tăng nhanh nên chỉ tiêu này mỗi năm chỉ tăng 2-3%. Tuổi 15 hơi chững lại và đến tuổi 16-17 lại tăng trưởng mạnh. Sự phát triển sức mạnh tương đối của nữ tương đối chậm hơn nam song tăng liên tục từ khoảng 11 đến 15 tuổi. Đặc điểm phát triển sức mạnh tốc độ: sức mạnh tốc độ của các em thiếu niên nhi đồng từ 7 tuổi đến 13 tuổi phát triển rất nhanh. Sau 13 tuổi nam tốc độ phát triển nhanh hơn nữ. Đặc điểm phát triển sức mạnh bền Đặc điểm phát triển sức mạnh bền của thiếu niên như sau: Ở các VĐV nam từ 7 - 17 tuổi là sự phát triển liên tục đi lên. Phát triển sức mạnh bền nhanh nhất là từ 7 - 9 tuổi và sau đó tuy có giảm đi một chút nhưng vẫn phát triển liên tục đến 17 tuổi. Riêng đối với nữ sức mạnh bền cũng tăng nhanh ở tuổi 7-13 nhưng từ 13 -15 tuổi thì tăng chậm lại và đến tuổi 16 trở đi thì có xu hướng giảm đi. Tóm lại, trong quá trình xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho VĐV xe đạp đường trường nhất thiết phải dựa trên cơ sở di truyền học và đặc điểm phát triển các tố chất thể lực của VĐV mới có thể đảm bảo tính khoa học, khách quan, chính xác trong xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá. 1.5. Các yếu tố xác định TĐTL của VĐV đua xe đạp: Trong thực tiễn HLTT mỗi môn thể thao có cấu trúc kỹ thuật khác nhau có tính chất vận động khác nhau từ đó đặt ra những yêu cầu khác nhau đối với hình thái chức năng tố chất thể lực, phẩm chất tâm lý của VĐV. Đúc kết các yếu tố về hình thái chức năng, tố chất thể lực, phẩm chất tâm ý của VĐV cấp cao để cấu trúc, nên mô hình tổng thể VĐV cấp cao của môn thể thao nhất định gọi là mô hình VĐV cấp cao. Vì vậy mỗi môn thể thao khác nhau đều có mô hình VĐV cấp cao khác nhau. Môn đua xe đạp theo A.Nô vi cốp và L.Mát vê ép (1980) thì thuộc nhóm môn thể thao có chu kỳ. Nhưng theo Điền Mạch Cửu (2000) trong lý luận huấn luyện nhóm môn thì môn đua xe đạp lại có thể tùy thuộc vào loại hình thi đấu và cự ly thi đấu khác nhau, mà có sự khác nhau. Ví dụ, môn đua xe đạp bấm giờ hoặc xe đạp lòng chảo thì thuộc nhóm môn tốc độ. Song đua xe đạp trên đường quốc lộ hoặc đua xe đạp nhiều đoạn nhiều ngày lại thuộc về nhóm môn sức bền. Còn đua xe đạp địa hình thuộc về nhóm môn kỹ thuật... Song cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu nào xây dựng được mô hình chi tiết cho từng VĐV đua xe đạp mà mới chỉ đưa ra một mô hình chung cho các VĐV thi đấu ở các loại hình khác nhau của môn đua xe đạp. Theo các nhà khoa học tuyển chọn của Trung Quốc, như Tăng Phàn Huy (1991); Vương Kim Xán (2005), thì mô hình thể hình của VĐV được khái quát ở bảng dưới đây: (bảng 1.6) Bảng l.6. Mô hình VĐV cấp cao môn đua xe đạp Nhân tố Đặc trưng cơ bản Mức độ tác dụng Hình thái cơ thể Thân người cao to vạm vỡ và cân đối nam cao từ 1m75 - 1m85; Nữ từ 1m65 - lm75 Điều kiện chung Chức năng cơ thể Thân thể khỏe mạnh đặc biệt các chức năng tim mạch hô hấp tốt, chịu đựng được lượng vận động tập luyện lớn Điều kiện cơ bản Tố chất thể lực Tốc độ và sức mạnh tốc độ, sức bền tốt, phản ứng linh hoạt Là nền tảng và điều kiện quan trọng Kỹ thuật Kỹ thuật hợp lý, toàn diện không có nhược điểm rõ rệt Là nhân tố quan trọng Chiến thuật Có ý thức chiến thuật cao, biến hóa đa dạng, năng lực ứng biến tốt Là điều kiện quan trọng Tâm lý Có niềm tin mạnh mẽ, ý chí ngoan cường, có tinh thần đọ sức và sự dẻo dai Là điều kiện quan trọng Năng lực Có khát vọng nắm vững kỹ thuật và tri thức Là điều kiện nền Trí tuệ Khoa học chuyên môn. Nắm vững kỹ thuật chiến thuật nhanh năng lực lý giải tốt. Trong thi đấu căng thẳng;có thể đưa ra các phán đoán và quyết sách đúng và kịp thời Là nền tảng tảng quan trọng. Những đặc trưng cơ bản của mô hình VĐV cấp cao đua xe đạp trên chẳng những là cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn tuyển chọn VĐV đua xe đạp mà còn là cơ sở để xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL VĐV đua xe đạp các cấp. 1.6. Đặc điểm tâm sinh lý VĐV thể thao lứa tuổi 13-15 : 1.6.1. Đặc điểm sinh lý thiếu niên lứa tuổi 13-15: Theo các nhà sinh lý học thể thao trong và ngoài nước như Pha Rơ Phen (Nga); Dương Tích Nhượng (Trung Quốc); Nguyễn Xuân Điền, Lưu Quang Hiệp (Việt Nam), thì tuổi 13-15 có một số đặc điểm sinh lý sau : 1.6.1.1. Hệ thần kinh: Ở tuổi 13-15 quá trình hưng phấn vẫn chiếm ưu thế quá trình ức chế. Sự phối hợp động tác ở lứa tuổi này vẫn còn kém, động tác cứng và vụng về. Mặc dù các biểu hiện trên có tính tạm thời song vẫn cần được chú ý trong tập luyện TDTT. 1.6.1.2. Trao đổi chất và năng lượng: Đặc điểm chính về trao đổi chất và năng lượng ở lứa tuổi 13-15 là quá trình đồng hóa chiếm ưu thế so với quá trình dị hóa, do nhu cầu phát triển và hình thái có thể. Một phần đáng kể năng lượng ở lứa tuổi này được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu đó. Cơ thể đang phát triển của các em cần nhiều chất đạm tuy nhu cầu đạm đã giảm nhiều so với tuổi nhi đồng nhưng các em 13-15 tuổi nhu cầu đạm vẫn còn ở mức độ cao, khoảng 2 - 2,2 g/Kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày. Tương tự nhu cầu đạm còn cần đảm bảo đủ lượng mỡ, đường, nước và muối khoáng... để đảm bảo cho sự phát triển của các em. Trao đổi năng lượng trong điều kiện yên tĩnh của trẻ 13-15 tuổi giảm nhiều so với tuổi nhi đồng. 1.6.1.3. Hệ máu: Khối lượng máu so với trọng lượng của cơ thể của các em 13-15 tuổi giảm xuống còn 7-8% trọng lượng cơ thể, lượng máu của các em trai nhiều hơn các em gái. Lượng hồng cầu và bạch cầu của các em 13-15 tuổi cũng giảm nhiều so với trẻ sơ sinh và đạt gần mức của người trưởng thành. 1.6.1.4. Hệ tuần hoàn : Các kích thước tuyệt đối cũng như tương đối của tim tăng dần theo lứa tuổi, nếu như trọng lượng của trẻ 1 tuổi chỉ có 41gr thì đến tuổi 13-15 trọng lượng tim lại có thể đạt tới từ 160-200gr. Tần số co bóp của tim giảm dần theo lứa tuổi ở trẻ sơ sinh khoảng 135-140 lần/phút đến 13-15 tuổi giảm xuống còn 72-80 lần/phút... Nhịp tim của các em 13-15 tuổi chưa thật ổn định và chịu tác động của các kích thích thường thay đổi nhiều hơn người lớn. Hệ tim mạch của các em thích nghi với sự tăng công suất kém hơn so với người lớn. Ví dụ tăng công suất hoạt động lên 1kgm/s thì nhịp tim của các em 13-15 tuổi tăng lên từ 6-7 lần, trong khi đó ở người lớn khoảng 3-5 lần. Sự hồi phục của hệ tim mạch sau hoạt động thể lực nói chung phụ thuộc vào lượng vận động sau hoạt động lượng vận động nhỏ các em 13-15 tuổi hồi phục nhanh hơn người lớn nhưng ngược lại sau hoạt động với khối lượng vận động lớn các em hồi phục chậm hơn người lớn. Thể tích phút của dòng máu tính trên trọng lượng 1kg cơ thể (thể tích phút tương đối), giảm dần theo lứa tuổi ở tuổi 13-15 khoảng 70-80ml ở người lớn khoảng 60ml. Thể tích tâm thu và thể tích phút tối đa ở tuổi 10-11 tuổi đạt 100ml đến tuổi 13-15 có thể đạt 110-120ml. Trong các hoạt động căng thẳng thể tích phút của các em 13-15 tuổi