Luận án Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ CHÍ HÙNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ CHÍ HÙNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM Chuyên ngành : Kinh tế quốc tế Mã số : 9.31.01.06 LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ Người h

pdf168 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Chu Đức Dũng 2. PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hùng HÀ NỘI – 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu trong luận án là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác. Tác giả luận án Vũ Chí Hùng ii MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN VÀ VIỆT NAM .................................................................. 6 1.1. Những nghiên cứu lý luận về công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ .......................................................................................................... 6 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ ................... 11 1.3. Những nghiên cứu về kiến nghị, giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ .... 16 1.4. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án ......................... 19 Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ ............................................................................................. 24 2.1. Công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ ................................... 24 2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ .................. 38 2.3. Các nhân tố tác động đến phát triển công nghiệp hỗ trợ ............................... 41 Chương 3: THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC VÀ ĐÀI LOAN ..................................................... 50 3.1. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản .................................... 50 3.2. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Hàn Quốc ................................... 65 3.3. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan ..................................... 83 3.4. Đánh giá chung về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan .......................................................................................................... 99 Chương 4: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM NHẰM THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ .......................................... 103 4.1. Khái quát tình hình phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam .................. 103 4.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về phát triển công nghiệp hỗ trợ............ 125 KẾT LUẬN ....................................................................................................... 148 CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO iii DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT STT Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ tiếng Anh Chữ viết đầy đủ tiếng Việt 1 ASEAN The Association of Southeast Asian Nations Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á 2 APEC Asia-Pacific Economic Cooperation Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương 3 CNĐT - Công nghiệp điện tử 4 CNHT - Công nghiệp hỗ trợ 5 CNH, HĐH - Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 6 DNNVV - Doanh nghiệp nhỏ và vừa 7 FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài 8 JETRO The Japan External Trade Organization Cơ quan xúc tiến ngoại thương Nhật Bản 9 JICA Japan International Cooperation Agency Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản 10 KCN - Khu công nghiệp 11 KH - CN - Khoa học - công nghệ 12 MITI (METI) Ministry of International Trade and Industry (Ministry of Economy, Trade and Industry) Bộ Kinh tế công nghiệp và Thương Mại Nhật Bản 13 MNCs Multinational corporations Công ty đa quốc gia 14 R&D Research and Development Nghiên cứu và phát triển 15 SMEs Small and medium-sized enterprises Doanh nghiệp nhỏ và vừa 16 TNCs Transnational corporations Công ty xuyên quốc gia 17 UNIDO The United Nations Industrial Development Organization Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc 18 VCCI Vietnam Chamber of Commerce and Industry Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam 19 VDF Việt Nam Development Forum Diễn đàn phát triển Việt Nam iv DANH MỤC CÁC BẢNG Bảng 3.1. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp điện tử Nhật Bản năm 2016. ....... 52 Bảng 3.2: Tình hình phân bổ sản xuất các linh kiện điện tử ở Nhật Bản ............ 54 Bảng 3.3. Số lượng doanh nghiệp sản xuất ô tô, xe máy Hàn Quốc năm 2015... 73 Bảng 3.4. Chính sách công nghiệp nguyên liệu và linh kiện của Hàn Quốc giai đoạn 1970 đến những năm 2000 ......................................................... 75 Bảng 3.5. Mười sản phẩm sản xuất ở Đài Loan xếp số một thế giới năm 2012 .. 84 Bảng 4.1. Số lượng doanh nghiệp CNHT ngành Điện tử 2006-2015. ............... 104 Bảng 4.2. Tăng trưởng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ thông tin ............... 106 từ năm 2010-2015 (Đơn vị: Triệu USD) ............................................................ 106 Bảng 4.3. Giá trị sản xuất CNHT ngành dệt may (Đơn vị: Tỷ đồng) ................ 109 Bảng 4.4. Lao động lĩnh vực công nghiệp phụ trợ dệt may (Đơn vị: Người) ... 109 Bảng 4. 5. Doanh thu ngành dệt và ngành may trên doanh thu ngành công nghiệp chế biến. ........................................................................................ 110 Bảng 4.6. Tình hình nhập khẩu của ngành dệt may từ năm 2009 - 2015. ......... 111 Đơn vị tính: triệu USD ....................................................................................... 111 DANH MỤC CÁC HÌNH Hình 2.1. Công nghiệp hỗ trợ theo nghĩa rộng .................................................... 27 Hình 2.2. Các lớp cung ứng hỗ trợ. ...................................................................... 35 Hình 4.1. Kim ngạch nhập khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện theo tháng, giai đoạn 2010 - 2012. .............................................................. 105 Hình 4.2. Cơ cấu đầu tư trong CNHT ngành điện tử ......................................... 107 Hình 4.3. Số lượng các doanh nghiệp CNHT ngành dệt may năm 2012........... 108 Hình 4.4. Vốn đầu tư của doanh nghiệp sản xuất sợi và dệt vải. ....................... 108 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hỗ trợ (Supporting Industry) (CNHT) có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế, là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa quốc gia. Ở tầm vĩ mô, phát triển CNHT không chỉ góp phần làm giảm nhập siêu, giảm sự phụ thuộc vào bên ngoài trong sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh, mà còn tăng tính nội địa hóa sản phẩm, chủ động hơn trong các quan hệ thị trường, cạnh tranh để hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, phát triển CNHT còn đáp ứng một cách linh hoạt, kịp thời trước nhu cầu phải thay đổi tính năng, kiểu dáng, mẫu mã, dây chuyền, công nghệ của nhà sản xuất công nghiệp do thị hiếu tiêu dùng ngày càng cao và cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Ngoài ra, phát triển CNHT sẽ góp phần cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức hút đầu tư vào những lĩnh vực công nghiệp mà CNHT đó đi trước một bước để “mở đường”. Chính vì vậy, phát triển CNHT sẽ nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, ngành công nghiệp nói riêng cũng như của cả nền kinh tế quốc dân nói chung đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển nhanh và bền vững. Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và hội nhập quốc tế với mục tiêu hình thành những ngành công nghiệp hiện đại có năng lực cạnh tranh cao không chỉ tại thị trường trong nước mà trên thị trường thế giới. Để đạt được mục tiêu đó đòi hỏi rất nhiều nhân tố khác nhau, trong đó sự hình thành và phát triển CNHT chính là chìa khóa quan trọng và quyết định. Tuy nhiên, hệ thống luật pháp và chính sách của Việt Nam hiện nay chưa đủ mạnh để tạo điều kiện về môi trường pháp lý, định hướng và khuyến khích đầu tư, phát triển ngành CNHT. Hiện ngành CNHT ở nước ta còn khá non trẻ, quy mô sản xuất nhỏ lẻ, chủ yếu sản xuất các linh kiện chi tiết đơn giản, giá trị gia tăng thấp, tính cạnh tranh thấp, chưa đáp ứng được nhu cầu của các ngành công nghiệp chế tạo và lắp ráp; dung lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn nhỏ, chưa hấp dẫn sản xuất CNHT; sức cạnh tranh của sản phẩm hỗ trợ 2 thấp, do giá thành cao, chất lượng không ổn định, thời hạn giao hàng không đảm bảo; chưa có một tổ chức đầu mối quản lý nhà nước về CNHT để đề xuất và thực hiện chính sách khuyến khích phát triển CNHT một cách cụ thể, sát thực; vai trò hỗ trợ trung gian của các tổ chức, các hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước chưa thể hiện rõ, kể cả ở khâu hoạch định chính sách, kế hoạch đến thực thi; các chương trình phát triển CNHT chưa thật sự hiệu quả; doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp của các hoạt động này vẫn chưa nhận được các hỗ trợ thích đáng và cần thiết. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những nền kinh tế đã chú trọng phát triển CNHT từ sớm trên thế giới và đã đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực này. Đối với Nhật Bản, các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) đã giúp Nhật Bản thành công trong lĩnh vực CNHT. Đối với Hàn Quốc thì chính sách mở cửa và tự do hóa thị trường là điểm nổi bật trong thập kỷ 1990 (giai đoạn khởi đầu phát triển CNHT của nước này), đồng thời tiến hành cải cách ngành công nghiệp, với sự hỗ trợ các DNVVN. Đối với Đài Loan, nền kinh tế phát triển thành công CNHT chủ yếu nhờ vào quy định về hàm lượng nội địa hóa sản phẩm. So với các nền kinh tế trên, Việt Nam có trình độ phát triển thấp hơn rất nhiều nhưng có nhiều điểm tương đồng. Do vậy, để phát huy lợi thế so sánh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội nói riêng, quá trình hội nhập quốc tế nói chung, phù hợp với thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay thì việc tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là cần thiết, có ý nghĩa góp phần lựa chọn giải pháp thiết thực để đáp ứng yêu cầu phát triển CNHT, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành công nghiệp Việt Nam xét trên cả tầm nhìn trung và dài hạn. Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu đề tài“Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” được đặt ra hết sức cấp thiết trên cả phương diện lý luận và thực tiễn, là một trong những hướng nghiên cứu cơ bản, quan trọng và chiến lược của khoa học xã hội và nhân văn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. 