MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
28 năm sau khi "Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á" (ASEAN) được thành lập (1967 - 1995), và 20 năm sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam kết thúc (1975 - 1995), nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thống nhất đã trở thành thành viên chính thức thứ 7 của ASEAN. Ngoài 5 thành viên sáng lập của ASEAN là Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan, thành viên thứ 6 của tổ chức là Brunei đã được kết nạp ngay sau khi nước này được trao trả độc lập từ phía Anh (1984). Đây
19 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 512 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận văn Chính sách đối ngoại của Việt Nam sau khi gia nhập Asean, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có thể nói là một động thái tích cực,.nó chứng tỏ nỗ lực của Việt Nam trong việc thực hiện chính sách đối ngoại sau đổi mới năm 1986 :thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. sau khi ra nhập ASEAN , Việt Nam cũng đã có những nét mới trong chính sách đối ngoại trên nền tảng của tư duy đổi mới giúp đất nước có những thay đổi tích cực.Bên cạnh đó đây cũng là một trong những động lực thúc đẩy Việt Nam gia nhập hàng loạt các tổ chức khu vực và thế giới khác như APEC, WTO ,v.v
Chính vì ý nghĩa quan trọng đó, tôi đã chọn mốc thời gian này cho bài tiểu luận. Bài tiểu luận này nhằm cung cấp một cái nhìn cơ bản về chính sách đối ngoại của Việt Nam sau khi gia nhập ASEAN và những nhận xét chủ quan của bản thân về những chính sách đó.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Việt Nam với vấn đề gia nhập ASEAN
1.1. Hoàn cảnh và điều kiện để Việt Nam gia nhập ASEAN
Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia).
Năm 1975 chấm dứt chiến tranh suốt 30 năm qua, nước ta độc lập và thống nhất toàn vẹn.Khu vực Đông Nam Á đã có hòa bình và cũng có ít nhiều thay đổi. Nguyện vọng chung của các nước trong khu vực lúc đó là hòa bình, ổn định để cùng phát triển. Các nước ASEAN trước đấy có dính líu với chiến tranh của Mỹ đã muốn có mối quan hệ tốt với ta một phần vì sợ nước ta trả thù. Lúc bấy giờ, đối với các nước ASEAN thì ta vẫn cho tổ chức ASEAN là khối SEATO trá hình. Vì vậy mà thời gian đó Việt Nam và ASEAN trong tình trạng đối đầu căng thẳng. Nhưng cục diện thế giới đã thay đổi, chúng ta đã nhìn nhận một cách cởi mở hơn đối với tổ chức này và nhận thức rõ việc gia nhập vào ASEAN. Sau khi ký hiệp ước Bali vào tháng 2 năm 1976 thì quan hệ giữa các nước Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng với ASEAN bước đầu được cải thiện. Từ thập kỷ 70 đến thập kỷ 80 mối quan hệ đó lại trở nên căng thẳng bởi các tác động như: sự kích động, sự can thiệp của các nước lớn khi nước ta đưa quân vào giúp đỡ Campuchia lật đổ chế độ Khơme đỏ. Giữa những năm 80 tình hình Campuchia hòa dịu dần, ASEAN bắt đầu đối thoại với Việt Nam
Bên cạnh những thay đổi sâu sắc diễn ra trên thế giới và ở khu vực từ năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA, về sự liên kết cùng nhau phát triển đã đưa đến sự thông cảm hơn giữa Việt Nam và ASEAN về lợi ích an ninh của nhau, để tiến tới cùng chia xẻ một số phận chung của các dân tộc ĐNA.
Đường lối đổi mới được đề ra từ Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) và được phát triển thêm qua các Đại hội VII (1991) và Đại hội VIII (1996), đã thúc đẩy những cải cách kinh tế theo hướng thị trường nhằm đưa đất nước phát triển, hội nhập với khu vực và thế giới, với mục tiêu xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội công bằng và văn minh sống theo pháp luật.
Cách nhìn mới về phát triển kinh tế - xã hội: "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh sống theo pháp luật", và đường lối đối ngoại "là bạn với tất cả" thể hiện quan niệm mới về an ninh của Việt Nam, là những nhân tố tích cực thúc đẩy việc Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới.