có thể đạt 19-22 L/phút người lớn khoảng 24- 28l/phút. Huyết áp tăng dần so với lứa tuổi, ở tuổi sơ sinh huyết áp tối đa chỉ ở mức 65-70mmHg đến tuổi 13-15 có thể tăng lên đến khoảng 95-110mmHg; Huyết áp tối thiểu ở trẻ 1 tuổi chỉ khoảng 35-40mmHg đến 13-15 tuổi huyết áp tối thiểu đã có thể tăng lên 70-90mmHg. Việc tăng huyết áp trong vận động ở trẻ em thường thể hiện yếu hơn người lớn. Trong hoạt động với công suất tối đa huyết áp của người lớn 18- 20 tuổi huyết áp tối đa trung bình tăng lên 50mmHg, trong khi đó các em 13-15 tuổi chỉ tăng thêm từ 35-40mmHg. 1.6.1.5. Hệ hô hấp: Đặc điểm sinh lý lứa tuổi ảnh hưởng rõ rệt đến chức năng hô hấp cùng với sự tăng trưởng lứa tuổi và tăng dần độ dài của chu kỳ hô hấp, tỉ lệ thở ra hít vào độ sâu và tần số hô hấp. Hô hấp ở trẻ em nói chung có đặc điểm là thở nhanh và không ổn định thở nông và có tỉ lệ thở ra hít vào bằng nhau. Tần số hô hấp ở trẻ 7-8 tuổi là khoảng từ 20-25 lần/phút giảm dần ở tuổi 13-15 khoảng 19-20 lần/phút độ sâu hô hấp tăng dần, ở trẻ 7-8 tuổi khí lưu thông vào khoảng 160-180ml. Ở trẻ 13-15 tuổi khí lưu thông khoảng 300- 350ml. Tuy nhiên nếu tính dung tích sống tương đối (tức dung tích sống trên 1kg trọng lượng cơ thể) thì trẻ em trong đó có các em 13-15 tuổi lại cao hơn người lớn. Một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất của cơ quan hô hấp là thông khí phổi tối đa chỉ số này cũng tăng dần theo lứa tuổi. Cần lưu ý rằng dung tích sống là lượng thông khí phổi tối đa của VĐV các môn thể thao đều cao hơn trẻ bình thường cùng lứa tuổi. Hấp thụ ô xy ở trạng thái yên tĩnh của trẻ em thấp hơn người lớn. Cơ thể trẻ em chịu đựng sự thiếu ô xy kém hơn người lớn vì vậy thời gian nín thở cũng ngắn hơn người lớn. Trong hoạt động thể dục thể thao và các hoạt động thể lực khác, thông khí phổi của trẻ em tăng lên chủ yếu do tăng tần số hô hấp chứ không phải độ sâu hô hấp. Việc tăng tần số hô hấp như vậy làm cho cơ thể trẻ em nhận được ôxy ít hơn so với người lớn. Ở trẻ 10-11 tuổi hấp thụ ô xy trong hoạt động thể lực có thể tăng lên gấp 10 lần so với mức chuyển hóa cơ sở trong khi đó ở người lớn chỉ là 15-16 lần. V02 max của trẻ em cũng thấp hơn của người lớn nhưng các em VĐV thể thao đều cao hơn những trẻ bình thường. 1.6.1.6. Hệ xương: Đặc điểm lớn nhất trong phát triển hệ xương của thiếu niên nhi đồng là: Quá trình cốt hóa chưa hoàn thành các chất hữu cơ và nước trong xương còn nhiều, các chất vô cơ còn ít nên tính đàn hồi ở trẻ rất tốt song độ cứng lại kém. Khi tuổi tăng lên thì xương cứng dần do quá trình cốt hóa của xương. Ở tuổi 13-15 xương của trẻ vẫn đang ở thời kỳ phát triển và cốt hóa, bởi vậy chiều cao của các em tăng nhanh có thể đạt 6-7cm một năm. Xương của thiếu niên nhi đồng đang ở giai đoạn phát triển do đó xương sẽ phát triển chiều dài nhanh hơn chiều ngang tạo ra vóc dáng cao thon cho trẻ em. Lớp sụn ở khớp dầy tính co giãn của nang khớp gân lớn vì vậy biên độ hoạt động của các khớp lớn hơn người lớn. 1.6.1.7. Hệ cơ bắp: Cơ bắp của các em thiếu niên nhi đồng chưa phát triển đầy đủ cơ bắp mềm, nước nhiều nhưng các chất dịch thể và vô cơ tương đối ít. Sau 8-9 tuổi cơ bắp phát triển nhanh, thể tích và sức mạnh cơ cũng tăng dần. Đến tuổi 13-15 tỷ lệ cơ bắp so với trọng lượng cơ thể có thể đạt tới 30-32,6% trong khi đó ở người lớn là 41%. Vì vậy sức mạnh của trẻ 13-15 tuổi tuy đã được nâng cao song vẫn kém xa so với người trưởng thành. Trong quá trình phát triển cơ bắp của các em thiếu niên nhi đồng còn có đặc điểm phát triển không đồng đều. Biểu hiện này thể hiện rất rõ ở sự phát triển của các cơ bắp lớn và rất muộn so với các cơ bắp nhỏ. Các cơ tay có trương lực lớn hơn cơ duỗi... Các nhóm cơ chân phát triển không sớm, không muộn nhưng có trương lưc cơ co nhỏ hơn cơ duỗi. Sự phát triển này của cơ bắp, ảnh hưởng đến tính nhịp điệu và nắm bắt kỹ thuật chính xác. Tính đàn hồi của cơ bắp ở thiếu niên nhi đồng cao hơn người lớn. Vì vậy mặc dù có biên độ co duỗi cơ lớn nhưng do sợi cơ của các em còn nhỏ, mặt cắt ngang sợ cơ nhỏ nên sức mạnh còn kém, đến 13-15 tuổi lực bóp tay có thể đạt được 27- 36kg và lực kéo cơ lưng có thể đạt được từ 36-75kg. Trong sợi cơ của thiếu niên nhi đồng hàm lượng Hêmôglôbin (Hb) cao hơn người lớn, năng lực cung cấp ôxy mạnh điều này có lợi cho tập luyện sức bền và sự hồi phục. 1.6.2. Đặc điểm tâm lý lứa tuổi 13-15: Các nhà tâm lý học như Rudich (Nga); Mã Khởi Vĩ (Trung Quốc); Phạm Ngọc Viễn (Việt Nam) đều cho rằng những biểu hiện vui buồn sung sướng, lạc quan, chán chường, phẫn nộ, tích cực, lười biếng đều là những biểu hiện tâm lý của con người. Cùng với sự phát triển của đại não, chức năng, cấu trúc cơ thể và dưới sự ảnh hưởng của môi trường xã hội và giáo dục... sự chú ý, ghi nhớ, tư duy tưởng tượng, tình cảm, ý chí, cảm giác và các đặc tính cá tính khác của thiếu niên nhi đồng cũng được dần dần phát triển và nâng cao. 1.6.2.1. Sức chú ý: Sức chú ý là một hiện tượng tâm lý thường gặp, cơ chế sinh lý của hoạt động tâm lý này, là một loại hoạt động của phản xạ định hướng. Ở một vùng tương ứng của vỏ đại não, xuất hiện trung tâm hưng phấn. Đặc điểm sức chú ý của thiếu niên nhi đồng là sức chú ý dễ bị phân tán. Các kết quả nghiên cứu về sức chú ý cho thấy tuổi càng cao thì sức chú ý càng lâu, ở tuổi 5-7 tuổi thời gian tập trung chú ý chỉ khoảng dưới 15 phút, nhưng đến tuổi 13- 15 thời gian tập trung chú ý đã có thể nâng lên trên dưới 30 phút. Theo các nhà tâm lý học sự chú ý của thiếu niên nhi đồng có hai loại: chú ý không ý thức (vô định) và chú ý có ý thức hai loại chú ý này có thể chuyển hóa cho nhau. Ở tuổi ấu thơ chú ý vô định chiếm ưu thế còn chú ý có ý thức đang hình thành và phát triển. Khi đến tuổi 3-7 sự chú ý vô thức đạt đến mức độ cao, sự chú ý có ý thức đang dần hình thành. Từ 7-10 tuổi, sự tập trung chú ý vô thức tương đối ổn định, phạm vi phân phối và chuyển dịch chú ý được phát triển thêm một bước. 1.6.2.2. Sự ghi nhớ và sự nhận thức của thiếu niên nhi đồng: Sự ghi nhớ của trẻ cũng chuyển dần từ ghi nhớ vô ý thức, chuyển dần sang ghi nhớ có ý thức. Ở 7-8 tuổi, bước đầu hình thành sự ghi nhớ có lý giải và đến 9-10 tuổi năng lực này được phát triển cao hơn. Về nhận thức của trẻ ở trẻ 3 tuổi chỉ là sự cảm giác trực quan. Cùng với sự phát triển của ngôn ngữ và chữ viết các em dần dần hình thành tư duy. Tới 7 tuổi tư duy của các em vẫn còn đang ở thời kỳ tư duy hình tượng cụ thể và chịu sự chi phối của biểu tượng. Nhưng mức độ nào đó vẫn có quan hệ trực tiếp với cảm tính và kinh nghiệm. Đến tuổi 15 trở đi mới đạt được tư duy trừu tượng và tư duy lô gic. 1.6.2.3. Đặc điểm về tình cảm ý chí, ý thức và các đặc điểm cá tính của thiếu niên nhi đồng: Tình cảm ý chí ý thức và các đặc điểm cá tính của thiếu niên nhi đồng cũng thay đổi cùng với sự tăng lên về tuổi tác. Nhận thức có ý thức của tâm lý nhi đồng chỉ giới hạn ở nhận thức đối với sự vật của thế giới bên ngoài. Do sự phát triển của nhận thức có ý thức và điều tiết hoạt động tâm lý bên trong mỗi con người từ đó hình thành ý thức thực sự. Cá tính của thiếu niên nhi đồng đầu tiên bị chi phối bởi sự vật bên ngoài là nhu cầu sinh lý bản thân mỗi cá thể. Do đó hành động của các em chỉ có thể phục vụ nguyện vọng trực tiếp trước mắt. Trên cơ sở sự phát triển về cơ thể mà tâm lý của thiếu niên và nhi đồng dần dần hình thành các quan niệm đúng, sai; tư tưởng đạo đức, lòng tin và quan điểm. Tóm lại, sự phát triển tâm lý của thiếu niên nhi đồng nói chung và các em 13- 15 tuổi có một quá trình phát triển nhất định đồng thời quá trình phát triển đó có quy luật nhất định và mang đặc điểm lứa tuổi nhất định. 1.7. Các công trình nghiên cứu đánh giá TĐTL của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước: 1.7.