3 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích của luận án là phân tích, đánh giá quan điểm và giải pháp phát triển CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan nhằm rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam để thúc đẩy phát triển ngành kinh tế này ở đất nước ta trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án có nhiệm vụ: Thứ nhất, tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam. Thứ hai, làm rõ những vấn đề lý luận về phát triển CNHT (khái niệm, đặc điểm, vai trò, tiêu chí đánh giá và các nhân tố tác động đến sự phát triển CNHT). Thứ ba, nghiên cứu thực tiễn phát triển CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan từ năm 1980 đến nay, từ đó rút ra những kinh nghiệm về phát triển CNHT. Thứ tư, rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong phát triển CNHT trong giai đoạn tới. Thứ năm, nêu hàm ý chính sách cho Việt Nam trong phát triển CNHT. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn (chủ yếu là cơ chế, chính sách) phát triển CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, đáp ứng yêu cầu phát triển các ngành công nghiệp, nội địa hóa sản phẩm và tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi nội dung: Nghiên cứu phát triển CNHT một cách tổng thể, trong đó tập trung chủ yếu vào các vấn đề về cơ chế, chính sách. Đồng thời, luận án cũng tập trung phân tích sâu một số ngành cụ thể như: ở Nhật Bản: CNHT ngành ô tô, điện tử, dệt may; ở Hàn Quốc: CNHT ngành thép, dệt may, điện tử, ô tô; ở Đài Loan: CNHT ngành dệt may, chế tạo máy, sản xuất bán dẫn; ở Việt Nam: CNHT ngành điện tử, dệt may. 4 - Phạm vi không gian: CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam. - Phạm vi thời gian: Nghiên cứu kinh nghiệm và thực tiễn ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan từ năm 1980 đến nay, ở Việt Nam từ khi có chủ trương phát triển CNHT vào những năm 1990, nhất là từ sau Đại hội XI (tháng 01/2011) đến nay. Nghiên cứu vận dụng kinh nghiệm các nước vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035 (đáp ứng yêu cầu chiến lược ghi trong Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 9 tháng 6 năm 2014). 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận Luận án được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là lý luận về phân công lao động và chuyên môn hóa sản xuất. Luận án sử dụng một số lý thuyết và mô hình kinh tế học như liên kết kinh doanh (business linkages), chuỗi giá trị (value chain), cụm liên kết doanh nghiệp công nghiệp (industrial cluster) để phân tích và làm rõ vấn đề nghiên cứu. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương pháp thu thập tài liệu, phương pháp hệ thống hóa lý luận, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, mô hình, đồ thị và phương pháp chuyên gia. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án đã hệ thống hóa một cách toàn diện những vấn đề lý luận về phát triển CNHT, đặc biệt làm rõ vai trò, tiêu chí và những nhân tố tác động đến việc phát triển CNHT. Luận án đã phân tích và đánh giá thực tiễn phát triển CNHT của Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, đặc biệt có những phân tích so sánh về chính sách cũng như điều kiện phát triển CNHT ở ba nền kinh tế này. Luận án đã rút ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam về phát triển ngành CNHT trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án góp phần bổ sung và phát triển những vấn đề lý luận về phát triển CNHT. 5 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án cung cấp các luận cứ, cơ sở khoa học cho Việt Nam trong việc hoạch định các chính sách cho phát triển CNHT; rút ra bài học kinh nghiệm phát triển CNHT đã được thực hiện ở ba nền kinh tế phát triển nhất Đông Á, bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan để áp dụng vào Việt Nam. Thông qua việc nghiên cứu, luận án đã gợi mở một số cách thức để giải quyết các vấn đề còn tồn tại trong phát triển CNHT ở Việt Nam cho cả phía Nhà nước và doanh nghiệp, như thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển nguồn nhân lực năng động, sáng tạo; tập trung đầu tư vào các ngành CNHT mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh; đề xuất một số kiến nghị cụ thể cho Nhà nước trong việc hỗ trợ cho các DNVVN theo kinh nghiệm từ ba nước Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được kết cấu thành 4 chương. Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Việt Nam Chương 2. Những vấn đề lý luận về phát triển công nghiệp hỗ trợ Chương 3. Thực tiễn phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Chương 4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam nhằm thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ Ở NHẬT BẢN, HÀN QUỐC, ĐÀI LOAN VÀ VIỆT NAM 1.1. Những nghiên cứu lý luận về công nghiệp hỗ trợ và phát triển công nghiệp hỗ trợ Nghiên cứu lý thuyết và ứng dụng về các yếu tố cấu thành nên lợi thế cạnh tranh. Năm 1990, “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” đã được M. Porter nhắc đến trong “Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia” (The competitive advantage of nations, Harvard business review 1990) [135]. Trong đó, cụm từ này đã được phân tích như là một trong năm yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. Tuy nhiên, các nghiên cứu về CNHT nhiều nhất vẫn là ở các quốc gia Đông Á, đặc biệt là Nhật Bản, nơi ra đời khái niệm CNHT. Tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản đã được phân tích trong “Chi nhánh các nhà lắp ráp Nhật Bản ở châu Á” (Japanese-Affiliated Manufactures in Asia), JETRO thực hiện năm 2003 [123]; và “Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản” (Survey report on overseas business operations by Japanese manufacturing companies) do Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) xuất bản năm 2004 [122]. Báo cáo chỉ ra rằng, chi nhánh các tập đoàn Nhật Bản ở châu Á, đặc biệt là Thái Lan, Malaysia, Indonesia đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản. Porter E. Michael (1990) trong tác phẩm“The competitive advantage of nations, Harvardbusiness review” (Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia), Trường Đại học Havard - New York Mỹ [135], đã phân tích, giải thích thuật ngữ “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ”. Tác giả phân tích khá sâu sắc thuật ngữ này thông qua việc đưa ra lý thuyết về khả năng cạnh tranh quốc gia qua mô hình “viên kim cương”. Trong đó, công nghiệp liên quan và hỗ trợ được coi là một trong bốn yếu tố quyết định đến lợi thế cạnh tranh của một quốc gia. “Công nghiệp liên quan và hỗ trợ” được coi là sự tồn tại của ngành cung cấp và ngành công 7 nghiệp liên quan có năng lực cạnh tranh quốc tế. Tác giả đã chia yếu tố này thành hai phần là CNHT và công nghiệp liên quan. Theo đó, sự phát triển của một ngành công nghiệp đạt được phải dựa trên khả năng sáng tạo, đổi mới và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư thông qua mối quan hệ tác động qua lại và sự liên kết bền vững như cấu trúc tinh thể của kim cương giữa bốn nhóm yếu tố, trong đó có nhấn mạnh vai trò của CNHT. Bộ Công thương Nhật Bản (MITI, nay là Bộ Kinh tế, Công nghiệp và Thương mại, METI) (1985), trong công trình “White paper on Industry and Trade” (Sách trắng về hợp tác kinh tế), Tokyo [140], thuật ngữ CNHT lần đầu tiên được nhắc đến để chỉ các DNNVV có đóng góp cho việc phát triển cơ sở hạ tầng công nghiệp ở các nước châu Á trong trung và dài hạn hay đó chính là các công ty sản xuất linh phụ kiện. Các tác giả đã đánh giá vai trò của các công ty sản xuất linh phụ kiện trong quá trình CNH, HĐH và phát triển các DNNVV ở Hàn Quốc, Đài Loan và các nước ASEAN, đặc biệt là ASEAN 4 (gồm bốn nước: Indonesia, Malaysia, Philipines và Thái Lan). Việc thúc đẩy phát triển hệ thống các DNNVV chính là việc thúc đẩy phát triển các doanh nghiệp hỗ trợ trong quá trình CNH, HĐH ở những nền kinh tế này. Năm 2002, Tổ chức năng suất châu Á (Asian productivtity Orgnisation) đã đúc kết kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ trong cuốn sách “Đẩy mạnh CNHT: các kinh nghiệm của châu Á” (Strengthening of supporting Industries: Asian Experiences) [115]. Đây là tài liệu hữu ích cho các nước đang phát triển về chính sách phát triển CNHT qua các thời kỳ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan. Các chính sách này tập trung vào một số điểm chính: Thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển CNHT, quy định về tỷ lệ nội địa hóa và các hỗ trợ mạnh mẽ hiệu quả từ phía Chính phủ dành cho liên kết doanh nghiệp, như là điều kiện tiên quyết để phát triển CNHT. Lê Thế Giới (2009) đã nêu ra cách tiếp cận lý thuyết cụm công nghiệp và hệ sinh thái kinh doanh trong “Nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành CNHT tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, số 1/2009 [36]. Bài viết bàn về các luận điểm cơ bản của lý thuyết cụm công nghiệp và lý thuyết hệ sinh thái kinh doanh trong phát triển các lợi thế cạnh tranh công nghiệp ở cấp 8 độ quốc gia, vùng và địa phương. Từ đó, phân tích làm rõ mối quan hệ giữa CNHT với cụm công nghiệp và hệ sinh thái kinh doanh. Và trên cơ sở nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các ngành CNHT của Việt Nam, tác giả đưa ra các khuyến nghị trong trong nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành CNHT tại Việt Nam. Trong đề tài khoa học cấp Nhà nước “CNHT - kinh nghiệm từ các nước và giải pháp cho Việt Nam” do Hoàng Văn Châu làm chủ nhiệm (2010) [23], , các tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề chung về CNHT, phân tích kinh nghiệm phát triển CNHT của thế giới, trong đó đặc biệt phân tích phát triển CNHT các nước ở khu vực châu Á như: Nhật Bản, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia... từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho quá trình phát triển CNHT tại Việt Nam. Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách công nghiệp - Bộ Công thương, (2010), Đề tài cấp bộ “Nghiên cứu chính sách tổng thể phát triển CNHT trong điều kiện hội nhập” [100], đã đưa ra những vấn đề chung về CNHT như: khái niệm, những nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT, sự cần thiết phải phát triển CNHT ở Việt Nam và các lựa chọn ưu tiên cho phát triển CNHT. Bàn về vai trò của chính sách phát triển công nghiệp của các nước Đông Á không thể không kể đến một ấn phẩm là “Industrial Development In East Asia: A Comparative Look at Japan, Korea, Taiwan and Singapore” (2009), [129], đã có những đánh giá mô tả về chính sách công nghiệp trong bốn nền kinh tế Đông Á - Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Singapore. Tác giả K. Ali Akkemik đã cung cấp một cái nhìn tổng quan về chính sách công nghiệp ở Đông Á và đánh giá định lượng của các chính sách thông qua phân tích năng suất và mô hình CGE. Qua đó đánh giá vai trò tích cực của chính sách công nghiệp và các hoạt động của Chính phủ trong cải thiện phúc lợi và phát triển công nghiệp. Đồng thời, cuốn sách còn đưa ra một so sánh giữa chính sách phát triển công nghiệp của Singapore (khi áp dụng mô hình CGE cho nền kinh tế Singapore) với các nước Đông Nam Á. Năm 1998, nghiên cứu của Goh Ban Lee, Đại học Sains, Malaysia “Liên kết giữa các tập đoàn đa quốc gia và các ngành CNHT nội địa” (Linkage between the Multinational Corporations and Local Supporting Industries) [124], 9 đã đánh giá rất cao vai trò của chính sách phát triển nguồn nhân lực và các chính sách hỗ trợ liên kết của Chính phủ Malaysia giữa các tập đoàn điện tử gia dụng của Nhật Bản với các doanh nghiệp nội địa sản xuất linh kiện cho ngành điện tử. Năm 2002, nhóm tác giả Noor, Halim, Clarke, Roger, Driffield và Nigel chỉ ra vai trò quan trọng của hỗ trợ từ phía Chính phủ cho đổi mới và sáng tạo của các doanh nghiệp nội địa trong phát triển cung ứng cho ngành điện tử, trong: “Tập đoàn đa quốc gia và các nỗ lực công nghệ của doanh nghiệp địa phương: trường hợp nghiên cứu ngành công nghiệp điện và điện tử Malaysia” (Multinational cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysian Electronics and Electrical Industry) [125]. Tháng 3 năm 2004, Báo cáo nghiên cứu điều tra “Xây dựng và đẩy mạnh CNHT ở Việt Nam” [34] do JETRO thực hiện được coi là tài liệu đầu tiên đánh giá về các ngành CNHT ở Việt Nam. Tác giả đã khẳng định CNHT ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành. Mặc dù nhận thức của các cơ quan Chính phủ và doanh nghiệp thời điểm đó còn rất thấp, các doanh nghiệp tư nhân và khối doanh nghiệp FDI đang vươn lên và khá chủ động trong việc nắm bắt các cơ hội. Năm 2004, Bài viết “Phát triển CNHT trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam” [91] trên tạp chí Kinh tế và Phát triển, tác giả Nguyễn Kế Tuấn đã đề cập tổng quát: khái niệm, vai trò, các nhân tố tác động đến phát triển CNHT, đề xuất một số chính sách chủ yếu về phát triển CNHT, đặc biệt là quan điểm để lựa chọn xây dựng chính sách phát triển CNHT cho Việt Nam. Trần Văn Thọ (2005), “Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam và công nghiệp phụ trợ mũi đột phá chiến lược” [80], Nhà xuất bản Chính trị quốc gia. Tác giả đã phân tích con đường phát triển công nghiệp ở Việt Nam theo hướng toàn cầu hoá, thông qua phát triển công nghiệp phụ trợ như là lĩnh vực của hệ thống DNNVV; đồng thời, chỉ rõ vai trò quan trọng của phát triển công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay. Coi công nghiệp phụ trợ như là một mũi đột phá chiến lược để trong thời gian ngắn khắc phục các mặt yếu cơ bản của công nghiệp Việt Nam và Việt Nam cần tập trung tất cả các năng lực về chính sách cho mũi đột phá chiến lược đó. 10 Tại Hội thảo về CNHT của JETRO năm 2005, tác giả Phan Đăng Tuất, trong “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho Việt Nam” [92], trong “Kế hoạch hành động về phát triển CNHT Việt Nam” tại Diễn đàn Liên kết hội nhập cùng phát triển năm 2008 và trong “CNHT, vấn đề trọng đại” đăng trên Báo Công Thương số Tết 2009, đã khẳng định các vai trò quan trọng của CNHT đối với nền kinh tế, yêu cầu về DNNVV và sự hợp tác với Nhật Bản trong phát triển CNHT ở Việt Nam. Năm 2007, Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020, do Bộ Công nghiệp (nay Bộ Công thương) soạn thảo [17]. Trong quy hoạch này, lần đầu tiên khái niệm CNHT được chính thức hóa ở Việt Nam. Theo quy hoạch này, kế hoạch và các giải pháp phát triển CNHT: tạo dựng môi trường đầu tư, phát triển khoa học công nghệ, phát triển cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, liên kết doanh nghiệp đã được đề xuất cho 5 ngành công nghiệp ưu tiên: điện tử tin học, dệt may, da giày, sản xuất lắp ráp ô tô, cơ khí chế tạo. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Kim Thu (2012), với chủ đề “CNHT ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế” [81], đã hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về CNHT ở trong hội nhập kinh tế quốc tế; Phân tích mối quan hệ giữa phát triển CNHT với phát triển các ngành công nghiệp. Từ đó, luận án khẳng định sự cần thiết phát triển CNHT và làm rõ nhân tố ảnh hưởng đến CNHT trong hội nhập kinh tế quốc tế. Luận án rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ một số nước về phát triển CNHT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Với mục tiêu sớm trở thành một nước công nghiệp, trong những năm vừa qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển ngành CNHT. Theo đó, để xây dựng ngành CNHT, từ năm 2007, Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công thương) đã ban hành Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN phê duyệt Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 [09]. Tiếp theo, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích phát triển một số ngành CNHT; Quyết định 418/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển KH - CN giai đoạn 2011- 2020; Quyết định số 11 1556/QĐ-TTg về trợ giúp phát triển DNNVV trong lĩnh vực CNHT; Quyết định số 879/QĐ-TTg về Phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035; Quyết định số 880/QĐ-TTg về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 68/QĐ-TTg về Chương trình phát triển CNHT từ năm 2016 đến năm 2025; Bộ Công thương ban hành Quyết định số 9028/QĐ-BCT về Quy hoạch tổng thể phát triển CNHT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Chính phủ ban hành Nghị định số 111/2015/NĐ-CP về phát triển CNHT. 1.2. Những nghiên cứu về thực trạng phát triển công nghiệp hỗ trợ Báo cáo của Cục xúc tiến Ngoại thương Nhật Bản (JETRO) (2003), “Japanese - Affiliated Manufactures in Asia” [123] (Các nhà sản xuất Nhật Bản tại châu Á), đã phân tích tình hình thuê ngoài và các nhà cung ứng sản phẩm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất của Nhật Bản ở châu Á (gồm các nước Hàn Quốc, Đài Loan và ASEAN). Báo cáo cũng nêu lên được khái quát về thực trạng khu vực sản xuất linh kiện điện tử của Hàn Quốc và Đài Loan trong quá trình cung ứng cho các công ty Nhật Bản thời kỳ đó. Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) năm 2004, trong “Báo cáo khảo sát các bộ phận ở nước ngoài của các công ty lắp ráp Nhật Bản” (Survey report on overseas business operations by Japanese manufacturing companies) [122], () đã phân tích thực tế quá trình sản xuất của chi nhánh thuộc các tập đoàn Nhật Bản ở châu Á, đặc biệt là Hàn Quốc và Đài Loan đã sử dụng hệ thống thầu phụ được hình thành với vai trò mạnh mẽ của các doanh nghiệp sản xuất linh kiện có vốn đầu tư từ Nhật Bản. Đó chính là các doanh nghiệp CNHT. Hệ thống thầu phụ này nhằm cung cấp các nguyên liệu, linh kiện, phụ tùng cho các nhà sản xuất, lắp ráp ngay tại Hàn Quốc, Đài Loan, giúp cho các nước này hoàn chỉnh quá trình sản xuất sản phẩm. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (2016), “Báo cáo nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ trong công nghiệp ô tô tại Việt Nam” [26], đã phân tích và đánh giá thực trạng công nghiệp hỗ trợ trong công nghiệp ô tô tại Việt Nam, chỉ ra những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân. Báo cáo cũng đề cập đến xu hướng phát triển CNHT trong ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam. 12 Đại học Ngoại thương (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam” [03]. Đề tài khoa học cấp Bộ, do Nguyễn Hoàng Ánh chủ nhiệm. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra, trong chiến lược phát triển các ngành công nghiệp, Việt Nam nên lựa chọn, định hướng phát triển ngành CNĐT trở thành ngành mũi nhọn, mang tính đột phá chiến lược vì có nhiều ưu thế và lợi thế cạnh tranh. Đề tài cũng đề cập đến xu hướng chuyển dịch một số khâu trong ngành công ngh... kiến chung Việt Nam - Nhật Bản” giai đoạn I (2003 - 2005). Theo đó, Kế hoạch hành động triển khai sáng kiến chung, gồm 44 hạng mục lớn, là những hạng mục đầu tiên nhằm phát triển CNHT ở Việt Nam. Sau này, thuật ngữ CNHT xuất hiện trong một số văn bản của Chính phủ nhưng chưa có định nghĩa về CNHT mà chỉ nêu các ngành CNHT cần tập trung phát triển. Đến năm 2007, trong Quy hoạch phát triển CNHT đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 của Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương) thì CNHT được định nghĩa: “Là hệ thống các cơ sở sản xuất và công nghệ sản xuất các sản phẩm đầu vào là nguyên vật liệu, linh phụ kiện, phụ tùng... phục vụ cho khâu lắp ráp các sản phẩm công nghiệp cuối cùng” [9]. Năm 2011, tại Quyết định 12/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, CNHT được chỉ rõ: “là các ngành công nghiệp sản xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng” [84]. Như vậy, mỗi nước tùy theo yêu cầu phát triển và lợi thế để xác định phạm vi CNHT ở từng giai đoạn cho phù hợp. Nhật Bản, với lợi thế về công nghệ, tiếp cận CNHT theo nghĩa phạm vi rộng (i); Mỹ, với lợi thế về dịch vụ sản xuất tiếp cận CNHT theo nghĩa phạm vi rộng (ii). Việt Nam, giới hạn phạm vi hẹp hơn phạm vi rộng (i), nhưng rộng hơn phạm vi chính. Theo tác giả, CNHT được hiểu là “một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng”. Như vậy, CNHT có thể được ví như “chân núi”, tạo phần cứng để hình thành nên thân núi và “đỉnh núi” chính là ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp sản phẩm công nghiệp hoặc tiêu dùng (Hình 2.1). 27 Hình 2.1. Công nghiệp hỗ trợ theo nghĩa rộng Nguồn: [140] Từ phân tích trên có thể hiểu nội hàm của CNHT như sau: Thứ nhất, là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc thù thuộc ngành công nghiệp, nảy sinh từ phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ở giai đoạn cao, phổ biến. Các ngành CNHT phát triển, thể hiện ở quy mô, số lượng, chất lượng các sản phẩm lắp ráp cuối cùng phản ánh sự phân công lao động, chuyên môn hóa sản xuất ở mức tối ưu. Thứ hai, tính liên kết ngành rất cao, rất đa dạng với công nghệ cao phục vụ lượng lớn các ngành lắp ráp. Một doanh nghiệp cung ứng không chỉ cung cấp linh kiện cho một đơn vị lắp ráp mà có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều doanh nghiệp khác nhau trong chuỗi sản xuất. Thứ ba, có sự kết hợp nhân tố con người và máy móc trong môi trường làm việc có tính chuyên môn hóa cao và trình độ nhất định. Sự chuyển giao giữa các giai đoạn máy móc, gia công, linh kiện, tiền lắp ráp cho thấy sự kết hợp uyển chuyển, hài hòa giữa con người và máy móc. Tùy vào từng giai đoạn mà nhân lực, vật lực chiếm tỷ lệ phù hợp. Thứ tư, thể hiện quy luật liên kết, mối quan hệ lợi ích kinh tế giữa các chủ thể sản xuất, giữa tính độc lập và tính phụ thuộc trong quá trình sản xuất sản phẩm, giữa công nghiệp chính và CNHT, giữa công ty mẹ và công ty con, giữa người nhận vốn và người đầu tư vốn... 28 Thứ năm, gồm những sản phẩm trung gian, gắn liền và phụ thuộc sản phẩm công nghiệp chính. Các sản phẩm của doanh nghiệp cung ứng gắn liền với sản phẩm lắp ráp cuối cùng, phụ thuộc vào cung - cầu thị trường của sản phẩm cuối cùng. 2.1.1.2. Vai trò của công nghiệp hỗ trợ CNHT có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển nền kinh tế nói chung và phát triển ngành công nghiệp nói riêng. Vai trò của phát triển CNHT được thể hiện ở các khía cạnh sau: Thứ nhất, CNHT là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và của cả nền kinh tế. CNHT là “bệ đỡ” cho sự phát triển sản xuất công nghiệp, là nền tảng, cơ sở để sản xuất công nghiệp phát triển mạnh hơn. Chất lượng sản phẩm đầu ra cuối cùng của các sản phẩm công nghiệp phụ thuộc vào chất lượng của các sản phẩm chi tiết, linh kiện được sản xuất từ ngành CNHT. Vì vậy, nếu CNHT kém phát triển thì các ngành công nghiệp chính sẽ thiếu sức cạnh tranh và phạm vi cũng sẽ bị giới hạn trong một số ít các ngành. Trong hội nhập kinh tế quốc tế, năng lực cạnh tranh là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển của doanh nghiệp, của cả quốc gia. Thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm phụ thuộc vào ba yếu tố cơ bản: chi phí, chất lượng và thời gian; trong đó, chi phí là nhân tố hàng đầu. Đối với sản phẩm công nghiệp, chi phí về nguyên vật liệu đầu vào, linh kiện, phụ tùng là lớn nhất. Vì vậy, cắt giảm chi phí lao động không có ý nghĩa nhiều so với việc cắt giảm chi phí linh phụ kiện trong sản xuất, ngay khi những sản phẩm này được nhập khẩu giá rẻ từ nước ngoài thì chi phí vận chuyển, bảo hiểm, lưu kho cũng làm tăng chi phí đầu vào của doanh nghiệp. Năng lực cung cấp linh kiện phụ tùng có tính chất quyết định đến thành quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng và ngành công nghiệp nói chung. CNHT phát triển hợp lý, cân đối sẽ tạo ra các sản phẩm đặc thù của quốc gia, có sức canh tranh hơn các sản phẩm được lắp ráp bởi các linh kiện và nguồn cung ứng toàn cầu. Cùng với việc chủ động trong nguồn cung ứng, chi phí của sản phẩm công nghiệp cũng giảm đáng kể do cắt giảm chi phí vận chuyển, lưu kho, tận dụng nhân công rẻ và nguồn nguyên liệu ngay tại nội địa. 29 Việc phát triển các ngành CNHT một cách hợp lý, cân đối trong bối cảnh thế giới phẳng ngày nay sẽ tạo ra các sản phẩm có đặc thù riêng của quốc gia, có sức cạnh tranh hơn hẳn các sản phẩm chỉ được lắp ráp bởi các linh kiện và nguồn cung ứng toàn cầu. Thứ hai, CNHT đẩy mạnh quá trình chuyên môn hóa và ứng dụng công nghệ hiện đại trong sản xuất. Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp trong ngành CNHT thường có xu hướng tập trung chuyên môn hóa vào các công đoạn hoặc chi tiết sản phẩm có thế mạnh, mặt khác các doanh nghiệp cũng đồng thời thực hiện hợp tác liên kết với nhau nhằm hoàn thiện, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh. Do sự chuyên môn hóa sâu, chuyên tâm vào lĩnh vực của mình và kết hợp với sự hợp tác hóa chặt chẽ nên sẽ tạo năng suất sản xuất và hiệu quả mới tăng lên. Thực tiễn ở các nước công nghiệp hiện đại đã cho thấy, chuyên môn hóa giúp tận dụng tối đa lợi thế so sánh của doanh nghiệp, quốc gia, từ đó thúc đẩy nền công nghiệp ngày càng phát triển theo hướng có lợi. Khi doanh nghiệp phải thực hiện tất cả các công đoạn trong quá trình sản xuất, nguồn lực sẽ bị chia nhỏ, từ đó không có điều kiện phát huy khả năng nổi trội nhất của mình, hiệu quả sản xuất sẽ bị giảm sút. Phát triển CNHT giúp các doanh nghiệp không phải thực hiện tất cả các khâu từ sản xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ, lắp ráp Với sự phát triển của CNHT, các doanh nghiệp chỉ cần tập trung chuyên môn hóa vào một khâu mà mình có khả năng làm tốt nhất và từ đó sẽ đầu tư tiền của, công sức nâng cao hiệu quả, chất lượng của sản phẩm mình làm ra. Hơn nữa, với sự phát triển của các doanh nghiệp chuyên sản xuất linh kiện, phụ tùng, tư liệu sản xuất đầu vào, các doanh nghiệp lắp ráp, chế tạo sản phẩm cuối cùng sẽ không phải lo sản xuất hay nhập khẩu các sản phẩm đầu vào. Các doanh nghiệp hỗ trợ sẽ tập trung nghiên cứu, thiết kế để sản xuất ra các sản phẩm đầu vào ngày càng đạt các tiêu chuẩn chất lượng tốt hơn, năng suất hơn đáp ứng cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp. Quá trình tạo ra thành phẩm nhờ đó nhanh hơn, sản phẩm đạt chất lượng tốt hơn, hiệu quả kinh tế nhờ đó cũng tăng lên. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại vào sản xuất sẽ tạo nên lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm hỗ trợ cũng như sản phẩm cuối cùng tại một quốc gia. 30 Thứ ba, CNHT chính là cơ sở để thực hiện hội nhập công nghiệp toàn cầu. Các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu trên thế giới ngày càng có vai trò chi phối, điều tiết và gần như quyết định với tầm ảnh hưởng rất rộng đến hệ thống kinh tế thế giới. Các nước đang phát triển, đi sau, cũng chịu sự chi phối, điều tiết này và không thể một bước phát triển vượt bậc, để đạt được sức mạnh ngang tầm cần phải có quá trình từng bước tương thích, hợp tác và hội nhập. Điều này chỉ có ngành CNHT mới phát huy được vai trò đó. Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, khi các quan hệ hợp tác được thiết lập, sản phẩm CNHT sẽ là một bộ phận hiện hữu, không tách rời, cấu thành trong các sản phẩm của các tập đoàn công nghiệp đa quốc gia hàng đầu thế giới của Mỹ, Nhật Bản, châu Âu,... CNHT nhờ đó mà trở thành một bộ phận tham gia vào hệ thống sản xuất chuyên môn hóa quốc tế. Giá trị sản xuất của CNHT sẽ được nằm trong chuỗi giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực cũng như toàn cầu. Hội nhập quốc tế quan trọng hơn là hội nhập ở thượng nguồn, tức là phối hợp với nhau trong quá trình tham gia sản xuất linh kiện, để tham gia vào chuỗi sản xuất toàn cầu. CNHT chính là mắt xích quan trọng trong chuỗi sản xuất toàn cầu chứ không phải công nghiệp lắp ráp. Công nghiệp lắp ráp lại thuộc khâu hạ nguồn, nó không mang tính sản xuất, chế tạo, thiếu yếu tố năng động, sáng tạo. Đối với việc tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất toàn cầu, nếu như CNHT không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Dù những sản phẩm này có thể được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chúng loại quá nhiều, chi phí chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến sự rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công ty đa quốc gia sẽ gặp khó khăn trong việc quản lý dây chuyền cung cấp nếu phải nhập khẩu phần lớn linh kiện, bộ phận, và các sản phẩm công nghiệp phụ trợ khác. Thứ tư, CNHT góp phần hạn chế nhập siêu, giúp phát triển ngành công nghiệp nội địa Việc phát triển CNHT sẽ giải quyết căn bản tình trạng nhập siêu, giảm sự phụ thuộc vào các nước, đảm bảo cân bằng cán cân xuất nhập khẩu, bởi nó giúp các ngành sản xuất chủ động được nguồn nguyên vật liệu đầu vào, không phải nhập khẩu nguyên liệu và các linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp, chủ động 31 lựa chọn được nhà cung cấp, cắt giảm chi phí sản xuất, giảm giá thành, tăng năng lực cạnh tranh. Mặt khác, việc cung ứng nguyên vật liệu, linh kiện phụ tùng ngay trong nội địa, làm cho nền kinh tế chủ động, không bị lệ thuộc nhiều vào nước ngoài và các biến động của nền kinh tế toàn cầu. CNHT đáp ứng được nhu cầu sản phẩm đầu vào chất lượng cho các ngành công nghiệp sản xuất lắp ráp sẽ giúp phát triển ngành công nghiệp nội địa nói chung. Có thể thấy, việc phát triển ngành CNHT trong nước sẽ tạo đà cho các ngành công nghiệp khác phát triển do có sự chuyên môn hóa trong khâu cung cấp nguyên liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ sản xuất. Hơn nữa, các sản phẩm cuối cùng được giảm giá thành do việc cung cấp nguyên vật liệu trở nên nhanh chóng, thuận tiện hơn. Mặt khác, chất lượng sản phẩm cũng ngày một nâng cao phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng một khi ngành CNHT được chú trọng phát triển. Thứ năm, CNHT phát triển có hiệu quả tạo điều kiện thu hút được FDI và tạo tăng trưởng bền vững. Nhân tố lao động giá rẻ ngày nay cũng không còn sức hấp dẫn nhiều trong thu hút đầu tư, phát triển bền vững. CNHT phát triển sẽ thu hút FDI, tỷ lệ của chí phí về CNHT cao hơn nhiều so với chi phí lao động nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng CNHT không phát triển sẽ làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Đối với công nghiệp lắp ráp và tận dụng lao động giá rẻ, đến một mức độ nào đó khi các tập đoàn kinh tế không thấy cơ hội nữa họ sẽ rời bỏ đi. Thay vào đó, xu thế ngày nay các tập đoàn kinh tế, công ty nước ngoài, các nhà đầu tư sẽ chú trọng tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà máy vào những khu vực mà tại đó họ có thể tận dụng được một ngành CNHT tốt, đáp ứng được nhu cầu mua sắm linh kiện, chi tiết sản phẩm hay như các hợp đồng cung cấp, đặt hàng sản xuất các chi tiết, đơn vị sản phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất, chuỗi giá trị sản phẩm. Các doanh nghiệp hoạt động trong ngành CNHT nội địa cũng không phải mất phí tổn và thời gian về nghiên cứu phát triển do công đoạn này đã được các tập đoàn đầu tư, các công ty đa quốc gia thực hiện. Do vốn đầu tư được rải ra cho nhiều doanh nghiệp nên phân tán, hạn chế được rủi ro, khủng hoảng nếu có. Phần lớn các doanh nghiệp CNHT có quy mô nhỏ, 32 nên có thể thay đổi mẫu mã, đổi mới hoạt động sản xuất nhanh, ứng phó linh hoạt với biến động của thị trường. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải là CNHT phát triển đồng bộ rồi mới có FDI. Giữa FDI và ngành CNHT có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Trong nhiều trường hợp FDI đi trước và lôi kéo các công ty khác (kể cả công ty nước ngoài và công ty khu vực địa phương) đầu tư phát triển CNHT. Thứ sáu, CNHT phát triển tạo công ăn việc làm, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, khuyến khích ứng dụng, sử dụng khoa học công nghệ cao, lực lượng lao động có cơ hội được tiếp xúc, học hỏi, nâng cao tay nghề. Các quốc gia có nền CNHT kém phát triển thường là những nước có nguồn nhân lực dồi dào nhưng chất lượng lao động thấp. Vì thế mà các doanh nghiệp trong nước vẫn phải nhập khẩu các sản phẩm CNHT để tiến hành sản xuất và xã hội thì vẫn tồn tại một số lượng lớn lao động không có công ăn việc làm. CNHT phát triển có vai trò tạo thêm việc làm cho người lao động trong lĩnh vực công nghiệp. CNHT phát triển khiến nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp sản xuất trong nước cũng tăng cao, những người lao động ở các làng quê muốn có công ăn việc làm phải tham gia các lớp học nghề, các trường trung cấp hay cao đẳng, đại học để bắt kịp với nhu cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp. Với mức bao phủ rộng các ngành công nghiệp, số lượng việc làm mà CNHT tạo ra sẽ là không nhỏ. Môi trường đầu tư sẽ trở nên hấp dẫn hơn nhờ CNHT phát triển, các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư cũng muốn tuyển dụng thêm lao động phổ thông trong nước để giảm chi phí nhân công. CNHT càng phát triển đòi hỏi chất lượng lao động cũng phải ngày một nâng cao để đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của nhà sản xuất. Một bộ phận các doanh nghiệp sẽ thực hiện chủ trương đào tạo tay nghề cho nhân công để nâng cao chất lượng sản phẩm. Cơ cấu lao động nhờ đó ngày càng phát triển theo hướng tích cực. Mặt khác, lao động trong CNHT sẽ khuyến khích, phát huy tinh thần đổi mới, sáng tạo, trong khi hoạt động lắp ráp là những công việc đơn thuần, lặp đi lặp lại, trình độ tay nghề của công nhân không có cơ hội được nâng cao, tiếp cận với tiến bộ khoa học kỹ thuật. Thứ bảy, CNHT góp phần quan trọng trong sự ổn định kinh tế, xã hội, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH đất nước. 33 Khi các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp tự sản xuất được các chi tiết, linh kiện sản phẩm, đồng nghĩa với việc không còn phải nhập khẩu để phục vụ cho xuất khẩu, từ đó sẽ có tác động hạn chế nhập siêu, tăng nguồn thu ngoại tệ, đồng thời giảm được tình trạng lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Ngành CNHT phát triển tự động nó sẽ có tác động tăng tỷ lệ nội địa hóa, giảm giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa. Ngoài ra, ngành CNHT phát triển sẽ tạo ra