Tháng 1/1992 diễn ra một sự kiện quan trọng, Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore quyết định thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) trong thời hạn 15 năm (l/1993 - l/2008). Lúc này, các nước ASEAN không những chấm dứt chia rẽ mà còn nhận rõ và đánh giá cao vai trò quan trọng của các nước Đông Dương đối với hòa bình, an ninh và phát triển của khu vực. Cũng vào thời gian này, Việt Nam triển khai mạnh mẽ đường lối đối ngoại "đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế". Trước thắng lợi của ta trong công cuộc đổi mới và trong thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, các nước thành viên cũ của ASEAN đã chủ động đặt vấn đề có thể sớm kết nạp Việt Nam vào ASEAN nếu ta tự thấy đã sẵn sàng. Thêm vào đó,năm 1994, Tổng thống Bill Clinton tuyên bố dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam.Đây là mốc lịch sử vô cùng quan trọng. Bạn bè các nước, các nhà ngoại giao Mỹ tại LHQ đều theo dõi sít sao hoạt động của ngoại giao Việt Nam tại diễn đàn đa phương lớn nhất hành tinh này. Việt Nam đang ở trong tình thế chỗ dựa truyền thống vừa bị tan ra (Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu), Phái đoàn "một vấn đề" (one issue Mission - vì suốt cả thời gian dài ta phải tập trung đấu tranh với một liên minh bao vây phong tỏa về vấn đề Việt Nam giúp tiêu diệt nạn diệt chủng tại Campuchia) sẽ hoạt động như thế nào đây.
Tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN (AMM) họp ở Bangkok thang 7/1994 các nước chính thức hỏi ta "Đã sẵn sàng gia nhập ASEAN chưa?" và khi ta chính thức trả lời "Việt Nam sẵn sàng gia nhập sớm", các Bộ trưởng đã vỗ tay nhiệt liệt hoan nghênh và lập tức thông qua nghị quyết tiến hành chuẩn bị các thủ tục cần thiết theo quy trình để làm lễ kết nạp Việt Nam vào kỳ họp Bộ trưởng ngoại giao tới, tức năm 1995 tại Thủ đô Brunei. Và ngày 28/7/1995, lễ trọng thể kết nạp Việt Nam vào ASEAN đã được tổ chức tại Bandar Seri Begawan, thủ đô của Brunei trong dịp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 28. ASEAN trở thành ASEAN-7.
Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông Nam Á chia rẽ thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất cả các nước trong khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác với nhau để mỗi nước phát triển và cả khu vực cùng phát triển, mở ra triển vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao gồm tất cả các nước trong khu vực.
Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong khu vực nhìn nhận về vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần Việt Nam. Và cũng từ đây quan hệ Việt Nam - ASEAN đã lật sang một trang mới.
1.2. Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập ASEAN
1.2.1. Thời cơ
Khi gia nhâp ASEAN tạo thuận lợi cho Việt Nam hoà nhập và cộng đồng khu vực, vào thị trường các nước Đông Nam Á tạo cơ hội để để nước ta có điều kiện mở rộng hợp tác với các nước lớn và các tổ chức khu vực trên thế giới : bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, Mĩ, tham gia tổ chức diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương(APEC)...Tạo thời cơ để Việt Nam thu hút vốn đầu tư, mở ra cơ hội giao lưu hợp tác trên lĩnh vực khoa học kĩ thuật, công nghệ để phát triển.Mở rộng giao lưu hợp tác trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật cũng là cơ hội để Vn mở rộng thị trường trên thế giới và khu vực .Tăng cường an ninh quốc phòng trên đát liền cũng như trên biển ASEAN ra đời 8/1967 gồm 5 nước có thể xem là mạnh về kinh tế nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ ( Thái, In, Ma, Sin, Phi ). Trải qua sự phát triển của các nước từ ASEAN 6 đến 10 với nhiều biến động về kinh tế, chính trị ở mỗi quốc gia có sự phát triển đặc thù, nhưng nhìn chung vấn đề hợp tác phát triển trong và ngoài khu vực Đông Nam Á là cơ bản nhất. Việt Nam tham gia vào tổ chức ASEAN không ngoài mục đích hợp tác phát triển với bạn bè trên thế giới, vì vậy đây là yếu tố thuận lợi để chúng ta thực hiện chủ trương này. Khi tham gia ASEAN chúng ta đã đóng góp tích cực về nhiều mặt, làm cho tổ chức ASEAN vững mạnh hơn đặc biệt trọng tâm là hợp tác phát triển kinh tế, văn hoá ( Cộng đồng ASEAN tương đồng về văn hoá - lúa nước ). Thứ hai thông qua ASEAN chúng ta tiếp xúc, hợp tác với nhiều tổ chức trên thế giới để làm bạn và hợp tác song phương, tạo tiếng nói trên chính trường quốc tế. Thứ ba không nằm ngoài quy luật xu thế phát triển chung của thế giới là hợp tác đa dạng hoá, đa phương hoá, đòi hỏi chính sách ngoại giao và hợp tác với bạn bè trên thế giới là tất yếu.
