Luận án Quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN QUẾ QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ CON NGƢỜI VÀ VĂN HÓA – VĂN MINH Chuyên ngành: Triết học Mã số: 62.22.03.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng HÀ NỘI - 2016 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS,TS. Nguyễn Tiến Dũng. Những trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn

pdf165 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 14/01/2022 | Lượt xem: 517 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Luận án Quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n gốc rõ ràng. Những kết luận được rút ra từ kết quả nghiên cứu của luận án là khách quan và chưa từng được công bố bởi tác giả nào trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận án. Tác giả Nguyễn Văn Quế MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................................................................... 5 1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. ........................................................................................................ 5 1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về con người .............................................................................................................. 11 1.3. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về văn hoá - văn minh ............................................................................................... 24 CHƢƠNG 2: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - Xà HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA PHÂN TÂM HỌC ......................................................................................... 31 2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội .................................................................................... 31 2.2. Tiền đề khoa học ................................................................................................ 33 2.3. Tiền đề tư tưởng ................................................................................................. 39 CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ CON NGƢỜI ......... 52 3.1. Vị trí, vai trò của vô thức trong sự hình thành và phát triển con người ............. 52 3.2. Lý thuyết về nhân cách ...................................................................................... 68 3.3. Tích hợp học thuyết Marx và phân tâm học về con người trong lý thuyết nhân bản của Erich Fromm ................................................................................................ 85 CHƢƠNG 4: QUAN ĐIỂM CỦA PHÂN TÂM HỌC VỀ VĂN HÓA – VĂN MINH...................................................................................................................... 101 4.1. Nguồn gốc và bản chất của văn hóa – văn minh .............................................. 101 4.2. Vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội .............. 112 4.3. Văn hóa của xã hội hiện đại theo quan niệm của E.Fromm ............................ 131 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 147 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ........................................................................................................................... 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Với tính cách là sản phẩm tinh thần của thời đại, sự ra đời của phân tâm học (psychoanalysis) xét đến cùng là nhằm tìm kiếm những lời giải cho những vấn đề của thời đại lúc bấy giờ, nhất là khắc phục sự tha hoá về tinh thần và sự ức chế của con người trong xã hội phương Tây thế kỷ XX. Có thể khẳng định rằng, những thành tựu khoa học kỹ thuật ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi đáng kể bộ mặt của xã hội phương Tây. Một mặt, khoa học kỹ thuật mang đến một đời sống tiện nghi, nhưng mặt khác, nó cũng làm nảy sinh sự lệ thuộc và tha hoá về tinh thần của con người hiện đại. Sự ra đời của Phân tâm học là hướng đến giải phóng con người khỏi những ức chế và dồn nén bên trong của đời sống tâm thần. Nhờ sự tìm tòi, nghiên cứu một lĩnh vực hết sức nhạy cảm, Sigmund Freud đã xây dựng nên học thuyết phân tâm học – một trong những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong nhiều lĩnh vực của đời sống hiện đại. Về điều này, trong Lời giới thiệu cuốn Phân tâm học nhập môn, Jostein Gaarger đã viết: “Thực vậy, tất cả mọi lĩnh vực tri thức của con người như văn chương, nghệ thuật, tôn giáo, nhân chủng học, giáo dục, luật pháp, xã hội học, luật học, sử học và những môn về xã hội hay cá nhân khác đều chịu ảnh hưởng của học thuyết Freud” [41, tr. iv]. Hơn một thế kỷ đã trôi qua, lý thuyết phân tâm học đã có những sự phát triển phong phú hơn rất nhiều, chứ không còn đóng khung trong những điều mà người ta từng hình dung về nó như lúc ban đầu, đó là một phương pháp chữa trị hysteria. Trong xu thế hội nhập quốc tế đang diễn ra hết sức mạnh mẽ trong giai đoạn hiện nay, khoảng cách văn hóa Đông – Tây ngày càng có sự giao thoa và hướng lại gần nhau. Bên cạnh những đóng góp tích cực trong việc phát triển con người và xã hội thì sự hội nhập và phát triển này cũng dẫn tới những nguy cơ mới như: nạn ô nhiễm môi trường, sự mất cân bằng sinh thái, khủng hoảng tài nguyên, đối diện với tình trạng bùng nổ dân số, đại dịch, và hơn nữa đó là tình trạng mất cân bằng tâm lý do đổ vỡ trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, sức ép công việc, sự bất ổn bạo động 2 về chính trị, chiến tranh và những di chứng của nó để lại,đó là những điều làm cho con người ngày càng trở nên tha hóa và ngày càng đánh mất mình trong xã hội. Trong một thế giới đầy biến động như thế, con người cần hiểu rõ hơn về chính mình và những gì con người làm ra trong xã hội. Đặt trong bối cảnh ấy, chúng tôi cho rằng, nghiên cứu vấn đề con người và văn hóa – văn minh tiếp cận từ góc độ phân tâm học giúp chúng ta có cái nhìn khách quan và biện chứng trong đời sống con người và xã hội, góp phần làm phong phú hơn vào kho tàng lý luận cũng như ý nghĩa thực tiễn. Vì thế, khi trả lời phóng viên báo Nhân Đạo năm 1969, Hồ Chí Minh từng nói rằng, “có lẽ xuất phát từ hoàn cảnh của chúng tôi, chúng tôi phải xây dựng đất nước trước hết bằng văn hóa”, nó chính là nền tảng cốt lõi của lối sống, hành vi ứng xử, đạo đức, phương thức hoạt động sống với sự định hướng giá trị mang lại ý nghĩa cho tồn tại con người và xã hội. Việc tiếp cận để làm sáng tỏ quan điểm phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh nhằm chắt lọc để tiếp thu và phát huy những yếu tố tích cực, nhận diện nhằm phê phán, khắc phục những yếu tố chưa hợp lý, qua đó làm phong phú hơn hiểu biết của chúng ta về con người và văn hóa – văn minh. Phân tâm học ra đời được xem như đã “uốn cong” tư duy nhân loại sang một hướng khác, bởi lẽ nó đã phá bỏ những tín điều mang tính truyền thống, đồng thời cung cấp những phương án giải quyết mới cho vấn đề này để khắc phục sự khủng hoảng tinh thần của con người trong xã hội. Quả thực, sức ảnh hưởng của phân tâm học đối với xã hội hiện đại lớn đến mức khó có thể đo lường một cách chính xác, nhưng sự hoài nghi về học thuyết này cũng không ít, nhất là ở các nước phương Đông và Hồi giáo. Phần đông họ chỉ xem phân tâm học như là học thuyết về tình dục. Chính những hiểu biết quy giản (một cách đơn giản) này phần nào làm cho phân tâm học mất đi tính khoa học của nó. Do đó, việc tiếp tục tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề về con người và văn hoá - văn minh trong phân tâm học, theo chúng tôi, là cần thiết nhằm đạt đến một nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn của phân tâm học về vấn đề này. 3 Từ những nhận thức trên, chúng tôi chọn vấn đề “Quan điểm của Phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận án. - Phân tích bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. - Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về con người. - Làm rõ nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về văn hóa – văn minh. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là nội dung cơ bản quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Phân tâm học là một trào lưu tư tưởng có nội dung lý luận vô cùng phong phú và đa dạng. Trong công trình này, chúng tôi chỉ tập trung làm rõ quan điểm của ba nhà phân tâm học đại diện tiêu biểu đó là Sigmund Freud, Carl Gustav Jung và Erich Fromm. Ở mức độ nhất định, chúng tôi cũng viện dẫn tư tưởng của một số nhà phân tâm học khác như Adler, Sullivan, Herbert Marcuse... Sở dĩ, chúng tôi chủ yếu phân tích tư tưởng của Freud, Jung và Fromm bởi vì đây là những nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành, phát triển của phân tâm học. Hơn nữa, so với những nhà phân tâm học khác, chúng tôi cho rằng, trong tư tưởng của Freud, Jung và Fromm có sự kết nối (phê phán, bổ sung và phát triển) rất rõ ràng, nhất là trong quan niệm về con người và văn hóa – văn minh. 4 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nghiên cứu lịch sử triết học và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người và văn hóa – văn minh. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp biện chứng duy vật, phương pháp lịch sử – cụ thể, phương pháp so sánh đối chiếu, phương pháp diễn dịch - quy nạp, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp khái quát hóa – trừu tượng hóa, phương pháp chú giải học, nhân học văn hóa,... 5. Đóng góp mới của luận án - Làm rõ quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh qua tư tưởng của ba nhà phân tâm học tiêu biểu là S. Freud, Carl G. Jung và Erich Fromm. - Bước đầu đưa ra một số nhận xét về giá trị và hạn chế quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 6. Ý nghĩa của luận án - Về phương diện lý luận, những đóng góp mới về mặt khoa học của luận án góp phần cung cấp một sự hiểu biết phong phú và mang tính hệ thống của phân tâm học xoay quanh vấn đề con người và văn hoá – văn minh. - Về phương diện thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học, tâm lý học, văn hóa học và các ngành khoa học xã hội & nhân văn khác. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm có 4 chương (12 tiết). 