hiệu ứng kéo các ngành công nghiệp khác phát triển, giải quyết công ăn việc làm, tạo giá trị gia tăng cho nền kinh tế, kích thích tiêu dùng trong nước, đóng góp tăng trưởng kinh tế và làm giảm tỷ lệ người nghèo. CNHT là động lực của quá trình CNH, HĐH và là nền tảng phát triển của các ngành công nghiệp chủ lực của mỗi quốc gia. Ở các nước, phát triển CNHT luôn được ưu tiên đầu tư phát triển trước, làm cơ sở cho các ngành công nghiệp chính phát triển và là con đường ngắn nhất giúp các nước này trở thành nước công nghiệp phát triển. Đối với các nhà sản xuất lắp ráp sản phẩm cuối cùng, tập trung vào sản xuất sản phẩm chính, không phải lo các yếu tố đầu vào, vì CNHT phát triển sẽ tạo ra hệ thống các sản phẩm hỗ trợ luôn sẵn sàng đáp ứng mọi yêu cầu của các nhà lắp ráp. Mặt khác, CNH, HĐH là quá trình cải tiến lao động thủ công, lạc hậu thành lao động sử dụng công nghệ tiên tiến hiện đại. CNHT đòi hỏi phải có trình độ công nghệ, lao động chuyên môn hóa cao, nghĩa là quá trình đó sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động, lao động được phân bổ vào các ngành, vùng khác nhau. Sự chuyển dịch lao động từ các ngành có năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất cao, từ lao động trình độ giản đơn sang lao động phức tạp được đào tạo trình độ cao, đáp ứng tiêu chuẩn, quá trình sản xuất các sản phẩm hỗ trợ. Đây được coi là một trong những chỉ tiêu quan trọng, phản ánh thực chất nhất mức chuyển biến của ngành kinh tế. Thứ tám, CNHT phát triển tạo tiền đề cho phát triển bền vững. CNHT là một mắt xích quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống sản xuất hiện đại. Một hệ thống sản xuất hiện đại bao gồm nhiều quá trình: sản xuất nguyên vật liệu, máy móc, công cụ, các bộ phận, quá trình lắp ráp bán thành phẩm và thành phẩm, Trong đó, CNHT thực hiện công đoạn sản xuất các bộ 34 phận công cụ, máy móc chất lượng cao hỗ trợ trực tiếp quá trình lắp ráp, sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Như vậy, CNHT phát triển mới tạo nên được sự bền vững trong hệ thống sản xuất mà nếu không phát triển CNHT thì nền công nghiệp của một quốc gia sẽ mãi chỉ là gia công, lắp ráp đơn thuần, phải phụ thuộc nguyên liệu đầu vào nhập khẩu từ nước ngoài, khi đó giá trị gia tăng cho sản phẩm cuối cùng không cao, thu nhập thực tế của người lao động thấp, không tương xứng với công sức lao động bỏ ra. CNHT cũng giúp cho các ngành công nghiệp chủ đạo sẽ chủ động trong quá trình sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm của mình, từ đó thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế đất nước. Đây chính là cơ sở cho sự phát triển bền vững trong tương lai. 2.1.2. Phát triển công nghiệp hỗ trợ 2.1.2.1. Khái niệm phát triển công nghiệp hỗ trợ Phát triển CNHT là sự gia tăng về quy mô, số lượng và chất lượng đóng góp của công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung gắn với việc chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng tiến bộ, hợp lý. 2.1.2.2. Đặc điểm phát triển công nghiệp hỗ trợ Thứ nhất, về tính liên kết hệ thống. CNHT mang tính liên kết hệ thống theo quy trình sản xuất và tạo nên chuỗi giá trị. Trong sản xuất công nghiệp, sản phẩm đầu ra, quá trình sản xuất của ngành này lại là sản phẩm hỗ trợ hay sản phẩm đầu vào, quá trình sản xuất cho ngành khác. Một sản phẩm hoàn chỉnh sau khi trải qua sự đan xen, tác động lẫn nhau, và có thể được sản xuất ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trên nhiều địa bàn, khu vực, địa lý khác nhau. Do các sản phẩm của CNHT nằm ở các vị trí khác nhau trong chuỗi giá trị sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên vị trí các nhà cung cấp cũng được phân loại theo cấp độ, hệ thống; tính đa cấp của CNHT kéo theo sự phân chia khá rõ ràng trong các thành phần tham gia CNHT và xuất hiện nhà cung cấp lớp I, lớp II, lớp III..., trên cùng là nhà lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Nhà lắp ráp có thể có nhiều đối tượng hợp tác chuyên sản xuất cung ứng các sản phẩm hỗ trợ, dẫn đến các nhà cung cấp ở các cấp hay vị trí khác nhau sẽ có đặc điểm, vai trò, quy mô vốn, công nghệ và tính chất hỗ trợ khác nhau [111] (Hình 2.2). 35 Hình 2.2. Các lớp cung ứng hỗ trợ. Nguồn: [113] Nhóm đối tượng lớp 1, là các cơ sở sản xuất tin cẩn nhất, được đầu tư vốn và chỉ chuyên sản xuất các sản phẩm riêng của chính hãng thiết kế, đặt hàng, thường gọi là phụ trợ “ruột”; phần lớn là loại hình tập đoàn công nghiệp, thành lập và phát triển cho mình một mạng lưới các nhà cung ứng dưới hình thức công ty mẹ - con, thực hiện sản xuất linh kiện phụ tùng quan trọng, hàm chứa các bí quyết công nghệ theo yêu cầu của công ty lắp ráp trong tập đoàn [55, tr.34-35]. Nhóm đối tượng lớp thứ 2, thường là các DNNVV độc lập, chuyên cung cấpcác chi tiết, linh kiện quan trọng cho các nhà cung ứng ở đối tượng thứ nhất, hoặc cung ứng thẳng cho các nhà lắp ráp theo một hợp đồng tương đối thường xuyên, đây là liên kết gắn bó và được đảm bảo bằng thời gian hợp tác, uy tín, quyền lợi cho cả hai bên [138]. Nhóm đối tượng lớp thứ 3, là các cơ sở sản xuất các sản phẩm hỗ trợ hàng loạt, mua sẵn, quan hệ với nhà lắp ráp theo kiểu mua bán thông thường; chủ yếu là các chi tiết đơn giản, rẻ tiền, có giá trị gia tăng thấp với hàm lượng nguyên vật liệu trong sản phẩm cao, thường được các công ty lắp ráp đa quốc gia đặt hàng ngay tại quốc gia sở tại mà họ lắp ráp hoặc tiêu thụ sản phẩm cuối cùng [92]. Tùy thuộc vào đặc thù ngành công nghiệp, thị trường tiêu thụ, chuỗi giá trị sản xuất, cung ứng ra sản phẩm, hoặc đặc điểm về quốc tịch của doanh nghiệp lắp ráp, các nhà lắp ráp có tới 3-4 lớp doanh nghiệp cung ứng hỗ trợ hoặc nhiều tầng cấp hỗ trợ hơn nữa. Trong hệ thống đa cấp của CNHT, các nhóm cung ứng, 36 hỗ trợ ở các lớp I, II, III... luôn phụ thuộc và tạo tiền đề cho nhau phát triển hướng đến phục vụ ngành lắp ráp. Từ đó xuất hiện phổ biến trong các hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo kiểu thầu phụ/vệ tinh, liên doanh, liên kết trong một mạng lưới tổ chức sản xuất phối hợp, thống nhất và có tính hợp tác cao giữa các doanh nghiệp chính và các doanh nghiệp sản xuất hỗ trợ. Chính mối liên kết này khiến cho các ngành công nghiệp nội địa cũng như ngành công nghiệp trong và ngoài nước gắn bó chặt chẽ với nhau trong chuỗi giá trị, chuỗi phân công lao động không thể tách rời dựa trên mối quan hệ lợi ích và hiệu quả kinh tế. Hình 2.2 mô tả các lớp cung ứng của một tập đoàn đa quốc gia A, đồng thời cũng thể hiện tính liên kết của các loại hình doanh nghiệp trong quá trình tham gia vào chuỗi giá trị sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh. Các nhà cung cấp lớp I, lớp II, và lớp III cung ứng lần lượt theo các lớp cho doanh nghiệp lắp ráp, song vẫn cung ứng cho cả các đơn vị khác, chứ không chỉ cung ứng cho một đơn vị là tập đoàn đa quốc gia A. “Điều này khẳng định trong chuỗi cung ứng sẽ kết nối nhiều loại hình công ty, doanh nghiệp lại với nhau, từ nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ đến nhà cung ứng và khách hàng, quy trình liên kết cũng được mở rộng ở các công đoạn từ khâu cung cấp nguyên vật liệu thô chưa qua xử lý đến khâu lắp ráp để sản xuất ra sản phẩm cuối cùng. Hàng loạt các doanh nghiệp, các nhà cung ứng và khách hàng được kết nối với nhau ở cả trong và ngoài hệ thống. Trong đó, mỗi đơn vị tham gia ở các lớp khác nhau, đến lượt mình lại là nhà cung ứng cho đơn vị ở lớp tiếp theo, cho đến khi thành phẩm tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Điều đó tạo nên tính liên kết, hệ thống chặt chẽ trong toàn bộ các khu, cụm công nghiệp, giúp ngành công nghiệp nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung phát triển hiệu quả” [55, tr.36]. Thứ hai, về công nghệ. Để có một sản phẩm lắp ráp hoàn chỉnh trước khi đưa ra thị trường, trong quá trình sản xuất luôn đòi hỏi sự đa dạng về công nghệ và trình độ công nghệ. Trong bối cảnh KH - CN phát triển mạnh, đòi hỏi chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp hỗ trợ sẽ ngày càng khắt khe hơn. Như trên đã phân tích, trong mỗi lớp cung ứng I, II, III... các sản phẩm hỗ trợ đều đòi hỏi mức độ, trình độ công 37 nghệ khác nhau, liên quan nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau, từ những sản phẩm có mức độ công nghệ cao, phức tạp cho tới những sản phẩm gia công cơ khí... Thường những bộ phận tinh xảo, có giá trị gia tăng lớn, đòi hỏi kỹ thuật, công nghệ rất cao sẽ do những nhà cung cấp lớn có trình độ công nghệ cao đảm nhận. Những chi tiết cấp thấp hơn, kỹ thuật sản xuất không quá khó thì do những nhà cung cấp cấp thấp có trình độ công nghệ thấp hơn cung cấp [55, tr.37]. Thứ ba, về thị trường. Thị trường CNHT ngày càng mở rộng, dung lượng thị trường không chỉ đáp ứng trong nội bộ ngành mà còn đáp ứng nhu cầu liên ngành, đa ngành và không giới hạn không gian địa lý, quan trọng là các sản phẩm có mối liên kết và nằm trong chuỗi giá trị với độ tinh xảo, chuyên môn hóa cao, có khả năng cạnh tranh đáp ứng được nhu cầu của các nhà lắp ráp. Đối với các nước có ngành CNHT phát triển, sau khi đảm bảo cung cấp sản phẩm cho công nghiệp trong nước có thể xuất khẩu sang các nước khác [55, tr.37]. Điều này lý giải xu hướng các nhà lắp ráp thường chuyển dịch từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển, từ các nước kinh tế mới nổi, các quốc gia công nghiệp trẻ sang các quốc gia công nghiệp hoá sau. Tuy nhiên, người tiêu dùng cuối cùng của các ngành CNHT là các nhà lắp ráp sản phẩm công nghiệp, do vậy, thị trường của CNHT không rộng như sản xuất sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng cuối cùng. Dung lượng thị trường sẽ thu hẹp hơn, thậm chí có những sản phẩm phục vụ thị trường rất hẹp, chỉ dành cho một hoặc một số khách hàng nhất định. Do vậy, doanh nghiệp sản xuất sản phẩm CNHT cần đáp ứng được nhu cầu của khách hàng dài hạn hoặc tìm được “thị trường chuyên biệt” hay “thị trường đặc thù” cho chính mình. Thứ tư, về nguồn nhân lực. CNHT là ngành đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ cao. Lao động trong ngành CNHT phần lớn là các nhà vận hành máy móc, những kiểm soát viên về chất lượng sản phẩm, các kỹ thuật viên và các kỹ sư có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, được đào tạo theo tiểu chuẩn, trình độ lành nghề, chuyên môn sâu. Ngành CNHT ở các nước đang phát triển có xu hướng kém tính cạnh tranh hơn do không có khả năng tài chính và lao động trình độ cao để tận dụng và vận hành tốt các thiết bị [55, tr.38]. Theo các chuyên gia Nhật Bản cho biết, nếu đơn 38 thuần dựa vào máy móc dây chuyền thì không tạo ra khả năng cạnh tranh quốc tế vì các quốc gia đều có thể sở hữu chúng [140]. Do vậy, điểm làm nên điều khác biệt chính là đội ngũ nhân công có tay nghề cao vì họ chính là những người trực tiếp vận hành, cải tiến máy móc, phát minh ra những phương pháp mới nhằm nâng cao hiệu quả công việc. Sự thành công của các doanh nghiệp trong ngành CNHT phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ kỹ sư và chuyên gia. Thứ năm, về đối tượng tham gia. Với đặc thù sản xuất ra các linh phụ kiện phục vụ nhiều ngành công nghiệp lắp ráp dựa trên cơ sở phân công lao động, đã thu hút số lượng lớn doanh