1.2.2. Thách thức
Tuy vậy, không có nghĩa là việc Việt Nam tham gia vào hợp tác ASEAN về các mặt đều diễn ra suôn sẻ, và Việt Nam đã không gặp mấy khó khăn và thách thức. Bên cạnh những kết quả tốt đẹp của hai năm tham gia hợp tác ASEAN, một số vấn đề vẫn còn tồn tại, và một số vấn đề mới nảy sinh sẽ tiếp tục thách thức sự tham gia và hội nhập của Việt Nam trong ASEAN.
Ngoài những thắc mắc từ bên ngoài ASEAN, ngay trong một số nước ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng của Việt Nam - một nước có trình độ kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt - tham gia vào hợp tác ASEAN, và việc Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ vốn có với Trung Quốc có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc.
Song song với sự hợp tác song phương, đa phương, với nhiều nước trong và ngoài khu vực ASEAN, kèm theo đó là những vấn đề phức tạp về các loại hình văn hoá đồi truỵ xâm nhập, ảnh hưởng vào nước ta dưới nhiều dạng thức khác nhau khó phát hiện và nắm bắt nếu không cẩn trọng dễ bị ảnh hưởng nhất là trong giai đoạn xu thế hiện nay, Mặt khác một số vấn đề cạnh tranh không lành mạnh của một số phần tử xấu từ bên ngoài dễ dàng xâm nhập hòng phá hoại kinh tế đất nước, kéo theo là những âm mưu thù địch.... nếu chúng ta không xử lý và có những biện pháp hữu hiệu tăng cường sức mạnh về mọi mặt Kinh tế, văn hoá, giáo dục, chính trị thì nguy cơ ( thách thức ) tụt hậu của đất nước là rất lớn.
Chương 2: Chính sách đối ngoại của Việt Nam
2.1. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước Đông dương
Lào và Campuchia vốn là 2 người láng giềng gần gũi, thân mật của Việt Nam và đều được gọi tên là những nước Đông Dương. Không chỉ có chung những phần biên giới mà còn chung về nhiều đường lối và chính sách phát triển khác. Việt Nam và 2 quốc gia này cũng giúp đỡ nhau rất nhiều trong các hiệp định tương trợ từ trước đến nay. Vậy khi cả 3 quốc gia đều cùng gia nhập vào 1 tổ chức hợp tác lớn nhất khu vực thì các chính sách của Việt Nam đối với Lào, Campuchia sẽ như thế nào?
Trước hết, ta nhìn lại mối quan hệ giữa Việt Nam với 2 quốc gia Đông Dương trong thời kì trước 1995. Khi nước CHDCND Lào ra đời ngày 2/12/1975, quan hệ Việt-Lào đã chuyển sang giai đoạn mới đó là mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và hai Nhà nước. Từ đó đến nay, mối quan hệ đặc biệt Việt-Lào ngày càng được củng cố và phát triển. Trước khi chính thức gia nhập vào ASEAN, một số hiệp định và thỏa thuận hợp tác đã ký giữa hai bên trên rất nhiều lĩnh vực: Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác Việt - Lào (18/7/1977); Hiệp ước hoạch định biên giới (7/1977); Hiệp định lãnh sự 1985; Hiệp định về quy chế biên giới 1990; Hiệp định hợp tác kinh tế - văn hóa - khoa học, kỹ thuật 1992-1995 (tháng 2/1992); Hiệp định về kiều dân (01/4/1993); Hiệp định quá cảnh hàng hóa (23/4/1994); Hiệp định hợp tác lao động (29/6/1995). Điều này cho thấy mối quan hệ giữa Việt Nam và Lào đã được thiết lập và duy trì trong khoảng thời gian rất lâu và nó có xu hướng ngày càng hợp tác mở rộng hơn về nhiều mặt trong đời sống kinh tế-xã hội của từng quốc gia. Trong giai đoạn 1991-1995, đặc biệt sau Đại hội Đảng VII, Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển, củng cố và phát triển qua hệ hữu nghị hợp tác truyền thống với các nước XHCN, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương, phát triển quan hệ với Đông Nam Á, phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển. Đối với Lào thì hai Đảng, 2 nước liên tục coi trọng củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện Việt-Lào.