5 CHƢƠNG 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Phân tâm học là một trong những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống con người xã hội phương Tây nói riêng và thế giới nói chung. Từ khi hình thành vào cuối thế kỷ XIX đến nay, lý thuyết phân tâm học không ngừng được bổ sung và hoàn thiện mà còn thâm nhập vào nhiều ngành học vấn khác nhau. Chính quá trình phát triển đó của phân tâm học đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của giới học thuật. Hiện nay, nghiên cứu về phân tâm học không còn là việc mới, tuy nhiên tính chất chưa rõ ràng của một số nội dung lý thuyết phân tâm học đưa ra còn gây nhiều sự tranh luận, điều này cho thấy, nghiên cứu phân tâm học là cần thiết để tiếp tục làm rõ những vấn đề còn khúc mắc. Tiếp tục nghiên cứu phân tâm học, trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu của luận án, chúng tôi xem xét, đánh giá những thành tựu nghiên cứu đã đạt được của các học giả đi trước để tham khảo, đồng thời xác định những vấn đề lý luận mà luận án tiếp tục đi vào nghiên cứu. Căn cứ vào đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án cũng như những kết quả nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước liên quan đến phân tâm học, chúng tôi chủ yếu tập trung tổng thuật một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có liên quan đến quan điểm của phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh. 1.1. Các công trình nghiên cứu về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. Phân tâm học cũng như các trào lưu triết học phương Tây ra đời có sự liên hệ mật thiết với bối cảnh lịch sử - xã hội và những phát minh khoa học ở thời đại của nó. Ngay từ khi ra đời phân tâm học cũng chịu sự ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử - xã hội, văn hóa, những phát minh khoa học của châu Âu nói riêng và thế giới nói chung cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Cho đến nay, nghiên cứu về phân tâm học đã vượt qua lằn ranh của học thuật. Nếu như ban đầu, phân tâm học chủ yếu chỉ được nghiên cứu ở góc độ y học thần kinh và tâm lý học, thì vào nửa sau thế kỷ XX, 6 các nhà nghiên cứu bắt đầu chú ý nghiên cứu đến khía cạnh văn hóa và nhân văn của phân tâm học. Nghiên cứu về phân tâm học, các học giả đã ít nhiều đề cập đến bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học. Công trình Học thuyết Freud (Nxb Tân Việt, 1943) của Tô Kiều Phương, là công trình tiếp nhận phân tâm học dưới góc độ y học, với mục đích nghiên cứu phân tâm học như là một phương pháp để chữa bệnh tâm thần cho con người, nhưng trong công trình này, Tô Kiều Phương đã đề cập đến những tiền đề quan trọng cho sự ra đời của phân tâm học và chỉ ra rằng, đời sống xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với một lối sống đạo đức giả, đã kìm nén đời sống tâm thần con người, làm nó bị ức chế, không thỏa mãn, dẫn tới sự xuất hiện bệnh tâm thần trong xã hội. Tác giả cho rằng, “trong thế kỷ XIX, một khoa giáo huấn đáng ghét, bằng những phương tiện phản tự nhiên, ngăn cách nó với mọi điều thành thật. Không ai trước mặt trẻ con nói chuyện mà không dè dặt về vấn đề tình dục. Vì vậy, trẻ con phải tìm hiểu vấn đề ấy với bọn gái nhà thổ hay với đám bạn bè lớn tuổi hơn nó” [121, tr. 18]. Chính sự dè dặt và giả dối đó làm cho nhu cầu về đời sống tâm thần của con người không được đáp ứng, đây chính là sự yếu kém hay “gót chân achilles” của tâm lý học trước khi phân tâm học ra đời. Như vậy, trong bối cảnh xã hội mà vấn đề tính dục được ghi nhận nhưng chưa thể giải quyết rạch ròi, chúng lại bị đẩy ra sau một bức bình phong đạo đức giả tạo, tất cả những điều ấy cùng với thực tiễn chữa bệnh tâm thần cho con người là những nguyên nhân dẫn đến sự ra đời, phát triển của phân tâm học khi đi sâu vào nghiên cứu về con người trong điều kiện hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994) của Lưu Phóng Đồng, trình bày một cách khái quát những tiền đề về khoa học tự nhiên và triết học của phân tâm học. Lưu Phóng Đồng cho rằng: “Trong thế kỷ XVIII-XIX, quan điểm duy vật tầm thường chiếm địa vị thống trị trong nghiên cứu y học; người ta quen dùng cơ chế sinh lý để giải thích sự bất thường về tinh thần” [34, tr. 9-10]. Nhưng khi lấy cơ chế sinh lý để giải thích các hiện tượng tâm thần ở những người bệnh không mang lại kết quả. Do vậy, để giải thích các hiện 7 tượng trên đòi hỏi phải tìm nguyên nhân của căn bệnh ở phương diện khác đó là phương diện tâm lý, vì thế, nảy sinh việc nghiên cứu tâm lý học dị thường (Abnormal psychology). Freud chịu ảnh hưởng mạnh mẽ về tâm lý học dị thường này khi làm việc với J.Breuer và J.M.Charcot. Tác giả chỉ ra: “Freud thừa nhận, ông xuất phát từ quan điểm sinh vật học để xem xét khuynh hướng của con người, và quan điểm bản tính hành vi của loài người là được “quyết định luận” quyết định, chủ yếu chịu ảnh hưởng của tiến hóa luận của Darwin” [34, tr. 10]. Lưu Phóng Đồng cho rằng, khi Freud nghiên cứu về con người, “ông coi toàn bộ cơ thể của con người là một hệ thống năng lượng, và cho rằng, trong hệ thống năng lượng này, ngoài năng lượng cơ giới, năng lượng điện, và năng lượng hóa học biểu hiện bằng hình thức sinh lý thể xác, còn có năng lượng tâm lý nảy sinh tác dụng trong quá trình tâm lý” [34, tr. 10]. Và khi xem toàn bộ cơ thể người là một hệ thống các năng lượng chuyển đổi cho nhau, Freud đã chịu ảnh hưởng của học thuyết năng lượng của học phái Helmho, học thuyết đơn tử của Leibniz và lý luận giới hạn ý thức của Herbart. Về mặt triết học, Lưu Phóng Đồng phân tích sức ảnh hưởng của hai nhà triết học Schopenhauer và Nietzsche đến phân tâm học Freud. Với phương châm “tìm tòi bản tính nội tại của con người và thế giới” [34, tr. 11], Schopenhauer và Nietzsche đã công khai tuyên chiến với chủ nghĩa lý tính truyền thống ở châu Âu lúc bấy giờ. Hai ông yêu cầu triết học cần phải thoát khỏi thế giới hào nhoáng bên ngoài và hãy trở về với thế giới nội tâm bên trong, lấy đó làm hướng phát triển của triết học. “Freud đã hấp thụ quan điểm chủ yếu của trào lưu tư tưởng này, từ đó học thuyết của ông cũng hòa nhập vào trào lưu tư tưởng này” [34, tr. 12]. Chúng tôi cho rằng, đây là nguồn khơi lý luận quan trọng dẫn xuất đến quan điểm của Phân tâm học với tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá – văn minh. Nhìn chung, công trình nghiên cứu của Lưu Phóng Đồng đã đề cập đến các tiền đề hình thành của phân tâm học, song chưa có những luận giải cụ thể nhằm làm rõ các tiền đề này đã ảnh hưởng như thế nào đến tư tưởng của phân tâm học, nhất là đến quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. 8 Diệp Minh Lý trong công trình Ximôn Phrớt, (Nxb Thuận Hóa – Trung tâm ngôn Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005) đã giới thiệu khái quát về sự ra đời của phân tâm học. Khi nói về vai trò của những điều kiện dẫn đến sự ra đời của phân tâm học, tác giả cho rằng: “xem xét quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Freud có thể thấy rằng sự biến đổi kinh tế chính trị của xã hội và tiến hóa của văn minh xã hội, đặc biệt sự phát triển của khoa học, văn hóa có ảnh hưởng lớn tới ông” [97, tr. 8]. Ngoài ra, theo tác giả, những phát minh khoa học của thế kỷ XIX, đặc biệt là trong lĩnh vực sinh học và vật lý học là những yếu tố khách quan ảnh hưởng lớn đến sự hình thành phân tâm học. Theo Diệp Mạnh Lý, hoàn cảnh gia đình mang dòng máu Do Thái, quá trình học tập từ thời niên thiếu cho đến khi học hết trung học và sự lựa chọn nghề nghiệp với sự đam mê khoa học của Freud, sống trong một thời kỳ mà chủ nghĩa bài Do Thái diễn ra mạnh mẽ, với nỗi ẩn ức tâm lý của bản thân,... cũng là những nguyên nhân mang tính chủ quan thôi thúc cho sự ra đời phân tâm học. Công trình Freud cuộc đời và sự nghiệp (Nxb Thế giới, Hà Nội, 2006) của Roland Jaccard là công trình giới thiệu khái quát về cuộc đời và sự nghiệp của người sáng lập phân tâm học – Sigmund Freud. Một trong những điểm đáng chú ý là, trong công trình này, Roland Jaccard đã chỉ ra những nguồn gốc tư tưởng có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học của Sigmund Freud như học thuyết tiến hóa Darwin, lý luận của nhà sinh lý học Ernst Brucke, phương pháp chữa bệnh hysteria của Jean-Marie Charcot. Jacard dự định, “đặt lại Freud trong bối cảnh văn hóa của ông, đồng thời chỉ ra làm thế nào Freud lật nhào được các giá trị đã được thiết lập một cách vững chắc nhất” [88, tr. 10]. Theo Jaccard, ảnh hưởng của Charcot là yếu tố quyết định để Freud sau này chuyển từ chuyên ngành thần kinh học sang chuyên ngành tâm bệnh học. Đây cũng chính là chuyên ngành giúp Freud khám phá ra phương pháp phân tâm học - “phương pháp tìm tòi độc đáo, đổi mới nhận thức mà chúng ta có trước đây về mặt tối của con người, nhất là chứng minh được sự tồn tại của một thức “động cơ vô thức”, có liên quan đến sự “dồn nén” và đặc biệt là sự “dồn nén tính dục” [88, tr. 40]. Chúng tôi cho rằng, công trình của 9 Roland Jaccard đã giới thiệu khá sinh động về những tư tưởng ảnh hưởng đến quá trình xác lập quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh trong công trình Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX – nửa đầu thế kỷ XX (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2008) đã trình bày tổng quát về phân tâm học và giới thiệu một số đại diện tiêu biểu của phân tâm học như S.Freud, Carl Jung, và học thuyết Freud mới. Về khái niệm phân tâm học, các tác giả cho rằng, phân tâm học trước hết là lĩnh vực y học thực hành bao gồm hoạt động của hàng trăm nghìn bác sĩ tâm thần tại nhiều quốc gia. Xét về mặt phát sinh, toàn bộ phân tâm học gắn liền với tư tưởng của nhà sáng lập Sigmund Freud. Do vậy, thuật ngữ “phân tâm học” là rộng hơn một cách đáng kể so với thuật ngữ “học thuyết Freud”. Phân tâm học nói chung không phải là lý luận, học thuyết hay tư tưởng hệ thuần tuý” [74, tr. 60]. Các tác giả cũng lưu ý rằng, chúng ta chủ yếu quan tâm tới các phương diện triết học của phân tâm học, song một điều cũng khá quan trọng là không tồn tại triết học phân tâm học với tư cách là một thứ triết học cụ thể. “Chúng ta có thể nói tới các quan điểm triết học của Freud và của một số nhà phân tâm học khác” [74, tr. 61]. Chúng tôi cho rằng, đây là luận điểm mang tính phương pháp luận cho việc định hình nghiên cứu những quan điểm triết học ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển phân tâm học với tính cách là học thuyết nghiên cứu về con người và văn hoá – văn minh. Công trình Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại do tác giả Đỗ Minh Hợp chủ biên (Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2014). Đây là một trong số những công trình hiếm hoi ở Việt Nam tiếp cận học thuyết phân tâm học của Sigmund Freud từ góc độ triết học, cụ thể là nhân học triết học. Về các tiền đề triết học của phân tâm học Freud, các tác giả nhấn mạnh, việc làm rõ các tiền đề triết học ảnh hưởng đến sự ra đời của phân tâm học có một ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu di sản lý luận của Freud và phân tâm học. Khi nói về tư tưởng triết học của Schopenhauer và Nietzsche đối với quá trình hình thành phân tâm học, tác giả cho rằng: “Freud công khai tuyên bố quan điểm của các 10 nhà triết học này không có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học và ông không biết đến các tác phẩm của họ ở giai đoạn xây dựng các luận điểm cơ bản của phân tâm học” [77, tr. 78]. Và như vậy, “với toàn bộ sự tương đồng bên ngoài với phân tâm học, triết học Schopenhauer “không có ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển các tư tưởng của Freud”” [dẫn theo 77, tr. 78 – 79], nhưng một số các nhà nghiên cứu lại cho rằng: “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các luận điểm khác nhau của phân tâm học” [77, tr. 79]. Cho đến nay, việc làm rõ cội nguồn ra đời của phân tâm học với tính cách là một học thuyết nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh, đặc biệt là mối liên hệ giữa các tư tưởng triết học trong lịch sử với phân