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài: Việc kiểm tra đánh giá TĐTL ở các giai đoạn lứa tuổi thanh thiếu niên đều là rất cần thiết nó giúp cho các HLV các câu lạc bộ các trường năng khiếu thể thao đánh giá một cách khách quan đúng đắn từ đó định hướng cho công tác huấn luyện và tuyển chọn. Ngoài ra nó còn giúp cho việc thường xuyên theo dõi trạng thái biến đổi trong quá trình tập luyện để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. Đánh giá TĐTL có thể thực hiện theo các góc độ khác nhau về tâm lý học, sinh lý học và giáo dục học. Từ góc độ tâm lý đã có những công trình nghiên cứu của A.D.Ganhút Skin, B.P.Ke rô demilinda (1990, 1992) về phương pháp đánh giá trình độ tâm lý của các môn thể thao khác nhau. Họ đã giới thiệu một số test đặc trưng cơ bản về tâm lý như: loại hình thần kinh, khả năng xử lý thông tin phối hợp vận động, khả năng phản xạ, các phẩm chất của chú ý và tính linh hoạt thần kinh. Về phương diện sinh lý học, V.L Kapman (1982, 1984) đã nghiên cứu về các khả năng chức năng được sử dụng để đánh giá TĐTL của VĐV cấp cao. Bằng kết quả nghiên cứu ông đã chứng minh rằng: Khi TĐTL tăng lên, thì dung lượng máu cũng tăng lên. Hàm lượng hemoglobin cũng như hồng cầu trong máu đều tăng làm cho nồng độ oxy trong máu cũng tăng lên. Chỉ số dung tích sống và thông khí phổi tối đa cũng tăng lên cùng với cường độ tập luyện. Về mặt sư phạm, theo V.P Philin (1976): “Việc kiểm tra và đánh giá TĐTL ở các giai đoạn HLTT đều là rất cần thiết, bởi vì nó giúp cho HLV các trường năng khiếu thể thao đánh giá được một cách khách quan đúng đắn để định hướng công tác huấn luyện đã lựa chọn và quá trình thực hiện. Trẻ em và thanh thiếu niên có tiềm năng phát triển tố chất thể lực rất lớn trong tất cả các thời kỳ tập luyện, đặc biệt phải ưu tiên giáo dục tố chất thể lực cho từng lứa tuổi. Phải thường xuyên theo dõi trạng thái biến đổi trong tập luyện của VĐV để có biện pháp kịp thời điều chỉnh. Tại Nga, trong quá trình đánh giá TĐTL việc kiểm tra năng khiếu cho VĐV thể dục nghệ thuật được tiến hành nằm trong kế hoạch kiểm tra toàn diện với 4 nhóm yếu tố trong đó yếu tố hình thái có 9 chỉ tiêu, yếu tố tố chất thế lực, có 13 chỉ tiêu, yếu tố chức năng tâm sinh lý, có 3 chỉ tiêu và yếu tố kỹ thuật là các bài tập trong đề cương huấn luyện, gồm 8 chỉ tiêu để khảo nghiệm. Tại Trung Quốc, tác giả Hoàng Mỹ Lâm và các cộng sự, trong đề cương huấn luyện thể dục nghệ thuật, đã đưa ra các tiêu chuẩn về hình thái, chức năng, tố chất thể lực và kỹ thuật, theo các nhóm tuổi từ 7 - 20, bao gồm 12 chỉ tiêu về thể hình, 4 chỉ tiêu về chức năng tâm - sinh - lý, 15 chỉ tiêu về tố chất thể lực và kỹ thuật. Các tác giả Vương Ái Lan, Lương Trúc, Trương Lệ Hoa cũng sử dụng các test kiểm tra hình thể, các test thể lực và kỹ thuật để đánh giá TĐTL cho VĐV thể dục. Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học Bungari trong đánh giá TĐTL của VĐV Thể dục ở giai đoạn huấn luyện cơ sở từ 8-12 tuổi sử dụng 13 chỉ tiêu hình thái, 6 chỉ tiêu về chức năng, 15 chỉ tiêu về tố chất thể lực và 10 chỉ tiêu về kỹ thuật. Ở môn Cầu Lông năm 1997 các tác giả Bành Mỹ Lệ, Hậu Chính Khánh khi đánh giá TĐTL đã đưa ra các nội dung: di chuyển tiến lùi theo đường thẳng 5 lần, di chuyển ngang phải trái 5 lần, nhảy dây đôi 1 phút (số lần), di chuyển đánh cầu cao sâu cuối sân, di chuyển đánh cầu chéo góc sát dưới vào ô và kiểm tra năng lực thi đấu. 1.7.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước: Ở nước ta, nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho các môn thể thao trong những năm gần đây đã được nhiều tác giả quan tâm. Các nhà nghiên cứu gồm Lê Quý Phượng, Nguyễn Kim Minh, Ngô Đức Nhuận, Nguyễn Thị Tuyết (1997, 1998) đã triển khai đề tài: “Xác định chuẩn mực đánh giá TĐTL của VĐV một số môn thể thao trọng điểm trong chương trình thể thao quốc gia”. Mục đích của đề tài là xây dựng một hệ thống các dữ liệu thông tin quản lý VĐV theo các nhiệm vụ cụ thể của công tác huấn luyện. Đề tài cũng bước đầu xây dựng chuẩn mực đánh giá TĐTL và đề xuất các chỉ tiêu tuyển chọn và đào tạo VĐV tại các trung tâm HLTT quốc gia. Các tác giả bước đầu đã đưa ra những số liệu có ý nghĩa đối với các môn thể thao nói chung, lựa chọn được những chỉ tiêu có độ tin cậy thuộc các nhóm yếu tố hình thái, chức năng và chuyên môn thể thao. Kết quả của đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao đưa ra được các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của VĐV một trong những biện pháp đánh giá chính xác, toàn diện đối với VĐV thể thao ở mỗi giai đoạn của toàn bộ quá trình huấn luyện nhiều năm. Tác giả Bùi Huy Quang (1996) với đề tài “Nghiên cứu các chỉ tiêu đánh giá TĐTL dưới góc độ sư phạm của VĐV bóng bàn nam từ 9 đến 12 tuổi” đã xây dựng được một hệ thống các chỉ tiêu kỹ thuật, chiến thuật, tố chất thể lực và tâm lý. Tác giả Chung Tấn Phong (2000) đã nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của VĐV bơi lội trẻ 8- 12 tuổi trong giai đoạn huấn luyện ban đầu”. Tác giả đã đưa ra các chỉ tiêu về tố chất thể lực (5 chỉ tiêu thể lực chung và 4 chỉ tiêu thể lực chuyên môn), kỹ thuật gồm: đánh giá kỹ thuật bơi cơ bản và sức mạnh cơ sở: bơi 4 x 50m tay 4 kiểu bơi (cho lứa tuổi 11 - 12). Tác giả Lê Nguyệt Nga và cộng sự (1998, 2000) đã tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của VĐV bơi trẻ nữ 13 - 15 tuổi và nam 15 - 17 tuổi, tại TP.Hồ Chí Minh trong giai đoạn Huấn luyện chuyên môn. Năm 2001 tác giả Nguyễn Kim Xuân nghiên cứu đề tài “Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của nữ VĐV thể dục dụng cụ ở giai đoạn huấn luyện ban đầu 6-8 tuổi”. Về tố chất thể lực gồm 16 test và bài tập, về kỹ thuật có các môn thể dục tự do và cầu thăng bằng, xà lệch, nhảy ngựa việc đánh giá kỹ thuật thực hiện theo phương pháp chấm điểm. Năm 2002, Viện khoa học TDTT các nhà nghiên cứu Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn Kim Minh, Trần Quốc Tuấn đã biên soạn