Về phía Campuchia, sau hiệp định Paris, Nhà nước Campuchia chuyển sang chế độ chính trị xã hội khác. Tháng 1-1-92, hai bên khẳng định: xây dựng mối quan hệ láng giềng thân thiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vện lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ mỗi nước, không dũng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề giữa hai nước bằng con đường hòa bình, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết từng bước thỏa đáng vào thời gian thích hợp những vấn đề tồn tại. Hai bên khuyến khích hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa, khoa học kĩ thuật, lập các nhóm chuyên viên về vấn đề phân định biên giới, lập nhóm làm việc cấp chuyên viên để giải quyết vấn đề Việt Kiều trên cơ sở tôn trọng luật pháp Campuchia và luật pháp quốc tế cũng như thông lệ quốc tế. Nhìn chung có thể thấy, những mâu thuẫn có xảy ra giữa Việt Nam với 2 quốc gia láng giềng nhưng Việt Nam luôn nỗ lực đưa ra các chính sách giải quyết, điều hòa quan hệ bằng biện pháp hòa bình, xây dựng sự hợp tác dựa trên những hiệp định tương trợ về mọi mặt để cùng nhau phát triển. Đấy là khi Việt Nam đang ở trong giai đoạn rất khó khăn khi Liên Xô sụp đổ cùng sự bao vây cấm vận mọi mặt của Mỹ. Vậy khi Việt Nam gia nhập vào ASEAN thì tình hình có gì khác? Các chính sách đối với 2 nước láng giềng sẽ như thế nào?
Ngày 28/7/1995, Việt nam chính thức gia nhập vào tổ chức ASEAN nhưng 23/7/1997 Lào mới gia nhập và muộn hơn là 30/4/1999- năm gia nhập của Campuchia. Tuy nhiên khi mới gia nhập, Việt Nam đã có những chính sách mới đối với 2 nước láng giềng kể cả khi cả 3 chưa cùng gia nhập vào ASEAN. Từ khi Việt Nam gia nhập đến trước khi Lào gia nhập, có rất nhiều văn kiện quan trọng đã được kí kết giữa 2 bên: Hiệp định hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật giai đoạn 1996-2000 (ngày 14/1/1996); Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư (ngày 14/1/1996); Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (ngày 14/1/1996); Hiệp định vận tải đường bộ (ngày 26/2/1996); Hiệp định về trao đổi nhà trụ sở và nhà ở của cơ quan đại diện (ngày 1/4/1996). Chẳng hạn như hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và chính phủ Cộng Hòa Dân Chủ Nhân Dân Lào (1996), các bên ký kết với mong muốn mở rộng và tăng cường hợp tác lâu dài về kinh tế, công nghiệp và đặc biệt là tạo những đIều kiện thuận lợi cho đầu tư của các nhà đầu tư của bên ký kết này tại lãnh thổ của bên ký kết kia, nhận thấy sự cần thiết bảo hộ đầu tư của các nhà đầu tư của hai bên ký kết và thúc đẩy đầu tư, kinh doanh vì lợi ích kinh tế của hai bên ký kết. Hay là thỏa thuận về việc tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện, hàng hóa qua lại biên giới nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc khuyến khích phát triển hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước với mong muốn tăng cường hợp tác kinh tế, thúc đẩy, khuyến khích hợp tác đầu tư, thương mại giữa hai nước ngày càng phát triển và phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Đại Hội IX, trong khi ra sức đẩy mạnh quan hệ quốc tế, Việt Nam luôn coi trọng việc phát triển quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng gần gũi, các nước bạn bè truyền thống, trong đó quan hệ hữu nghị với Lào luôn chiếm vị trí hàng đầu, duy trì việc trao đổi thường kỳ cấp cao, các cấp, các địa phương, lập Ủy ban liên chính phủ chuyển từ hợp tác theo từng dự án sang hợp tác theo chương trình dài hạn: “chiến lược hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật đến năm 2000”, “hiệp định khung hợp tác năm năm 01-05”, “chiến lược hợp tác giữa hai nước giai đoạn 2001-2010” và nhiều hiệp định song phương khác....