tâm học vẫn chưa có những kết luận thỏa đáng về mặt khoa học, đây là vấn đề đang đặt ra cho các nhà nghiên cứu: Về điều này, H. Ellenberger viết: “Các cội nguồn triết học của Freud rất đa dạng, song trái ngược với nhiều công trình nghiên cứu, chúng cho tới nay vẫn chưa được làm sáng tỏ đầy đủ” [dẫn theo 77, tr. 80 – 81]. Để đánh giá một cách khách quan về sự ảnh hưởng của các tư tưởng triết học đối với sự hình thành và phát triển của phân tâm học, Đỗ Minh Hợp và các cộng sự đưa ra và phân biệt ba kiểu đánh giá sau: Thứ nhất, “phân tâm học thực sự không phải là triết học về con người, Freud hoàn toàn bác bỏ triết học, thậm chí là người chống lại triết học” [dẫn theo 77, tr. 82], điều này chứng minh cho quan điểm của Freud khi ông công khai tuyên bố quan điểm của các nhà triết học không ảnh hưởng đến việc hình thành phân tâm học. Thứ hai, “vốn không phải là triết học, phân tâm học đòi hỏi được xem xét về mặt triết học, Freud cần được xem xét là nhà khoa học đặt ra các vấn đề triết học và cố luận giải chúng theo cách của mình” [77, tr. 83], với đặc trưng thứ hai này, các tác giả đã đi đến kết luận rằng, “một số tư tưởng triết học hoàn toàn có thể ảnh hưởng đến việc hình thành các quan điểm phân tâm học” [77, tr. 83]. Thứ ba, “triết học xuyên suốt các tư tưởng và quan điểm của Freud, phân tâm học bao hàm “lược đồ triết học”, “hạt nhân triết học”, “cơ sở triết học” riêng của mình, một quan điểm triết học hoàn toàn xác định về con người, lịch sử và văn hóa” [dẫn theo 77, tr. 84]. Với cách đánh giá kiểu thứ ba này, phân tâm học có thể được xem là một cấu trúc khoa học có mối 11 liên hệ với triết học về con người trong sự tương tác với văn hóa – văn minh. Các tác giả cũng lưu ý rằng, khi đưa ra những khẳng định trên “còn đòi hỏi xem xét lập trường của bản thân Freud” [77, tr. 85]. Có thể khẳng định rằng, trong số các công trình nghiên cứu về phân tâm học Freud ở Việt Nam, Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại là một công trình nghiên cứu công phu, có nhiều giá trị gợi mở, là tài liệu tham khảo để chúng tôi tiếp tục đi sâu nghiên cứu về những tư tưởng triết học đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển phân tâm học về con người, văn hoá – văn minh. Nhìn chung, tổng quan một số công trình nghiên cứu về các điều kiện, tiền đề đưa đến sự ra đời, phát triển của phân tâm học, có thể nhận ra điểm chung là các tác giả đã trình bày khá phong phú bối cảnh ra đời và những tiền đề hình thành của học thuyết Freud. Đây là điều quan trọng bởi lẽ chính Freud là người sáng lập phân tâm học. Tuy nhiên, phân tâm học không chỉ dừng lại ở học thuyết Freud, do đó, chúng tôi nhận thấy cần làm rõ thêm bối cảnh và tiền đề hình thành quan điểm phân tâm học về con người và văn hoá – văn minh. Chúng tôi ghi nhận những đóng góp của các công trình trên, xem đó là những gợi mở quan trọng cần tiếp tục triển khai rộng hơn trong luận án. 1.2. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về con ngƣời Có thể thấy, lý thuyết về vô thức trong phân tâm học là nền tảng và đóng góp quan trọng nhất về phương diện triết học. Do vậy, sự lý giải về vô thức cũng là kết quả quan trọng để hiểu toàn bộ các quan niệm về con người và văn hóa – văn minh. Vì thế, khi khảo cứu về phân tâm học đa số các học giả đều dành phần lớn cho việc nghiên cứu nội dung này. J.P.Charrier trong Phân tâm học, (Nxb Trẻ, Sài Gòn, 1972) đã bàn đến những tư tưởng của phân tâm tâm học về con người thông qua phân tích quan niệm về vô thức, lý luận bản năng, cấu trúc nhân cách,... Tác giả chỉ ra rằng, vô thức đã được đề cập và biết đến từ trước khi phân tâm học ra đời, nhưng việc đi vào tìm hiểu, khám 12 phá và phân tích để thấy rõ vai trò của vô thức tác động đến đời sống tâm thần của con người thì chỉ đến khi xuất hiện phân tâm học. “Đời sống tâm linh không phải chỉ hạn chế trong những gì chúng ta ý thức được mà thôi, rằng dưới những động lực ý thức và những quyết định hợp lý, có một bộ máy tâm linh ở đó những nguyên động lực được che dấu diếm, vô thức hay bị dồn nén vẫn tác động” [10, tr. 15]. Theo Charrier, trong khi chữa trị bệnh hysteria, Freud đã sử dụng phương pháp “liên tưởng tự do” và nó trở thành phương pháp chính của Freud trong việc khám phá ra nhân cách chiều sâu. Tác giả cho rằng, Freud chia bộ máy tâm thần của con người thành ba phần, phần thứ nhất là phi Ngã, phần thứ hai là Ngã và phần thứ ba là siêu Ngã1, mỗi một phần có một nội dung và chức năng khác nhau, từ đó để xem xét, đánh giá cơ cấu nhân cách con người. Bản năng tính dục libido là quan trọng nhất, khi giúp con người tránh những căng thẳng và thỏa mãn các nhu cầu của mình, nó hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn, đây là nguyên tắc giúp “giảm bớt những căng thẳng đau đớn của cơ thể, hầu tránh sự đau đớn khó chịu, và nếu có thể đưa tới khoái lạc” [10, tr. 37]. Nó cũng là nguồn gốc của những thúc đẩy hoạt động của đời sống tâm thần con người được biểu hiện ra hai khuynh hướng là bản năng sống và bản năng chết. Nhưng trong thực tế, cuộc sống con người chịu sự chi phối bởi những phong tục, tập quán, văn hóa, quy phạm xã hội, buộc con người phải từ bỏ một số nhu cầu để được bảo vệ hay sự tán đồng của người khác. Việc từ bỏ này làm con người dần dần bị ức chế, “lực lượng ức chế này làm cho trẻ tập thay đổi những thèm muốn của mình thay vì thế giới bên ngoài” [10, tr. 38], được Freud gọi là nguyên tắc thực tế. Hai nguyên tắc này không chống đối nhau mà nó bổ sung cho nhau, thay đổi tuần tự mục đích của nhau mà thôi. Nhìn chung, công trình của J.P.Charrier đã nghiên cứu khá sâu về một số vấn đề liên quan đến quan điểm phân tâm học Sigmund Freud về con người. Ở mức độ nhất định, công trình này cũng đề cập một cách khái quát đến phân tâm học sau 1 Từ đây trở đi, chúng tôi thống nhất gọi ba yếu tố trong bộ máy tâm thần con người theo quan niệm của Freud (dù các bản dịch dùng từ khác nhau) là: phi Ngã (Id, cái Ấy, cái Nó,); Ngã (Ego, cái Tôi, bản Ngã,); siêu Ngã (Superego, cái Siêu tôi,..). 13 Freud như Jung, Erich Fromm, Karen Horney. Tuy nhiên, những nội dung mà Charrier trình bày chưa được hệ thống nên làm cho người đọc khó theo dõi. Cuốn sách Freud đã thực sự nói gì của David Stafford – Clark (Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998). Trong cuốn sách này, Stafford - Clark hệ thống hóa một số nội dung cốt lõi của phân tâm học được công bố trong các nghiên cứu của Freud như: Giải thích giấc mơ, tâm bệnh học trong đời sống hàng ngày, khái niệm cấu trúc và chức năng tâm thần, lý thuyết tổng quát về các triệu chứng hysteria, đặc biệt là những bổ sung vào lý thuyết phân tâm và những sửa đổi của Freud, trong đó, ông tập trung chủ yếu vào các vấn đề: Ngã và tâm lý học của những miền sâu; bên kia nguyên tắc khoái cảm, bản năng sống và bản năng chết, thăng hoa và siêu Ngã, phi Ngã và lương tâm. Trong những vấn đề trên, chúng tôi cho rằng việc bổ sung và làm rõ “tâm lý tập thể” là một phần bổ sung quan trọng trong lý thuyết của ông. Tâm lý tập thể như một phẩm chất sống của cộng đồng được đánh giá cao. Phần bổ sung này quan tâm đến điều mà chúng ta thường gọi là “chất dương tính của tập thể”,...ản năng bị nghèo nàn đi. Luận điểm này đã thay thế cho mường tượng theo kiểu Freud về “chức năng sai lệch của tình dục và tâm thần” [145, tr. 427]. Đây là những chỉ dẫn quan trọng đối với việc nghiên cứu quan điểm của phân tâm học về văn hoá – văn minh. Vấn đề văn hóa theo quan điểm của phân tâm học cũng được bàn đến trong cuốn Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương 27 Tây hiện đại. Khi xem xét về văn hóa, các tác giả cho rằng, “việc xem xét hệ vấn đề văn hóa xã hội trong nhân học phân tâm có liên hệ mật thiết với việc giải quyết những vấn đề đạo đức” [77, tr. 305]. Do vậy, các tác giả cho rằng khi xem xét cụ thể vấn đề văn hóa xã hội, “Freud xuất phát từ sự đối lập giữa cá nhân với văn hóa, giữa cá nhân với xã hội” [77, tr. 306]. Từ đó các tác giả đi đến kết luận: “những thành tựu văn hóa của loài người căn cứ trên việc đối lập giữa các đam mê vô thức với các mệnh lệnh đạo đức xuất hiện trên cơ sở “văn hóa hóa” bản tính người” [77, tr. 307]. Chính từ điểm này mà Freud đã đưa ra luận điểm: “mỗi người trên thực tế đều là kẻ thù của văn hóa, và điều này là như vậy cả khi có cảm tưởng văn hóa có ý nghĩa chung nhân loại” [dẫn theo, 77, tr. 307]. Và “đặc trưng cho quan niệm về văn hóa của Freud là tính hai mặt. Một là, văn hóa được ông coi là phương tiện dồn nén “bản tính người”. Mặt khác, nó được xem là kích thích cho tự biểu hiện sáng tạo của con người” [77, tr. 309]. Khi luận giải về nguồn gốc và chức năng của văn hóa, theo các tác giả, “có thể luận giải chức năng hai mặt như vậy của văn hóa bởi tính đa nghĩa của khái niệm “vô thức” ở Freud cùng với việc đặt trọng tâm vào đam mê tính dục của con người” [77, tr. 309]. Nhưng khi đi vào giải thích thì Freud lại rơi vào vòng luẩn quẩn mà sau này các nhà phân tâm học sau Freud đã chỉ ra. Freud viết: “văn hóa căn cứ trên những kết quả dồn nén của các thế hệ trước kia và mỗi thế hệ mới đều cần sáng tạo ra văn hóa nhờ thực hiện dồn nén” [dẫn theo 77, tr. 310]. Không chỉ dừng lại làm rõ vai trò của văn hóa, các tác giả còn chỉ ra có ba cội cội nguồn sinh ra đau khổ của con người trong sự tương tác với văn hóa, đó là: “các lực lượng vượt trội của tự nhiên; đặc thù của thể xác con người và không hoàn hảo của các thể chế xã hội” [77, tr. 335]. Hai cội nguồn đầu là mang tính tự nhiên, sinh ra đau khổ của con người có thể loại bỏ hay làm giảm bớt được nó còn cội nguồn thứ ba là cội nguồn xã hội gây ra lo lắng lớn nhất cho con người nhưng “con người không hiểu tại sao các thể chế do họ tạo ra lại không những không bảo vệ con người mà, ngược lại, còn trở thành lực lượng xa lạ thống trị họ” [77, tr. 335]. 