tài liệu: “Tiêu chuẩn đánh giá TĐTL trong tuyển chọn và HLTT”. Đây là công trình khoa học cấp nhà nước, là kết quả nghiên cứu của Viện khoa học TDTT với sự cộng tác của nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý, các HLV. Trong công trình khoa học này đã công bố kết quả nghiên cứu từ nhiều môn thể thao có chu kỳ gồm: Điền kinh (chạy), bơi lội, đạp xe, các môn thể thao cá nhân, đối kháng như: Karatedo, Judo, vật tự do, vật cổ điển, Pencaksilat, Teakwondo, các môn bóng có: bóng đá, bóng chuyền, bóng bàn. Năm 2003, tác giả Lê Nguyệt Nga và cộng sự nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu TĐTL của VĐV bóng rổ nam, nữ cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh”. Năm 2005, tác giả Lâm Quang Thành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu sự phát triển TĐTL của VĐV bóng chuyền nam hạng đội mạnh quốc gia tại TP.Hồ Chí Minh”. Cùng trong thời gian này, tác giả Nguyễn Đăng Khoa (2005) tiến hành đề tài: “Nghiên cứu TĐTL của VĐV chạy ngắn và nhảy cao của thành phố Hồ Chí Minh”. Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn (2004) nghiên cứu đề tài: “Bước đầu nghiên cứu TĐTL thể lực và kỹ thuật của đội tuyển Judo Thành phố Hồ Chí Minh sau một năm tập luyện”. Đề tài xác định được các chỉ số về TĐTL thể lực và kỹ thuật ở một số hạng cân vô địch và huy chương bạc quốc gia đội tuyển Judo thành phố Hồ Chí Minh; Đánh giá được hiệu quả ứng dụng chương trình huấn luyện của đội tuyển Judo thành phố thông qua kế hoạch huấn luyện năm. Kết quả nghiên cứu cho thấy các chỉ số về tố chất thể lực và kỹ thuật đều tăng trưởng rõ rệt sau 1 năm tập luyện. Tác giả Nguyễn Kim Lan (2004) với đề tài: “Nghiên cứu các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của VĐV thể dục nghệ thuật trẻ từ 8- 10 tuổi” (Luận án tiến sỹ Giáo dục học), qua 4 bước lựa chọn đảm bảo tính khoa học luận án đã lựa chọn được hệ thống test có đủ độ tin cậy và tính thông báo đánh giá TĐTL của VĐV thể dục nghệ thuật trẻ 8-10 tuổi về hình thái, thể lực, kỹ thuật và tâm sinh lý bao gồm: 26 chỉ tiêu cho độ tuổi 8, 25 chỉ tiêu cho độ tuổi 9, 30 chỉ tiêu cho độ tuổi 10. Sử dụng hệ thống chỉ tiêu trên vào đánh giá TĐTL cho VĐV thể dục nghệ thuật 8-10 tuổi xác định được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đánh giá TĐTL lên thành tích thi đấu trong đó yếu tố thể lực luôn chiếm hàng đầu. Tác giả cũng đã xây dựng được các tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho VĐV thể dục nghệ thuật 8-10 tuổi có tính đến tỷ trọng ảnh hưởng từng yếu tố thành phần. Tác giả đã kiểm chứng trong thực tiễn nhận thấy các bảng điểm tổng hợp có khả năng đánh giá khách quan TĐTL của VĐV thể dục nghệ thuật 8-10 tuổi, VĐV có tổng điểm càng cao thì kết quả thi đấu càng cao và ngược lại. Tác giả Dương Nghiệp Chí (2004) và cộng sự đã nghiên cứu đề tài: “Ứng dụng khoa học công nghệ nâng cao TĐTL thi đấu của VĐV bóng đá trẻ” (từ tuổi mẫu giáo đến 18 tuổi: về tố chất thể lực có 3 test cho nhóm 11- 12 tuổi; 4 test cho nhóm 13-14 tuổi, 6 test cho nhóm 15 - 16 tuổi và 6 test cho nhóm 17 - 18 tuổi. Về kỹ thuật gồm 3 test cho nhóm 11 - 12 tuổi, 6 test cho nhóm 13 - 14 tuổi và 4 test cho nhóm 15 - 16 tuổi, nhóm 17 - 18 tuổi. Tác giả Nguyễn Quang Vinh (2008) nghiên cứu đề tài: “xác định nội dung tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 16-18 trong giai đoạn chuyên môn hóa”. Tác giả đã xác định được hệ thống các nội dung đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 16-18 gồm: hình thái 2 nội dung, tố chất thể lực 12 nội dung, thần kinh tâm lý 2 nội dung; chức năng sinh lý 7 nội dung. Tác giả Nguyễn Xuân Quắc (2009) nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu TĐTL VĐV bóng ném nữ quốc gia sau 1 năm tập luyện (luận văn thạc sỹ giáo dục học) xác định được hệ thống test gồm 37 chỉ số, test đánh giá TĐTL của VĐV bóng ném nữ Việt Nam bảo đảm độ tin... tiêu đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp đường trường 13 -15 tuổi ở một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam. Khi xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho VĐV thanh thiếu niên nhi đồng trong các môn thể thao ở các giai đoạn huấn luyện các học giả nước ngoài như V.Philin, Tăng Phàn Huy, Vương Kim Xán (TQ) đều sử dụng thang độ C và qui tắc . Tuy vậy muốn sử dụng quy tắc và thang độ C đòi hỏi phải có những điều kiện nhất định đó là: Các chỉ tiêu phải có nhịp tăng tương đương. Mức độ tăng trưởng hàng năm phải đạt mức tối thiểu từ 1 đến 2 trở lên. Vì vậy trước khi xây dựng tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá cho các chỉ tiêu, test đánh giá đề tài đã tiến hành kiểm tra kiểm chứng mức độ phát triển của các chỉ tiêu đánh giá bằng việc theo dõi nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá của các VĐV xe đạp đường trường 13 -15 tuổi qua thực tế huấn luyện ½ năm và 1 năm. Cần phải mang tất cả 39 VĐV của các đội tuyển đều được tập luyện theo chương trình tập luyện tương đối thống nhất. Sau 6 tháng và sau 1 năm kiểm tra lại đều được thống nhất vào ngày thứ 7 và chủ nhật đầu tháng 12 năm 2014 và đầu tháng 8 năm 2014. Dựa vào kết quả kiểm tra lần đầu tháng 8/2013 và 2 lần kiểm tra trong năm 2014. Đề tài tiến hành xử lý số liệu kiểm tra bằng thuật toán tính nhịp tăng trưởng thành tích. Kết quả được trình bày ở bảng 3.8, 3.9 và 3.10 Bảng 3.8. Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13 (n = 14) Chỉ tiêu kiểm tra Sau 6 tháng Sau 1 năm Sự khác biệt V1 V2 W(%) V1 V3 W(%) T P 1. Chiều cao cơ thể (cm) 161 163.1 1.29 161 165.3 2.63 3.672 <0,05 2. Chỉ số Quetelet (g/cm) 360 355 1.39 360 350 2.81 3.742 <0,05 3. Vòng đùi(cm) 10.0 9.8 2.02 10.0 9.60 4.08 3.750 <0,05 4. Tỷ lệ % mỡ cơ thể(F%) 47 48.2 2.52 47 49.4 4.66 3.487 <0,05 5. Dung tích sống (lít) 4250 4300 1.16 4250 4560 7.03 2.965 <0,05 6. VO2 max (l/p) 3,38 3,43 1.46 3.38 3.58 5.74 3.025 <0,05 7. VO2 max tương đối(l/ph/kg) 51,90 53,60 3.22 51.90 55.50 6.70 3.821 <0,05 8. Thời gian nín thở (s) 68,0 76,0 11.11 610 82.0 18.66 2874 <0,05 9. Bật xa tại chỗ (cm) 178 184 3.31 178 192 7.86 3.756 <0,05 10. Bật cóc 2 x 20m (s) 19,5 18,9 3.12 19.5 18.4 5.83 3.206 <0,05 11. Co tay treo người xà đơn (s) 30,75 3.8 9.45 30.75 37.2 18.98 3.609 <0,05 12. Nằm ngửa gập bụng 10s (lần) 20 21.5 7.22 20 22.5 11.76 2.786 <0,05 13. Chạy nâng cao đùi 30s 20 20.9 4.4 20 21.5 7.23 3.014 <0,05 14. Chạy 100m (s) 14,4 14.20 1.39 14.4 14 2.81 3.764 <0,05 15. Chạy 800m (ph,s) 170 164 3.60 170 159 6.68 3.285 <0,05 16. Nhảy đổi bước 10 giây (lần) 25 26.5 5.82 25 27.5 9.52 3.146 <0,05 17. Chấm điểm đi xe đạp trên sa bàn (điểm) 4 4.5 11.76 4 5 22.22 4.150 <0,05 18. Đánh giá phẩm chất, ý chí của VĐV qua tập luyện và thi đấu (điểm) - - - - - - - - Từ kết quả trình bày ở các bảng 3.8; 3.9 và 3.10 cho thấy nhịp tăng trưởng của các chỉ số lựa chọn để xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho nam VĐV xe đạp đường trường 13 -15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam đều có giá trị tăng trưởng tương đương và cả 3 lứa tuổi thành tích luôn tăng trưởng với giá trị từ 1 đến > 2. Để thấy rõ hơn trong việc phân tích nhịp tăng trưởng các chỉ tiêu đánh giá qua thời gian 6 tháng và 1 năm. Một là: Lựa chọn để xây dựng hệ thống test đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13 – 15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc là có tính đại diện giá trị này hoàn toàn có đủ độ tin cậy để lựa chọn vào quá trình xây dựng tiêu chuẩn đánh giá cho các chỉ tiêu đã được lựa chọn. Hai là: Do giữa các nhóm tuổi có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê nên việc xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá cho lứa tuổi 13 – 15 cần thiết phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá cho từng tuổi riêng biệt. Ba là: Thực tế diễn biến nhịp tăng trưởng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13 - 15 là khả năng đồng đều giữa các lứa tuổi và đều có nhịp tăng trưởng khá cao cho đạt mức từ > 1 đến 2. Kết quả này cho thấy cần thiết và đủ điều kiện xây dựng hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL cho VĐV đua xe đạp đường trường từ 13-15 tuổi. Tiếp theo ta xác định mức độ ảnh hưởng của các nhóm nhân tố ảnh hưởng tới trình độ tập luyện của VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi ở miền Bắc bằng cách xác định tỷ trọng ảnh hưởng sau khi tính tương quan bội giữa các nhóm nhân tố với thành tích đua xe đạp 20 km. Để có thể xác định tỷ trọng đối với các yếu tố đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường đề tài ứng dụng phương pháp hợp nhất là xác định hệ số tương quan bội, theo phương trình Bêta ( ) nhằm xác định tỷ trọng ảnh hưởng của từng nhóm yếu tố thành phần. R = Tiến trình tiến hành theo các bước sau: Bước 1: Xác định tương quan giữa các nhóm yếu tố thành phần, và giữa các yếu tố thành phần với thành tích đua xe 20km của hình thái, chức năng, tố chất thể lực, kỹ chiến thuật Bước 2: Tính hệ số tương quan đa nhân tố, theo công thức tính R trình bày ở trên. Kết quả 2 bước trên được trình bày ở các bảng 3.11, 3.12, 3.13 Sau khi đã có kết quả trình bày ở các bảng 3.11, 3.12, 3.13 đề tài tiến hành bước thứ 3: Bước thứ 3: Xác định hệ số ảnh hưởng Bê ta ( ). Hệ số ảnh hưởng bê ta được xác định, nhờ giải hệ phương trình bậc nhất sau: Kết quả giải hệ phương trình trên, đề tài thu được kết quả trình bày ở bảng 3.14. Bảng 3.14. Hệ số ảnh hưởng Bê ta của các yếu tố đánh giá TĐTL của VĐV nam xe đạp đường trường 13 -15 tuổi {Ơ 13 tuổi 14 tuổi 15 tuổi Hình thái cơ thể 0.190 0.191 0.192 Chức năng cơ thể 0.203 0.204 0.205 Tố chất thể lực 0.297 0.297 0.298 Kỹ chiến thuật 0.011 0.011 0.012 Phẩm chất tâm lý 0.100 0.101 0.102 Từ bảng 3.14 ta nhận thấy ở các lứa tuổi từ 13-15, tố chất thể lực và chức năng cơ thể VĐV là các yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất tới TĐTL của VĐV đua xe đạp đường trường. Tuy nhiên ở cả 6 nhóm yếu tố đều có ảnh hưởng tới thành tích đua xe đạp đường trường, vì vậy đều cần xác định TĐTL qua 6 nhóm yếu tố này (gồm 18 tiêu chuẩn). 3.2.2 Xây dựng tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL cho nam VĐV xe đạp đường trường lứa tuổi 13 – 15 một số tỉnh, thành phố miền bắc Việt Nam Xây dựng qui trình sử dụng tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc. Để thuận lợi cho các HLV và VĐV trong quá trình kiểm tra đánh giá và tự đánh giá TĐTL đề tài đã xây dựng qui trình sau: Bước 1: Dựa vào các chỉ tiêu đánh giá và phương pháp kiểm tra (trong chương 2) để triển khai việc kiểm tra lấy số liệu đánh giá. Bước 2: Đối chiếu thành tích kiểm tra của chỉ tiêu đó với tiêu chuẩn trong bảng 3.15; 3.16 và 3.17 theo đúng lứa tuổi của VĐV kiểm tra. Bước 3: Cộng dồn điểm kiểm tra đạt được của cả 18 chỉ tiêu và đánh dấu những chỉ tiêu đã vi phạm qui định ở bảng 3.18. Bước 4: Xác định phân loại cuối cùng đối với TĐTL của VĐV đã kiểm tra trên. Bảng 3.18. Bảng điểm đánh giá tổng hợp phân loại TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13 - 15 tuổi Loại kém Loại yếu Loại TB Loại khá Loại tốt 1 điểm - 20 điểm Từ 21-40 Từ 40- 50 điểm Từ 61-80 Không có chỉ tiêu đạt loại yếu 81điểm - 100 điểm Không có chỉ tiêu đạt loại yếu 3.3. Kiểm chứng hệ thống thang điểm và tiêu chuẩn đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp đường trường 13 -15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc. 3.3.1. Kiểm chứng độ tin cậy của hệ thống chỉ tiêu, thang điểm đã xây dựng. Để có thể kiểm định đánh giá được độ tin cậy của hệ thống các chỉ tiêu, thang điểm đánh giá TĐTL cho nam VĐV xe đạp đường trường 13 - 15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam tôi đã so sánh tổng điểm TĐTL với thành tích đua xe đạp 20 km của 15 VĐV lửa tuổi 13; 14 VĐV lứa tuổi 14; 13 VĐV lứa tuổi 15 ở lần kiểm tra thứ nhất vào tháng 11/2014. Lần kiểm tra thứ nhất tất cả VĐV được tiến hành kiểm tra thành tích các chỉ tiêu đánh giá TĐTL và kiểm tra thành tích đua xe 20km. Kết quả kiểm tra lần thứ nhất được trình bảy ở bảng 3.19; 3.20; 3.21. Bảng 3.19. So sánh thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL với xếp hạng thành tích đua xe 20km của VĐV 13 tuổi trước thực nghiệm (n=15) VĐV Tổng điểm đánh giá TĐTL Thành tích và xếp hạng thi đấu 20km Tổng điểm Xếp hạng Thành tích Xếp hạng 1. A1 70 10 48.50 10 2. A2 74 8 48.20 8 3. A3 72 9 48.35 9 4. A4 75 7 4810 7 5. A5 68 11 49,01 11 6. A6 83 4 46.05 4 7. A7 78 6 47.50 6 8. A8 80 5 47.34 5 9. A9 85 3 46.25 3 10. A10 86 2 46.10 2 11. A11 87 1 45.30 1 12. A12 66 12 49.22 12 13. A13 65 13 49.36 13 14. A14 63 14 49.55 14 15. A15 60 15 50.27 15 Qua kết quả kiểm tra lần đầu ứng dụng các chỉ tiêu đánh giá TĐTL với VĐV xe đạp đường trường 13 – 15 tuổi được trình bày ở bảng 3.19; 3.20; 3.21 cho thấy các VĐV nào đạt được tổng điểm đánh giá cao, thì cũng đạt được thứ hạng thành tích cao và ngược lại. Một tháng sau đó tôi tiến hành kiểm định một lần nữa hệ thống thang điểm đánh giá nhưng theo quy trình ngược với lần thứ nhất (tức kiểm tra xếp hạng thành tích thi đấu đua xe 20 km trước, sau đó mới kiểm tra xếp hạng tổng điểm các chỉ tiêu đánh giá sau). Kết quả tiến hành theo quy trình ngược lại được trình bày ở bảng 3.22; 3.23; 3.24. Bảng 3.22. So sánh thứ hạng thành tích đua xe 20 km và thứ hạng tổng điểm đánh giá TĐTL của VĐV xe đạp 13 tuổi lần kiểm tra thứ hai theo quy trình ngược lại Xếp hạng thành tích đua xe 20 km Xếp hạng tổng điểm đánh giá TĐTL Thành tích Xếp hạng Tổng điểm Xếp hạng 1. A1 47.50 10 2 10 2. A2 47.25 8 76 8 3. A3 47.05 9 74 9 4. A4 46.50 7 77 7 5. A5 47.04 11 70 11 6. A6 45.25 4 85 4 7. A7 46.30 6 50 6 8. A8 46.16 5 82 5 9. A9 45.15 3 87 3 10. A10 45.05 2 89 2 11. A11 44.10 1 90 1 12. A12 48.20 12 68 12 