Còn đối với Campuchia, từ năm 1995-1999, có rất nhiều cuộc viếng thăm giữa những người có quyền lực ở 2 nước chẳng hạn Tháng 8-1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm chính thức Campuchia, tháng 12-1995, Quốc vương Norodom Sihanouk thăm chính thức Việt Nam, tháng 5-1999, Chủ tịch Quốc hội Campuchia, Hoàng thân Norodom Ranarith thăm Việt Nam, tháng 6-1999, Tổng bí thư Lê Khả Phiêu thăm Campuchia. Hai bên nhất trí xây dựng quan hệ hai nước theo phương châm “hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài” Hơn nữa trong giai đoạn này, Campuchia chuyển sang chế độ đa Đảng, tuy không còn chiến tranh, nhưng còn mất ổn định và chịu tác động mạnh từ bên ngoài, Các thế lực thù địch tăng cường xuyên tạc, kích động chống phá Việt Nam, Campuchia, Lào và chia rẽ 3 nước. Trước tình hình đó, Việt Nam đã đưa ra phương châm chỉ đạo quan hệ 2 nước là “hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”. Việt Nam kiên trì chính sách hữu nghị, hợp tác với Campuchia, không can thiệp vào công việc nội bộ của Campuchia. Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao, ký nhiều hiệp định hợp tác về kinh tế, văn hóa, an ninh chống tội phạm, thúc đẩy giải quyết vấn đề tồn tại ( Việt kiều và biên giới).
Có thể thấy chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với 2 nước láng giềng vẫn dựa trên những cơ sở hợp tác cũ nhưng đã có bổ sung thêm nhiều khía cạnh của đời sống xã hội đặc biệt là nỗ lực giải quyết triệt để những mâu thuẫn còn tồn đọng, những vấn đề khá nhạy cảm và gây nhiều tranh cãi như vấn đề với Campuchia. Hội nghị Thủ tướng 3 nước năm 1999 và 2002 đã thỏa thuận đẩy mạnh hợp tác song phương và giữa 3 nước, nhất là trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng và phát triển kinh tế xã hội ở các tỉnh có chung biên giới giữa 3 nước. Ba nước thỏa thuận phương hướng, biện pháp cụ thể là xây dựng tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia, trong đó các lĩnh vực ưu tiên là giao thông, thương mại, du lịch, năng lượng điện và y tế, gắn việc xây dựng tam giác phát triển Việt Nam-Lào-Campuchia với hợp tác tiểu vùng ASEAN, thúc đẩy và tham gia chương trình hợp tác tiểu vùng MêKông mở rộng, trong đó có đường xuyên Á, nâng cấp đường 9 để Lào ra cảng Tiên Sa.
2.2. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN còn lại
Với ASEAN: Sau khủng hoảng tài chính và tiền tệ 1997, sự gắn kết và vị trí của ASEAN trên trường quốc tế gặp nhiều thách thức. Chủ nghĩa khủng bố hoạt động ở một số nước, gây thảm họa. Mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo bùng nổ. Sự tranh chấp giữa các nước lớn gia tăng. Mỹ tăng hiện diện ở Đông Nam Á, can thiệp nhiều hơn vào khu vực, kích động li khai và lôi kéo Đông Nam Á vào quỹ đạo của mình, kiềm chế các nước khác trong khu vực. Một số nước lớn khác đã tăng cường ảnh hưởng của mình bằng các quan hệ kinh tế. An ninh ở Lào và Campuchia có khả năng phức tạp hơn. Do đo Việt Nam đã đề ra một số chính sách chính thông qua một số đại hội và nghị quyết trung ương đảng
Đại Hội VIII “ ra sức tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong ASEAN. Đại Hội IX: nâng cao hiệu quả hợp tác với các nước ASEAN. Nghị quyết trung ương VIII: tiếp tục ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng. Nghị quyết trung ương IX : tiếp tục củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa VN và các nước trong khu vực. Tích cực chủ động góp phần giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, tăng cường gắn kết trong Hiệp hội, hạn chế tác động nhân hóa từ bên ngoài, đẩy mạnh hợp tác kinh tế. Để thực hiện những chính sách đó Việt Nam đã có những hành động cụ thể sau:
Góp phần tích cực vào củng cố sự gắn kết, giữ vững các nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc đẩy quan hệ hợp tác nội khối và với bên ngoài, nghiêm chỉnh thực hiện cam kết về AFTA, tăng cương quan hệ song phương với các nước thành viên và tổ chức Việt Nam thành lập ủy ban hỗn hợp như “ủy ban hỗn hợp về nghề cá và trật tự trên biển” với các nước ASEAN. Ngày 20-2-04, lần đầu tiên Việt Nam và Thái Lan đã có cuộc họp nội các chung, thống nhất hợp tác trong nhiều lĩnh vực: chính trị, an ninh, kinh tế , giáo dục và xã hội. Hai bên đã ký 10 văn kiện quan trọng nhằm đặt nền móng vững chắc cho sự hợ tác lâu dài và toàn diện giữa hai nước. Giải quyết vấn đề do lịch sử để lại: 5-8-1992 hợp tác cùng khai thác dầu khí vùng chồng lấn với Malaisia; 9-8-1997 ký với Thái hiệp định phân định ranh giới biển; 7-11-95 ky với Philipin 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản Biển Đông 3-2000, hơn 25.000 Việt kiều thế hệ 2 và ba nhập quốc tịch Thái Lan.11-2-2000, Philipin cho người Việt Nam đến từ ngày 1-1-98 đến 31-12-95 được quy chế thường trú. Tham gia hầu hết các chương trình hợp tác của ASEAN về an ninh chính trị, kinh tế cũng như chuyên ngành. Ta phối hợp tốt trên các diễn đàn khu vực
2.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các cường quốc có liên quan.