28 Theo chúng tôi, tác phẩm trình bày những nội dung quan niệm của phân tâm học về văn hóa – văn minh mang tính khái quát cao, nhưng do mục đích của công trình là làm rõ Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại nên công trình chỉ dừng lại ở tư tưởng của Freud, còn tư tưởng của Jung và của Fromm về văn hóa – văn minh chưa đề cập đến. Công trình Tư tưởng triết học của Sigmund Freud của Tạ Thị Vân Hà, đã đặt ra và luận giải “tư tưởng triết học của Freud về văn hoá” [53, tr. 106 – 114]. Tác giả cho rằng, “cách tiếp cận về văn hóa của Freud dựa trên sự lập lại ký ức ấu thơ của con người bị ngưng đọng trong vô thức khi con người buộc phải giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng” [53, tr. 106], và “văn minh chỉ là cái vỏ bề ngoài che dấu những bản năng bị những cấm đoán xã hội dồn nén mà thôi” [53, tr. 109]. Tác giả cũng đồng quan điểm với Freud khi cho rằng, “muốn đạt tới văn hóa con người phải chấp nhận từ bỏ bản năng để hướng tới tình yêu và sự tôn trọng lẫn nhau và đó chính là cơ sở để đảm bảo cho mỗi người có thể đạt tới hạnh phúc” [53, tr. 114]. Đây là những nhận định mang tính chất gợi mở để chúng tôi tiếp tục mở rộng trong luận án. Chúng tôi rất chú ý đến loạt công trình do Đỗ Lai Thuý sưu tầm, biên soạn, và giới thiệu có liên quan đến phân tâm học (Phân tâm học và tình yêu; Phân tâm học và văn hoá tâm linh; Phân tâm học và văn hoá nghệ thuật; Phân tâm học và tính cách dân tộc). Sở dĩ chúng tôi dành sự trân trọng cho loạt công trình này bởi vì đây là những tư liệu có giá trị tham khảo cao đối với việc đào sâu nghiên cứu nội dung quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh, nhất là trong bối cảnh những tư liệu nguyên bản về phân tâm học còn khá khan hiếm hiện nay. Như vậy, tổng quan một số công trình tiêu biểu có liên quan đến quan điểm của phân tâm học về văn hóa – văn minh, các tác giả đều đi đến một điểm chung là chủ yếu tập trung vào nội dung phân tâm học Freud về văn hóa – văn minh, chưa bàn nhiều đến các nhà phân tâm học khác như C.Jung và E.Fromm. Trên cơ sở những nghiên cứu ấy, chúng tôi tiếp thu và tiếp tục làm rõ quan điểm phân tâm học của Freud, Jung và Fromm về văn hóa – văn minh trong luận án. 29 Tóm lại, từ tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài luận án, chúng tôi nhận thấy rằng, phân tâm học đã được đề cập và nghiên cứu ở nhiều cách tiếp cận và với những mức độ đậm nhạt khác nhau. Những thành tựu đạt được của các công trình nghiên cứu từ trước đến nay là không thể phủ nhận, giúp ích rất đáng kể cho hiểu biết của chúng ta về phân tâm học. Tuy nhiên, các công trình chủ yếu nghiên cứu phân tâm học thông qua tư tưởng của người sáng lập ra nó – Sigmund Freud, trong khi những đại biểu quan trọng khác của phân tâm học chỉ được giới thiệu rất mờ nhạt. Chính vì thế, trong luận án này, chúng tôi không chỉ dừng lại ở tư tưởng của Sigmund Freud, mà còn hướng đến làm rõ quan điểm về con người và văn hóa – văn minh của một số nhà phân tâm học quan trọng khác (Carl Gustav Jung và Erich Fromm) nhằm cung cấp một cái nhìn đầy đủ và toàn diện hơn về phân tâm học. Kết luận chƣơng 1 Nội dung quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh là rất rộng. Vấn đề này đã ít nhiều được bàn đến trong các công trình nghiên cứu về phân tâm học. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, phân tâm học được nghiên cứu chủ yếu dừng lại ở Freud. Vì thế, không thể nói đã có một bức tranh khoa học đầy đủ và cái nhìn toàn diện về Phân tâm học ở Việt Nam. Do đó, khảo sát về các công trình nghiên cứu phân tâm học như một “sợi chỉ xuyên suốt” (Freud – Jung – Fromm) về con người và văn hóa – văn minh và chúng tôi tạm chia thành ba lĩnh vực chủ yếu: Các công trình tiêu biểu giới thiệu khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời, phát triển của phân tâm học, điểm chung của các công trình này là giới thiệu hoặc phân tích cụ thể về điều kiện, kinh tế xã hội; những tiền đề về khoa học trong quá trình hình thành và phát triển phân tâm học. Tuy nhiên, việc khái quát về bối cảnh lịch sử - xã hội và những tiền đề ra đời của phân tâm học với tính cách là một khuynh hướng nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh cũng được đề cập tới một cách khái quát nhưng chưa có những phân tích rõ ràng, vì vậy, việc làm này là cần thiết trong quá trình nghiên cứu. 30 Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về con người, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này là rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, quan điểm của phân tâm học nói chung cũng như của ba nhà phân tâm học Freud, Jung và Fromm nói riêng đều có một đặc điểm chung là xem “vô thức” là yếu tố chủ đạo, điều khiển và chi phối trong đời sống con người và xã hội. Các công trình tiêu biểu có liên quan đến nội dung quan điểm của phân tâm học về văn hoá – văn minh, đa số các nhà nghiên cứu về vấn đề này đã chỉ ra được vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội từ góc tiếp cận phân tâm học. Tuy nhiên, vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu quan điểm của phân tâm học, vạch ra bản chất, vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống con người và xã hội mang tính hệ thống như một sợi chỉ xuyên suốt từ phân tâm học Freud đến Tân phân tâm học. 31 CHƢƠNG 2 BỐI CẢNH LỊCH SỬ - Xà HỘI VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ RA ĐỜI CỦA PHÂN TÂM HỌC 2.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội Bất kỳ một học thuyết, trào lưu lý luận hay một hệ tư tưởng nào ra đời bao giờ cũng là sự phản ánh hoàn cảnh xã hội trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Quan niệm duy vật lịch sử chỉ ra rằng, “tư duy lý luận của mỗi thời đại, cũng có nghĩa là cả thời đại chúng ta, là một sản phẩm lịch sử mang những hình thức rất khác nhau trong những thời đại khác nhau và do đó có một nội dung rất khác nhau” [105, tr. 487]. Sự hình thành và phát triển của phân tâm học cũng chính là kết quả nảy sinh từ bối cảnh lịch sử chính trị xã hội Tây Âu đương thời. Vì vậy, làm rõ những bối cảnh lịch sử - xã hội ra đời của phân tâm học là cần thiết để thấy, những biến đổi về kinh tế, chính trị xã hội, tiến trình phát triển văn hóa, văn minh của xã hội loài người và sự phát triển của khoa học có tác động như thế nào đến sự ra đời của phân tâm học. Sigmund Freud, sinh ra và lớn lên ở Viên, thủ đô của Đế quốc Áo - Hung, nơi chủ nghĩa tư bản đã được xác lập và nhanh chóng phát triển. Trong đế quốc Áo – Hung, luôn xảy ra những cuộc chiến tranh, khủng bố, tàn sát lẫn nhau đưa tới sự chết chóc. Gia đình của Freud cũng không tránh khỏi vòng xoáy của các cuộc chiến tranh và làn sóng chống Do Thái đang diễn ra lúc bấy giờ. Khi cuộc chiến tranh giữa Ý, Pháp, Phổ và Áo diễn ra, hai người anh của ông buộc phải tham gia vào quân đội. Cha của ông đã dẫn cả gia đình chạy tới Lazic để lánh nạn. Sự thay đổi về mặt xã hội làm cho kinh tế của toàn bộ Đế quốc Áo – Hung rơi vào khủng hoảng, công việc làm ăn của gia đình Freud gặp phải khó khăn, khiến gia đình phải ly tán. “Do sự biến đổi về kinh tế của toàn bộ đế quốc Áo – Hung, sự buôn bán của bố Freud cũng chịu ảnh hưởng nặng nề, đời sống gia đình trở nên nghèo túng” [97, tr. 10], “hai người anh khác mẹ của Freud quyết định sang sinh sống ở Anh, Freud lên bốn đi theo bố mẹ sang Viên” [97, tr. 17]. Freud đến Viên thủ đô của Áo, một trong 32 những thành lũy của chủ nghĩa tư bản lúc bấy giờ, với vẻ bề ngoài hoa lệ, “phong cảnh thiên nhiên đẹp, rộng rãi, phong nhã của Viên mĩ lệ” [97, tr. 17 – 18], lại chứa đựng bên trong đầy ắp những mâu thuẫn kinh tế, chính trị xã hội và tư tưởng, nó cũng là một lò lửa sục sôi chứa đựng những uẩn ức về đời sống tinh thần của xã hội lúc bấy giờ. Freud trực tiếp chứng kiến các cuộc chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha (1898), Nhật – Nga (1904 – 1905), và cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 – 1918). Đặc biệt, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất xảy ra, “lôi cuốn hàng ngàn hàng vạn nhân dân tạo ra vết thương tinh thần to lớn, sự xáo động về chính trị, kinh tế và sự dồn nén xã hội khiến bệnh tâm thần tăng vọt. Tất cả những điều kiện trên đều ảnh hưởng rất lớn đối với sự hình thành và phát triển tư tưởng của Freud” [97, tr. 11]. Bên trong những thay đổi về kinh tế, chính trị xã hội ở Áo nói riêng và châu Âu nói chung là những mâu thuẫn và căng thẳng trong “đời sống tinh thần xã hội” với những thói đạo đức giả, những ức chế của đời sống tinh thần của một xã hội quan phương Tây Thanh giáo bảo thủ và chủ nghĩa bài Do thái của Công giáo thống trị. Những giá trị đạo đức truyền thống bị xem thường, coi nhẹ và thay vào đó là những mốt sống mới với thói đạo đức giả. Xã hội phương Tây thời kỳ này xuất hiện mâu thuẫn mới trong đời sống tâm thần: “một bên là những quan niệm truyền thống với các tập tục, thành kiến của một xã hội Thanh giáo bảo thủ, một bên là những quan niệm mới, những “chuẩn” mới” [54, tr. 5 – 6]. Vấn đề tính dục và những nhu cầu tâm, sinh lý (nhu cầu sinh học) của con người trong xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX vẫn chưa được công khai thừa nhận. Vì thế, trong xã hội và con người luôn tồn tại mâu thuẫn của một thế giới bên trong với đời sống tính dục sục sôi diễn ra với một thế giới bên ngoài với cái tôi thanh cao thuần khiết. Hai thế giới này đấu tranh với nhau làm cho đời sống tâm thần con người luôn trong tình trạng căng thẳng, ức chế,... dễ dẫn đến mắc bệnh tâm thần. Tóm lại, điều kiện kinh tế, chính trị xã hội phương Tây cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có những đặc trưng cơ bản sau: 33 Thứ nhất, chủ nghĩa tư bản ra đời và nhanh chóng chuyển từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc cùng với sự trợ lực mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã hội, do đó đời sống vật chất của con người hiện đại đã được cải thiện đáng kể. Thứ hai, những cuộc chiến tranh giành độc lập và tranh giành thị trường nổ ra lôi kéo hàng ngàn hàng vạn nhân dân lao động tham gia, nhưng cuối cùng cái giá mà họ phải trả đó là sự tổn thương về đời sống tâm thần. Thứ ba, trong xã hội xuất hiện nhiều mâu thuẫn mới, nhất là mâu thuẫn về đời sống tâm thần của con người: một bên là những quan niệm truyền thống tốt đẹp, với các phong tục tập quán, đạo đức xã hội Thanh giáo với một bên là những quan niệm về chuẩn mực, lối sống trong xã hội mới đầy sôi động. Những đặc điểm này khiến cho đời sống con người, nhất là đời sống tâm thần ở châu Âu có sự thay đổi mạnh mẽ. Con người sống trong một xã hội mới đầy sôi động như vậy cần có sự thay đổi cho phù hợp, nhưng khi những thay đổi của con người chưa thích ứng kịp thời với những điều kiện xã hội mới sẽ rơi vào tình trạng căng thẳng, mất cân bằng tâm lý. Nếu không kịp thời có những phương pháp làm dịu bớt các sức ép ấy, giúp cho con người có đời sống tâm thần ổn định hơn, lâu ngày, sẽ rơi vào tình trạng mắc bệnh tâm thần. Do vậy, nhiệm vụ trong xã hội lúc này bên cạnh giải phóng con người khỏi sự áp bức bóc lột về mặt thể xác, còn đặt ra vấn đề cấp bách là giải phóng đời sống tâm thần của con người. 