13. A13 48.36 13 67 13 14. A14 48.58 14 65 14 15. A15 49.25 15 63 15 Từ kết quả trình bày ở bảng 3.22; 3.23; 3.24 cho thấy sau một tháng do có ảnh hưởng nhất định của yếu tố huấn luyện và tăng trưởng cơ thể nên cũng đã làm cho tổng điểm kiểm tra đánh giá và thành tích đua xe đạp 20km có biến đổi tăng lên ở mức độ nhỏ. Song nếu so sánh với kết quả kiểm tra lần 1 ta có thể dễ dàng nhận thấy thứ hạng thành tích cũng như thứ hạng tổng điểm kiểm tra của ba nhóm tuổi 13, 14, 15, giữa hai lần kiểm tra vẫn không thay đổi. Qua đó ta có thể rút ra nhận xét dù có thay đổi quy trình kiểm tra song vẫn cho kết quả đồng nhất. Điều đó chứng tỏ hệ thống thang điểm đánh giá mà đề tài xây dựng đã đảm bảo độ tin cậy rất cao . Để ứng dụng hệ thống thang điểm đánh giá trong huấn luyện giúp nâng cao trình độ huấn luyện cho VĐV tôi thông báo cho HLV thực trạng trình độ tập luyện của VĐV. Huấn luyện viên có phương án điều chỉnh kế hoạch huấn luyện đem lại hiệu quả tốt. Nhóm VĐV 13 tuổi có 18 lượt VĐV có trình độ yếu kém ở 13 chỉ tiêu kiểm tra (trong đó có 5 VĐV có tới 2 chỉ tiêu yếu kém). Nhóm VĐV 14 tuổi có 16 lượt VĐV có trình độ yếu kém ở 12 chỉ tiêu kiểm tra (trong đó có 4 VĐV có tới 2 chỉ tiêu yếu kém). Nhóm VĐV 15 tuổi có 14 lượt VĐV có trình độ yếu kém ở 12 chỉ tiêu kiểm tra (trong đó có 1 VĐV có tới 2 chỉ tiêu yếu kém). VĐV 15 tuổi có 13/14 chỉ tiêu yếu kém được nâng cấp chiếm tỷ lệ 92.85%. Nhóm 13 tuổi có tới 4 VĐV, nhóm 14 tuổi có 3 VĐV đều có 2 chỉ tiêu yếu kém đều đã được nâng cấp. Kết quả này đã khẳng định thang điểm đánh giá TĐTL đã xác định chính xác những mặt yếu kém ở VĐV, giúp cho công tác điều chỉnh huấn luyện càng phù hợp với thực tiễn từ đó nâng cao nhanh chóng trình độ tập luyện và thành tích thể thao cho VĐV. 3.3.2 Bàn luận về kết quả xây dựng tiêu chuẩn và thang điềm đánh giá TĐTL của nam VĐV xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam. 3.3.2.1 Bàn luận về diễn biến thành tích các chỉ tiêu đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam. Bàn về cách xác định lứa tuổi trong kiểm tra đánh giá TĐTL Hiện nay vấn đề xác định lứa tuổi đươc các chuyên gia tuyển chọn và đánh giá TĐTL hết sức quan trọng bởi lẽ các nhà khoa học tuyển chọn và đánh gỉá TĐTL trong và ngoài nước như: Bungacova, Zasưôrơski, I.Aulíc (Nga); Hình Văn Hoa, Tăng Phàn Huy (Trung Quốc), Dương Nghiệp Chí (Việt Nam) đều cho rằng: Việc phân chia nhóm tuổi có hợp lý hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính khách quan chính xác TĐTL của VĐV. Tuy nhiên sự phân chia này cũng chỉ là mặc định và dựa theo cơ sở của tuổi khai sinh. Vì vậy tuổi VĐV nếu dựa vào tuổi đời sẽ chịu ảnh hưởng của độ chính xác trong khai báo tuổi trên giấy khai sinh vào thời điểm kiểm tra, bởi lẽ nếu giấy khai sinh hoặc thời điểm kiểm tra sai lệch đi 1 hoặc 2 ngày có thể làm cho tuổi của VĐV thay đổi từ tuổi này sang tuổi khác. Chính vì vậy trong tuyển chọn và đánh giá thể thao hiện đại ở nước ngoài phần lớn sử dụng tuổi xương để xây đựng tiêu chuẩn đánh giá sẽ đảm bảo tính chính xác và khoa học hơn. Do việc xác định tuổi xương ở nước ta chưa được sử dụng rộng rãi nên đề tài vẫn sử dụng phương pháp phân tuổi bằng cách tính theo hệ thập phân trong đo lường thể thao của tác giả Dương Nghiệp Chí. Với cách tính này đề tài đã xác định được tuổi bình quân của các nhóm tuổi đảm bảo được tính khách quan và khoa học. Bàn luận về cách xác định tính đại diện của các giá trị trung bình của kết quả kiểm tra. Để có cơ sở thực tiễn cho việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc đòi hỏi phải xác định được tính đại diện của các giá trị trung bình của các chỉ tiêu đã được lựa chọn để xây dựng hệ thống test đánh giá TĐTL. Trước hết đề tài rất coi trọng về tính đồng nhất trong thời điếm đó. Chỉ có như vậy mới tạo tiền đề xác định được các số liệu gốc có tính khách quan và độ tin cậy cao. Đề tài cũng đã sắp xếp lịch kiểm tra khá tỷ mỉ và hợp lý. Do vậy số liệu kiểm tra có độ tin cậy cao. Trên cơ sở số liệu kiểm tra thu nhập được đề tài đã tiến hành xử lý số liệu để tính , δ, Cv, mX và . Các số liệu trình bày kết quả xác định tính đại diện của số trung bình quan sát được trình bày ở bảng 3.6 cho thấy các giá trị của các chỉ tiêu kiểm tra đều đã đạt độ tin cậy cần thiết p<0.05. Hay nói cách khác tính đại điện của các giá trị trung bình của các chỉ tiêu mà đề tài đã lựa chọn và tiến hành kiểm tra có tính đại diện rất cao để sử dụngvào làm giá trị trung bình trong quá trình ứng dụng qui tắc ±2δ vào xây dựng tiêu chuẩn của cả thang đánh giá. Qui trình xác định tính đại ra giá trị của các chỉ tiêu tuyển chọn mà đề tài tiến hành là hết sức cần thiết đảm bảo tính khoa học cho việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho nam VĐV đua xe đạp một số tỉnh, thành phố miền Bắc ở lứa tuổi 13-15. Xác định sự khác biệt các giá trị trung bình giữa các nhóm tuổi. Do đề tài cần nghiên cứu xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho từng lứa tuổi 13,14,15. Vì vậy việc xác định sự khác biệt của các giá trị trung bình của các chỉ tiêu ở các nhóm tuổi là để đảm bảo tính khoa học trong xây dựng các chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá. Như chúng ta đã biết trong quá trình phát dục lớn lên của cơ thể con người. Có những giai đoạn tuổi sự phát triển của các chỉ số hàng năm đạt mức khá cao (sự khác biệt rõ rệt) song lại có tuổi ở một số chỉ tiêu giá trị lại phát triển không có sự khác biệt rõ rệt. Ví dụ, chiều cao ở tuổi 9 - 15 hàng năm (mỗi tuổi) đều có giá trị tăng trưởng cao làm cho giá trị ở các nhóm tuổi này thường có sự khác biệt rõ rệt theo tuổi nhưng từ tuổi 17, 18 thì sự khác biệt về phát triển chiều cao của con người nhất là nữ lại không có sự khác biệt rõ rệt ( Dương Tích Nhượng, Trịnh Hùng Thanh ). Mặt khác việc kiểm tra lại sự khác biệt của các giá trị giữa các chỉ tiêu sẽ tạo ra cơ sở thực tiễn càng chắc chắn hơn cho việc xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL mang tính khoa học chuẩn xác cho VĐV đua xe đạp các nhóm tuổi khác nhau. Qua kết quả xác định sự khác biệt các giá trị 2 giữa các nhóm tuổi mà đề tài trình bày ở bảng 3.7 cho thấy giá trị của các chỉ tiêu đánh giá giữa các nhóm tuổi 12 với 13, 13 với 14 và 14 với 15 hầu hết các chỉ tiêu đều có ttính > tbảng ở ngưỡng xác suất p0.05). Đề tài cho rằng ở lứa tuổi 13 -15 là lứa tuổi vừa có tốc độ tăng trưởng trọng lượng cao nhưng cũng có tốc độ tăng trưởng chiều cao cũng lớn làm cho giá trị của chỉ số này thường tương đối ổn định. Cũng tương tự như vậy ở chỉ số % mỡ dưới da do cơ thể tăng trưởng cả chiều cao, cân nặng nên làm cho diện tích cơ thể cũng tăng. Do vậy mặc dù tổng trọng lượng mỡ của cơ thể có thể tăng cao nhưng tỷ lệ % mỡ dưới da giảm rỗ rệt. Riêng đối với chỉ số V02 max mặc dù ở lứa tuổi này giá trị tuyệt đối của VO2 max tăng khá nhanh song do trọng