a. MỸ
Vào những năm 90, sự nghiệp Đổi mới của Đảng và nhân dân đang đem lại sức sống mới. Chính trị, an ninh ổn định, kinh tế vượt qua giai đoạn khó khăn nhất và chúng ta bắt đầu xuất khẩu gạo... Dù còn rất khó khăn nhưng hai bên Việt - Mỹ đều mong muốn tích cực triển khai ngoại giao con thoi theo lộ trình từng bước, hướng tới bình thường hóa quan hệ.
Trong khoảng thời gian này,Việt Nam khẳng định hai nước sẽ tiến dần đến bình thường hóa quan hệ mặc dù phải cần thêm thời gian để vượt qua khá nhiều khó khăn, khá nhiều vấn đề nhạy cảm...
Những động thái đối với Việt Nam của chính quyền Bill Clinton từ Washington thường lan nhanh với cộng đồng quốc tế ở LHQ. Những phát triển mới từ lệnh cấm vận Việt Nam được dỡ bỏ khỏi các tổ chức hệ thống Bretton Wood (Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế), đến việc hai bên chuẩn bị mở Văn phòng liên lạc tại hai Thủ đô... gây sự chú ý đặc biệt của dư luận.
Một năm sau đó, dấu mốc bình thường hóa quan hệ hai bên được tuyên bố chính thức. Ngày 12/7/1995, Việt Nam và Mỹ ký Hiệp định thiết lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ. Tại LHQ, đi đến đâu, gặp ai, chúng tôi cũng nhận được lời chúc mừng nhiệt thành.
Một trong những dấu mốc cũng khá nghẹt thở trong tiến trình 15 năm quan hệ, đó là khi Việt Nam vận động để Mỹ thông qua PNTR và kết thúc đàm phán song phương về WTO. Việt Nam coi trọng đàm phán song phương với tất cả 28 quốc gia và nền kinh tế thành viên WTO về việc Việt Nam gia nhập Tổ chức này. Nhưng có thể nói mục tiêu kết thúc đàm phán với Mỹ là quan trọng nhất. Đến tháng 12/2005, khi chuẩn bị tham dự Hội nghị WTO hàng năm lần thứ 5 tại Hongkong, ta đã ký kết thúc đàm phán với hầu hết các nước, nhưng với Mỹ thì chưa và cũng bởi vậy nên một số nước "bạn thân" của Mỹ cũng tiếp tục dây dưa với những lý do chẳng đâu vào đâu vì họ đang phải chờ đợi.
Cũng phải mất gần hết cả năm 2006 để chúng ta dồn lực kết thúc phần còn lại của quá trình 11 năm đàm phán, cả đàm phán song phương và đa phương, cho đến chiều thứ sáu ngày 13/10/2006, chúng ta mới thực sự kết thúc đàm phán gia nhập Tổ chức thương mại lớn nhất toàn cầu này
Nhiều đoàn của Mỹ đang và sẽ sang Việt Nam để kỷ niệm 15 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.. Những gì đạt được trong thập kỷ rưỡi qua sẽ là cơ sở tốt để hai bên tiếp tục các bước đi ngày càng đem lại kết quả thực chất để đưa quan hệ hai nước đến đồng thuận nhiều hơn, vì lợi ích không chỉ hai bên mà cả hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và quốc tế.