2.2. Tiền đề khoa học Sự ra đời và phát triển của phân tâm học cũng như các trào lưu triết học ở cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX không thể tách rời với những thành tựu khoa học trước đó và đang phát triển như vũ bão lúc bấy giờ. Trong quá trình nghiên cứu và xác lập học thuyết của mình, Freud được tiếp xúc, gặp gỡ, học hỏi rất nhiều nhà khoa học trong nhiều lĩnh vực như: y học, tâm lý học, triết học, sinh học, sinh lý học thần kinh và trực tiếp nhất là các phương pháp chữa bệnh tâm thần từ thực tiễn chữa trị bệnh tâm thần của ông. 34 Những phát hiện lớn trong khoa học làm cho con người “Có bước phát triển dài về nhận thức mối liên hệ tương hỗ đối với quá trình tự nhiên” [97, tr. 11], có ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển phân tâm học Thuyết tiến hoá của Charles Darwin (1809 - 1882). Freud “đã từng tin tưởng một cách cuồng nhiệt và chịu ảnh hưởng sâu sắc “Thuyết tiến hóa của Darwin’” [97, tr. 12], Freud viết: “Học thuyết Darwin đang rất thịnh hành lúc ấy đã cuốn hút tôi mạnh mẽ như nó có thể tạo ra một xung lực phi thường để nhận thức được muôn vật của thế giới” [88, tr. 29]. Do vậy, khi nghiên cứu về con người và nhân cách con người, Freud đã xem xét, đánh giá bản tính, hành vi của con người trên quan điểm sinh vật học. Với lý thuyết tiến hoá, Darwin cho rằng, loài người cũng như những sinh vật nói chung trong quá trình tồn tại và phát triển chúng luôn đấu tranh để tồn tại. Trong thời kì phát triển, những cá thể nếu không thích nghi với môi trường sống sẽ bị đào thải. Ông chỉ ra, con người có hai bản năng quan trọng là bản năng duy trì nòi giống và bản năng tìm kiếm thức ăn. Ngoài ra, Darwin đưa ra một số khái niệm như: xung đột tâm lí, vai trò giấc mơ và những bí ẩn của các hành vi, sự hưng phấn tình dục. Lý thuyết của Darwin được Freud đánh giá cao khi ông cho rằng, lý thuyết mà Darwin đưa ra làm cho con người có thể hy vọng vào những bước tiến phi thường trong xã hội. Về phương diện lý luận, “Thuyết tiến hóa làm cho Freud vững tin rằng đã là con người tiến hóa từ giới tự nhiên, thì trên thân thể con người tất nhiên cũng bảo lưu một số bản năng có tính động vật” [97, tr. 12]. Freud cho rằng, tâm lý con người trong quá trình hoạt động bị chi phối bởi một số xung động bản năng có tính chất động vật nguyên thủy, và các hoạt động tâm sinh lý của con người cũng tuân theo các quy luật đó. Những khái niệm, những vấn đề Darwin đưa ra đã được Freud tiếp nhận, tiếp tục nghiên cứu và phát triển một cách hoàn chỉnh trong học thuyết phân tâm học của mình. Freud sử dụng khái niệm “năng lượng và định luật bảo toàn năng lượng” của H.Helmholtz (1821 -1894) và E.W.Brucke (1819 - 1892) vào việc nghiên cứu lý thuyết xung năng vô thức của mình. H.Helmholtz xem cơ thể con người giống như 35 một hệ thống hợp nhất hai loại năng lượng: năng lượng cơ giới (điện, hoá) với các hình thức sinh lý và năng lượng tâm lý, trong đó ông coi trọng và nhấn mạnh năng lượng tâm lý và cho rằng, đây là một loại năng lượng liên hệ gắn liền với tính bản năng không thể tách rời được. Hai nguồn năng lượng này trong cơ thể con người không mất đi, chúng luôn hoán chuyển, chuyển hoá lẫn nhau thông qua những hành vi của cơ thể, nguồn năng lượng tâm lý này, được Freud tiếp thu và đưa vào trong phân tâm học gọi là libido, và nó trở thành một khái niệm trung tâm trong học thuyết phân tâm học. Brucke và Helmholtz trong quá trình nghiên cứu đã đưa ra quan điểm đồng nhất rằng, toàn bộ những năng lượng hoạt động trong sinh vật là những gì có tính chất lý hóa, sự hoạt động đó là sự tăng lên hay giảm đi của năng lượng vật lý, nguồn năng lượng này không thay đổi, nó có cả ở con người, nhờ nó mà con người có thể thực hiện các chức năng sống như tuần hoàn máu, hít thở, vận động và những hoạt động nội tiết. Còn trong hoạt động tinh thần như: nhận biết, suy nghĩ, ghi nhớ,... phải có một nguồn năng lượng khác ngoài nguồn năng lượng vật lý nhưng về bản chất thì nó vẫn không có gì thay đổi. Freud đã tiếp thu quan điểm này của Brucke và Helmholtz vận dụng vào học thuyết phân tâm học của ông trong quá trình tìm hiểu về vô thức. J.Muller (1801 – 1858) với “Thuyết năng lượng chuyên biệt” cho rằng, tất cả các hành vi, hoạt động của con người và của phải phẫu học, cũng như các hiện tượng vật lý đều phải được xem xét ở góc độ sinh lý học. Ông xem xét một cách chi tiết sự khác nhau trong hệ thống sinh lý của mỗi loài động vật, và các thuộc tính của chúng, ông coi giữa chúng có liên quan đến sự hiện diện của một đời sống tâm thần chung hay không. Theo Muller, trong cơ thể mỗi sinh vật sống có một nguồn năng lượng mà với sự tác động vật lý thì không bao giờ có thể cảm nhận được đầy đủ. Theo “Thuyết năng lượng chuyên biệt”, khi có một sự tác động vật lý vào một giác quan nào, thì giác quan đó bị kích thích phóng ra một năng lượng riêng vốn có làm cho ta cảm nhận được sự tác động ấy. Đây là một phát hiện mà Freud đã tiếp thu trong quá trình tìm hiểu về các yếu tố tâm thần con người. 36 G.T. Fechner (1801 - 1877) sử dụng khái niệm “Ngưỡng cửa ý thức” khi nói về hoạt động của ý thức. Fechner xem những “cảm giác vô thức” là những trạng thái nằm dưới “ngưỡng cửa ý thức” nó gắn với những hoạt động sinh lý, là cơ sở để xuất hiện các hành vi có ý thức. “Tuy nhiên chúng tôi không thể không để ý đến ý kiến của một nhà bác học thâm trầm như G.Th.Fechner: ông quan niệm vấn đề “dễ chịu khó chịu” với những nét chính rất gần với những điều mà chúng tôi đã tìm ra nhân việc nghiên cứu phân tâm học của chúng tôi” [38, tr. 17]. Theo G.Th.Fechner, ý thức con người chỉ hoạt động đến ngưỡng nhất định, phần vượt ngưỡng và chịu sự chi phối bởi các yếu tố ngoài ý thức được gọi là “vô thức”. Ngoài ra, những khái niệm mà Fechner đưa ra như: nguyên tắc thoả mãn, năng lượng tâm lý,... đã ảnh hưởng đến sự hình thành một số khái niệm của phân tâm học. Freud gọi ông là “Fichner vĩ đại” [dẫn theo 77, tr. 137]. Theodor Hermann Meynert (1833-1892), một nhà giải phẫu học và bệnh lý học thần kinh người mang hai quốc tịch Đức-Áo, được biết đến như một trong những người sáng lập của khoa học thần kinh (bệnh học thần kinh). Ông là thầy dạy Freud môn tâm thần học. Meynert tìm hiểu các sự kiện tâm lý của những người mắc chứng bệnh thần kinh, cả về những yếu tố bên ngoài và cấu trúc giải phẫu bệnh bên trong của nó. Meynert cho rằng, do sự xung đột tồn tại giữa vỏ não và các tiểu vùng vỏ não, sự xung đột này xảy ra là nguyên nhân chính dẫn tới chức năng bình thường của các thành phần não bị thay đổi và bệnh tâm thần xuất hiện. Meynert là người sáng lập ra tâm thần học, và xem nó là một môn khoa học chính xác dựa trên giải phẫu; sách giáo khoa “tâm thần học” của ông được xuất bản năm 1884, một trong những nội dung được nhấn mạnh đó là định nghĩa về “tâm thần”. Meynert là nhà khoa học đầu tiên cho rằng cần khảo luận lâm sàng về bệnh của não trước, để thấy được những bệnh tâm thần mà con người mắc phải và nghiên cứu về bộ não là một sự kết hợp nghiên cứu liên ngành lại với nhau ở giải phẫu và sinh lý, được xem là một phương pháp mới của Y học. Freud coi Meynert “như một thiên tài chói lọi nhất mà ông gặp” [88, tr. 30] để nói về người thầy của mình. 37 Joseph Breuer (1842-1925), ở một mức độ nào đó có thể được coi là “người mở đường” cho sự ra đời của phân tâm học. Mối quan hệ giữa Freud và Breuer khá đặc biệt. Breuer đã đóng một vai trò rất lớn trong những năm tháng mà hai ông cộng tác với nhau. Trong quá trình điều trị cho bệnh nhân Breuer đã phát hiện ra rằng chứng loạn thần kinh có thể khởi sinh từ vô thức và quy trình sinh lý, hơn nữa, các triệu chứng loạn thần kinh có thể biến mất khi những nguyên nhân cơ bản của triệu chứng tâm thần không còn nữa. Ông trao đổi những kết quả này với Freud và cùng nghiên cứu. Trong khi Breuer nhấn mạnh thôi miên đồng thời tin rằng mức độ biểu hiện khác nhau của ý thức rất quan trọng trong cả hai trường hợp tâm thần và bất thường, ngược lại Freud không xem thôi miên như là phương pháp duy nhất và có thể chữa khỏi bệnh thần kinh. Vì thế, cuốn sách “Nghiên cứu về chứng bệnh Hysteria” (1895) ra đời, đánh dấu sự bất đồng quan điểm giữa hai người trong điều trị bệnh. Sự hợp tác giữa Breuer và Freud đã chấm dứt. Nhưng những gì mà Freud tiếp nhận được ở Breuer là không thể chối bỏ trong quá trình xây dựng học thuyết phân tâm học. Hippolyte Bernheim (1840 - 1919), là một bác sĩ, nhà thần kinh học người Pháp. Ông được biết đến với lý thuyết liên quan đến thuật thôi miên. Bernheim đã có ảnh hưởng đáng kể đến Freud, người đã đến thăm Bernheim vào năm 1889, và chứng kiến một số thí nghiệm của mình. Freud đã dịch chuyên luận nổi tiếng của Bernheim “thôi miên, ám thị và phương pháp trị liệu bằng tâm lý” (1886); trong chuyên luận này Freud nhận xét rằng: Đối với Bernheim, không thể nói thôi miên một cách thuần túy, mà chỉ có thể nói về hiện tượng ám thị. Ông là người say mê miêu tả tỉ mỉ hiện tượng này và từ đó rút ra một phương pháp điều trị rõ ràng. Bernheim nhận thấy trong ám thị chứa đựng một quá trình tâm lý chung cho tất cả mọi người, ở cấp độ thay đổi khác nhau, dù họ là người ốm hay là người khỏe mạnh. Bernheim vốn là một trong những người đầu tiên làm lung lay bức tường ngăn cách giữa tâm lý học và tâm bệnh học. [88, tr. 37 – 38]. 38 Khi nói về sự tiếp cận phương pháp thôi miên của Bernheim, Freud đã khẳng, “Trong nhiều năm tôi đã dùng thôi miên để chữa bệnh đi kèm với sự ám thị tự bảo vệ, và với sự khảo sát người bệnh theo phương pháp của Bernheim” [41, tr. 510]. Như vậy, việc Freud đã tiếp thu các phương pháp chữa bệnh tâm thần, bệnh hysteria ở các nhà khoa học trước đó cũng như đang thực hành lúc bầy giờ và ông cho rằng, những phương pháp chữa trị như vậy làm người bệnh không hoàn toàn khỏi bệnh. Theo Freud, bằng các phương pháp đã sử dụng, các nhà khoa học chỉ tìm ra được nguyên nhân gây bệnh từ bên ngoài mà chưa thấy được nguyên nhân sâu xa ở bên trong, điều này đã thôi thúc Freud đi tìm một phương pháp điều trị mới giúp cho những người mắc bệnh tâm thần hoàn toàn được trị khỏi. Việc áp dụng phương pháp thực nghiệm vào nghiên cứu các hiện tượng tâm lý con người ở cuối thế kỷ XIX đã cho ra đời một ngành khoa học độc lập có đối tượng và phương pháp nghiên cứu riêng của mình đó là - tâm lý học. Tâm lý học có ảnh hưởng đáng kể đến sự hình thành phân tâm học. Người sáng lập của ngành tâm lý học là Wilhelm Wundt (1832 - 1920). Vào năm 1879 ông thiết lập phòng thí nghiệm tâm lý học đầu tiên ở Leipzig, Đức. Ông tách Tâm lý học ra khỏi các khoa học khác, từ đây, tâm lý học trở thành khoa học độc lập. Wundt thừa nhận “ngưỡng cửa ý thức” của Fechner, nhưng ông đã phát triển thêm và cho rằng, “trạng thái vô thức nội tại” của hoạt động tư duy liên hệ với các tri giác, chúng có khả năng biến mất khỏi “lĩnh vực ý thức” do các nguyên nhân khác nhau. Sự xuất hiện và mất đi của các tri giác không là gì khác ngoài tồn tại một trạng thái vô thức nội tại trong con người. Trong các tác phẩm của mình, Freud đã trích dẫn cả Fechner và Wundt. Freud viết rằng: “Các bạn hãy đọc trong các tác phẩm của Wundt, Jodt và các triết gia khác: tất cả đều chỉ liệt kê ra những điểm khác nhau giữa giấc mơ và tình trạng thức, hay chú ý đến những sự phân hóa của các liên tưởng, sự biến mất của trí óc phê bình, của mọi tri thức và những dấu hiệu tỏ rằng giấc mơ không có giá trị gì hết” [41, tr. 90 – 91], khi nói về cấm kị của cái chết, sự sợ hãi của con người hiện tại với linh hồn người đã chết, Freud cho rằng, “không thể nào thoát được sự truy đuổi rằng họ, theo diễn đạt của Wundt, chịu đau 39 đớn trước nỗi kinh hoàng sợ vì “linh hồn của anh ta biến thành ma quỷ”” [40, tr. 117] và “bằng sự xem xét một cách tương tự như vậy chúng tôi đã làm sáng tỏ tính xác thực của quan điểm của Wundt, quan điểm tìm ra được thực thể của cấm kị từ trong nỗi sợ hãi trước ma quỷ, như chúng ta đã từng nghe” [40, tr. 117]. Như vậy, thuyết “ngưỡng ý thức” đã ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển các khái niệm phân tâm học. 2.3. Tiền đề tư tưởng Các nhà nghiên cứu theo định hướng đề cao phân tâm học một thời gian dài đã coi Freud là người đầu tiên khám phá ra lĩnh vực vô thức, quan niệm này rất phổ biến nhưng không có căn cứ rõ ràng. Do vậy, việc khái quát những tư tưởng triết học về “vô thức” trong lịch sử tư tưởng có ảnh hưởng đến quá trình