lượng cơ thể cũng tăng nhanh làm cho VO2 max tương đối cũng không có sự khác biệt có ý nghĩa (p>0.05) giữa các nhóm tuổi. Còn đối với chỉ số chạy nâng cao đùi tại chỗ 10s đây là chỉ số đòi hỏi phải có năng lực phối hợp vận động cao tính linh hoạt thần kinh cao. Bởi vậy nhịp tăng trưởng của chỉ số này hàng năm thường thấp hơn so với các tố chất sức nhanh sức mạnh khác. Từ đó làm cho giá trị của 2 tuổi liền kề thường không có sự khác biệt rõ rệt. Kết quả nghiên cứu về sự khác biệt giá trị của các chỉ tiêu kiểm tra giữa các nhóm tuổi mà đề tài đã nghiên cứu xác định là cơ sở quan trọng khẳng định khi xây dựng tiêu chuẩn đánh giá để tập luyện cho nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi các tỉnh, thành phố miền Bắc nhất thiết phải xây dựng riêng rẽ tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho từng tuổi và quá trình xây dựng tiêu chuẩn đánh giá TĐTL cho từng lứa tuổi phải dựa vào giá trị của từng lứa tuổi đã được xác định 3.3.2.2 Bàn luận về nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu được lựa chọn và đánh giá TĐTL của nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13- 15 tuổi một số tỉnh, thành phố miền Bắc Việt Nam. Các nhà khoa học về huấn luyện học TDTT trong và ngoài nước như Harre( Đức), Điền Mạnh Cửu (Trung Quốc), Trương Anh Tuấn (Việt Nam) đều cho rằng nhịp tăng trưởng của một số vận động là do 2 nhân tố chủ yếu tác động đó là yếu tố tăng trưởng tự nhiên do cơ thể phát dục trưởng thành và yếu tố phương pháp huấn luyện khoa học họp lý. [Học thuyết huấn luyện của Harre và Điền Mạnh Cửu]. Do sự phát dục trưởng thành của thiếu niên nhi đồng có tính giai đoạn và do tính hợp lý khoa học của phương pháp huấn luyện được sử dụng khác nhau nên làm cho nhịp tăng trưởng của từng lứa tuổi từng cá thể VĐV cũng khác nhau, nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu còn phụ thuộc vào đặc điểm và tính chất của các chỉ tiêu có sự khác nhau mà nhịp tăng trưởng cũng khác nhau. Thông thường nhịp tăng trưởng của các chỉ số đơn (chỉ tiêu) như chiều cao, cân nặng, hoặc bật xa tại chỗ, chạy 30m XFC thì các chỉ số đơn này thường có nhịp tăng trưởng lớn. Ngược lại một số chỉ số phức hợp như chỉ số Quetelet, chỉ số V02 max tương đối, những chỉ số này thường liên quan tới các biến số của chỉ số. Như chỉ số Quetelet phụ thuộc cả cân nặng và chiều cao cơ thể. Khi cả hai biến số này cùng tăng thì nhịp tăng trưởng cũng tăng nhưng chậm hơn chỉ số đơn. Tương tự như vậy ở chỉ số V02 max tương đối mặc dù cũng tăng trưởng nhưng chậm hơn khi xem xét nhịp tăng trưởng của V02 max tuyệt đối và trọng lượng cơ thể. Nhịp tăng trưởng là trị số có thể phản ánh tính hợp lý trong quá trình phát triển TĐTL của VĐV. Thông thường nhịp tăng trưởng hàng năm của các chỉ tiêu đánh giá TĐTL thường tương đương hoặc lớn hơn độ lệch chuẩn của các giá trị quan sát. Vì hệ số biến sai CV < 10%, thì mới phản ánh tính tập trung và đồng đều của các giá trị quan sát. Do vậy nhịp tăng trưởng cũng có quan hệ chặt chẽ với độ lệch chuẩn chính. Các nhà khoa học đo lường đã sử dụng qui tắc ± 2δ để tiến hành xây dựng tiêu chuẩn trong hệ thống test đánh giá TĐTL cũng như hệ thống test dùng trong tuyển chọn VĐV thể thao. Việc xem xét đối chiếu giữa nhịp tăng trưởng có thể giúp các nhà lập test kiểm định thêm tính hợp lý trong việc sử dụng qui tắc ± 2δ trong lập test đánh giá và tuyển chọn. Trong đề tài này luận án đã tiến hành khảo sát nhịp tăng trưởng của 18 chỉ tiêu đã được lựa chọn trong thời gian 1/2 năm và 1 năm trên cả 3 nhóm tuổi 13-14-15. Kết quả khảo sát cho thấy : Nhịp tăng trưởng các chỉ tiêu đánh giá của 1 năm cao hơn hẳn nửa năm với sự khác biệt p<0,01. Nhịp tăng trưởng của các chỉ tiêu và chỉ số rất khác nhau nhịp tăng trưởng cao nhất là các chỉ tiêu về điểm kỹ thuật đi xe đạp trên sa bàn (25%) và co tay treo người trên xà đơn 17,16%. Giữa các nhóm tuổi phần lớn các chỉ tiêu có nhịp tăng trưởng chênh lệch nhau không lớn (từ 0,06% đến 68%), như trình bảy ở bảng 4.1. Riêng chỉ số đánh giá sức mạnh tĩnh như co tay treo người trên xà đơn và thời gian nín thở có sự chênh lệch lớn giữa các nhóm tuổi. Kết quả này có thể do đặc điểm phát triển tâm sinh lý lứa tuổi tạo nên. Hầu hết các chỉ tiêu và chỉ số đánh giá về trình độ phát triển các yếu tố thể hình và chức năng cơ thể có nhịp tăng trưởng chậm hơn các chỉ tiêu về thể lực và kỹ thuật. Tuy nhiên nhìn chung các chỉ tiêu này đều có thể dùng qui tắc ± 2 5 để xây dựng tiêu chuân đánh giá, do không có chỉ tiêu nào nhịp tăng trưởng > 25% và <1% (hoặc tăng trưởng âm). Tiến trình xây dựng thang điểm đánh giá TĐTL trong luận án được thực hiện thuận lợi theo các bước: Xây dựng thang điểm đánh giá phân loại đối với từng tiêu chuẩn của TĐTL (18 tiêu chuẩn). Thang điểm từ 1-5 ứng với loại kém, yếu, trung bình, khá và tốt. Sauk hi kiểm tra 18 tiêu chuẩn ở từng VĐV, có thể tra bảng để biết điểm hoặc loại đánh giá từng tiêu chuẩn, chính là tổng điểm đánh giá TĐTL của từng VĐV. Dùng tổng điểm này so sánh với bảng điểm đánh giá tổng hợp (bảng 3.18) sẽ biết TĐTL của từng VĐV đạt bao nhiêu điểm và xếp vào loại nào trong 5 loại kém, yếu, trung bình, khá và tốt. Sự phân loại như vậy có tác dụng tốt đối với HLV. 3.3.2.3 Bàn luận kết quả xác định các yếu tố ảnh hưởng đến TĐTL của nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh, thành phổ miền Bắc Vỉệt Nam Thực tiễn HLTT cho thấy: Thành tích thể thao của mỗi một môn thể thao đều được quyết định bởi các nhóm yếu tố, chức năng cơ thể, tố chất thể lực, kỹ chiến thuật và trình độ phẩm chất tâm lý, ý chí. Tuy vậy mức độ quyết định thành tích của các yếu tố này ở mỗi môn thể thao đều có sự khác nhau và trong cùng một môn thể thao ở mỗi giai đoạn huấn luyện khác nhau do TĐTL khác nhau mà có những mức độ yêu cầu với từng mặt của cơ thể có sự khác nhau. Trong khi các môn thể thao mang tính sức mạnh, như cử tạ, ném đẩy .... có yêu cầu rất cao về mặt tố chất sức mạnh nhất là sức mạnh tối đa và sức mạnh bộc phát thì ở các VĐV ở môn đua xe đạp lại có yêu cầu rất cao về sức bền và sức mạnh bền . Ở những môn thể thao có yêu cầu cao về thể hình như các môn bóng, bơi lội, đua xe đạp ... thì yếu tố thể hình ở giai đoạn huấn luyện ban đầu có mức độ ảnh hưởng và quyết định lớn hơn ở các giai đoạn huấn luyện sau khi các em đã giảm tốc độ tăng trưởng về thể hình (chiều cao, cân nặng, độ dài và độ võng ... của cơ thể). Do đó tỷ trọng của các yếu tố thể hình ở giai đoạn huấn luyện ban đầu thường cao hơn hẳn các giai đoạn huấn luyện sau. Từ sự phân tích trên cho thấy việc xác định tỷ trọng cho các yếu tố tuyển chọn hoặc đánh giá có ý nghĩa to lớn nhằm đảm bảo tính khoa học chính xác trong việc xác định tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá cho mỗi chỉ tiêu cũng như cho cả hệ thống chỉ tiêu đánh giá ở mỗi nhóm tuổi. Trong xây dựng tiêu chuẩn và