b. TRUNG QUỐC
Kể từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 kế tiếp là sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, quan hệ hữu nghị và hợp tác Việt-Trung đã phát triển nhanh và sâu rộng, đem lại hiệu quả thiết thực cho cả hai nước theo phương châm 16 chữ: “láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
Hai nước đã ký kết trên 40 Hiệp định và thỏa thuận ở cấp Nhà nước, tạo cở sở pháp lý để tăng cường lòng tin và hợp tác lâu dài giữa hai bên. Các cuộc gặp gỡ cấp cao được duy trì đều đặn hàng năm. Bên cạnh đó, hai bên cũng trao đổi nhiều đoàn các cấp, góp phần tăng cường hiểu biết, mở rộng hợp tác nhiều mặt giữa hai nước. Quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước tăng nhanh. Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là dầu thô, cao su, than, rau quả nhiệt đới, thủy hải sản, dầu thực vật, hạt tiêu, hạt điều v.v và nhập từ Trung Quốc máy móc, thiết bị, xăng dầu, vật tư nông nghiệp, vật liệu xây dựng... Về biên giới lãnh thổ, Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp ước biên giới trên bộ và Hiệp định về phân định Vịnh Bắc Bộ... và đang tích cực triển khai các công tác khác liên quan tới việc phân giới, cắm mốc và tiếp tục duy trì diễn đàn đàm phán về các vấn đề trên biển Đông. Hai bên cũng đã thỏa thuận nhiều kế hoạch nhằm mở rộng hợp tác giữa hai nước, trong đó có dự án xây dựng hành lang kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Lạng Sơn - Nam Ninh và Hà Nội - Hải Phòng - Lào Cai - Côn Minh và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ.
Bước sang thế kỷ mới ,mặc dù tình hình thế giới nhất là ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang có những diễn biến phức tạp ,khó lường, nhưng hữu nghị -hợp tác –phát triển vẫn là trục chính của mối quan hệ hai nước và cũng là chính sách đối ngoại chính của Việt Nam với Trung Quốc,trong đó cùng nhau phát triển là mục tiêu mà hai nước cần phấn đấu ,hữu nghị là nền tảng , tăng cường hợp tác cả song phương lẫn đa phương là biện pháp
2.4. Đánh giá về những chính sách đối ngoại của Việt Nam và bài học kinh nghiệm
a. Tích cực:
Sau khi gia nhập vào ASEAN, Việt Nam đã có những chính sách đối ngoại hợp lí, đúng đắn một mặt đóng góp không nhỏ vào việc xây dựng một ASEAN lớn mạnh trên trường quốc tế, mặt khác còn nâng cao vị thế của Việt Nam trên cương vị là thành viên chính thức của tổ chức khu vực.
Việc gia nhập ASEAN là một bước thắng lợi trong chính sách đối ngoại hàng đầu của Việt Nam, thực hiện mục tiêu an ninh, phát triển và ảnh hưởng. Đối với vấn đề an ninh, Việt Nam đã tạo dựng được một vành đai tương đối vững chắc. Đối với vấn đề phát triển, Việt Nam có cơ hội nâng cao và nhận được sự giúp đỡ về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá Về tầm ảnh hưởng, gia nhập ASEAN giúp Việt Nam không những được nhiều nước trên thế giới công nhận hơn ( đặc biệt là sau khi Liên Xô tan rã) , mà tiếng nói của Việt Nam trên trường quốc tế càng được coi trọng .
Trong mối quan hệ với các quốc gia khác, Việt Nam điều chỉnh chính sách của mình một cách linh hoạt. Đối với các nước trong ASEAN, Việt Nam luôn nêu cao tinh thần “hoà bình- hữu nghị- hợp tác- phát triển”, tranh thủ sự ủng hộ và tương trợ lẫn nhau để cùng phát triển. Đối với các nước lớn trên thế giới, Việt Nam luôn sẵn sàng mở rộng quan hệ trong khi đó vẫn tự chủ trong các vấn đề liên quan đến lợi ích quốc gia, lợi ích khu vực, cũng có nghĩa hoà nhập chứ không hoà tan.
b. Hạn chế và bài học kinh nghiệm.
Chúng ta nhìn nhận các nước là qua lăng kính ý thức hệ : Điều đó đã làm cho chúng ta không thấy hết được các nhân tố tích cực – thường là tinh thần yêu nước và bảo vệ dân tộc- của các nước Đông Nam Á nói chung. Do đó, cần có một tư duy mới về vấn đề độc lập, chủ quyền,an ninh và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, cũng như quan điểm” thông thoáng “ về vấn đề ý thức hệ ,trong quan hệ với các nước ASEAN , cần nhận thức sâu sắc hơn một sự thật khách quan về Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á .