nghiệp với quy mô khác nhau tham gia; trong đó doanh nghiệp lớn thuộc nhóm đối tượng lớp I, các lớp khác chủ yếu là DNNVV [55, tr.38]. Do tính chất đa cấp và phát triển theo hình tháp, việc đòi hỏi số lượng doanh nghiệp ở cấp thấp rất lớn, đa phần doanh nghiệp ở cấp này là DNNVV. Phát triển CNHT là cơ sở quan trọng và là tiền đề cho các doanh nghiệp nội địa tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế nói chung, hệ thống sản xuất của các công ty đa quốc gia nói riêng để tiếp nhận công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm, đem lại giá trị gia tăng cao. Phát triển CNHT không chỉ là phương thức tối ưu thu hút đầu tư nước ngoài mà còn là cơ sở tạo lập nền công nghiệp trong nước phát triển bền vững với một hệ thống các doanh nghiệp tham gia. 2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ phát triển của công nghiệp hỗ trợ 2.2.1. Số lượng và quy mô doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ Số lượng doanh nghiệp CNHT cùng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp này với số lượng doanh nghiệp công nghiệp lắp ráp cho thấy sự phát triển của CNHT. Số lượng doanh nghiệp CNHT cao thể hiện sự tham gia của các doanh nghiệp vào lĩnh vực này cao, khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cho các ngành công nghiệp chính phát triển. CNHT phát triển khi tỷ lệ doanh nghiệp CNHT trên số doanh nghiệp lắp ráp ngày càng gia tăng. Mức độ phát triển của CNHT được thể hiện ở ba yếu tố cơ bản: số lao động trung bình, số vốn trung bình, doanh thu trung bình của doanh nghiệp CNHT. Tuy nhiên, khi sử dụng tiêu chí này cần chú ý, không phải quy mô doanh nghiệp lớn hàm ý sự phát triển cao của CNHT.Các DNNVV cũng có những ưu điểm riêng và thích hợp với lĩnh vực 39 CNHT. Đặc thù của ngành CNHT chủ yếu do các DNNVV tham gia nên việc đánh giá quy mô doanh nghiệp CNHT chỉ là việc xem xét khả năng đáp ứng yêu cầu cung cấp linh phụ kiện cho doanh nghiệp lắp ráp. 2.2.2. Thị phần và mức độ nội địa hóa sản phẩm Phát triển CNHT sẽ gia tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm, giảm giá thành sản xuất công nghiệp, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và giảm nhập siêu. Trong xu thế toàn cầu hóa, mỗi doanh nghiệp, quốc gia không tự mình sản xuất mọi loại sản phẩm, linh kiện song nếu tỷ lệ nhập khẩu cao, đồng nghĩa với sự yếu kém của lĩnh vực CNHT. Ba hình thức của nội địa hoá: (i) Sản xuất nội bộ của các công ty lắp ráp; (ii) Thu mua từ các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tại nước sở tại; (iii) Thu mua từ các doanh nghiệp nội địa. Nếu chỉ tiêu (i) cao thể hiện doanh nghiệp lắp ráp có năng lực sản xuất, nhưng nếu quá cao, nghĩa là ít doanh nghiệp ở các lớp cung ứng, hàm ý về sự thiếu chuyên môn hóa ở mức độ cao của doanh nghiệp. Chỉ tiêu (ii) cao lại thể hiện sự phụ thuộc vào FDI của lĩnh vực CNHT, chỉ khi có sự tác động giữa (ii) và (iii) tiến tới nâng cao năng lực của các doanh nghiệp trong nước, giảm tỷ trọng mua từ doanh nghiệp FDI và tăng tỷ trọng mua của các doanh nghiệp trong nước, thì lĩnh vực CNHT được coi là phát triển. 2.2.3. Tốc độ tăng trưởng và giá trị gia tăng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ Mỗi sản phẩm có thể chia thành ba giai đoạn chính: thượng nguồn gồm các công đoạn nghiên cứu - triển khai, thiết kế, sản xuất các bộ phận linh kiện chính; trung nguồn là công đoạn lắp ráp, gia công; hạ nguồn là thương hiệu, tiếp thị, xây dựng mạng lưới lưu thông, khai thác và tiếp cận thị trường. Các giai đoạn thượng nguồn và các hạ nguồn là khu vực tạo ra giá trị gia tăng cao. Đây chính là công đoạn của các ngành CNHT. Trong khi trung nguồn với các hoạt động lắp ráp, gia công là khu vực ít tạo ra giá trị gia tăng nhất. Như vậy, một quốc gia có thể tạo ra giá trị gia tăng của các sản p...g đủ yêu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp. Hiện nay, có 3 Trung tâm hỗ trợ kỹ thuật (Technical Assitance Center) tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh đã đi vào hoạt động với mục tiêu hỗ trợ SMEs trong hoạt động tư vấn và là đầu mối tư vấn hỗ trợ công nghệ và chuyển giao công nghệ, cải tiến trang thiết bị và lắp đặt thiết bị đồng thời tiến hành nghiên cứu và phối hợp nghiên cứu phát triển công nghệ, trang thiết bị, sản phẩm mới để chuyển giao cho SMES. 4.2.3.3. Các biện pháp giải quyết khó khăn về mặt bằng xây dựng nhà xưởng sản xuất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong ngành công nghiệp hỗ trợ 146 Về vấn đề này, Chính phủ có thể thực hiện đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các cơ sở giao thông, vận tải như các bến cảng, sân bay, đường sắt, đường bộ, giao thông đô thị; hình thành các kho tàng, điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế trọng điểm để gia tăng điều kiện phát triển công nghiệp; tâp trung xây dựng một số khu, cụm CNHT có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có các ngành công nghiệp chính phát triển Ngoài ra, Chính phủ có thể tiến hành xây dựng các cụm, khu công nghiệp trọng điểm có đầu tư trang thiết bị hiện đại, có khả năng cạnh trannh quốc tế... nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào các khu vực này. 147 Kết luận Chương 4 Phát triển CNHT góp phần to lớn trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất và khai thác các nguồn lực trong nước. Đồng thời là động lực trực tiếp tạo ra giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, tạo điều kiện thu hút được đầu tư nước ngoài, thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền công nghiệp toàn cầu. Đối với Việt Nam đang trong tiến trình CNH, HĐH đất nước, thì mục tiêu này càng trở nên quan trọng trong bối cảnh tăng cường sức cạnh tranh nhằm đuổi kịp các nước phát triển hơn. Từ những nghiên cứu lý luận và thực tiễn phát triển CNHT, trên cơ sở đánh giá thực tiễn phát triển CNHT ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, và dựa trên những nét tương đồng về văn hóa, chính sách mở cửa, hội nhập, lợi thế so sánh về địa lý và nguồn nhân công và các nét khác biệt cơ bản như thể chế chính trị, quy mô thị trường và nguồn tài nguyên, trình độ phát triển của nền kinh tế giữa Việt Nam và các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Chương 4 đã rút ra một số bài học về chính sách phát triển CNHT, bài học về thu hút FDI vào sản xuất CNHT và bài học về chính sách quy định về tỷ lệ nội địa hóa đối với nền CNHT Việt Nam nói chung và ngành điện tử, dệt may nói riêng. 148 KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đề tài: “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và bài học cho Việt Nam” có thể rút ra một số kết luận sau đây: 1. CNHT là một ngành kinh tế kỹ thuật, bao gồm các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, cung cấp linh, phụ kiện máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu đã qua chế biến và các dịch vụ hỗ trợ sản xuất theo các quy trình nhất định để lắp ráp các sản phẩm cuối cùng. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến CNHT như: môi trường kinh tế vĩ mô và cơ chế chính sách của Nhà nước; các quan hệ liên kết khu vực và toàn cầu, ảnh hưởng của các tập đoàn đa quốc gia; hội nhập kinh tế quốc tế; các ngành công nghiệp cơ bản và khu vực hạ nguồn; dung lượng thị trường; tiến bộ KH - CN và năng lực nội địa hóa; nguồn lực tài chính và nguồn nhân lực; hệ thống thông tin; tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm. 2. CNHT có vai trò to lớn đối với sự phát triển của quốc gia. Ngành CNHT có đặc điểm là bao phủ một phạm vi rộng các ngành công nghiệp khác, có quan hệ mật thiết với đầu tư nước ngoài nên nó đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia, đặc biệt với một nước đang phát triển như Việt Nam. CNHT sản xuất ra những linh kiện, phụ tùng để cung cấp cho việc sản xuất ra sản phẩm cuối cùng nên thực tế CNHT đóng vai trò làm cơ sở để phục vụ một số lượng lớn các ngành lắp ráp chứ không chỉ là ngành thu thập ngẫu nhiên các linh kiện sản xuất không liên quan. Ngoài ra, CNHT phát triển là điều kiện quan trọng để có thể thu hút FDI vào trong nước nhất là FDI vào các ngành công nghiệp sản xuất, lắp ráp. 3. Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan là những nền kinh tế đã chú trọng phát triển CNHT từ sớm trên thế giới và đã đạt được nhiều thành công trong lĩnh vực này. Qua nghiên cứu trường hợp của ba nền kinh tế Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan có thể thấy, đối với Nhật Bản, các chính sách hỗ trợ DNNVV đã giúp Nhật Bản thành công trong lĩnh vực CNHT. Đối với Hàn Quốc thì chính sách mở cửa và tự do hóa thị trường là điểm nổi bật trong thập kỷ 1990 (giai đoạn khởi đầu phát triển CNHT của nước này), đồng thời tiến hành cải cách vào ngành công 149 nghiệp, với sự hỗ trợ các DNNVV. Đối với Đài Loan, nền kinh tế phát triển thành công công nghiệp hỗ trợ chủ yếu nhờ vào quy định về hàm lượng nội địa. 4. Chính sách phát triển CNHT của Việt Nam thời gian qua đã góp phần vào sự phát triển của CNHT. Tuy nhiên những chính sách này cũng có những hạn chế nhất định thể hiện ở một số điểm sau: Dung lượng thị trường các ngành công nghiệp hạ nguồn nhỏ, chưa hấp dẫn sản xuất CNHT; Sức cạnh tranh của sản phẩm hỗ trợ thấp, do giá thành cao, chất lượng không ổn định, thời hạn giao hàng không đảm bảo; Chưa có một tổ chức đầu mối quản lý nhà nước về CNHT để đề xuất và thực hiện chính sách khuyến khích phát triển CNHT một cách cụ thể, sát thực; Vai trò hỗ trợ trung gian của các tổ chức, các hiệp hội, cơ quan quản lý nhà nước chưa thể hiện rõ, kể cả ở khâu hoạch định chính sách kế hoạch đến thực thi; Các chương trình phát triển CNHT chưa thật sự hiệu quả; Doanh nghiệp, đối tượng trực tiếp của các hoạt động này vẫn chưa nhận được các hỗ trợ thích đáng cần thiết. 5. Để phát triển CNHT ở Việt Nam thời gian tới, với những kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, có thể đưa ra một số gợi ý sau: Đài Loan và Hàn Quốc đã rất thành công khi tập trung ưu tiên phát triển một số ngành CNHT. Việt Nam cũng cần có các ưu tiên rõ rệt để có thể tập trung nguồn lực cũng như định hướng để hấp dẫn doanh nghiệp đầu tư. Thể chế hoá các quy định liên kết doanh nghiệp. Có chính sách thu hút đầu tư đúng đắn để phát triển CNHT. Phát triển nguồn nhân lực đặc thù cho CNHT. Có chính sách ưu đãi doanh nghiệp sản xuất CNHT. 150 CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Vũ Chí Hùng (2017), “Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Hàn Quốc và một số kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, số 6 (154), tháng 6/2017. 2. Vũ Chí Hùng (2017), “Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản và bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu châu Phi và Trung Đông, số 8(144), tháng 08/2017. 3. Vũ Chí Hùng (2017), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Đài Loan: Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 8, tháng 8/2017. 4. Vũ Chí Hùng (2017), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương, số 500, tháng 8/2017. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Thị Lan Anh (2006), “Công nghiệp hỗ trợ trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”, Đề án môn Kinh tế và quản lý công nghiệp, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội. 2. Từ Thúy Anh (2010), “Phát triển cụm công nghiệp hỗ trợ chuyên ngành: Lý thuyết và thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (số 383). 3. Nguyễn Hoàng Ánh (2008), “Nghiên cứu chuỗi giá trị toàn cầu và khả năng tham gia của các doanh nghiệp ngành điện tử Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Ngoại thương. 4. Trương Thị Chí Bình (2006), “Nghiên cứu đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam thông qua nâng cao hiệu quả của liên kết kinh doanh giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Đề tài, Bộ Công nghiệp. 5. Trương Thị Chí Bình (2007), “Kết nối công nghiệp thương mại trong bối cảnh toàn cầu hóa”, Tạp chí Công nghiệp, 9 (1). 6. Trương Thị Chí Bình (2007), “Nghiên cứu đề xuất xây dựng mô hình Cụm liên kết công nghiệp (industrial cluster) để phát triển công nghiệp phụ trợ Việt Nam”, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Bộ Công thương. 7. Trương Thị Chí Bình (2010), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành điện tử gia dụng ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 8. Ngô Thái Bình - Lê Hằng (2009), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô - xe máy”, Tạp chí Công nghiệp, (1). 9. Bộ Công nghiệp (2007), Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020, Hà Nội. 10. Ngô Thái Bình và Lê Hằng (2009), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô - xe máy”, Tạp chí Công nghiệp, (1). 11. Bộ Bưu chính Viễn thông (2007), Kế hoạch tổng thể phát triển Công nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn 2020, Hà Nội. 12. Bộ Công thương (2007), Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. 13. Bộ Công thương (2007), Công nghiệp hỗ trợ trong ngành công nghiệp điện tử Việt Nam. 14. Bộ Công thương (2009), Dự thảo Nghị định về Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. 15. Bộ Công thương (2008b), Báo cáo tóm tắt chiến lược Công nghiệp Việt Nam đến 2020, Hà Nội. 16. Bộ Công thương (2007a), Báo cáo tình hình phát triển công nghiệp Việt Nam 2006, Hà Nội. 17. Bộ Công thương (2007b), Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đến 2010, tầm nhìn đến 2020, Hà Nội. 18. Bộ Công thương (2008a), Báo cáo tình hình công nghiệp thương mại 2007, Hà Nội. 19. Bộ Công thương (2014), Quyết định số 9028/QĐ-BCT ngày 8 tháng 10 năm 2014 về Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 20. Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Quyết định số 34/2007/QĐ- BCN ngày 31/7/2007 phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. 21. Bộ Ngoại giao Việt Nam (2003), Sáng kiến chung Nhật Bản - Việt Nam nhằm cải thiện môi trường kinh doanh và tăng cường khả năng cạnh tranh của Việt Nam. 22. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 96/2011/TT-BTC ngày 04 tháng 7 năm 2011 hướng dẫn thực hiện chính sách tài chính quy định tại Quyết định 12/2011/QĐ-TTg về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. 23. Hoàng Văn Châu (Tuyển chọn) (2010), Công nghiệp hỗ trợ: Kinh nghiệm của các nước và giải pháp cho Việt Nam, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 24. Hoàng Văn Châu (2010), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội. 25. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (1995), “Báo cáo điều tra phát triển công nghiệp: Công nghiệp hỗ trợ” (Investigation report for industrial development: Supporting industry sector). 26. Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) (2016), “Báo cáo nghiên cứu về công nghiệp hỗ trợ trong công nghiệp ô tô tại Việt Nam”. 27. Chính phủ (2015), Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3 tháng 11 năm 2015 về Phát triển công nghiệp hỗ trợ. 28. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2006), Báo cáo của VDF: Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam theo đánh giá của các nhà sản xuất Nhật Bản, Hà Nội. 29. Diễn đàn phát triển Việt Nam (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp, chính sách và kết quả phát triển công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN. 30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. ERIA (2008), Thiết kế lộ trình hướng tới hội nhập kinh tế Đông Á, ERIA, Hà Nội. 34. Ichikawa K (2003), “Báo cáo về tình hình điều tra xây dựng và phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam”, JETRO. 35. Lê Thế Giới (2009), Phát triển ccông nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam: Lý thuyết, thực tiễn và chính sách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 36. Lê Thế Giới (2009), “Tiếp cận lý thuyết cụm công nghiệp và hệ sinh thái kinh doanh trong nghiên cứu chính sách thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghiệp, (30). 37. Lê Thế Giới (Chủ nhiệm) (2008), “Các giải pháp phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ của thành phố Đà Nẵng”, Đề tài cấp Thành phố. 38. Hayashida Takayuki (2010), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: kinh nghiệm từ Nhật Bản”, Tạp chí Thời báo Kinh tế, (số 210, 211, 212). 39. Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí Tài chính số 3 (tháng 3) 40. Phạm Duy Hiếu (2009), “Công nghiệp hỗ trợ và sự phát triển nền kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Thương mại, (20). 41. Đỗ Mạnh Hồng (2006), “Hội nhập công nghiệp khu vực từ các ngành sản xuất phụ tùng”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, (7). 42. Nguyễn Quang Hồng (2009), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Giải pháp quan trọng đối với doanh nghiệp Việt Nam trong việc hấp thụ công nghệ từ FDI”, Tạp chí Quản lý Kinh tế, (27). 43. Nguyễn Thị Huế (2012), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong ngành ô tô để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp lắp ráp ô tô tại Việt Nam (tập trung nghiên cứu tại các doanh nghiệp Nhật Bản), Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế quốc tế, Trường Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 44. Nguyễn Thị Dung Huệ (2006), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại học Ngoại thương, Hà Nội. 45. Đặng Thu Hương - Trần Ngọc Thìn (2009), “Thực trạng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam và một số giải pháp khắc phục”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (139). 46. Nguyễn Mạnh Hùng (2009), “Các mối liên hệ cơ bản trong công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 9. 47. Nguyễn Trọng Hoài - Huỳnh Thanh Điền (2015), “Định hướng phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, 26 (4). 48. Phí Hồng Minh - Nguyễn Cao Đức (2013), “Cơ chế thầu phụ trong phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, 8 (208). 49. Hà Thị Hương Lan (2008), “Vai trò của công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí Lý luận, (10). 50. Hà Thị Hương Lan (2008), “Công nghiệp phụ trợ với thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị, Viện Kinh tế - chính trị - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 51. Hà Thị Hương Lan (2011), “Phát triển công nghiệp phụ trợ nhằm thu hút FDI: Kinh nghiệm của Trung Quốc và gợi ý cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (2). 52. Hà Thị Hương Lan (2011), “Công nghiệp phụ trợ với vấn đề nhập siêu ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán, (2). 53. Hà Thị Hương Lan (2012), “Công nghiệp hỗ trợ giải pháp hạn chế nhập siêu”, Tạp chí Tài chính Doanh nghiệp, (12). 54. Hà Thị Hương Lan (2013), “Chính sách ưu đãi phát triển Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 5 (583). 55. Hà Thị Hương Lan (2014), “Công nghiệp hỗ trợ trong một số ngành công nghiệp ở Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế Chính trị, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 56. Cù Chí Lợi (2012), “Mạng sản xuất toàn cầu và sự tham gia của các ngành công nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, (4). 57. Trần Quang Lâm - Đinh Trung Thành (2007), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trước làn sóng đầu tư mới của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản”, Tạp chí Kinh tế Châu Á-Thái Bình Dương, (21, 22). 58. Vũ Chí Lộc (2010), “Vai trò của các TNCs trong quá trình phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ tại các quốc gia đang phát triển”, Tạp chí Thương mại, (19). 59. Nguyễn Công Liêm - Nguyễn Mạnh Hà (2007), “Đi tìm lời giải cho ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong kỳ chiến lược tới”, Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế - xã hội, (19). 60. Mitarai H (2005), “Các vấn đề trong ngành điện điện tử của các nước Asean và bài học rút ra cho Việt Nam” trong Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Ohno K và Nguyễn Văn Thường (Chủ biên), Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 61. Mori J (2007), “Thiết kế cơ sở dữ liệu cho công nghiệp hỗ trợ” trong Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam do Ohno K (Chủ biên), VDF - Grips. 62. Mori J - Nguyễn Thị Xuân Thúy (2007), “Phát triển nguồn nhân lực công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa định hướng FDI ở Việt Nam”, trong Việt Namas an Emerging Industrial Country: Policy Scope toward 2020, Ohno K (Chủ biên), VDF. 63. Phùng Nghị (2010), “Đột phá từ công nghiệp hỗ trợ: Cần có một chương trình quốc gia phù hợp”, Thời báo Kinh tế Việt Nam, (150). 64. Ohkawa K - Kohama H (2004), Kinh nghiệm công nghiệp hóa của Nhật bản và sự thích dụng của nó đối với các nền kinh tế đang phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 65. Ohno K - Nguyễn Văn Thường (Chủ biên) (2005), Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 66. Ohno K (Chủ biên) (2007), Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, Nxb Lao động xã hội, Hà Nội. 67. Ohno - Kenichi (VDF) (2008), Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, từ quy hoạch đến Kế hoạch hành động thông qua quan hệ đối tác Monozukuri Việt Nam - Nhật Bản, Kỷ yếu Hội thảo “Kế hoạch hành động và phát triển công nghiệp phụ trợ”. 68. Prema - Chandra Athukorala (2002), “Đầu tư nước ngoài trực tiếp và xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo: Cơ hội và chiến lược”, Đề án Khoa Kinh tế Trường Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Australia. 69. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, (359). 70. Nguyễn Trường Sơn (Chủ nhiệm) (2013), “Điều tra, đánh giá thực trạng công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ giai đoạn 2011-2015 định hướng 2020”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỉnh, Trường Đại học Đà Nẵng, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Ngãi. 71. Nguyễn Đình Tài (2013), “Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, (4). 72. Trương Bá Thanh (2005), “Ứng dụng phương pháp cân bằng tổng thể trong phân tích mối quan hệ tương hỗ giữa ngành công nghiệp chính yếu và các ngành công nghiệp hỗ trợ”, Hội thảo phát triển công nghiệp hỗ trợ - Đại học Đà Nẵng. 73. Nguyễn Văn Thanh (2006), “Xây dựng khu công nghiệp và khu chế xuất theo hướng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, (12). 