hình thành phân tâm học với tính cách là khuynh hướng nghiên cứu về con người và văn hóa – văn minh là cần thiết. Các công trình nghiên cứu mang tính phê phán về phân tâm học đã công bố chỉ ra rằng: “công đầu đặt ra vấn đề vô thức hoàn toàn không thuộc về Freud. Hàng loạt các tác giả khảo cứu chuyên sâu lịch sử của hệ vấn đề vô thức thông qua tài liệu triết học, tâm lý học và khoa học tự nhiên” [dẫn theo 77, tr. 90]. Trong lịch sử tư tưởng triết học thời cổ đại như Hi Lạp, La Mã ở phương Tây hay Babylon; Trung Quốc, Ấn Độ ở phương Đông, “vô thức” với tư cách là yếu tố tác động đến đời sống tâm thần con người đã được bàn đến. Chẳng hạn, “nhân chi sơ tính bản thiện hay bất thiện” (Nho giáo), hoặc “con người là một động vật chính trị - xã hội” (Aristotle). Từ thời sinh viên Freud đã được nghe các bài giảng về triết học Aristotle, và trong thời gian này ông dịch một số tác phẩm tiêu biểu của J.S. Mill trong đó có bàn về tư tưởng triết học Platon. “Điều này làm cho Freud có dịp đi sâu học tập tư tưởng triết học của Platon” [97, tr. 48]. Do đó, ông đã tiếp nhận một số quan niệm về vô thức của Platon. “Platon cho rằng hiện vật cảm tính chẳng qua chỉ là cái bóng của ý niệm, đối tượng nhận thức của người ta không phải là thế giới hiện thực, mà là cái bóng của ý niệm” [97, tr. 48]. Khi chúng ta vứt bỏ mọi sự vật vật cảm tính, bên ngoài và hồi tưởng lại những cái thuộc về thế giới ý niện thì chúng ta mới nhận thức 40 được. “Tư tưởng này trực tiếp được Freud tiếp nhận, trở thành một bộ phận cấu thành của lý luận như “liên tưởng tự do” trong phân tâm học của ông” [97, tr. 48]. Platon chịu ảnh hưởng của thuyết luân hồi trong kinh Vệ Đà của Ấn độ “qua sự trung gian của những người theo chủ thuyết của Pythagoras” [38, tr. 95]. Freud rất nhiều lần trích dẫn quan điểm của Platon trong khi nghiên cứu về bản năng tính dục. “Cái Eros của Platon xét về phương diện nguồn gốc, phát hiện và liên lạc với ái tình, hoàn toàn phù hợp với tinh lực tình yêu, với cái libido của phân tâm học” [38, tr. 137]. Như vậy, chúng ta có thể thấy, Freud đã thực sự tiếp thu tư tưởng triết học Hy lạp cổ đại về vô thức. Bước vào thời cận đại, thời kỳ người ta chỉ quan tâm đến vấn đề ý thức, vấn đề lý tính. Do vậy, việc nhận thức về bản chất đời sống tâm thần của con người là, xác định vị trí, vai trò của ý thức, làm rõ ý nghĩa mối quan hệ giữa cảm tính và lý tính, vạch ra những mối liên hệ bên trong và bên ngoài thế giới nội tâm của con người là vấn đề hàng đầu trong quá trình nhận thức về bản chất đời sống tâm thần của con người. Nhưng ở đây, các nhà triết học đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa cốt lõi là: “lẽ nào cần xem tâm thần con người chỉ bao gồm ý thức, lẽ nào có thể giả định sự hiện diện của vô thức trong tâm thần, lẽ nào có thể đưa ra bộ phận những quá trình diễn ra một cách tự phát, vô thức ra khỏi đời sống tâm thần con người?” [77, tr. 93]. Từ đó, các nhà triết học cố gắng đi vào để giải quyết vấn đề này. Với mệnh đề nổi tiếng “Cogito ego sum” (Tôi tư duy nên tôi tồn tại), René Descartes (1596 - 1650) muốn ám chỉ một thực tế là trong tâm thần của con người không có và không thể có một quá trình nào ngoài quá trình diễn ra một cách ý thức. Theo ông, tất cả mọi suy nghĩ, suy luận về tồn tại, con người và nhận thức thế giới là nằm ở ý thức. Descartes cho rằng, thể xác và tâm thần như hai mặt của thực thể con người, có liên hệ mật thiết với nhau nhưng lại hoàn toàn độc lập, không quy định nhau. Ngược lại khi lý giải về các bộ phận của tâm thần con người, ông cho ...a đến ranh giới của chứng mất trí” [52, tr. 141]. Do vậy, để con người có thể liên kết hoàn toàn với nhau cần phải có những đặc điểm chung nhất kéo họ lại gần nhau đó là “tâm lý tôn giáo”. Chỉ có tâm lý tôn giáo mới làm cho con người “hành động theo lương tri phụ thuộc vào mức độ anh ta vượt khỏi những giới hạn của xã hội” [52, tr. 143]. Mục đích của bất kỳ tôn giáo nào cũng mong muốn đem lại cho con người Chân - Thiện - Mỹ, cũng như mục đích của phân tâm học Fromm đưa ra vấn đề tâm lý tôn giáo nhằm giúp cho con người có một cuộc sống ổn định, hạnh phúc hơn về đời sống của mình, nhất là đối với đời sống tâm thần. Cho dù chúng ta có phải là người mộ đạo hay không cho dù chúng ta có tin vào tính chất cần thiết của một tôn giáo mới hoặc một tôn giáo chẳng 145 phải là tôn giáo hay không, hoặc vẫn tiếp tục giữ lại truyền thống Do Thái giáo, Kitô giáo, vì chúng ta quan tâm đến bản chất chứ không phải là hình thức, quan tâm đến sự trải nghiệm chứ không phải là ngôn từ, quan tâm đến con người chứ không phải nhà thờ, nên chúng ta có thể hợp nhất trong việc khước từ mạnh mẽ sự sùng bái thần tượng và có thể tìm được một niềm tin chung trong việc khước từ này hơn là trong bất cứ tuyên bố khẳng định nào về Thượng đế. Chắc chắn là chúngta sẽ tìm được sự khiêm nhường và sự yêu thương trong tình huynh đệ” [51, tr. 174 – 175]. Như vậy, nếu chúng ta quan tâm đến bản chất chứ không phải đến cái vỏ bề ngoài, đến cảm nghiệm cuộc sống đã trải qua chứ không phải đến những ngôi thánh đường lung linh, huyền ảo, thì chúng ta có thể hợp nhất để quyết liệt chối bỏ sự tôn thờ thần tượng trong xã hội hiện đại, biểu hiện như: sự phục tùng quyền lực, sự sùng bái sức mạnh, sùng bái thành tích, sùng bái bạo lực, sùng bái thành công và sự tiện nghi, chúng ta sẽ tìm thấy một niền tin chung trong sự phủ nhận này hơn bất cứ trong mệnh đề xác quyết nào của các tôn giáo. Chắc chắn chúng ta sẽ trở nên khiêm tốn hơn và sẽ sống với nhau như trong một “xã hội lành mạnh”. Theo chúng tôi, Fromm đã có lý khi chỉ ra vai trò của tâm lý tôn giáo trong việc giúp cho con người thoát khỏi sự tha hóa của xã hội. Kết luận chƣơng 4 Với Freud, văn hóa ra đời từ giai đoạn đầu của con người gắn với sự sụp đổ của tính tập thể bày đàn, bắt nguồn từ tâm trạng bơ vơ khi phải đối diện với sức mạnh của thiên nhiên bên ngoài và sự xung đột bản năng bên trong, đó là từ tội lỗi của những người con trai trưởng thành kết hợp lại để giết người Cha, sau đó, họ phải đối diện với những cảm giác tội lỗi và sức mạnh không thể ngăn chặn cả bên trong lẫn bên ngoài (xung khắc với văn hóa – văn minh), lúc này, họ đặt ra tục Tôtem, và muốn quay về với sự bảo vệ của người cha, người mà có thể yêu thương và bảo vệ trước những sức mạnh khi con người gặp phải. Theo ông, tôn giáo là tài 146 sản tinh thần của nền văn minh, do vậy, thông qua tôn giáo, con người có được sự giúp đỡ cần thiết về đời sống tâm thần khi những bản năng không được thỏa mãn. Theo Jung, vô thức tập thể là nguồn gốc của văn hóa – văn minh, các archetype trong vô thức tập thể có ở mọi nền văn hóa – văn minh. Phân tích và tìm hiểu các biểu tượng văn hóa, Jung nhận ra sự giống nhau đến kỳ lạ của những hình ảnh, môtíp, các chủ đề trong đó người nằm mơ, các bệnh nhân thuộc các nền văn hóa khác nhau với tuổi tác khác nhau, trình độ học vấn khác nhau, màu da khác nhau,... để rút ra kết luận về tính xác thực và củng cố về sự tồn tại của một lớp vô thức chung, mang tính tập thể trong tâm lý con người, là sự cố gắng làm cho tâm thức con người quay trở lại ban đầu trên tinh thần nguyên thủy để sống với nhau hòa hợp, hạnh phúc hơn. Fromm nghiên cứu văn hóa – văn minh từ lập trường triết học của mình nhằm khám phá những dạng tính cách xã hội khác nhau trong những nhân tố quy định nó. Chừng nào sự tương tác của những nhân tố này vẫn còn hài hoà và ổn định thì khi ấy tính cách xã hội tương ứng vẫn thể hiện chức năng duy trì sự ổn định của xã hội. Ngược lại, khi những điều kiện biến đổi, sự hoạt động không đồng đều, thậm chí trái ngược nhau của các nhân tố trên sẽ tác động không nhỏ đến tính cách xã hội. Lúc này, tính cách xã hội không còn giữ vai trò là chiếc van an toàn cho xã hội nữa mà trái lại trở thành yếu tố hủy hoại cấu trúc xã hội làm con người cô đơn và lo âu. Lúc đó, con người tìm đến tâm lý tôn giáo, nhằm giúp họ có cuộc sống không còn sợ hãi và lo âu. 147 KẾT LUẬN Nghiên cứu quan điểm của phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh nói riêng và phân tâm học nói chung ở Việt Nam trong vài thập niên trở lại đây có xu hướng mở rộng, nhưng phần lớn những công trình phân tâm học chủ yếu nghiên cứu tư tưởng Freud, người sáng lập ra phân tâm học, nên những tác phẩm nghiên cứu về phân tâm học sau Freud còn hạn chế. Phân tâm học cũng như các trào lưu triết học phương Tây hiện đại là sự phản tư, kết hợp tinh thần nhân văn của con người và xã hội phương Tây, cũng là những hình thái ý thức xã hội, phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, do vậy, phân tâm học không thể tách rời những điều kiện và tiền đề hình thành của mình. Là một trong những thành tựu lớn của Y học và tâm lý học, một phương pháp mới trong điều trị bệnh tâm thần, về sau phân tâm học trở thành một học thuyết nghiên cứu con người và xã hội. Phân tâm học định hướng vào làm rõ cơ sở tồn tại người, kết cấu của bộ máy tâm thần, những nguyên tắc hoạt động sống của cá thể và tập thể dựa trên sự vận dụng lý thuyết về vô thức (vô thức cá thể, vô thức tập thể và vô thức xã hội). Thông qua việc làm rõ vị trí, vai trò, đặc điểm của vô thức, cấu trúc của bộ máy tâm thần con người và sự tác động qua lại của những yếu tố trong cấu trúc ấy ở các giai đoạn phát triển khác nhau của đời sống tâm thần con người. Điểm nổi bật trong Phân tâm học về con người là dịch chuyển bản thể tồn tại người từ thực tại vật chất sang thực tại tâm thần, bên trong thực tại tâm thần là sự dịch chuyển từ sự quyết định của hữu thức sang vô thức. Sự dịch chuyển này trong bản thể tồn tại người tuy còn một số hạn chế, nhưng việc chỉ ra bản chất của thực tại tâm thần con người của Phân tâm học có những đóng góp quan trọng trong quan niệm về con người góp phần vào nhận thức rõ và đầy đủ hơn trong vấn đề nhìn nhận tồn tại người trong thế giới. Xem vô thức là bản thể tồn tại người, Phân tâm học khảo cứu con người trong mối quan hệ với con người, con người với tự nhiên và con người với xã hội, làm rõ cơ chế biểu hiện của vô thức trong đời sống con người trong sự tương tác với văn hóa – văn minh. 148 Với vô thức cá thể, Freud xem văn hóa – văn minh phát sinh gắn với sự sụp đổ của tính tập thể bày đàn, đó là từ tội lỗi của những người con trai kết hợp lại để giết người Cha của mình. Sau đó, tất cả những người con trai trưởng thành lại đặt ra những lệ cấm. Đây chính là bước chuyển từ quan hệ theo bản năng sang quan hệ theo chuẩn mực “cấm kị”, là kết quả của sự lấn át bản năng tính dục và tôn giáo ra đời là để thỏa mãn những xung đột nội tâm của ba yếu tố trong bộ máy tâm thần con người là phi Ngã, Ngã và siêu Ngã. Tôn giáo là tài sản tinh thần của nền văn minh, hình thành từ sự nghiêm khắc, áp lực của người Cha và sự phạm tội của những người con thông qua mặc cảm Oedipe, có vai trò to lớn trong đời sống là giúp cho con người thỏa mãn những bản năng vô thức. Freud xuất phát từ sự đối lập giữa cá thể với văn hóa, cá thể với xã hội nên ông cho rằng văn hóa là kết quả của của sự lấn át bản năng tính dục của con người trên cơ sở hạn chế những cấm đoán, những đam mê, dục vọng bẩm sinh, điều