Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

Tài liệu Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, ebook Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

doc165 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 250 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luận khoa học của luận án là mới và chưa có tác giả công bố trong bất cứ công trình khoa học nào. Tác giả luận án Nguyễn Kim Phượng MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 6 1.1. Các công trình nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và vai trò của chúng trong sự phát triển đất nước 6 1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của Nhà nước và những giải pháp nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay 12 1.3. Những giá trị của các công trình đã nghiên cứu và một số định hướng mà luận án tiếp tục phải thực hiện 22 Chương 2: TÍNH TẤT YẾU VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC, NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 25 2.1. Nội lực, ngoại lực và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 25 2.2. Sự cần thiết phải phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 39 2.3. Những biểu hiện chủ yếu về vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 49 Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA 60 3.1. Thực trạng vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam 60 3.2. Một số vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực thời kỳ hội nhập hiện nay 99 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 118 4.1. Một số quan điểm có tính nguyên tắc đối với Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 118 4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 122 KẾT LUẬN 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN AFTA : Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á ADB : Ngân hàng phát triển châu Á CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNTB : Chủ nghĩa tư bản EC : Ủy ban châu Âu EU : Liên minh châu Âu FDI : Vốn đầu tư trực tiếp FPI : Vốn đầu tư gián tiếp GDP : Tổng sản phẩm quốc nội HDI : Chỉ số phát triển con người IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế NAFTA : Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mĩ ODA : Vỗn hỗ trợ phát triển chính thức TBCN : Tư bản chủ nghĩa WTO : Tổ chức Thương mại Thế giới WB : Ngân hàng thế giới XHCN : Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Bước vào thế kỷ XXI thế giới có những biến đổi nhanh chóng, sâu sắc và phức tạp với những cơ hội và thách thức to lớn đối với từng quốc gia, đặc biệt là đối với các nước nghèo và chậm phát triển. Mặc dù thế giới có thể còn có nhiều diễn biến phức tạp với sự hợp tác và đấu tranh đan xen lẫn nhau, song xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác để tiếp tục phát triển vẫn là xu thế chủ đạo trên thế giới, chi phối các quan hệ quốc tế cũng như chiến lược phát triển của từng nước. Hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hoạt động hợp tác quốc tế trên mọi lĩnh vực đời sống đã và đang trở thành xu thế nổi bật của thời đại. Bất cứ quốc gia nào muốn xây dựng đất nước, phát triển kinh tế xã hội tất yếu phải tham gia vào xu thế đó. Trong bối cảnh ấy, Việt Nam không thể không hội nhập quốc tế, tranh thủ mọi cơ hội để phát triển. Để chủ động hội nhập với thế giới, đảm bảo phát triển nhanh, bền vững, Việt Nam cần phải tích cực, chủ động phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, đưa đất nước vững bước tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội. Phát huy nội lực và ngoại lực giúp chúng ta mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế, tiếp thu thành tựu văn minh nhân loại, phát huy mọi lợi thế so sánh của quốc gia, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển. Phát huy nội lực và ngoại lực trở thành yêu cầu tất yếu, là nhu cầu bức thiết đối với Việt Nam trong xu thế hội nhập để phát triển đất nước hiện nay. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ” [31, tr.102]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong những năm qua, nhà nước đã không ngừng hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo môi trường thuận lợi để phát huy nội lực, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, an ninh quốc gia, phát triển kinh tế, đồng thời chủ động thu hút được nhiều nguồn ngoại lực và khai thác, sử dụng ngày càng có hiệu quả hơn các nguồn lực cho sự phát triển, đưa đất nước từng bước hội nhập sâu rộng với thế giới. Thành tựu đó cho thấy vai trò to lớn của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, trong quá trình quản lý, điều hành việc phát huy nội lực và ngoại lực, vai trò của nhà nước có lúc chưa thực sự được thể hiện đúng mức và đầy đủ do sự chi phối đa dạng, phức tạp của quá trình hội nhập quốc tế, đặc biệt là do những hạn chế thuộc về bản thân nhà nước như: bộ máy cồng kềnh, chậm thích ứng với những biến động của thế giới; trình độ quản lý, điều tiết vĩ mô của nhà nước chưa đáp ứng được yêu cầu của việc phát huy nội lực và ngoại lực; hệ thống pháp luật, chính sách thiếu đồng bộ; công tác cán bộ còn chậm đổi mới; công tác tổ chức thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực còn lúng túng, thiếu chủ động Những hạn chế đó của nhà nước đặt việc phát huy nội lực và ngoại lực trước những khó khăn, thách thức và chưa đạt hiệu quả như mong muốn. Cụ thể là: Việc phát huy nội lực còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước. Việc thu hút ngoại lực đã tích cực hơn nhưng chưa thực sự chủ động. Việc khai thác và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước chưa hợp lý, chưa tương xứng với tiềm năng, chưa phát huy hết vai trò của nó trong việc thúc đẩy quá trình chủ động hội nhập quốc tế ở nước ta. Bên cạnh đó, việc phát huy nội lực và ngoại lực chưa thực sự đem lại sự phát triển bền vững cho đất nước. Nền kinh tế Việt Nam phát triển năng động với tốc độ tăng trưởng khá nhưng hiệu quả kinh tế còn thiếu bền vững, “chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp; chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm, cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc; chế độ phân phối còn nhiều bất hợp lý” [31, tr.17]. Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chưa hợp lý dẫn đến suy kiệt nhiều nguồn tài nhiên thiên nhiên, hủy hoại môi trường sinh thái, làm thay đổi mô hình bệnh tật, ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực Mặt khác, việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế với nhiều biến động phức tạp hiện nay đã đặt ra không ít khó khăn, thách thức cho sự phát triển đất nước. Sự tác động mạnh mẽ của các nguồn ngoại lực từ nhiều phía có thể thu hẹp phạm vi tác động của nhà nước, gây mất an toàn hệ thống kinh tế, tài chính, an ninh quốc gia; làm trầm trọng sự bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giữa người giàu, người nghèo, giữa các quốc gia trên thế giới; nhiều nguồn viện trợ, hợp tác chuyển giao công nghệ mang động cơ chính trị có thể dẫn tới nguy cơ chệch hướng;... Khủng hoảng kinh tế toàn cầu đặt các nước có nền kinh tế trung bình và chậm phát triển trước nguy cơ đỗ vỡ và khủng hoảng nguồn lực cho phát triển do bị mất hoặc giảm các nguồn viện trợ, vốn vay nước ngoài Tình hình đó ảnh hưởng lớn đến vai trò quản lý, điều hành của nhà nước đối với các nguồn lực phát triển đất nước, đặt nhà nước trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới. Những hạn chế, thách thức trên đều là những vấn đề thời sự cấp bách đã và đang trở thành lực cản cho sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi phải tăng cường công tác quản lý, điều tiết, cân đối vĩ mô đối với việc khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cấp thiết phải đổi mới, hoàn thiện, tăng cường vai trò của nhà nước để phát huy tối đa những tác động tích cực và giảm thiểu những tiêu cực trong việc phát huy nội lực và ngoại lực nhằm đạt mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, đảm bảo công bằng xã hội, đồng thời tránh tình trạng suy giảm vai trò của nhà nước và nguy cơ chệch hướng trong quá trình hội nhập quốc tế hiện nay. Với mong muốn góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững đất nước, tôi chọn chủ đề: “Nhà nước với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích Trên cở sở làm rõ vai trò của nhà nước, thực trạng, và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực trong hội nhập quốc tế, luận án đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực, đảm bảo phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Luận án tập trung giải quyết những nhiệm vụ chính sau: - Làm rõ sự cần thiết phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế và vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy đó ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng, phân tích một số vấn đề đặt ra đối với vai trò của Nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của Nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu: Vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Cơ sở lý luận Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở những quan điểm cơ bản chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước, về vấn đề phát huy nội lực và ngoại lực, về hợp tác quốc tế, hội nhập quốc tế, đường lối đối ngoại của Việt Nam... Ngoài ra, luận án còn kế thừa kết quả của một số công trình nghiên cứu, đề tài khoa học, sách, báo, tài liệu ... có liên quan đến những nội dung được đề cập trong luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án dựa trên cơ sở những nguyên tắc phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử như nguyên tắc khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể, thực tiễn, lôgíc - lịch sử Luận án còn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, mô tả, so sánh... 5. Những đóng góp về khoa học của luận án - Luận án góp phần làm rõ dưới góc độ triết học vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. - Đánh giá thực trạng và đề xuất một số quan điểm, giải pháp nhằm nâng cao vai trò nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong bối cảnh hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án bước đầu làm sáng tỏ về mặt lý luận vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Luận án góp phần vào công tác tổng kết thực tiễn thông qua việc làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Từ đó, công trình này đề xuất những quan điểm, giải pháp cơ bản và thiết thực nhằm nâng cao vai trò của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên cứu lý luận, phục vụ công tác giảng dạy ở các trường đại học, học viện 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương, 10 tiết. Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Cho đến nay, khó có thể thống kê hết số lượng công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề phát huy vai trò của nhà nước, phát huy nội lực, ngoại lực và hội nhập quốc tế, song có thể thấy, mỗi công trình, đề tài, ở các góc độ khác nhau đã cung cấp những tư liệu khoa học cả về lý luận và thực tiễn, làm cơ sở cho những người quan tâm nghiên cứu và những người hoạch định chính sách về các vấn đề nêu trên. Trong số các công trình đó, có một số nhóm công trình tiêu biểu như sau: 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ NỘI LỰC, NGOẠI LỰC VÀ VAI TRÒ CỦA CHÚNG TRONG SỰ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC * Trên thế giới, từ lâu, các học giả đã dày công nghiên cứu về nội lực, ngoại lực và tổng thể các nguồn lực cho sự phát triển của các quốc gia. Adam Smith trong tác phẩm “Tìm hiểu bản chất và nguồn gốc của cải của quốc gia” đã chỉ ra nguồn lực chủ yếu của xã hội thời kỳ ông sống chính là vốn, sức lao động và đất đai, đây chính là cái gốc của sự tăng trưởng kinh tế. David Ricardo nghiên cứu nguồn lực dựa vào lợi thế so sánh và coi lợi thế so sánh chính là nguồn gốc thịnh vượng của ngoại thương, là nguyên nhân thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội [7, tr.7]. Trong khi nghiên cứu, kế thừa có chọn lọc thành tựu của kinh tế chính trị học cổ điển Anh, C.Mác, trong các tác phẩm của mình, đã nhiều lần bàn luận về nguồn lực cho sự phát triển của CNTB như: giá trị hàng hóa sức lao động, tư bản (vốn), khoa học kỹ thuật Trong đó ông nhấn mạnh và khẳng định giá trị của nguồn lực con người, con người là chủ thể sáng tạo nên lịch sử phát triển của loài người. Mác cũng chỉ rõ mối liên quan giữa tư bản (vốn) với việc sản sinh giá trị thặng dư của CNTB qua công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền). Ngoài ra yếu tố khoa học, kỹ thuật - một bộ phận của lực lượng sản xuất tiến bộ cũng được ông xem xét như một nguồn lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội của các nước tư bản. Đây là những quan điểm khoa học, làm cơ sở lý luận cho các nghiên cứu có liên quan sau này [7, tr.7]. Ngày nay, các nhà kinh tế học hiện đại phân tích các nguồn lực dựa trên sự đóng góp của chúng vào sự phát triển của nền kinh tế bao gồm những yếu tố vật chất đầu vào (như vốn, máy móc, thiết bị, vật tư, nguồn tài nguyên, sức lao động) và một số yếu tố khác (tổ chức, chính sách, quản trị, công nghệ, bí quyết công nghệ) Năm 2003, nhà kinh tế học người Mỹ, giáo sư Đại học Havard, ông Dani Rodrik cho rằng nguồn lực để phát triển bao hàm các yếu tố nội sinh, ngoại sinh và bán ngoại sinh của nền sản xuất. Trong đó, yếu tố nội sinh gồm vốn, lao động, khoa học kỹ thuật; yếu tố ngoại sinh gồm vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, sinh thái, thái nguyên thiên nhiên; yếu tố bán ngoại sinh gồm thể chế và tác động của quá trình hội nhập [7, tr.7]. Hiện nay sự bùng nổ thông tin với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin đã khiến nhiều học giả cho rằng thông tin cũng là một nguồn lực to lớn cho sự phát triển. Tác giả cuốn sách “Thế giới phẳng”, Thomas Friedman còn ngụ ý rằng thế kỷ chúng ta đang sống là thế kỷ của thông tin, chịu sự chi phối bao trùm của thông tin. Nhưng trên thực tế, cho đến nay, chưa có một bằng chứng hay công trình nghiên cứu nào chứng tỏ một cách rõ ràng thông tin là một nguồn lực chi phối sự phát triển [7, tr.7]. * Ở Việt Nam, nhiều tác giả, nhiều công trình, bài viết cũng đã đi sâu tìm hiểu về vấn đề nguồn lực, động lực, phát huy nội lực, ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại để xây dựng và phát triển đất nước. Trước hết, các nhà khoa học đã đi sâu làm rõ quan niệm về nguồn lực, động lực, nội lực, ngoại lực và trò của chúng trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay. - Đề tài KX.04.08/06-10 “Nguồn lực và động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020” của Viện Chiến lược phát triển, Bộ Khoa học và Công nghệ đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn về nguồn lực, động lực phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Về mặt lý luận, công trình cung cấp những khái niệm căn bản về nguồn lực phát triển nhanh và bền vững ở nước ta, cách phân chia nguồn lực, các phương pháp huy động, sử dụng nguồn lực, kinh nghiệm của các nước trong việc huy động, sử dụng nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội [7]. Trong công trình này, các tác giả đã nêu lên khái niệm nguồn lực cho sự phát triển đất nước hiện nay: Nguồn lực phát triển là tất cả các yếu tố đầu vào đang sử dụng hoặc đang ở dạng dự trữ, dự phòng, sẵn sàng sử dụng phục vụ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của xã hội theo những cách thức khác nhau nhằm tạo ra các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ cho xã hội đạt được những mục tiêu đề ra [7, tr.38]. Từ quan niệm đó, công trình cũng phân chia nguồn lực thành các dạng nguồn lực tiềm năng và các nguồn lực thực tế sử dụng, làm căn cứ để khảo sát, đánh giá mức độ đóng góp của các nguồn lực vào sự phát triển. Công trình cũng cung cấp những bằng chứng khoa học từ thực tiễn để đánh giá đúng thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực cho sự phát triển kinh tế Việt Nam trong 20 năm đổi mới. Từ đó, đề tài nêu những định hướng huy động và sử dụng nguồn lực, hình thành và phát huy động lực phát triển kinh tế Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020. Mặc dù vậy, trong công trình này, các tác giả mới chỉ ở chủ yếu đề cập tới khái niệm nguồn lực và đánh giá các nguồn lực cho sự phát triển đất nước ở góc độ kinh tế mà chưa có sự khái quát các nguồn lực cho sự phát triển bền vững đất nước nói chung. - Cuốn sách “Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS.TSKH Lê Du Phong chủ biên [82] đã đề cập đến những vấn đề lý luận về nguồn lực, động lực phát triển bao gồm các khái niệm, vai trò và yêu cầu phân bổ nguồn lực, phát huy động lực trong phát triển; đồng thời chỉ rõ thực trạng sử dụng các nguồn lực của nền kinh tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới; từ đó chỉ ra các quan điểm phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực, sử dụng hợp lý nguồn lực và phát huy đầy đủ động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, cách thức phân chia nguồn lực, động lực, mối tương quan giữa các nguồn lực, đặc biệt là mối tương quan giữa huy động, sử dụng các nguồn lực với việc phát triển nhanh, bền vững được đề cập trong cuốn sách là những nội dung cần tiếp tục được đi sâu nghiên cứu và làm rõ. - Tác giả Hồ Bá Thâm trong cuốn sách “Động lực và tạo động lực phát triển xã hội” [98] đã nêu những quan niệm cơ bản về động lực và tạo động lực phát triển xã hội hiện nay; vấn đề dân chủ hóa tạo môi trường và động lực phát triển con người và xã hội; vấn đề động lực và tạo động lực phát triển các thành phần kinh tế, phát triển văn hóa và đổi mới, hiện đại hóa hệ thống chính trị tạo động lực cho sự phát triển. Đây đều là những vấn đế lý luận hết sức cấp bách để phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. - GS.TS Trần Văn Thọ trong bài viết “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam” [99] đã nêu ra những quan niệm khá đầy đủ về nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế của Việt Nam dưới góc độ kinh tế học. Ông đã phân tích những một cách xác đáng cấu trúc của nội lực và ngoại lực cho sự phát triển đất nước, đồng thời khảo sát việc phát huy nội lực và ngoại lực ở ngành công nghiệp may mặc, một ngành sản xuất và xuất khẩu quan trọng của Việt Nam để từ đó khái quát thực trạng và những thách thức đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực ở Việt Nam và đề xuất những giải pháp thiết thực, cụ thể. Tuy nhiên, ông mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nội lực, ngoại lực ở góc độ kinh tế mà chưa có sự đánh giá đầy đủ, khái quát về nội lực, ngoại lực cho sự phát triển đất nước trên các phương diện quan trọng khác như: chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh - GS.TS Hoàng Ngọc Hòa trong bài viết “Quá trình nhận thức của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế”, đã hệ thống hóa các quan điểm của Đảng về phát huy nội lực, ngoại lực xuyên suốt các thời kỳ; đồng thời chỉ ra các yêu cầu và thách thức của thời đại mới đối với việc phát huy nội lực, ngoại lực nói riêng và sự phát triển đất nước nói chung. Từ đó, ông đưa ra các giải pháp cơ bản nhất để phát huy nội lực, ngoại lực, hội nhập chủ động, tích cực với nền kinh tế thế giới để phát triển nhanh và bền vững, trong đó ông nhấn mạnh các giải pháp về xây dựng nền kinh tế tự chủ để bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, bảo đảm uy tín, vị thế quốc gia trên trường quốc tế [40]. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu, quản lý đồng thời làm rõ tính tất yếu phải phát huy nội lực, ngoại lực, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. - Xuyên suốt các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại, phát huy nội lực, ngoại lực và tổng thể các nguồn lực để phát triển kinh tế xã hội của đất nước luôn được Đảng ta đặt ra như một trong những nội dung cơ bản nhất của chiến lược xây dựng và phát triển đất nước qua mỗi thời kỳ. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu 10 bài học cho sự phát triển đất nước, trong đó bài học thứ nhất chính là bài học về huy động nguồn lực: “huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho sự phát triển đất nước” [31, tr.95]. - Cuốn sách “Việt Nam 20 năm đổi mới” [33, tr.131] có bài viết “Những thành tựu về kinh tế xã hội trong 20 năm đổi mới (1986- 2005)” của tác giả Võ Hồng Phúc đã khái quát những thành tựu lớn của đất nước về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội từ khi tiến hành công cuộc đổi mới. Trong các kết luận chính của bài viết này, tác giả dành một thời lượng xứng đáng để nêu rõ tính tất yếu của việc phát huy nội lực quốc gia và thu hút ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước. Tác giả nhấn mạnh: “việc huy động nguồn lực từ các yếu tố bên trong của nền kinh tế là vô cùng quyết định để phát triển đất nước. Có phát huy được nội lực thì mới thu hút và sử dụng có hiệu quả ngoại lực”; “nguồn lực bên ngoài là quan trọng. Kết hợp tốt nội lực và ngoại lực sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp để xây dựng đất nước”. - Bài trả lời phỏng vấn “Dân tộc và thời đại - thời cơ và thách thức” của Nguyên Thứ trưởng Bộ ngoại giao Trần Quang Cơ [16] đã làm sáng tỏ nội dung quan trọng cho quá trình phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa về kinh tế đó là phải kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại. Theo ông, sự thành công của các nước công nghiệp mới (NIC) là do các nước này đã biết kịp thời điều chỉnh hoặc cải cách lại cơ cấu chính sách kinh tế của mình trên cơ sở dự đoán đúng chiều hướng phát triển của nền kinh tế thế giới, nhạy bén nắm bắt ngay những cơ hội mới nảy sinh do những chuyển biến trong