thang đánh giá TĐTL các nhà khoa học đánh giá và tuyển chọn thường sử dụng phương pháp tính hệ số tương quan bội tuyến tính để tìm hệ số ảnh hưởng Bê ta (). Trong đề tài này luận án cũng đã sử dụng phương pháp xác định hệ số Bê ta theo các bước sau: Bước 1: Xác định hệ số tương quan cặp (giữa thành tích các chỉ tiêu đánh giá với thành tích đua xe đạp 20km). Bước 2: Tính hệ số tương quan đa nhân tố cho các nhóm tuổi. Bước 3: Xác định hệ số ảnh hưởng bằng cách giải phương trình bội tuyến tính (hệ số ảnh hưởng tới thành tích thi đấu): Với quá trình tính toán trên, đề tài đã xác định được hệ số ảnh hưởng của các chỉ tiêu đánh giá đối với thành tích thi đấu môn xe đạp cho cả 3 nhóm tuổi. Kết quả tính toán cho thấy các nhóm yếu tố đều ảnh hưởng tới thành tích thi đấu, đều là các nhóm yếu tố để đánh giá TĐTL, mặc dù nhóm yếu tố chức năng cơ thể và tố chất thể lực có mức độ ảnh hưởng lớn nhất tới thành tích thi đấu. 3.3.3 Kiểm định độ tin cậy và hiệu quả của thang điểm đánh giá TĐTL: Để kiểm định độ tin cậy của hệ thống tiêu chuẩn và thang điểm đánh giá TĐTL cho nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13-15 tuổi các tỉnh, thành phố miền Bắc đề tài đã tiến hành kiểm định độ tin cậy bằng việc so sánh thứ hạng xếp hạng của tổng điểm đánh giá với thứ hạng thành tích thi đấu đua xe 20km của các VĐV giữa 2 lần kiểm tra có qui trình ngược nhau. Lần kiểm tra 1: Tiến hành kiểm tra xếp hạng tổng điểm đánh giá sau đó mới kiểm tra xếp hạng thành tích. Lần kiểm tra sau đó 1 tháng và với qui trình ngược lại kiểm tra thành tích đua xe trước sau đó mới kiểm tra xếp hạng tổng điểm đánh giá TĐTL. Với qui trình kiểm tra này đã cho kết quả là mặc dù có qui trình kiểm tra ngược nhau nhưng đều cho thấy: thứ hạng xếp hạng tổng điểm đánh giá TĐTL cũng như thứ hạng thành tích đua xe 20km giữa 2 lần kiểm tra là hoàn toàn như nhau. Rõ ràng bằng cách kiểm định này đề tài đã chứng minh được hệ thống chỉ tiêu và thang điểm đánh giá được đề tài xây dựng đã có độ tin cậy rất cao. Qua cách kiểm định độ tin cậy mà đề tài đã tiến hành phù hợp với qui trình kiểm tra độ tin cậy và quá trình lập thang điểm đánh giá của các học giả trong và ngoài nước như: I.Aulic (Nga), Hình Văn Hoa (Trung Quốc), Dương Nghiệp Chí (Việt Nam). Để đánh giá tính hiệu quả của hệ thống thang điểm đã xây dựng đối với quá trình điều khiển huấn luyện, đề tài đã giúp HLV điều chỉnh huấn luyện dựa trên kết quả kiểm tra đánh giá TĐTL. Thời gian điều chỉnh của HLV chỉ kéo dài 6 tháng, nhưng cho thấy kết quả khả quan. Danh sách các VĐV có các chỉ tiêu yếu kém trước khi bước vào tập luyện được thông báo cho các huấn luyện viên biết để có biện pháp huấn luyện khắc phục các yếu kém đó cho VĐV. Do nắm bắt được những yếu kém của VĐV nên HLV đã kịp thời điều chỉnh huấn luyện, sau 6 tháng ứng dụng điều chỉnh huấn luyện hầu hết các VĐV đã nâng cao được trình độ của mình do khắc phục được các chỉ tiêu còn có trình độ yếu kém. Kết quả cụ thể cho thấy: Sau 6 tháng huấn luyện nhóm 13 tuổi có 15 lượt chỉ tiêu yếu kém đã nâng cao được 17 chỉ tiêu còn loại trung bình và khá đạt tỷ lệ 94,44% Nhóm 14 tuổi có 16 lượt chỉ tiêu yếu kém sau 6 tháng thực nghiệm đã nâng cao được 15 lượt chỉ tiêu lên loại trung bình và khá chiếm tỷ lệ 93,45%. Nhóm 15 tuổi trước thực nghiệm có 14 lượt chỉ tiêu yếu kém sau 6 tháng thực nghiệm đã nâng được 13 chỉ tiêu lên loại trung bình và khá đạt tỷ lệ 92,85%. Qua kết quả trên đề tài cho rằng: nhờ hệ thống tiêu chuẩn đánh giá đã phát hiện chính xác những yếu kém của VĐV, tạo tiền đề cho việc điều chỉnh huấn luyện cho HLV. Kết quả cuối cùng đã giúp cho VĐV khắc phục được các chỉ tiêu yếu kém tạo tiền đề cho việc nâng cao thành tích thể thao của nam VĐV đua xe đạp xe đạp đường trường 13 -15 tuổi các tỉnh thành miền Bắc Việt Nam. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Kết luận: Trên cơ sở kết quả nghiên cứu đề tài luận án rút ta các kết luận chính sau đây Bằng phương pháp tổng hợp tài liệu tham khảo, điều tra thực tiễn và phỏng vấn chuyên gia đã xác định được 18 chỉ tiêu thuộc 5 nhóm để lập thang điểm đánh giá TĐLT của VĐV nam môn đua xe đạp đường trường từ 13-15 tuổi bao gồm: Nhóm hình thái cơ thể: 4 chỉ tiêu. Nhóm chức năng cơ thể: 4 chỉ tiêu. Nhóm tố chất thể lực: 8 chỉ tiêu. Nhóm đánh giá kỹ thuật: 1 chỉ tiêu. Nhóm phẩm chất ý chí: 1 chỉ tiêu. Các chỉ tiêu trên đều đạt độ tin cậy và có tính thông báo tốt. Toàn bộ 18 chỉ tiêu đều đủ điều kiện để đưa vào lập thang điểm đánh giá TĐTL của VĐV nam đua xe đạp đường trường từ 13-15 tuổi bởi vì: - Qua xác định tính đại diện các giá trị trung bình cho các bài tập mẫu đều đảm bảo. - Sau 6 tháng và 1 năm huấn luyện nhận thấy các chỉ tiêu đều phát triển nhưng ở mức độ thích hợp. - Qua kiểm định mức độ ảnh hưởng của các nhóm chỉ tiêu đối với thành tích đua xe đạp đường trường ở VĐV nam từ 13-15 tuổi nhận thấy: Hình thái cơ thể có mức độ ảnh hưởng từ 0.19-0.192, chức năng cơ thể từ 2.03- 2.05, tố chất thể lực từ 0.297- 0.298, kỹ thuật từ 0,011- 0,012, phẩm chất tâm lý (phẩm chất ý chí) từ 0.100- 0.102. Điều này chứng tỏ lựa chọn 18 chỉ tiêu thuộc 5 nhóm chỉ tiêu nêu trên để đánh giá TĐLT của VĐV là hợp lý. 2. Xây dựng được thang điểm đánh giá TĐTL nam VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh miền Bắc. Hệ thống thang điểm gồm 2 loại: Loại thứ nhất: Bảng điểm đánh giá phân loại từ 1-5 điểm và phân loại từ kém đến tốt (5 loại) đối với từng chỉ tiêu của từng lứa tuổi dùng để tra cứu điểm và phân loại từng VĐV ở từng tiêu chí (trong 18 tiêu chí). Loại thứ 2: Bảng điểm tổng hợp phân ra 5 loại từ 1-100 điểm dùng để đánh giá tổng hợp trình độ tập luyện của từng VĐV căn cứ tổng điểm đạt được của từng VĐV đối với từng chỉ tiêu đánh giá TĐTL (nhờ loại thang điểm thứ nhất). 3. Kiểm định độ tin cậy của hệ thống chỉ tiêu, thang điểm đánh giá TĐTL cho nam VĐV đua xe đạp đường trường 13-15 tuổi một số tỉnh phía Bắc Việt Nam bằng cách so sánh tổng điểm đánh giá TĐTL với thành tích thi đấu đua xe 20 km. Kiểm định được thực hiện 2 lần cách nhau 6 tháng. Sau lần thứ nhất, HLV được thông báo cụ thể về TĐTL của VĐV để có những giải pháp cải thiện huấn luyện. Kết quả cho thấy: Một là, VĐV có tổng điểm TĐTL tốt đều có thành tích thi đấu tốt; Hai là, TĐTL của lần kiểm tra sau 6 tháng huấn luyện tốt hơn lần kiểm tra lần đầu. B. Kiến nghị: Dựa trên các kết luận của đề tài, có thể đưa ra một số kiến nghị sau đây: 1. Kết quả nghiên cứu có thể đưa vào ứng dụng trong thực tiễn. 2. Nếu tiếp tục triển khai nghiên cứu bổ sung, nhất là đối với VĐV nam ngoài 13-15 tuổi của môn đua xe đạp đường trường. 3. Nếu tiếp tục triển khai nghiên cứu về đánh giá TĐTL của VĐV đua xe đạp đường trường ở các vùng miền khác nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxluan_an_nghien_cuu_xay_dung_he_thong_tieu_chuan_va_thang_die.docx
Tài liệu liên quan