này làm cho cá thể chính là kẻ thù của văn hóa. Freud chưa nhìn thấy vai trò của lịch sử khi xem xét văn hóa, nhưng ông lại có đóng góp quan trọng khi cho rằng, muốn đạt tới văn hóa, con người phải biết từ bỏ hay hạn chế một số bản năng để hướng tới sự tôn trọng và yêu thương là cơ sở để mỗi người có được hạnh phúc. Với vô thức tập thể chứa đựng toàn bộ archetype, là vật trầm tích, của tất cả những cái mà nhân loại trải nghiệm cho đến tận nguyên lý ban đầu của nó, là hệ thống sinh động của những phản ứng và sắp đặt, hệ thống này là những archetype nằm trong vô thức tập thể mang tính mờ ảo, bằng những hình ảnh tập thể, nó sẽ xác định thực tế của cá thể, là những mô hình nhận thức và biểu tượng của văn hóa. Thông qua archetype, Jung tìm ra trong kho tàng thế giới tâm thần của con người, những nét văn hóa mang bản chất chung của loài người, Jung phát hiện ra nguồn gốc sâu xa của một số hiện tượng trong các nền văn hóa khác nhau có một sự giống nhau như những hình ảnh trong giấc mơ dù là người da màu hay da trắng, dù là học thức cao hay học thức thấp,và ý nghĩa phổ biến của những biểu tượng trong lịch sử giữa các nền văn hóa, con người cần tìm về những yếu tố có chung trong các nền 149 văn hóa, như thế con người sẽ tìm được tiếng nói chung và sống với nhau ngày càng tốt đẹp. Fromm coi nền văn minh công nghiệp hiện đại trong thế kỷ XX là văn hóa của một xã hội hoàn toàn tha hóa. Trong nền văn minh này những quy định, quy tắc cùng với những điều làm con người không thỏa mãn sẽ dồn nén rơi, chìm vào “vô thức xã hội”. Đặc điểm của xã hội này là cảm xúc giả tạo, sự thần tượng hóa, tình yêu méo mó, bệnh nhiễu tâm liên quan đến cuộc sống vô nghĩa. Fromm và những người theo Chủ nghĩa Freud mới đề nghị, Phân tâm học nên chuyển hướng từ sinh vật học sang xã hội học. Nghĩa là nó nên tự nhận mình như là một trong những ngành khoa học xã hội hơn là một khoa học về tự nhiên. chúng ta thấy rằng con người trước hết là một thực thể xã hội (chứ không phải là một thực thể sinh học như quan điểm của Freud), con người không thể tự mình mà luôn cần những người khác để thỏa mãn những nhu cầu bản năng của anh ta. Sự biến đổi của những điều kiện kinh tế xã hội sẽ dẫn đến sự biến đổi tính cách xã hội, làm nảy sinh những nhu cầu và lo âu mới mặt khác, tính cách không phải là kết quả của sự thích nghi thụ động mà của sự thích nghi năng động với hoàn cảnh xã hội. Cách lý giải này về xã hội hiện đại giúp chúng ta có nhận thức đầy đủ hơn về sự ảnh hưởng của tính cách xã hội đến đời sống con người và nền văn hóa chúng ta đang tồn tại. Theo Fromm, những đam mê của con người không phải bắt nguồn từ những nhu cầu có tính bản năng, mà từ những điều kiện hiện sinh cụ thể của con người. Nhưng để những bản năng được thỏa mãn, con người không tìm thấy ở đâu ngoài đời sống tâm lý tôn giáo. Nghiên cứu quan điểm của Phân tâm học về con người và văn hóa – văn minh là xem xét quan điểm của phân tâm học về bản thể tồn tại người, nhân cách người vận dụng vào nghiên cứu lĩnh vực nhân văn của con người – lĩnh vực văn hóa – văn minh để thấy được sự ảnh hưởng và vai trò của văn hóa – văn minh trong đời sống xã hội và con người, từ đó nhận ra những yếu tố tích cực và hạn chế những yếu tố tiêu cực của phân tâm học về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của một luận án chúng tôi mới bước đầu tìm hiểu, tiếp cận tư tưởng của ba nhà phân tâm học 150 Freud, Jung và Fromm. Chúng tôi cho rằng, phân tâm học là một lĩnh vực khá rộng lớn cần được tiếp tục nghiên cứu quy mô rộng lớn và sâu sắc hơn, nhất là nghiên cứu phân tâm học như một sợi chỉ xuyên suốt từ Freud (cha đẻ của phân tâm học) tới các thế hệ tiếp theo và giai đoạn hiện nay. 151 DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1. Nguyễn Văn Quế (2016), “Vai trò của tôn giáo trong xã hội hiện đại qua sự kiến giải của Erich Fromm”, trong Nguyễn Thế Phúc, Ngô Văn Trân (đồng chủ biên), “Triết học tôn giáo với những vấn đề nhân sinh quan: Lý luận và thực tiễn”, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2016, tr. 30 - 44. 2. Nguyễn Văn Quế (2015), “Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội dưới góc nhìn Phân tâm học của S.Freud”, Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ISSN: 1859-0403, số 4, tr. 13 – 22. 3. Nguyễn Văn Quế (2015), “Lý luận về biểu tượng nhân cách theo tư tưởng của Carl Gustav Jung”, Thiết bị giáo dục, Hiệp hội thiết bị giáo dục Việt Nam, ISSN: 1859-0810, số 7, tr. 193 – 196. 4. Nguyễn Văn Quế (2013), “Tôn giáo theo quan điểm của phân tâm học”, Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Tôn giáo – Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, ISSN: 1859-0403, số 11, tr. 3 – 10. 5. Nguyễn Văn Quế (2012), “Sự tiếp nhận Phân tâm học ở Việt Nam: Lịch sử và vấn đề” (viết chung với PGS,TS. Nguyễn Tiến Dũng), Kỷ yếu hội thảo quốc tế Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó, Viện Triết học, tr.15 – 25. In lại trong PGS,TS. Phạm Văn Đức (chủ biên), Triết học Áo và ý nghĩa hiện thời của nó, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014. 6. Nguyễn Văn Quế (2011), “Quan điểm của Phân tâm học về tôn giáo”, Y học thực Hành, Số 757 + 758, tr. 224 – 229. 7. Nguyễn Văn Quế (2011), “Vai trò của tôn giáo trong đời sống xã hội dưới góc nhìn của Phân tâm học”, Y học thực Hành, Số 757 + 758, 2011, tr. 312 – 318. 152 TÀI LIỆU THAM KHẢO * Tiếng Việt: 1. Adler, J (2004), Tìm hiểu nhân cách, bản dịch của Trí Hải, Nxb Hoàng Đông Phương, Sài Gòn. 2. Adler, Mortimer J (2004), Những tư tưởng lớn qua tác phẩm của thời đại, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 3. Ngọc Anh sưu tầm và biên soạn (2002), Các hình thức thờ phụng của bộ lạc, Nxb Văn hóa dân tộc – Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 4. Lý Chấn Anh (2007), Nghiên cứu triết học cơ bản, bản dịch của Nguyễn Tài Thư, Nxb Tri thức, Hà Nội. 5. Ban tư tưởng văn hoá Trung ương (2002), Vấn đề tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Belik, A.A (2000), Văn hoá học những lý thuyết nhân học văn hóa, Tạp chí văn hoá nghệ thuật, Hà Nội. 7. Bennet, E.A. (2002), Jung đã thực sự nói gì?, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 8. Bochenski, J.M. (1969), Triết học Tây phương hiện đại, Nxb Ca Dao, Sài Gòn. 9. Brinton, C. (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 10. Charrier, J.P. (1972), Phân tâm học, Nxb Trẻ, Sài Gòn. 11. Quang Chiến (1993), “Tìm hiểu quan niệm của Giaxpe về con người”, Tạp chí Triết học, số 4. 12. Clark, David S. (1998), Freud đã thực sự nói gì?, Nxb Thế giới, Hà Nội. 13. Doãn Chính, Đinh Ngọc Thạch (2008), Triết học Tây Âu Trung cổ, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 14. Trương Chí Cương (2007), Tôn giáo học là gì, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 153 15. Brinton, C., Wolff, R.L., Christopher, J.B. (2004), Văn minh phương Tây, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 16. Daco, Pierre (2004), Những thành tựu lẫy lừng của tâm lý học hiện đại, Nxb Thống kê, Hà Nội. 17. Dave Robinson và Oscar Zarate (2006), Nhập môn kierkegaard, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 18. Đỗ Lộc Diệp chủ biên (2003), Âu – Mỹ - Nhật: Văn hóa và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 19. Mai Ngọc Diệp (2004), “S.Freud và những luận điểm của ông chung quanh những vấn đề liên quan đến văn hóa”, Tạp chí Thông tin khoa học, Đại học An Giang, số 18. 20. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 21. Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng (2006), Triết học Mỹ, Nxb Tổng hợp Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 22. Nguyễn Tiến Dũng (2005), Chủ nghĩa hiện sinh và sự hiện diện ở Việt Nam, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 23. Nguyễn Tiến Dũng (2002), “Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng triết học cho khoa học”, Tạp chí Triết học, số 2. 24. Nguyễn Tiến Dũng (1999), “Một số khía cạnh về văn hoá và con người trong triết học phương Tây hiện đại”, Tạp chí Triết học, số 1. 25. Nguyễn Tiến Dũng (1996), Hiện tượng học: Thực chất và ý nghĩa, Tạp chí Triết học, số 4. 26. Nguyễn Tiến Dũng (2003), “Triết học Nít Sơ và cuốn sách viết về triết học Nít sơ đầu tiên ở Việt Nam”, Tạp chí Triết học, số 4. 27. Nguyễn Tiến Dũng (1997), “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngay nay, số 1. 28. Nguyễn Tiến Dũng (1997), “Chủ nghĩa cá nhân Mỹ”, Tạp chí Châu Mỹ ngay nay, số 4. 154 29. Nguyễn Văn Dũng (1999), “William James với quan niệm về đạo đức”, Tạp chí Triết học, số 3. 30. David, E.C. (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 31. Down, Robert B (2003), Những tác phẩm biến đổi thế giới, Nxb Lao động, Hà Nội. 32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. 34. Lưu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tập 4. 35. Lưu Phóng Đồng (2006), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21- Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội. 36. Phan Quang Định sưu tầm (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb Văn học, Hà Nội. 37. Fragons, M. (1999), Văn hóa thế kỷ XX, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 38. Freud, S. (1969) Nghiên cứu phân tâm học, An Tiêm, Sài Gòn. 39. Freud, S. (1970), Phân tâm học tính dục, Nhị Nùng, Sài Gòn. 40. Freud, S. (2001), Vật tổ và cấm kỵ, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 41. Freud, S.(2002), Phân tâm học nhập môn, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 42. Freud, S. (2002), Bệnh lý học thần kinh về sinh hoạt đời thường, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 43. Freud, S. (2002), “Tôi không nổi loạn chống lại trật tự vĩnh hằng”, bản dịch Lê Huy Bắc, Tạp chí Nghiên cứu châu Âu, số 4. 44. Freud, S. (2005), Luận bàn về văn minh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 45. Freud, S. (2005), Các bài viết về giấc mơ và giải thích giấc mơ, Nxb Thế giới, Hà Nội. 155 46. Freud, S. (2009), Tâm lý học đám đông và phân tích cái tôi con người, Nxb Tri thức, Hà Nội. 47. Freud, S. (2015), Cái tôi và cái nó, Nxb Tri thức, Hà Nội. 48. Fromm, E. (1969), Phân tâm học về tình yêu, Nxb Nhị Nùng, Sài Gòn. 49. Fromm, E. (2002), Ngôn ngữ bị lãng quên, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 50. Fromm, E. (2007), Trốn thoát tự do, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 51. Fromm, E. (2012), Phân tâm học & tôn giáo, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 52. Fromm, E. (2011), Thiền và phân tâm học, Nxb Thời đại, Hà Nội 53. Tạ Thị Vân Hà (2014), Tư tưởng triết học của S.Freud, Luận án tiến sỹ triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Hà Nội. 54. Trần Thanh Hà (2008) Học thuyết Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 55. Phạm Minh Hạc (1999), Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 56. Phạm Minh Hạc (2001), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 57. Phạm Minh Hạc (2013), Học thuyết tâm lý học và Sigmund Freud, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 58. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 59. Nguyễn Hào Hải (1995), “Vấn đề con người và thượng đế trong triết học Phương Tây hiện đại”, Triết học, số 3. 60. Nguyễn Hào Hải (1996), “Thuyết trực giác của Bergson”, Triết học, số 6. 61. Nguyễn Hào Hải (1998), “Chủ nghĩa siêu hiện thực - Một tham vọng mới của một số nhà triết học phương Tây muốn xoá bỏ sự ngăn cách giữa vật chất và tinh thần”, Triết học, số 5. 62. Lê Nam Hải (2003), “C.G. Jung và lý thuyết vô thức tập thể”, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, số 19. 156 63. Mai Thanh Hải (2006), Từ điển tôn giáo tín ngưỡng thế giới và Việt Nam, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 64. Nguyễn Vũ Hảo (2013), ”Đạo đức học phương Tây đương đại: Tổng quan các trào lưu và vấn đề chủ yếu”, Thông tin khoa học xã hội, số 4. 65. Vũ Gia Hiền (2006), Triết học từ góc độ biện chứng duy vật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 66. Đỗ Lan Hiền (2004), “Vấn đề tôn giáo trong triết học phương Tây hiện đại”, Triết học, số 4. 67. Nguyễn Chí Hiếu (2007), “Bản thể luận và cách tiếp cận bản thể luận trong triết học phương Tây”, Triết học, số 6. 68. Nguyễn Chí Hiếu, Đỗ Minh Hợp (2013) Chủ nghĩa Mác phương Tây (trường phái Frankfurt), Nxb Tôn Giáo, Hà Nội. 69. Nguyễn Huy Hoàng (2005), “Văn hóa dưới cái nhìn phân tâm học của Freud”, Triết học, số 3. 70. Đỗ Minh Hợp (2000), “Triết học phương Tây hiện đại - Một cái nhìn khái quát”, Triết học, số 1. 71. Đỗ Minh Hợp (2001), “Triết học phương Tây hiện đại”, Triết học, số 3. 72. Đỗ Minh Hợp (2003), “Chủ nghĩa hiện sinh nhìn từ góc độ văn hoá”, Triết học, số 6. 73. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Thanh, Lê Thanh Hải (2005), Tôn giáo lý luận xưa và nay, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 74. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Thanh, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương lịch sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX đầu thế ỷ XX, Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 75. Đỗ Minh Hợp (2007), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 76. Đỗ Minh Hợp (2013), “Địa vị triết học của phân tâm học Freud”, Triết học, số 7. 157 77. Đỗ Minh Hợp (chủ biên) (2014), Nhân học triết học Freud và ảnh hưởng của nó đến nhân học triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tôn Giáo, Hà Nội. 78. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây (gồm 3 tập), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 79. Trương Sỹ Hùng (2007), Tôn giáo và văn hoá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 80. Hungtington, Samuel (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao động, Hà Nội. 81. Đỗ Huy (1999), “Vấn đề xây dựng lối sống dân tộc - hiện đại ở nước ta hiện nay”, Triết học, số 6. 82. Đỗ Huy (1994), “Suy nghĩ về nghiên cứu triết học phương Tây hiện nay”, Triết học, số 4. 83. Đỗ Châu Huyền, Hoàng Tín Đức (1971), Những vĩ nhân thay đổi thế giới, Nxb Thanh Tân, Sài Gòn, 84. Lưu Văn Hy (2003), Nhập môn lịch sử tâm lý học, Nxb Thống kê, Hà Nội. 85. John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội. 86. J.S. Mill (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội. 87. J.K.Melvil (2007), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 88. Jaccard, Roland (1998), Freud – cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Thế giới, Hà Nội. 89. Jung, Carl (2007), Thăm dò tiềm thức, Nxb Tri thức, Hà Nội. 90. Lưu Hồng Khanh (2005), Tâm Lý học chuyên sâu - ý thức và những tầng sâu vô thức, Nxb Trẻ, Hà Nội. 91. Vũ Khiêu, Phong Hiền, Bùi Đăng Duy (1986), Triết học tư sản phương Tây hôm nay, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. 92. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 93. Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 158 94. Phạm Minh Lăng (2001) Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 95. Phạm Minh Lăng (2004), Freud và Tâm phân học, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 96. Phạm Minh Lăng (1999), “Vài nét về Freud và tâm phân học”, Triết học, số 5. 97. Diệp Mạnh Lý (2005), Ximôn Phrớt, Nxb Thuận Hóa – Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 98. Nguyễn Cảnh Lâm, Minh Đức (2006), Những người khám phá bí ẩn thế giới, Nxb trẻ, TP Hồ Chí Minh. 99. Le Bon, G (2006), Tâm lý học đám đông, Nxb Tri thức, Hà Nội. 100. Vũ Đình Lưu (1966), Thảm kịch văn hóa, Nxb An Tiêm, Sài Gòn. 101. Vũ Đình Lưu (1968), Hành trình vào Phân tâm học, Nxb Hoàng Đông Phương, Sài Gòn. 102. Vũ Đình Lưu (1969), Phân tâm học áp dụng vào các ngành học vấn, Nxb Tổ hợp Gió, Sài Gòn. 103. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 104. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 105. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 106. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 21, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 107. C.Mác, Ph.Ăngghen (2004), Toàn tập, Tập 42, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 108. Marcuse, Herbert (1966), Dục tính và văn minh, Nxb Kinh Thi, Sài Gòn. 109. Mel, Thomson (2004), Triết học tôn giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 110. Miller, Henri (2008), Thế giới tính dục, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp HCM. 111. Phan Trọng Ngọ (2003), Các lý thuyết phát triển tâm lý người, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 159 112. Lê Tôn Nghiêm (1969), Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng phương Tây, Nxb Sài Gòn. 113. Lê Tôn Nghiêm (2005), Những vấn đề triết học hiện đại, Nxb Ra Khơi, Sài Gòn. 114. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học phương Tây (gồm 3 tập), Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 115. Lại Bích Ngọc (2002), Nguồn gốc vai trò chức năng của tôn giáo trong lịch sử thế giới Cổ Trung đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 116. Đào Thị Oanh (2007), Vấn đề nhân cách trong tâm lý học ngày nay, Nxb Giáo Dục, Hà Nội. 117. Osho (2007), Hành trình nội tại, Nxb Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 118. Nguyễn Thu Phong (2002), Minh triết trong tư tưởng phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 119. Vũ Đình Phong, Lê Huy Hoà (2003), Những luận thuyết nổi tiếng thế giới, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội. 120. Nguyễn Ngọc Phú (2006), Lịch sử tâm lý học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 121. Tô Kiều Phương (1943), Học thuyết Freud, Nxb Tân Việt, Sài Gòn. 122. Đặng Phùng Quân (1972), Triết học và khoa học, Nxb Sài Gòn. 123. Bùi Thị Kim Quỳ (2002), Mối quan hệ thời đại dân tộc tôn giáo, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 124. Hồ Sĩ Quý (2007), Con người và phát triển con người, Nxb Giáo dục, Hà Nội 125. Richard Appignanesi và Oscar Zarate (2006), Nhập môn Freud, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 126. Spengler, O (1971), Con người và kỷ thuật, Nxb Sài Gòn. 127. Samuel E. Stumpf & Donal C.Abel (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh. 128. Phạm Văn Sĩ (1986), Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 160 129. Sir Julian Huxley, J.Bronwski, Gerald Barry, James Fisher (2004), Tư tưởng loài người qua các thời đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 130. Trần Đăng Sinh, Đoàn Đức Doãn (2007), Giáo trình Tôn giáo học, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 131. Hoành Sơn Hoàng Sỹ Quý (2006), Tính dục nhìn theo phương Đông, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. 132. Suzuki. D.T, Fromm.E, Richard de Martino (2011), Thiền và tâm phân học, Nxb Thời đại, Sài Gòn 133. Stein, Murray (2011), Bản đồ tâm hồn của Jung, NXb Trẻ, Hà Nội. 134. Ngụy Hữu Tâm (2001), “Sigmund Freud và học thuyết phân tâm học”, Tâm lý học, số (6). 135. Ngụy Hữu Tâm (2002), “Những băn khoăn cho phân tâm học Freud cổ điển”, Tâm lý học, số (4). 136. Trần Đức Thảo (2003), Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 137. Đặng Thái (1956), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Xây dựng, Hà Nội. 138. Nguyễn Văn Thêm (2001), “Vài nét sơ lược về phả hệ 1 thế kỷ phân tâm học”, Tâm lý học, số 5. 139. Thompson, Mel (2004), Triết học tôn giáo, bản dịch của Đỗ Minh Hợp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 140. Nguyễn Thanh Tuấn (2005), Văn hoá các nước tư bản phát triển, đặc điểm và dự báo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 141. Cao Huy Thuần (2006), Tôn giáo và xã hội hiện đại, Nxb Thuận Hóa, Huế, 142. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 143. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 144. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2003), Phân tâm học và tình yêu, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 161 145. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2006), Theo vết chân những người khổng lồ: Tân Guylivơ phiêu lưu ký về các lý thuyết văn hóa, Nxb Văn hóa thông tin và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật Hà Nội. 146. Đỗ Lai Thúy sưu tầm & biên soạn (2007), Phân tâm học và tính cách dân tộc, Nxb Tri thức, Hà Nội. 147. Tình dục (1969), 4 tập, Thái độ, Sài Gòn. 148. Đặng Hữu Toàn (2012), “Nhân học Freud”, Tạp chí triết học, số 11. 149. Vũ Mạnh Toàn (2013), “Quan niệm theo lối phân tâm học của S.Freud về tôn giáo”, Triết học, số 8. 150. Đặng Nghiêm Vạn (1998), “Bản chất và biểu hiện của tôn giáo”, Tạp chí triết học, số 2. 151. Trương Lập Văn, Sầm Hiền An, Từ Tôn Minh (2001), Tính trong triết học phương Đông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 152. Vlađimia Xalôv (1972), Những điểm mơ hồ xung quanh vấn đề nhân học (1,2): Phân tâm học xem như ngành khoa học nghiên cứu về con người, Viện Thông tin Khoa học xã hội. 153. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1971), Chủ nghĩa Mác và phân tâm học, Tài liệu phục vụ nghiên cứu. 154. Viện Thông tin Khoa học xã hội (1973), Về một sự phê phán mácxít đối với học thuyết tâm phân học, Tài liệu phục vụ nghiên cứu. 155. Nguyễn Ước (2006), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội. 156. Xizi (2003), Sinh mệnh đời người, Nxb Hà Nội, Hà Nội. 157. William S.Sahakan, Mabel L.Sahakan (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh 158. Wilson, Stephen (2002), Sigmund Freud - Nhà phân tâm học thiên tài, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh. * Tiếng Anh: 159. Brown, J (1961), Freud and the Post – Freudian, Baltimore. 160. Clark, R (1992), Freud: The Man and the Case, London. 162 161. Erikson, E (1989), The Life Cycle Completed, Norton & Company. 162. Freud, S (1989), An Autobiographycal Study, London. 163. Jung, C.G (1968), Analytical Psychology: It’s Theory and Practice, Vintage Books. 164. Jung, C.G (1997), Colleted Works 7, Princeton University Press. 165. Jung, C.G (1997), Colleted Works 9i, Princeton University Press. 166. Sharp, Daryl (1991), Jung Lexicon, Inner City Books. 167. Steven, W (1995), Jung and the Jungians on Myth, Sage.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_quan_diem_cua_phan_tam_hoc_ve_con_nguoi_va_van_hoa_v.pdf