tình hình quốc tế Mọi tính toán đối nội, đối ngoại, mọi chính sách kinh tế, tài chính, tiền tệ và xã hội của họ đều nhất nhất phục tùng mục tiêu giành lấy vị trí có lợi nhất cho các nước đó trong cạnh tranh kinh tế quốc tế nhằm tận dụng được sức mạnh thời đại vào sự nghiệp phát triển kinh tế của nước mình. Đây cũng là những bài học kinh nghiệm quý báu cho nước ta trong quá trình phát triển. - Nguyên Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyên Di Niên trong bài tham luận tại Đại hội lần thứ X của Đảng với tiêu đề “Phát huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng thể để phát huy đất nước” đã chỉ ra rằng phát huy nội lực, khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là yêu cầu tất yếu để phát triển kinh tế xã hội đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Ông cũng những thuận lợi, khó khăn trong việc phát huy nội lực và ngoại lực để xây dựng đất nước, từ đó đề xuất các kiến nghị phát huy cao độ nội lực, nâng cao hiệu quả khai thác ngoại lực, không ngừng hội nhập kinh tế quốc tế để đi tắt, đón đầu thành tựu văn minh nhân loại phục vụ phát triển. Ông cũng lưu ý rằng điều tiên quyết và phải luôn chú trọng là phát huy nội lực trước tiên, còn ngoại lực có vai trò bổ sung, làm giàu cho nội lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển [79]. Các công trình nghiên cứu trên đã cung cấp một số lý luận cơ bản và các cơ sở khoa học được đúc rút từ thực tiễn về tính tất yếu của việc phát huy nội lực và ngoại lực, vai trò của phát huy nội lực, ngoại lực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên, các công trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục phải làm sáng tỏ như: cách phân chia nguồn lực, vai trò của các nguồn lực đối với sự phát triển như thế nào? Làm thế nào để huy động được tối đa các loại nguồn lực cho sự phát triển? Mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực được biểu hiện như thế nào? Làm thế nào để khai thác, sử dụng và phân bổ nguồn lực hiệu quả, hợp lý, đảm bảo phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững? Đó là gợi mở cho tác giả luận án này đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu. 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY * Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, các học giả, các nhà nghiên cứu đã tập trung tìm hiểu bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước đối với sự phát triển. Thế kỷ XVIII, Adam Smith (1723 - 1790) đưa ra lý thuyết “bàn tay vô hình”, phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế và cho rằng mọi hoạt động kinh tế cần diễn ra theo quy luật khách quan chứ không chịu sự chi phối của nhà nước. Mặc dù vậy, ông cũng phải thừa nhận rằng đôi khi, nhà nước cũng phải đảm nhiệm những nhiệm vụ kinh tế nhất định như: xây dựng kết cấu hạ tầng cho nền kinh tế, giải quyết các công việc mà các nhà sản xuất kinh doanh không thể đảm đương được [Trích theo 19, tr.62-63]. Chính sự phủ nhận vai trò kinh tế của nhà nước và để nền kinh tế phát triển tự phát đã khiến kinh tế TBCN cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX lâm vào khủng hoảng, suy thoái. Không đồng tình với các quan điểm của A. Smith, J.M Keynes (1884-1946) đã đưa ra các quan điểm đề cao vai trò của nhà nước. Ông cho rằng nhà nước phải can thiệp vào thị trường, phải trực tiếp đứng trong guồng máy kinh tế, phải điều tiết cả kinh tế vĩ mô và vi mô. Các nước TBCN đã vận dụng lý thuyết này vào thực tiễn, tuy nhiên, khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp vẫn diễn ra. Các học giả phương Tây cho rằng nguyên nhân là do sự can thiệp quá mức của nhà nước tới nền kinh tế đã làm cho kinh tế không thể vận hành đúng quy luật khách quan vốn có của nó [47]. Phê phán quan điểm tuyệt đối hóa vai trò Nhà nước của Keynes, “chủ nghĩa tự do mới” nêu quan điểm cơ bản là thực hiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước ở mức độ nhất định. Những người theo “chủ nghĩa tự do mới” cho rằng nhà nước có vai trò tác động nhất định đến nền kinh tế bằng cách điều tiết nền kinh tế bằng chính sách tiền tệ; hoặc điều tiết mặt “cung” của nền kinh tế bằng cách xây dựng các chính sách kích thích kinh tế phát triển (chính sách tiết kiệm, chính sách thuế); hoặc nhà nước có thể điều tiết nền kinh tế thông qua kế hoạch hóa định hướng sự phát triển [Trích theo 47]. Bên cạnh đó, còn có một số quan niệm khác về vai trò của nhà nước như quan điểm: nhà nước xây dựng mô hình “kinh tế thị trường xã hội”, tạo ra “ngôi nhà chung” cho tất cả mọi người thông qua phúc lợi xã hội của các học giả Bắc Âu; hay nhà nước xây dựng thể chế, thiết lập và tạo ra những điều kiện thuận lợi và tạo động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên các quan điểm trên đều ít nhiều còn phiến diện, cực đoan, hoặc quá đề cao vai trò của nhà nước, hoặc hạ thấp vai trò vốn có và cần thiết của nhà nước. Phải đến khi cuốn sách “Kinh tế học” của Paul A. Samuelson ra đời, những quan điểm đầy đủ hơn về vai trò của nhà nước mới được nêu lên một cách đầy đủ, khách quan, khoa học hơn. Trong tác phẩm này, ông đã nêu quan điểm về sự kết hợp “bàn tay vô hình” của kinh tế thị trường với “bàn tay hữu hình” của nhà nước. Ông chỉ rõ: "Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế để ngăn chặn khủng hoảng, thất nghiệp, tạo việc làm đầy đủ nhưng đồng thời phải giữ trong khuôn khổ khôn ngoan của cạnh tranh” [89, tr.63]. Qua nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc các tài liệu nghiên cứu trong lịch sử tư tưởng nhân loại, các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin, đã nhiều lần nêu ra quan điểm lý luận về nhà nước. Trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức”, Mác - Ănghen chỉ rõ: “nhà nước là hình thức mà các cá nhân thuộc một giai cấp thống trị dùng để thực hiện lợi ích chung của họ và là hình thức toàn bộ xã hội công dân của một thời đại được biểu hiện một cách tập trung” [60, tr90]. Tác phẩm “Nguồn gốc gia đình, nhà nước và chế độ tư hữu” cũng đã nêu ra những quan điểm khoa học, đầy đủ về nhà nước cả về nguồn gốc, bản chất, chức năng, vai trò của nhà nước [63, tr.252-253]. Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I Lênin đã trình bày một cách có hệ thống và đầy đủ học thuyết của C.Mác và Ph. Ăngghen về vấn đề nhà nước, phân tích mối liên hệ giữa nhà nước với tính chất giai cấp của xã hội, tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, đặt cơ sở cho lý luận về nhà nước xã hội chủ nghĩa [57, tr.33]. Lênin đã làm rõ chức năng, nhiệm vụ của nhà nước chuyên chính vô sản và nhấn mạnh chức năng cơ bản nhất của nhà nước chuyên chính vô sản là tổ chức, xây dựng xã hội mới, xã hội XHCN. Các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin đ... ở những góc độ nghiên cứu khác nhau, ở mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau đều nêu ra những quan điểm riêng. Các quan điểm đó tương đối thống nhất với nhau về mặt nội hàm khái niệm khi xác định nội lực là những yếu tố vật chất và tinh thần của quốc gia nhằm xây và phát triển đất nước; còn về mặt ngoại diên khái niệm có sự khác biệt khá rõ ràng giữa các quan điểm. Do đó, để nhận thức đúng đắn về nội lực cần thống nhất một số quan điểm sau: Thứ nhất, nội lực là khái niệm rộng và luôn có sự vận động, biến đổi Trong thực tế, nhiều yếu tố từng được xác định là nội lực của quốc gia, thậm chí là nội lực quan trọng nhưng trải qua quá trình phát triển lại không còn giữ vai trò đó và ngược lại. Ở Việt Nam, những năm đầu tiến hành đổi mới đất nước, nguồn lao động giá rẻ được coi là nội lực quan trọng, là lợi thế so sánh của quốc gia nhưng đến nay, với yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế về nguồn lao động chất lượng cao thì lao động giá rẻ, trình độ thấp không những mất đi vai trò lợi thế so sánh mà thậm chí còn là rào cản cho sự phát triển. Nguồn vốn là yếu tố không được đề cập tới khi nói đến nội lực nước ta thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước nhưng trong hội nhập quốc tế, đây lại là yếu tố rất được coi trọng trong tổng thể nội lực quốc gia. Nhiều yếu tố được xác định là nội lực trong điều kiện này nhưng lại được xem xét là môi trường, yếu tố ảnh hưởng đến việc phát huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện khác. Yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội vừa có thể coi là nội lực quốc gia, vừa có thể coi là môi trường, điều kiện để phát huy những nguồn nội lực khác như khoa học công nghệ, nguồn nhân lực Thứ hai, nội lực phụ thuộc vào trình độ nhận thức của con người, đặc biệt là trình độ phát triển khoa học công nghệ. Với trình độ nhận thức, đặc biệt là trình độ khoa học công nghệ ngày càng được nâng cao, con người đã nghiên cứu, phát hiện những nguồn tài nguyên mới để đưa vào sử dụng, đồng thời sáng chế những vật liệu mới, năng lượng mới thay thế những nguồn tài nguyên cạn kiệt. Đó là cơ sở, điều kiện để mỗi nước nghiên cứu và làm cho nội lực quốc gia ngày càng phong phú. Thứ ba, nội lực phụ thuộc vào yêu cầu phát triển của mỗi quốc gia. Mỗi quốc gia có những điều kiện và định hướng phát triển khác nhau, theo đó, nội hàm khái niệm nội lực được xác định khác nhau. Đối với Việt Nam, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực trẻ, dồi dào được coi là những yếu tố cốt lõi của nội lực để phát triển. Còn ở Nhật Bản, với điều kiện tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và dân số già, quốc gia này không coi những yếu tố đó là nội dung cốt lõi của nội lực, thay vào đó là sự phát triển của khoa học công nghệ. Singapore là một quốc gia có diện tích nhỏ, quy mô dân số không lớn, do đó, đất nước này xác định nguồn nhân lực chất lượng cao là nội lực quan trọng để phát triển. Như vậy “nội lực” là khái niệm rộng, luôn vận động, biến đổi, phụ thuộc vào trình độ nhận thức và yêu cầu phát triển của mỗi nước, do đó, không thể có một khái niệm nội lực chung cho mọi quốc gia, trong mọi hoàn cảnh. Trên cơ sở những nhận thức đó, kế thừa có chọn lọc các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học, có thể nêu khái quát quan niệm về nội lực làm công cụ nghiên cứu trong công trình này như sau: Nội lực của nước ta là tổng thể toàn bộ sức mạnh về vật chất và tinh thần bên trong của quốc gia, bao gồm những nội dung cốt lõi như: sức mạnh của nền kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; sức mạnh của nguồn lực con người Việt Nam; khoa học công nghệ, tài nguyên thiên nhiên, sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ta Trong giới hạn công trình này, luận án không có điều kiện để nghiên cứu, đánh giá toàn bộ nội lực quốc gia mà sẽ tập trung làm rõ vai trò của nhà nước trong việc tạo ra những điều kiện, cơ chế, chính sách, môi trường để phát huy nội lực thông qua việc khảo sát, phân tích một số nguồn nội lực là bộ phận cấu thành chủ yếu của lực lượng sản xuất, mà trước hết và quan trọng nhất là nguồn lực nhân lực, khoa học, công nghệ và nguồn vốn mà chúng ta có. Đây là những yếu tố quan trọng nhất của nội lực hiện nay để chúng ta phát triển đất nước theo chiều sâu. Các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội được luận án xem xét như là môi trường, điều kiện để phát huy các nguồn lực. 2.1.1.2. Ngoại lực Cùng với việc nêu lên quan niệm về sức mạnh dân tộc - nguồn nội lực to lớn Việt Nam, Hồ Chí Minh đồng thời nêu lên quan niệm về “ngoại lực”, Người gọi đó là “sức mạnh thời đại”. Trong toàn bộ Tư tưởng của Người, sức mạnh thời đại được làm rõ trên hai bình diện: sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của thời đại. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra sức mạnh tinh thần của thời đại. Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nghiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin” [65, tr.268]. Nhận thức được sức mạnh tinh thần vô giá của thời đại, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là “cẩm nang” thần kỳ”, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản” [70, tr.128]. Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn nhận thấy một nguồn sức mạnh tinh thần lớn lao của thời đại, đó là tinh thần yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Chính tinh thần ấy đã tạo ra “mẫu số chung” của tất cả những dân tộc, của toàn thể loài người vì cuộc sống hòa bình, dân chủ, tiến bộ. Nhờ có “mẫu số chung” đó mà trong hai cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, nhân dân Việt Nam đã được chính nhân dân tiến bộ ở Pháp, Mĩ ủng hộ nhiệt thành, làm nên một làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược. Điều đó góp phần làm suy giảm ý chí xâm lược của kẻ địch và góp phần làm cuộc chiến tranh chính nghĩa của chúng ta đi đến thắng lợi cuối cùng. Khi bàn đến sức mạnh vật chất của thời đại, Hồ Chí Minh đã khái quát những yếu tố sau: Thứ nhất, sức mạnh vật chất của thời đại chính là sức mạnh của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc thể hiện ở khả năng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc. Hồ Chí minh chỉ rõ: “Hiện nay tất cả sinh lực của chủ nghĩa tư bản đế quốc đều lấy ở các xứ sở thuộc địa” [64, tr.243]. Nếu các dân tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh, sẽ tạo thành sức mạnh to lớn, chặt đứt nguồn sinh lực và làm suy yếu chủ nghĩa tư bản. Minh chứng bằng sức mạnh của nhân dân thuộc địa châu Á, Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ...” [66, tr.554]. Thứ hai, sức mạnh vật chất của thời đại là sức mạnh của giai cấp vô sản thế giới và Đảng tiền phong của nó. Đầu thế kỷ XX, loài người chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, sự ra đời hàng loạt các Đảng cách mạng của giai cấp công nhân với nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lênin; sự thành lập của Quốc tế cộng sản - một tổ chức thống nhất ý chí và hành động của giai cấp công nhân toàn thế giới; sự phát triển từ chỗ hình thành một nước XHCN trở thành hệ thống XHCN với rất nhiều thành tựu nổi bật. Tất cả những yếu tố đó trở thành nguồn sức mạnh to lớn của thời đại, một sự ủng hộ giúp đỡ quan trọng cả vật chất và tinh thần cho tất cả những ai đi theo con đường CNXH, chiến đấu cho lý tưởng cao đẹp là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng toàn thể loài người. Thứ ba, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển mạnh mẽ, trở thành nhân tố quan trọng cho sức mạnh thời đại. Nhận thức được sức mạnh kỳ diệu của khoa học kỹ thuật, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh vai trò động lực của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của mỗi quốc gia: “Khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội không ngừng mở rộng ra những chân trời mới” [70, tr.355]. Vì vậy, Người luôn căn dặn thế hệ trẻ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai cùng các cường quốc năm châu được hay không chính là nhờ vào một phần lớn ở công học tập của các em” [67, tr.35]. Như vậy, Hồ Chí Minh tuy không nêu ra khái niệm cụ thể về ngoại lực nhưng có thể thấy rằng, những quan niệm về sức mạnh thời đại của Người đã khái quát được nội hàm của khái niệm ngoại lực và chính Người từ việc nhận thức, khái quát đúng đắn về ngoại lực đã biến những nguồn lực bên ngoài đó thành một nguồn sức mạnh hỗ trợ to lớn đối với cách mạng Việt Nam. Những quan niệm này của Hồ Chí Minh là cơ sở cho tư duy lý luận và hoạch định chính sách về tranh thủ ngoại lực, nội lực hóa ngoại lực hiện nay. Ngày nay, nhiều nhà kinh tế, học giả cũng nêu lên nhiều quan niệm khác nhau xung quanh khái nhiệm “ngoại lực” của Việt Nam trong điều kiện mới. Giáo sư Trần Văn Thọ, khi xem xét yếu tố ngoại lực đối với nền kinh tế Việt Nam chỉ quan tâm đến các yếu tố: vốn, công nghệ và nguồn lực kinh doanh (năng lực quản lý, khả năng cạnh tranh). Tuy nhiên, góc độ nghiên cứu chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế đã không cho phép tác giả có cái nhìn tổng quan về các nguồn ngoại lực và tác động sâu, rộng đối với tổng thể nội lực Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế - xã hội [99]. Tiến sĩ Đoàn Văn Khái nêu quan niệm về ngoại lực, đó là những nguồn lực bên ngoài quốc gia như: sự trợ giúp của nước ngoài, các tổ chức quốc tế về vốn, công nghệ, thị trường, kinh nghiệm quản lý [54, tr.60]. Trong quan niệm này, tác giả đã xem xét khái niệm ngoại lực trong mối quan hệ với nội lực từ góc độ phạm vi tác động của nguồn lực. Đây là những quan niệm tương đối khái quát, có cơ sở triết học, có ý nghĩa về mặt phương pháp luận cho những nghiên cứu về vấn đề này. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, để thống nhất quan niệm về ngoại lực, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã chỉ rõ: “Ngoại lực bao gồm cả vốn, tri thức công nghệ, kỹ năng quản lý và thị trường... bổ sung cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả hơn” [31, tr.180]. Trong quan điểm này, Đảng ta xác định không phải mọi yếu tố, mọi nguồn lực trên thế giới đều được coi là ngoại lực cho sự phát triển đất nước mà chỉ những nguồn lực bên ngoài có tác dụng hỗ trợ bổ sung cho nội lực mới được xác định là những ngoại lực cần thiết cho sự phát triển. Cần lưu ý rằng, đây là quan điểm có ý nghĩa lãnh đạo, chỉ đạo việc phát huy ngoại lực, do đó Đảng giới hạn và định hướng cần phát huy những ngoại lực có khả năng bổ sung cho nội lực, phục vụ cho lợi ích và sự phát triển đất nước. Tuy nhiên, trong nghiên cứu khoa học, cần đánh giá cả những ngoại lực có tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển đất nước để đề xuất những giải pháp phát huy nội lực và ngoại lực phù hợp. Quan điểm nêu trên của Đảng đồng thời nhấn mạnh những nội dung cốt lõi nhất của ngoại lực trong giai đoạn hiện nay, đó là vấn đề vốn, tri thức, công nghệ, kỹ năng quản lý thị trường... Những yếu tố ngoại lực này tiếp tục được Đảng ta nhấn mạnh tại Đại hội XI: “ khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến” [31, tr.236]. Đó cũng là những yếu tố ngoại lực mà luận án sẽ tập trung tìm hiểu và làm rõ về vai trò, hiệu quả tác động của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của nước ta hiện nay. Từ các quan niệm về ngoại lực nêu trên, ta có thể nhận thấy, tương tự như khái niệm nội lực, ngoại lực là khái niệm rộng và mang tính động, luôn vận động và biến đổi theo trình độ nhận thức, quan niệm, yêu cầu, định hướng phát triển của mỗi quốc gia. Ở các góc độ nghiên cứu khác nhau, trong những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau, mỗi nhà khoa học có thể nêu ra những quan niệm về ngoại lực khác nhau. Do vậy, chúng ta không thể có được một khái niệm ngoại lực chung nhất cho mọi hoàn cảnh, mọi quốc gia mà phải nhận thức ngoại lực trong sự vận động, phát triển, trong bối cảnh cụ thể, trong mối liên hệ với nội lực và tổng thể các nguồn lực khác. Trên cơ sở kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các nhà tư tưởng về ngoại lực, có thể nêu khái quát quan niệm về ngoại lực như sau: Ngoại lực là tổng thể những sức mạnh vật chất và tinh thần bên ngoài quốc gia, bao gồm các yếu tố như: vốn, khoa học kỹ thuật, công nghệ, trình độ và kỹ năng quản lý Trong phạm vi có hạn của luận án, công trình này không có điều kiện để nghiên cứu, đánh giá vai trò, sự tác động của từng yếu tố ngoại lực đến sự phát triển đất nước mà chỉ tập trung làm rõ vai trò của nhà nước trong việc huy động, khai thác, sử dụng ngoại lực để xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay. Với quan niệm về nội lực và ngoại lực như trên, có thể nêu khái quát quan niệm về “phát huy nội lực”, “phát huy ngoại lực”, “phát huy nội lực và ngoại lực” như sau: Phát huy nội lực là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để huy động, khai thác, sử dụng và phát triển các nguồn lực trong nước nhằm xây dựng và phát triển đất nước. Phát huy ngoại lực là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để thu hút, khai thác, sử dụng và phát triển các nguồn lực bên ngoài quốc gia hỗ trợ cho việc xây dựng và phát triển đất nước. Phát huy nội lực và ngoại lực chính là việc tạo ra những điều kiện thuận lợi để tranh thủ khai thác hiệu quả những giá trị vật chất, tinh thần của các quốc gia trên thế giới, gắn kết với sức mạnh của các điều kiện vật chất, tinh thần trong nước tạo nên một sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển. Vấn đề đặt ra là phát huy nội lực và ngoại lực phải đảm bảo tăng trưởng nhanh song hành cùng sự phát triển bền vững nghĩa là tăng trưởng nhanh gắn với việc duy trì và tạo ra tiền đề, nguồn lực cho những quá trình phát triển dài lâu của đất nước. Điều này phụ thuộc rất lớn vào vai trò của nhà nước trong việc điều tiết, khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn nội lực và ngoại lực cho sự phát triển. Do vậy, luận án sẽ tập trung nghiên cứu vai trò của Nhà nước trong việc tạo môi trường, điều kiện, cơ chế, chính sách để nội lực và ngoại lực được phát huy có hiệu quả nhất, đảm bảo phát triển nhanh và bền vững. 2.1.2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực Mỗi sự vật, hiện tượng đều chịu sự chi phối của các mối liên hệ bên trong và các mối liên hệ bên ngoài các sự vật hiện tượng đó. Các mối liên hệ bên trong có vai trò quyết định sự phát triển của các sự vật hiện tượng, còn các mối liên hệ bên ngoài có vai trò tác động, hoặc thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của các sự vật hiện tượng. Sự phát triển của đất nước ta hiện nay chịu sự tác động sâu sắc của nội lực - nguồn lực bên trong của quốc gia và ngoại lực - nguồn lực bên ngoài của quốc gia. Nội lực và ngoại lực có mối quan hệ biện chứng sâu sắc, trong đó, nội lực là yếu tố quyết định ngoại lực đồng thời quyết định sự phát triển đất nước, còn ngoại lực có vai trò quan trọng, tác động đến nội lực; ngoại lực chỉ phát huy tác dụng thông qua nội lực, nó có thể thúc