74. Nguyễn Văn Thanh (2007), “Kinh nghiệm phát triển các cụm liên kết công nghiệp ở các nước đang phát triển”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, (6). 75. Vũ Nhữ Thăng (Chủ nhiệm) (2013), “Giải pháp tài chính phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Đề tài khoa học cấp Bộ. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính - Bộ Tài chính. 76. Phạm Tất Thắng (2013), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản điện tử, (10). 77. Đào Ngọc Tiến (2011), Thực trạng và giải pháp phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam: Giai đoạn 2001-2010 và định hướng tới năm 2020”, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội. 78. Trần Đình Thiên (Chủ nhiệm) (2012), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ - đánh giá thực trạng và hệ quả”, Đề tài khoa học cấp Bộ 79. Trần Văn Thọ (2005), “Công nghiệp hóa Việt Nam trong trào lưu khu vực hoá ở Đông Á”, Tạp chí Thời đại mới, (11). 80. Trần Văn Thọ (2005), Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam và Công nghiệp phụ trợ mũi đột phá chiến lược, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 81. Nguyễn Thị Kim Thu (2012), “Công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 82. Nhâm Phong Tuân - Trần Đức Hiệp (2014), “Ảnh hưởng của các chính sách tới sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Kinh tế và Kinh doanh, tập 30, (4). 83. Đỗ Huy Thưởng (2012), “Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ của một số nước châu Á: Bài học cho Việt Nam”, Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị Thế giới, (10). 84. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 02 năm 2011 về Chính sách phát triển một số ngành công nghiệp hỗ trợ. 85. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định 418/QĐ-TTg ngày 11 tháng 4 năm 2012 Phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020. 86. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1556/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2012 về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ. 87. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 879/QĐ-TTg ngày 09 tháng 6 năm 2014 về Phê duyệt Chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035. 88. Thủ tướng Chính phủ (2014), Quyết định số 880/QĐ-TTg ngày 9 tháng 6 năm 2014 về Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 89. Thủ tướng Chính phủ (2017), Quyết định số 68/QĐ-TTg ngày 17 tháng 01 năm 2017 về Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ từ năm 2016 đến năm 2025. 90. Đỗ Minh Thụy (2012), “Công nghiệp hỗ trợ ngành giày dép - nghiên cứu đối với ngành giày dép ở Hải Phòng”, Luận án tiễn sĩ chuyên ngành Quản lý kinh tế, Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương, Hà Nội. 91. Nguyễn Kế Tuấn (2004), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chiến lược phát triển công nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, (85). 92. Phan Đăng Tuất (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản - Con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, kỳ 1, tháng 12. 93. Phan Đăng Tuất (2008), “Kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ”, trình bày tại diễn đàn liên kết hội nhập cùng phát triển, VCCI. 94. Trương Đình Tuyển (2011), “Báo cáo phát triển công nghiệp hỗ trợ kiến nghị cách tiếp cận và chính sách cho Việt Nam”, Hội thảo Khoa học Chính sách tài chính phát triển công nghiệp hỗ trợ (Viện Chiến lược và Chính sách tài chính (Bộ Tài chính) và Viện nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương), tháng 12. 95. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2013), Kế hoạch trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn thành phố giai đoạn 2013 - 2020, Kế hoạch 131/KH-UBND, ngày 13 tháng 8. 96. Ủy ban nhân dân tỉnh Long An (2013), Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ trên địa bàn tỉnh Long An đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, Quyết định số 3533/QĐ-UBND ngày 10 tháng 10. 97. Văn phòng Ban Chấp hành Trung ương Đảng (2011), “Kinh nghiệm phát triển công nghiệp hỗ trợ của một số nước châu Á”, Thông tin chuyên đề. 98. VDF và Jica (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp chính sách và kết quả phát triển công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN, Nxb Giao thông Vận tải, Hà Nội. 99. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2007), Tài liệu Hội thảo chính sách công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, Hà Nội. 100. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2010), Nghiên cứu chính sách tổng thể phát triển công nghiệp hỗ trợ trong điều kiện hội nhập, Hà Nội. 101. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), Dự thảo Quy hoạch phát triển ngành ô tô Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 102. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), “Công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam”, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Hà Nội. 103. Viện Nghiên cứu Chiến lược chính sách công nghiệp (2011), “Nghiên cứu đánh giá năng lực các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành cơ khí chế tạo và đề xuất mô hình liên kết trong dài hạn”, Báo cáo đề tài cấp Bộ, Hà Nội. 104. Viện Chiến lược và Chính sách tài chính, Bộ Tài chính (2011), Tài liệu Hội thảo chính sách tài chính hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ, Hà Nội. 105. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ: Đánh giá thực trạng và hậu quả”, Đề tài khoa học cấp viện. 106. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2007), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ: Nghiên cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô, xe máy”, Đề tài khoa học cấp viện. 107. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2009), “Phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ: Thực trạng và một số khuyến nghị”, Thông tin chuyên đề, Hà Nội. 108. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (7/2011), “Phát triển cụm ngành công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị”, Kỷ yếu Hội thảo, Đà Nẵng. 109. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (2011), “Phát triển cụm ngành công nghiệp, khu công nghiệp gắn với phát triển công nghiệp hỗ trợ, tạo mạng liên kết sản xuất và hình thành chuỗi giá trị”, Kỷ yếu Hội thảo, Hà Nội. 110. Worl Bank (2005), Thực thi hợp đồng: Những phát hiện qua báo cáo về hoạt động kinh doanh 2005 ở một số quốc gia châu Á, Hà Nội. 111. Nguyễn Trọng Xuân (Chủ nhiệm) (2007), Viện Kinh tế Việt Nam, “Phát triển công nghiệp hô trợ: Nghiên cứu trường hợp công nghiệp hỗ trợ cho ngành sản xuất ô tô, xe máy”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp viện. 112. Trần Thị Thu Lương (2016), Đặc trưng văn hóa Việt Nam Hàn Quốc, tương đồng và khác biệt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Tài liệu tiếng Anh 113. Ngo Duc Anh (2007), Key Issues for Vietnam’s supporting Industries Development: Govetnment Role in Building technology Capability. JBIC’s International Symposium: “Promoting Regional Linkages to Enhance Asia’s Competitiveness and Dynamism”, Jakarta, Indonesia. 114. Abonyi G (2007), Linking greater Mekong subregion Enterprises to international Market. The role of global value chains, International production networks, New York. 115. Asia Productivity Organiazation APO (2002), Strengthening of supporting industries: Asian experience, Tokyo. 116. Alfaro L and Rodriguez-Clare A (2003), Multinationals and Linkages: an empirical investigation. 117. Dennis McNamara (2004), Integrating Supporting Industries - APEC’s Next Challenge, Georgetown University. 118. Department of Energy, USA (2005), Supporting industries - Industries of the future: Fiscal year 2004 annual report, Washington DC. 119. Do Manh Hong (2008), Promotion of Supporting industry: The key for attacting FDIin developing countries. 120. Goodwill Consultant JSC and VDF (2011), Survey on comparision of backgrounds, polycy measuares and outcomes for development of supporting industries in ASEAN (Malaysia and Thailand in comparion with VietNam), Publishing House of Communication and Transport. 121. Laurids (2006), Policies and institutions of industrial deepening and upgrading in Thailand II - The supporting industry with particular amphasis on the downstream plastic parts and mould industries, Working papar No 9, Roskilde University. 122. JBIC (2004), Servey report on overseas business operations by Japanese manufacturing companies, JETRO. 123. JETRO (2003), “Japanese - AffiliatedManufactures in Asia”. 124. Goh Ban Lee (1998), Linkage between the Multinatinl Corporations and Local Supporting Industries, Sains University, Malaysia. 125. Halim Mohd Noor - Roger Clarke - Nigel Driffield (2002), “Multinational cooperation and technological effort by local firm: a case study of the Malaysia Electronics and Electrical Industry”. 126. Jan Harmsen Joseph B. Powell (2010) Sustainable development in the processindustries, John Wiley & Sons, Inc, Hoboken, New Jersey, HoaKy. 127. Kyoshiro Ichikawa (2005), Building and Strengthening Supporting Industries in Vietnam: A survey Report, JETRO, HaNoi. 128. Kimura F (2006) “International Production and Distribution Networks in East Asia: Eighteen Facts, Mechanics, and Policy Implications”, Asian Economic Policy Review, Vol. 1. 129. K.Ali Akkemik (2008), Industrial Development In East Asia: A Comparative Look at Japan, Korea, Taiwan and Singapore, World Scientific Publishing Company; Har/Cdr edition. 130. Ming-Ji Wu (2013), 2013 Industrial Development in Taiwan. Industrial Development Bureau, Ministry of Economic Affairs. 131. Mori J (2005), “Development of supporting industries for Vietnam’sindustrialization: increasing positive vertical externalities through collaborative training”, Master of Arts in Law and Diplomacy Thesis, The Fletcher School, Tufts University, (Có trên địa chỉ: fletcher.tufts.edu). 132. Ohno K (2007), Building supporting industries in Vietnam, Vol. 1, Vietnam Development Forum, Hà Nội - Tokyo (Có trên địa chỉ: vdf.org.vn.) 133. Ohno K (2009), Avoiding the Middle-Income Trap, Renovating Industrial Policy Formulation in VietNam, ASEAN Economic Bulletin, Vol. 26, No. 1. 134. Kwoh-ting Li và Tzong-shian Yu (1982), Experiences and Lessons of Economic Development in Taiwan. 135. Porter. E Michael (1990), The competitive advantage of nations, Harvard business, The Free Press. 136. Peter Larkin, the President and CEO of the National Grocers Association (NGA) (2011), “Comprehensive Supporting Industries' ThaiLand Board of Investment North America, Supporting industries in Thailand. 137. Ratana. E (1999), “The role of small and medium supporting industries in Japan and Thailand’, IDE APEC, Working Paper Series 98/99 Tokyo. 138. Small and Medium Enter prise Agency (2009), Japan’s Policy for Smalland Medium Enterprise, Tokyo. 139. Tsuji M (2007), Industrial Agglomeration and new Technologies, A Global Perspective, Tokyo. 140. MITI (1985), White paper on Industry and Trade, Tokyo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_phat_trien_cong_nghiep_ho_tro_o_nhat_ban_han_quoc_da.pdf
  • pdfTrichyeu_VuChiHung.pdf