Gia nhập ASEAN là cơ hội để Việt Nam tiếp thu những chính sách để phát triển kinh tế nhưng Việt Nam chưa đánh giá đúng mực về tình hình trong nước để áp dụng những chính sách đó một cách có hiệu quả nhất, dẫn tơi Việt Nam phải đối mặt với nhiều khủng hoảng, tiêu biểu là khủng hoảng kinh tế năm 2008. Không những vậy, vấn đề lạm phát và thất nghiệp tăng cao cũng ảnh hưởng không nhỏ.
Thực tiễn tinh hình nhiều nước cho thấy, nguy cơ đe doạ chủ quyền và an ninh quốc gia, sự toàn vẹn lãnh thổ nằm ngay tại ở bên trong ; nhiều khi không bị nước ngoài xâm lăng, song chủ quyền và an ninh vẫn bị rối loạn, lãnh thổ bị chia cắt”. Do đó, mối đe doạ là nằm cả bên ngoài với bên trong, hoặc là sự kết hợp cả hai yếu tố đó. Cuối cùng là, trước đây, khi nói tới phương tiện bảo vệ chủ quyền , an ninh quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ , thậm chí cả vị trí và ảnh hưởng quốc tế , nhiều khi người ta nhấn mạnh đến biện pháp quân sự và biện pháp bạo lực . Điều này ngày nay vẫn đúng với ý nghĩa là sức mạnh quân sự , vẫn có ý nghĩa rất quan trọng “ song không còn giữ vị trí độc tôn “, thậm chí “ chưa đủ để bảo vệ vững chắc chủ quyền cà an ninh quốc gia, cũng như sự toàn vẹn lãnh thổ”. Cần phải có sức mạnh tổng hợp, trong đó sức mạnh kinh tế và sự phát triển có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đang nổi lên hàng đầu.
Trong quan hệ của Việt Nam với ASEAN cần xử lý tốt quan hệ với các nước lớn. Bởi vì giữa các nước lớn luôn có hợp tác và đấu tranh , có hoà binh và tranh chấp . Chúng ta cần thi hành chính sách cân bằng lợi ích, giữa các nước , nhất là không "nhất biên đảo" , không ngả theo bên này chống bên kia .Mọi sự coi thường nước lớn và chống nước lớn đều không có lợi cho một quốc gia không thuộc loại nước lớn như Việt Nam” .
Trong khi chú ý và tôn trọng thích đáng các lợi ích chính đáng của các dân tộc – quốc gia khác ,thì với chúng ta lợi ích của dân tộc Việt Nam là tối cao và vĩnh viễn . Nắm vững lợi ích dân tộc ,nêu cao tinh thần độc lập , tự chủ và quyền tự quyết dân tộc , hoà hiếu với các nước láng giềng ,sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước “ không gây thù oán với ai “ như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh từ 1947, đó chính là những bảo đảm cho một Việt Nam có một môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển và một vị trí ngày càng cao trong cộng đồng thế giới.
KẾT LUẬN
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN phù hợp với xu thế khu vực hóa đang diễn ra trên thế giới cũng như ở khu vực ,đáp ứng lợi ích của cả nước ta và ASEAN là cần có môi trường hòa bình ổn định và đẩy mạnh hợp tác vì lợi ích phát triển ,trùng với ý nguyện của nhân dân các nước , nhất là châu Á -Thái Bình Dương, muốn được thấy một Đông Nam Á ổn dịnh ,mở rộng thị trường và đối tác về kinh tế ,thương mại,khoa học-công nghệ, văn hóa-xã hội .Như vậy,việc nước ta gia nhập ASEAN có lợi cho xu thế chung là hòa bình và hợp tác .Việc đó không gây trở ngại mà còn hỗ trợ cho việc thực hiện chính sách đối ngoạiđộc lập ,tự chủ ,đa dạng hóa ,mở rộng hơn nữa quan hệ hữu nghị hợp tác với tất cả các nước theo khẩu hiệu : “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong công đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình , độc lập và phát triển”
Nếu khách quan nhìn nhận lại sự vận động trong đường lối đối ngoại của Việt Nam từ khi gia nhập ASEAN cho đến nay, ta có thể thấy một đường lối vô cùng mềm dẻo và linh hoạt. Để cho thấy vai trò và vị thế của mình trong tổ chức, Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại trong mối quan hệ với các nước một cách chân tình, hữu nghị trên nguyên tắc: “Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. Xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa ngày càng lan rộng cùng với đó là quá trình xâm nhập của nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, Việt Nam đã chủ động mở rộng hợp tác với các nước ASEAN một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_chinh_sach_doi_ngoai_cua_viet_nam_sau_khi_gia_nhap.doc