đẩy hoặc hạn chế nội lực. Nhận định về vai trò của nội lực và ngoại lực trong sự phát triển, Đảng ta chỉ rõ: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ” [31, tr.102]. Trong mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, nội lực luôn là yếu tố quyết định ngoại lực và quyết định sự phát triển của quốc gia. Nội lực đất nước bao gồm sức mạnh tổng thể của các yếu tố bên trong quốc gia như: tài nguyên thiên nhiên, con người, khoa học công nghệ, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội Sự vận động, phát triển của từng yếu tố này và sự tác động qua lại giữa chúng mang lại sự vận động và phát triển của tổng thể nội lực, thúc đẩy và quyết định sự phát triển của đất nước. Chẳng hạn như: sự phát triển của kinh tế xét đến cùng quyết định sự vận động, phát triển của chính trị, tới lượt nó, chính trị ổn định, phát triển sẽ thúc đẩy sự phát triển của kinh tế; khoa học công nghệ phát triển là điều kiện cơ bản để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế; chỉ khi kinh tế hùng mạnh mới tạo ra điều kiện để đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Tương tự như vậy, các yếu tố khác của nội lực đất nước luôn vận động, phát triển, tác động qua lại làm cho tổng thể nội lực quốc gia được phát huy, thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Nội lực quyết định ngoại lực ở chỗ sự vận động và phát triển của nội lực đặt ra yêu cầu khách quan đối với việc thu hút ngoại lực ở nhiều mức độ: thu hút ngoại lực nào là chủ yếu, quy mô, tốc độ thu hút đến đâu Trên thực tế, mỗi quốc gia khác nhau căn cứ vào các yếu tố nội lực và trình độ phát triển của nội lực để xây dựng kế hoạch, chiến lược thu hút các ngoại lực cần thiết cho sự phát triển. Nhật Bản là nước có dân số già, luôn trong tình trạng thiếu lao động, do vậy Chính phủ nước này luôn xác định một trong những ngoại lực quan trọng cần phải thu hút đó chính là nguồn nhân lực ở các nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Ở nhiều nước châu Âu có nền công nghệ tiến tiến, nền kinh tế phát triển ở trình độ cao, tình trạng dư thừa lao động chất lượng cao và thiếu lao động phổ thông đã khiến các quốc gia này xác định nguồn lao động ở các quốc gia đang phát triển là một trong những nguồn ngoại lực quan trọng cần thu hút. Ở nước ta, do hậu quả của chiến tranh và khủng hoảng trì trệ kéo dài, Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước với xuất phát điểm thấp, nội lực yếu kém: cơ sở vật chất, kỹ thuật nghèo nàn, khoa học lạc hậu, trình độ, kinh nghiệm quản lý còn nhiều hạn chế, thiếu vốn để xây dựng hạ tầng cơ bản, đầu tư cho sản xuất kinh doanh Trên cơ sở nhận thức, đánh giá những hạn chế đó của nội lực, Đảng và Nhà nước ta đã xác định ngoại lực cần thiết cho sự phát triển đất nước trong quá trình đổi mới với những yếu tố cốt lõi nhất chính là vốn, khoa học, công nghệ, kỹ năng quản lý Trong mối quan hệ với nội lực, ngoại lực có vai trò quan trọng góp phần vào sự phát triển của mỗi quốc gia. Ngoại lực có thể tác động, hỗ trợ, bổ sung, phát triển nội lực nhưng cũng có thể hạn chế, kìm hãm nội lực, tác động tiêu cực đến sự phát triển đất nước. Ngoại lực bao gồm những nguồn lực vật chất và tinh thần bên ngoài quốc gia như: vốn đầu tư, khoa học công nghệ, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng quản lý Đây là những nguồn lực quý báu, nếu được khai thác, sử dụng hợp lý sẽ bổ sung cho nội lực, tạo điều kiện để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước, thúc đẩy hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa; hoàn thành các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, phát triển toàn diện các mặt văn hóa xã hội, hướng đến mục tiêu phát triển nhanh, bền vững. Ngoại lực với tính cách là những nguồn lực bên ngoài phạm vi quốc gia, chỉ có thể phát huy được vai trò của nó đối với sự phát triển của quốc gia đó thông qua nội lực. Ngoại lực không thể được phát huy nếu không thông qua nội lực, ngoại lực không thể thúc đẩy sự phát triển đất nước nếu nó không được nội lực hóa. Nguồn vốn dồi dào của các cường quốc sẽ không có ý nghĩa cho sự phát triển đất nước nếu chúng ta không biết huy động, khai thác và sử dụng hợp lý. Khoa học công nghệ thế giới có tiên tiến đến đâu nhưng chúng ta không có nguồn nhân lực đủ trình độ để tiếp thu, ứng dụng thì nó cũng không đóng góp cho sự phát triển đất nước Tuy nhiên, không phải ngoại lực nào cũng làm giàu nội lực, có những ngoại lực hàm chứa trong nó những khả năng làm suy giảm nội lực, có những ngoại lực ẩn chứa những mưu đồ chống phá nước ta, chi phối nền kinh tế, khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, hủy hoại môi trường Cùng với quá trình mở cửa, tăng cường giao lưu hợp tác quốc tế, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ một mặt đem lại những tri thức quý báu về văn hóa, văn minh nhân loại để chúng ta tiếp thu, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhưng mặt khác, nó cũng tác động tiêu cực làm xói mòn nhiều giá trị truyền thống, làm lệch chuẩn đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ người Việt, làm suy yếu nội lực về văn hóa của đất nước. Khoa học công nghệ có vai trò to lớn đối với sự phát triển, song khoa học công nghệ thay đổi, phát triển từng ngày, từng giờ. Nhiều công nghệ khi được chuyển giao về Việt Nam đã trở nên lạc hậu, lỗi thời so với thế giới, không những không thúc đẩy nội lực phát triển mà có thể tiềm ẩn nguy cơ biến nước ta trở thành “bãi rác công nghệ”. Các thế lực thù địch lợi dụng các quan hệ hợp tác, liên kết, đầu tư, chuyển giao công nghệ để xâm nhập vào các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước nhằm làm cho nước ta mất độc lập, tự chủ về kinh tế dẫn đến mất ổn định và xụp đổ chế độ chính trị. Vì vậy, chúng ta cần có sự nghiên cứu, quản lý một cách khoa học và thận trọng đối với ngoại lực để phát huy mặt tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực của nguồn lực này cho sự phát triển đất nước. Hiện nay, bối cảnh hội nhập quốc tế tạo ra những điều kiện để các quốc gia có sự ảnh hưởng, phụ thuộc lẫn nhau nhau ngày càng sâu sắc. Đó là tiền đề khách quan để mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực càng trở nên chặt chẽ. Trong hội nhập quốc tế, mỗi thay đổi của ngoại lực đều có thể tác động đến nội lực và ngược lại, mỗi bước phát triển của nội lực sẽ làm tăng khả năng khai thác, sử dụng có hiệu quả ngoại lực. Sự dịch chuyển mạnh mẽ về vốn, khoa học công nghệ, nguồn nhân lực, tài nguyên giữa các quốc gia trong điều kiện hội nhập làm cho nội lực và ngoại lực dễ dàng thâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển. Điều đó đặt ra yêu cầu phải có chính sách, biện pháp để phát huy nội lực và ngoại lực, hạn chế những tác động tiêu cực của quá trình hội nhập đối với sự phát triển. 2.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT HUY NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Phát huy nội lực và ngoại lực là một trong những bài học quan trọng cho sự phát triển được Đảng ta nhiều lần tổng kết và khẳng định. Đó là yêu cầu khách quan, là nhân tố quyết định thắng lợi của Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đất nước, tích cực, chủ động hội nhậ p quốc tế hiện nay. 2.2.1. Phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế là sự kế thừa bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” Phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại là tư tưởng được vận dụng xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, được thực tiễn kiểm nghiệm, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta khái quát thành bài học quý báu đảm bảo sự thắng lợi của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy nội lực và ngoại lực là sự kế thừa, phát triển và vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc và thời đại trong điều kiện mới. Ngay từ những năm đầu thế kỷ XX, trên hành trình cứu nước, bắt gặp ánh sáng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, chứng kiến những thành tựu vĩ đại của nhân loại, Hồ Chí Minh nhận thấy nếu biết kết hợp, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại sẽ làm nên một nguồn sức mạnh tổng hợp to lớn để giải phóng dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại thể hiện sự kết hợp biện chứng giữa những nội dung của sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, cụ thể là: đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy cách mạng thế giới, kết hợp mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với tinh thần quốc tế vô sản, đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế; khai thác, phát huy sức mạnh dân tộc gắn với tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của thế giới. Tất cả kết hợp với nhau và bị chi phối bởi những nguyên tắc nhất định mà bản thân những nguyên tắc ấy cũng mang trong nó những mối liên hệ biện chứng, đó là kết hợp trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin; kết hợp trên cơ sở phát huy sức mạnh dân tộc trước tiên; kết hợp trên nguyên tắc bình đẳng, hữu nghị, cùng có lợi, vì mục tiêu hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Vận dụng Tư tưởng của Người, trong suốt thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta luôn xác định: đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, kết hợp lợi ích dân tộc với lợi ích chung của nhân dân của các nước - độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội; giáo dục chủ nghĩa yêu nước chân chính, kết hợp với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; đoàn kết, hợp tác quốc tế trên cơ sở đường lối độc lập, tự chủ, nâng cao ý chí tự lực tự cường. Với quan điểm trên, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, từ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc 1939 - 1945 đến cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954), đặc biệt là cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975). Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là đỉnh cao, là hình mẫu nghệ thuật của việc phát huy nội lực, kết hợp với ngoại lực, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Việt Nam. Cùng với việc huy động tối đa nội lực trên tất cả các phương diện chính trị, quân sự, ngoại giao cho cuộc chiến tranh nhân dân, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời phát huy cao nhất, hiệu quả nhất mọi nguồn ngoại lực, đó là: sự giúp đỡ to lớn của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa, các nước cùng bán đảo Đông Dương, sự ủng hộ, đồng tình của phong trào giải phóng dân tộc và nhân dân tiến bộ thế giới. Ngay cả trên đất Mỹ các cuộc biểu tình, đốt thẻ quân dịch, tự thiêu đã diễn ra nhằm phản đối Lầu năm góc và Nhà trắng tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Kết quả của sự kết hợp tài tình sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy nội lực và ngoại lực trong thời kỳ này đã được minh chứng hùng hồn bằng chiến thắng vĩ đại đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Như vậy, sự kết hợp tài tình, linh hoạt sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã góp phần vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, thể hiện tư duy biện chứng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nhận thức và đánh giá vai trò, vị trí của dân tộc trước những yếu tố thời đại. Kế thừa bài học này, từ khi đất nước giành được độc lập đến nay, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại đã trở thành quan điểm xuyên suốt các kỳ Đại hội đại biểu của Đảng. Tại Đại hội VI (1986), một trong bốn bài học Đảng rút ra làm kinh nghiệm cho suốt thời kỳ đổi mới là: “phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới” [25]. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH (1991), chỉ ra nhiệm vụ: “Giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [26]. Từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) đến nay, tình hình thế giới có nhiều đặc điểm mới, đặc biệt là xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế và những thành tựu khoa học công nghệ. Bài học kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại được Đảng ta phát huy trở thành bài học “kết hợp nội lực và ngoại lực” cho phù hợp với điều kiện mới. Đảng ta xác định: “Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế” [27]; “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế” [30]. Trong Cương lĩnh phát triển đất nước bổ sung được trình bày tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta trên cơ sở tổng kết thực tiễn đã xác định kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, phát huy nội lực và ngoại lực là một trong năm bài học kinh nghiệm quý báu để xây dựng đất nước hiện nay: Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập tự chủ, và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực, tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại [31, tr.66]. Như vậỵ, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay đều có nguyên nhân từ việc phát huy nội lực và ngoại lực. Điều đó càng minh chứng và khẳng định giá trị trường tồn của bài học “kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại” - chìa khóa thành công của cách mạng Việt Nam. Bởi vậy, việc kế thừa, phát huy một bài học đã được tổng kết, được kiểm nghiệm trong suốt chiều dài lịch sử vào điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay là hết sức cần thiết để xây dựng và phát triển đất nước. 2.2.2. Phát huy nội lực và ngoại lực là yêu cầu tất yếu của hội nhập quốc tế Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, gắn liền với xu thế toàn cầu hóa, tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và sự phát triển của mỗi quốc gia. Toàn cầu hoá, theo cách hiểu chung, là quá trình tăng lên mạnh mẽ của những mối liên hệ, sự tác động, phụ thuộc lẫn nhau của tất cả các khu vực, các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới trong quá trình vận động và phát triển. Hội nhập quốc tế là quá trình tham gia để trở thành một bộ phận cấu thành có vị trí, vai trò nhất định trong các lĩnh vực hoạt động của cộng đồng quốc tế [110, tr.217]. Hội nhập quốc tế ở mức thấp nhất là việc mỗi quốc gia mở rộng quan hệ với bên ngoài, tham gia vào hệ thống quan hệ quốc tế. Ở mức cao nhất, mỗi quốc gia trong quá trình hội nhập phải trở thành một thành viên có trách nhiệm, có vị trí xứng đáng trong cộng đồng quốc tế, trở thành một bộ phận cấu thành của nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu và nền văn minh nhân loại. Về thực chất, hội nhập quốc tế là một quá trình vừa có sự hợp tác, vừa có sự đấu tranh trong các mối quan hệ nhiều mặt, đa dạng, song phương, đa phương giữa các chủ thể khác nhau trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, các thuật ngữ có liên quan đến “hội nhập quốc tế” đã được sử dụng từ lâu. Thuật ngữ “nhất thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các nước XHCN những năm 1970 - 1980. Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khi nói tới sự phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nước không thuộc XHCN đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực (EC, EU, NAFTA). Thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEA...t Nam, là nhân tố có ý nghĩa quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. Khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài hướng về quê hương, góp phần xây dựng đất nước, khen thưởng những người có thành tích đóng góp cho Tổ quốc. Làm tốt công tác thông tin trong cộng đồng kiều bào ta ở nước ngoài để kiều bào nắm bắt tình hình trong nước, nhận thức đúng đắn chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta. 4.2.4.3. Nhà nước đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các công cụ quản lý, chính sách vĩ mô để khai thác, sử dụng hợp lý nội lực và ngoại lực Các công cụ quản lý, các chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc quản, điều tiết, khai thác và sử dụng có hiệu quả nội lực và ngoại lực cho sự phát triển đất nước. Với những yêu cầu ngày càng khó khăn, phức tạp đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trong hội nhập quốc tế, nhà nước cần phải đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của các chính sách, công cụ quản lý điều tiết vĩ mô để phát huy nội lực, thu hút ngoại lực, nội lực hóa ngoại lực một cách có hiệu quả cho quá trình phát triển đất nước. Một là, đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kế hoạch: Ban hành và thực thi Luật Kế hoạch hóa phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu chiến lược, công tác quy hoạch, kế hoạch đặc biệt coi trọng các chỉ tiêu, biện pháp, chất lượng phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới nội dung, phương pháp, quy trình xây dựng, thông qua, phê duyệt, triển khai thực hiện. Gắn chiến lược, quy hoạch với kế hoạch; nâng cao tính khoa học, minh bạch. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải phù hợp với thực tiễn, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh và nguồn lực quốc gia, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư. Xây dựng chiến lược, kế hoạch, chính sách phát huy nội lực và ngoại lực, vừa tạo môi trường cho nội lực kết hợp được với ngoại lực; vừa khai thác có hiệu quả các nguồn lực và tiếp tục định hướng cho việc kết hợp nội lực và ngoại lực trong những giai đoạn tiếp theo. Hai là, đổi mới chính sách thuế: Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, đặc biệt là gia nhập WTO, vai trò của chính sách thuế trong việc bảo hộ sản xuất trong nước, cũng như thu hút ngoại lực sẽ có xu hướng giảm, các yếu tố khác như kết cấu hạ tầng, minh bạch chính sách, chất lượng nguồn nhân lực, trình độ khoa học công nghệ sẽ có vai trò quyết định. Nhà nước cần phải tiến hành rà soát các sắc thuế theo hướng minh bạch và ổn định hóa, đơn giản hóa và thống nhất các mức thuế suất theo hướng giảm và ổn định thuế suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập, không lồng ghép chính sách xã hội trong chính sách thuế giúp tạo tính ổn định cao hơn cho các doanh nghiệp tính toán các kế hoạch đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng, thống nhất và đồng bộ, bảo đảm môi trường thuận lợi, khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh. Từng bước thực hiện phương pháp tính thuế, quản lý thu thuế, xử lý các vi phạm về thuế theo thông lệ quốc tế; hiện đại hóa công tác quản lý hành chính thuế và phát triển dịch vụ tư vấn thuế. Ba là, đổi mới, hoàn thiện chính sách tài chính, tiền tệ: Nhà nước cần xây dựng đồng bộ thể chế tài chính phù hợp với kinh tế thị trường. Đổi mới chính sách quản lý tài chính để giải phóng và phân bổ hợp lý, có hiệu quả các nguồn lực; phát triển nền tài chính quốc gia vững mạnh; bảo đảm an ninh tài chính quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của tài chính Việt Nam. Chính sách tiền tệ, tín dụng cần được cải cải cách nhằm mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát, góp phần tăng trưởng kinh tế và đảm bảo an ninh hệ thống các ngân hàng và tổ chức tín dụng. Kết hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ với chính sách tài khóa để ổn định kinh tế vĩ mô, tăng dự trũ ngoại tệ, khuyến khích doanh nghiệp và nhân dân tiết kiệm đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh. Bốn là, đổi mới chính sách đầu tư: Đổi mới chính sách và cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ phân biệt đối xử trong tiếp cận các cơ hội đầu tư. Hoàn thiện thể chế, tăng cường hiệu lực quản lý để đảm bảo hiệu quả đầu tư của nhà nước và thu hút đầu tư nước ngoài, tránh đầu tư dàn trải. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư nước ngoài thay bằng việc hoàn thiện thể chế, pháp luật thay vì tạo ra hệ thống khuyến khích, ưu đãi đầu tư thông mức thuế để môi trường đầu tư hấp dẫn hơn. Đơn giản hóa các thủ tục cấp phép đầu tư, thu hẹp các lĩnh vực không cho phép đầu tư và những lĩnh vực đầu tư có điều kiện; mở rộng lĩnh vực đăng ký đầu tư. Tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển theo cam kết quốc tế của nước ta. Khuyến khích người Việt Nam định cư ở nước ngoài chuyển vốn, công nghệ về nước tham gia đầu tư. Điều chỉnh cơ cấu đầu tư, đầu tư từ ngân sách tập trung cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa hoc - công nghệ, y tế, trợ giúp vùng khó khăn; đầu tư của doanh nghiệp nhà nước vào nâng cao năng lực sản xuất, hiện đại hóa công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm; đầu tư của các khu vực dân doanh được khuyến khích cho việc tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu, tạo việc làm Tiểu kết chương 4 Từ thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực, từ kinh nghiệm quốc tế vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, chương 4 đi sâu phân tích, chỉ ra những quan điểm có tính nguyên tắc và đề xuất các giải pháp chủ yếu phát huy vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực để xây dựng đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Để phát huy nội lực và ngoại lực đáp ứng các yêu cầu khách quan của thực tiễn, nhà nước phải thực hiện các quan điểm có tính nguyên tắc đó là: nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực phải đảm bảo sự phát triển nhanh và bền vững; nhà nước thực hiện việc phát huy nội lực và ngoại lực đảm bảo phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhà nước phát huy nội lực và ngoại lực trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi vì mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Để nâng cao hiệu quả phát huy nội lực và ngoại lực, chương 4 đề xuất 04 nhóm giải pháp phát huy vai trò của nhà nước đó là: Nhóm giải pháp về học tập kinh nghiệm quốc tế trong việc phát huy nội lực và ngoại lực; nhóm giải pháp nâng cao năng lực quản lý của nhà nước đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực; nhóm giải pháp phát huy vai trò nhà nước trong việc thu hút ngoại lực; nhóm giải pháp phát huy vai trò của nhà nước trong việc khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trên cơ sở phát huy nội lực và nội lực hóa ngoại lực. Việc tuân thủ các nguyên tắc và thực hiện đồng bộ các giải pháp nói trên sẽ cho phép Nhà nước ta hoàn thành tốt vai trò của mình trong việc phát huy nội lực, ngoại lực đảm bảo phát triển bền vững và đúng định hướng ở nước ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. KẾT LUẬN Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, phát huy nội lực và ngoại lực là một tất yếu khách quan cho sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam. Phát huy nội lực và ngoại lực tạo ra sức mạnh tổng hợp để nước ta mau chóng đạt được những mục tiêu, chiến lược phát triển quốc gia, trong đó, nội lực có vai trò quyết định, còn ngoại lực có vai trò hỗ trợ, bổ sung cho nội lực, tạo thêm điều kiện để huy động và sử dụng nội lực có hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên việc phát huy nội lực, ngoại lực cũng đặt ra nhiều thách thức, nhiều nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng đến sự phát triển của nước ta. Vì vậy, để phát huy nội lực và ngoại lực có hiệu quả, vai trò quản lý, định hướng, điều tiết của Nhà nước ta là vô cùng quan trọng. Thực tế gần 30 năm đổi mới vừa qua đã cho thấy những thành tựu của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực. Bằng pháp luật, chính sách, các công cụ điều tiết vĩ mô; bằng việc phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước ta đã đạt nhiều thành tựu trong việc phát huy nội lực, phát huy lợi thế so sánh quốc gia; tạo môi trường hấp dẫn với các nguồn ngoại lực; chủ động thực hiện các biện pháp, hình thức thu hút ngoại lực; đồng thời còn điều tiết, phân bổ, sử dụng hợp lý các nguồn lực theo đúng định hướng, mục tiêu phát triển và tiếp tục kích thích việc phát huy nội lực một cách tích cực hơn, sâu rộng và hiệu quả hơn. Để đạt được những kết quả đó, nhà nước ta đã không ngừng tự đổi mới, tự trau dồi năng lực để vươn lên đáp ứng yêu cầu ngày càng khó khăn, phức tạp của việc phát huy nội lực và ngoại lực trong điều kiện hội nhập hiện nay. Tuy nhiên, do nhiều tác động từ khách quan và những nhân tố chủ quan, vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực còn nhiều hạn chế. Bộ máy nhà nước cồng kềnh, chậm thích ứng với những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn; trình độ, năng lực cán bộ công nhân viên chức và người lao động còn hạn chế, trình độ quản lý của nhà nước chưa ngang tầm với những đòi hỏi của việc phát huy nội lực và ngoại lực. Hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến việc phát huy nội lực và ngoại lực vừa thiếu vừa chồng chéo, việc thực thi pháp luật còn nhiều hạn chế. Tình trạng tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp về cả quy mô, số vụ và tính chất mỗi vụ là trở ngại cho việc phát huy nội lực, thu hút ngoại lực. Do đó, mặc dù nhà nước đã nỗ lực phát huy nội lực và ngoại lực song kết quả đem lại chưa thực sự hiệu quả và bền vững; việc phát huy nội lực và ngoại lực đã tích cực hơn song chưa thực sự chủ động, dễ dàng bị ảnh hưởng bởi những tác động trên thế giới và khu vực. Đảng ta nhận định: “việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, hạn chế sự phát triển” [30, tr.177-178]. Việc phát huy nội lực chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh quốc gia, chưa ngang tầm đòi hỏi của thực tiễn trong quá trình hội nhập. Đảng ta chỉ rõ: việc phát huy nội lực “còn dưới mức khả năng phát triển của đất nước, hoạt động kinh tế - xã hội còn nhiều bất cập” [30, tr.177]. Việc thu hút ngoại lực mặc dù đã được chú trong song chưa thực sự chủ động, còn bị động, lúng túng trước các tình huống, diễn biến bất ngờ liên quan đến luật pháp, thông lệ quốc tế và những vấn đề đặt ra trong quan hệ, hợp tác với các nước. Chúng ta chưa tạo được quan hệ thật sự ổn định, lâu dài, vững chắc với các nước lớn; chưa xây dựng được mối quan hệ lợi ích đan xen, phụ thuộc lẫn nhau với các nước này. Chúng ta chưa coi trọng đúng mức và chủ động thu hút các nguồn đầu tư gián tiếp. Việc xử lý một số vấn đề trong nước không tính đến phản ứng của dư luận quốc tế; việc thực thi cam kết, các hiệp định thương mại còn chậm, việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, cải cách hành chính còn nhiều hạn chế ít nhiều làm giảm sút sức hấp dẫn của môi trường đầu tư, làm giảm tính hiệu quả và chủ tính tích cực, chủ động của các chính sách, biện pháp thu hút ngoại lực của nhà nước. Việc khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực chưa thực sự hiệu quả, còn gây thất thoát, lãng phí lớn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát huy bền vững các nguồn lực. Việc phân bổ, khai thác, sử dụng nội lực và ngoại lực còn chưa thực sự khoa học và hợp lý, còn dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm đối với các ngành, vùng và một số lĩnh vực đời sống. Nhiều nguồn ngoại lực chậm giải ngân, thiếu hiệu quả, thiếu minh bạch làm giảm niềm tin của các nhà đầu tư. Trong nhiều trường hợp cụ thể, việc kết hợp nội lực và ngoại lực đã được xác lập song chưa bền vững hoặc do sai phạm của các nhân, tổ chức mà có nguy cơ bị phá vỡ. Chúng ta thiếu lộ trình thật chủ động định hướng cho việc phát huy, kết hợp nội lực và ngoại lực; chiến lược vay và trả nợ nước ngoài chưa được chuẩn bị thật tốt Đó là những khó khăn, thách thức cho việc phát huy mọi nguồn lực xây dựng và phát triển bền vững đất nước trong tương lai. Trước thực tế đó, để khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc phát huy nội lực và ngoại lực một cách chủ động, tích cực, đảm bảo mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa và sự phát triển bền vững đất nước, nhà nước ta cần đảm bảo các nguyên tắc trong quá trình phát huy nội lực, ngoại lực; thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc phát huy nội lực, ngoại lực; tiếp tục đổi mới, nâng cao trình độ quản lý, thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết, tập hợp toàn dân thực hiện các nhiệm vụ đặt ra đối với việc phát huy nội lực và ngoại lực trên cơ sở nhận thức, vận dụng đúng quy luật khách quan của sự phát triển, phù hợp với thực tiễn đất nước và luật pháp, thông lệ quốc tế; đề ra các chủ trương, đường lối chính sách hợp lý kích thích phát huy tối đa các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Thực tiễn từ khi tiến hành đổi mới đất nước, đặc biệt là từ khi hội nhập đến nay, xét cả mặt tích cực và hạn chế của nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực đã tạo ra những kinh nghiệm, bài học quý báu để chúng ta phát huy sức mạnh nội lực, tranh thủ ngoại lực trên một tầm cao mới, phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo con đường rút ngắn và từng bước phát triển kinh tế tri thức, đưa đất nước đạt tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN Nguyễn Kim Phượng (2009), “Kết hợp nội lực và ngoại lực theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn cách mạng hiện nay”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (10), tr.26 - 28. Nguyễn Kim Phượng (2010), "Quan điểm của Đảng ta về kết hợp nội lực và ngoại lực trong hội nhập kinh tế quốc tế", Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (5), tr.3- 7. Nguyễn Kim Phượng (2010), "Những gợi mở đối với Việt Nam từ kinh nghiệm kết hợp nội lực và ngoại lực ở một số nước ASEAN", Tạp chí Nhịp cầu tri thức, (7), tr.32 - 36. Nguyễn Kim Phượng (2013), “Kinh nghiệm phát huy nội lực, ngoại lực ở một số nước”, Tạp chí Tuyên giáo, (5), tr.63 - 67. Nguyễn Kim Phượng (2013), Một số vấn đề có tính nguyên tắc đối với nhà nước trong việc phát huy nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, (11), tr.21. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Phạm Sỹ An (2007), “Ổn định tăng trưởng kinh tế năm 2006”, Nghiên cứu kinh tế, (3). Ban Cán sự Đảng Chính phủ (2012), Một số vấn đề về an sinh xã hội giai đoạn 2012-2020, Dự thảo Đề án. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng (2011), Định hướng tham mưu công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng (2013), Tài liệu học tập Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính Trị về hội nhập quốc tế, Khóa tập huấn do Dự án “Nâng cao năng lực hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam đến 2020” do Bộ Ngoại giao phối hợp với UNDP tài trợ. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Lao động - Thương Binh và Xã hội, Bộ Tài nguyên và Môi trường và các cơ quan phối hợp (2011), Kỷ yếu Hội nghị phát triển bền vững toàn quốc lần thứ ba, Nhà xuất bản từ điển Bách khoa, Hà Nội. Bộ Kế hoạch và đầu tư (2012), Dự báo tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2013. Bộ Khoa học và công nghệ, Viện Chiến lược phát triển (2010), Nguồn lực và động lực cho phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, Báo cáo tổng hợp đề tài KX.04.08/06-10, Hà Nội. Bộ Ngoại giao (1995), Hội nhập quốc tế và giữ vững bản sắc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Bộ Ngoại giao (2000), Toàn cầu hóa và các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Kỷ yếu đề tài cấp Bộ của Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Hà Nội. Bộ Thông tin và Truyền thông (2007), “Ba nguồn vốn đầu tư nước ngoài đều tăng”, Trang tin điện tử Trung tâm Báo chí và Hợp tác truyền thông quốc tế, ngày 12/3/2007. Bộ Thông tin và Truyền thông (2012), “Năm 2011, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 96 tỉ USD”, Trang Thông tin đối ngoại điện tử, ngày 4/1/2012. Bộ Tư pháp (2007), Hiến pháp 1992 và các luật tổ chức bộ máy nhà nước, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Bộ Y tế (2012), Báo cáo tổng quan chung ngành y tế năm 2012, Nxb Y học, Hà Nội. Nguyễn Mạnh Cầm (1991), “Sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại”, Tạp chí Quan hệ quốc tế, (10). Chu Văn Cấp (2000), “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, (9). Trần Quang Cơ (1991), “Dân tộc và thời đại, thời cơ và thách thức”, Tạp chí Thông tin lý luận, (1). Cục Xúc tiến thương mại (2012) “Để quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản thêm nồng ấm”, Trang điện tử www.vietrade.gov.vn, ngày 23/5/2012. Nguyễn Cúc (Chủ biên) (1997), Tác động của Nhà nước nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mai Ngọc Cường, chủ biên (1996), Lịch sử các học thuyết kinh tế, Nxb Thống kê, Hà Nội. Vũ Đình Cự, Trần Xuân Sầm (Chủ biên) (2006), Lực lượng sản xuất mới và kinh tế tri thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Hữu Dũng (1999), “Tham nhũng và tăng trưởng kinh tế”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (251). Nguyễn Tấn Dũng (2010), “Bảo đảm ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội là một nội dung chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020”, Trang tin điện tử của Chính phủ, ngày 24/8/2010. Đào Văn Dũng, Nguyễn Đức Trọng (2012), Một số vấn đề y tế, xã hội, phát triển, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. Dự án Hỗ trợ thương mại đa biên (2008), Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới - Giải thích các điều kiện gia nhập, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết Một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội. Ngô Văn Điểm (2004), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Khoa Điềm, Đinh Thế Huynh, Trịnh Thúc Huỳnh, Phạm Đức Lượng (2006), Việt Nam 20 năm đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đức (2011), “Vai trò của nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam điện tử, Lê Thị Thanh Hà (2012), Vai trò của Nhà nước đối với việc bảo vệ môi trường trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Hùng Hậu (2001), Triết lý văn hóa phương Đông, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Thị Hiền (2002), Hội nhập kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, (Sách tham khảo), Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Nguyễn Chí Hiếu (2007), “Những cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO”, Thông tin những vấn đề Triết học và đời sống,(4). Nguyễn Đình Hòa (2007), “Một số vấn đề về khu vực doanh nghiệp năm 2006”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (3). Hoàng Ngọc Hòa (2005), Quá trình nhận thức của Đảng ta về phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực, phát triển nền kinh tế tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Trong sách: "Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005", Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Minh Hoàn (2009), Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Minh Hoàn (2014), "Quan điểm của Đảng về phân phối công bằng tư liệu sản xuất", Tạp chí Lý luận chính trị, (2). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Những vấn đề về toàn cầu hóa, (Quyển 1), Viện Thông tin khoa học, Hà Nội, (1). Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Những giá trị tư tưởng mác - xít về vai trò kinh tế của nhà nước và vận dụng ở Việt Nam, Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài TS An Như Hải, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2007), Chức năng xã hội của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở ở nước ta hiện nay, Tổng quan khoa học đề tài cấp Bộ, Chủ nhiệm đề tài TS Lê Thị Thủy, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam hiện nay (dưới góc độ phân tích các nguồn lực), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài cấp Bộ năm 2008, Mã số B08-09, Chủ nhiệm đề tài PGS.TS Võ Văn Đức, Hà Nội. Lê Thị Hồng (2001), Vai trò định hướng xã hội chủ nghĩa của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Hội đồng lý luận Trung ương (2008), Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội đồng lý luận Trung ương (2009), Một số vấn đề cơ bản của nền kinh tế Việt Nam trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, Kỷ yếu kỳ họp thứ 8, Hà Nội. Hội đồng lý luận Trung ương (2009), Một số lý thuyết trên thế giới hiện nay qua cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Kỷ yếu kỳ họp thứ 9, Hà Nội. Trần Thị Giáng Hương (2008), Thực trạng và đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả các dự án hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) trong lĩnh vực y tế, Luận án tiến sỹ Y học, Viện Vệ sinh dịch tế Trung ương. Ngô Thị Tân Hương (2007), Vai trò của Nhà nước đối với sự phát triển kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Trần Thị Thu Hường (2012), Vai trò của Nhà nước đối với việc xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập tự chủ trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. Đoàn Văn Khái (2005), Nguồn lực con người, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Thế Kiệt (2012), “Vấn đề phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay (dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Đảng)”, Thông tin những vấn đề Triết học và đời sống, Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (3). Vi Thị Hương Lan (2012), Vai trò của nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam thời kỳ hội nhập quốc tế, Luận án tiến sỹ Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, Tập 33, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I.Lênin (1995), Toàn tập, Tập 43, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lei Da (2003), “Toàn cầu hóa kinh tế và chức năng của Nhà nước”, Tạp chí Những vấn đề chính trị xã hội, Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (5+6). C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác và Ph.Ănghen (1995), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Bình Minh (2012), “Ngoại giao Việt Nam 67 năm: Vươn tới những tầm cao mới”, Báo Quân đội nhân dân điện tử, ngày 27/8/2012. Phạm Bình Minh (2012), “Ngoại giao Việt Nam năm 2012: Vượt qua thách thức, vững bước hội nhập quốc tế”, Trang tin điện tử của Sở Nội vụ Hà Tĩnh, ngày 5/1/2013. Trình Mưu (2005), Quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Nguyễn Thị Nga (2012), “Nhà nước Việt Nam với việc đảm bảo an sinh xã hội, giữa vững định hướng xã hội chủ nghĩa”, Thông tin Những vấn đề Triết học và đời sống, Viện Triết học, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, (3). Dương Xuân Ngọc (2007), “Vai trò của Nhà nước trong việc thực hiện công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (7). Nguyễn Di Niên (2002), Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Di Niên (2006), "Phát huy cao độ nội lực, ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp để phát huy đất nước", Tạp chí Mặt trận điện tử, ngày 22/4/2006. Osadchaja I (2003), “Quá trình toàn cầu hóa và Nhà nước: Cái mới trong việc điều chỉnh kinh tế ở các nước phát triển”, Những vấn đề chính trị xã hội, Viện Thông tin khoa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (7+8). Trần Sỹ Phán (2012), “Những nhân tố tác động tới mối quan hệ cá nhân và xã hội ở nước ta hiện nay”, Thông tin những vấn đề Triết học và đời sống, Viện Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, (3). Lê Du Phong (2006), Nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. . Trần Văn Phòng (2002), “Tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay”, Tạp chí Triết học, (5). Vũ Văn Phúc (2005), “Phát huy nội lực, xây dựng nền kinh tế Việt Nam độc lập, tự chủ, mở rộng hợp tác quốc tế”, Kinh tế và Dự báo, (9). Lương Xuân Quỳ (1994), Cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005, Tập 1, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần Khắc Việt, Lê Ngọc Tòng (2005), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng 1986-2005, Tập 2, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. Tô Huy Rứa (2012), Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng vì công cuộc đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Samuelson, WD Nordhan (1989), Kinh tế học, Tập 1, Viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu (2000), “Đảng cộng sản Việt Nam, trung tâm tập hợp đoàn kết và phát huy sức mạnh dân tộc trong thời đại mới”, Tạp chí Lịch sử Đảng, (2). Nguyễn Trường Sơn, Nguyễn Hải Đạt (2007), “Đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 2006 và triển vọng năm 2007”, Tạp chí Kinh tế và phát triển, (115). Lê Hữu Tầng (1997), Về động lực phát triển kinh tế - xã hội, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Cơ Thạch (2003), Bài học của Đảng về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, Trong sách: "70 năm Đảng cộng sản Việt Nam - những trang sử vẻ vang", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phương Ngọc Thạch (2005), “Vai trò của nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong những năm qua”, Tạp chí Phát triển kinh tế, (5). Trần Thành (2005), “Nhận thức và vận dụng quan điểm macxit về nhà nước”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5). Trần Thành (2006), “Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp thị trường kinh tế với công bằng xã hội”, Tạp chí Triết học, (2). Lê Phương Thảo (2001), “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại”, Tạp chí Lý luận chính trị, (9). Hồ Bá Thâm (2004), Động lực và tạo động lực phát triển xã hội, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Thọ (2004), “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam”, Tạp chí Thời đại mới, (3), tháng 11/2004. Phan Thị Hạnh Thu (2007), “Hiệu quả đầu tư ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”, Nghiên cứu kinh tế, (2). Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 711/QĐ-TTg ngày 13 tháng 06 năm 2012 về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020. Lê Văn Toan (Biên dịch) (2007), 5 đương đại, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. Trang Công an nhân dân điện tử (2011), “Kim ngạch thương mại Việt Nam, Trung Quốc vượt mốc 30 tỷ USD”, ngày 29/12/2011. Tổng cục thống kê (2008), "Tình hình phát triển kinh tế - xã hội", Tổng cục thống kê (2010), "Tình hình phát triển kinh tế - xã hội", Tổng cục thống kê (2011), Niên giám thống kê, Nxb Thống kê, Hà Nội. Tổng cục thống kê (2012), "Kinh tế - xã hội 2006-2010 qua số liệu một số chỉ tiêu thống kê chủ yếu", Tổng cục thống kê (2012), Tình hình phát triển kinh tế xã - xã hội tháng mười hai và năm 2012. Tổng cục thống kê (2012), "Báo cáo kết quả rà soát số lượng doanh nghiệp năm 2012", Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Cẩm Tú (2009), Đánh giá tác động hội nhập quốc tế và hai năm gia nhập WTO, Kỷ yếu Hội thảo khoa học: “Tác động của hội nhập đối với nền kinh tế Việt Nam sau hai năm gia nhập WTO”, Văn Phòng Trung ương Đảng - Văn phòng Chính phủ - Văn phòng Quốc hội - Văn phòng Chủ tịch nước, Hà Nội. Trần Văn Tùng (2000), Tính hai mặt của toàn cầu hóa, Nxb Thế giới, Hà Nội. Lương Văn Tự (2007), Tiến trình gia nhập WTO, Nxb Lao động, Hà Nội. Ủy ban quốc gia về kinh tế quốc tế, Hội nghị tổng kết công tác hội nhập kinh tế quốc tế 2008 - 2009 Viện Dinh dưỡng quốc gia (2010), Báo cáo Tổng điều tra quốc gia về dinh dưỡng năm 2010. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2012), Báo cáo số 2091/KHXH-QLKH ngày 28 tháng 12 năm 2012 về một số vấn đề nổi bật của kinh tế thế giới và Việt Nam tháng 12 và năm 2012. Đinh Quý Xuân (2005), Kinh tế - xã hội Việt Nam trước thềm hội nhập, Nxb Thống kê, Hà Nội. Nguyễn Thị Phi Yến (2001), Tìm hiểu vai trò quản lý Nhà nước đối với việc phát huy nhân tố con người trong phát triển kinh tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_nha_nuoc_voi_viec_phat_huy_noi_luc_va_ngoai_luc_tron.doc
  • doctomtat LA NN - English.doc
  • doctomtatLA NN.doc
  • docTrang thông tin luận án trên mạng (3).doc
Tài liệu liên quan