VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC SƠN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN NGỌC SƠN
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN DU LỊCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Ngành : Chính sách công
Mã số : 8 34 04 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CAO THU HẰNG
HÀ NỘI, 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết
81 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 11/01/2022 | Lượt xem: 473 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Luận văn Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của đề tài
Trong những năm gần đây, sự phát triển của ngành du lịch cho thấy rằng,
du lịch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia, một cộng đồng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, “Chiến lược phát triển
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” đã khẳng định: “Đến
năm 2020, du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có tính chuyên
nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng bộ, hiện đại; sản
phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn
hóa dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới. Phấn đấu
đến năm 2030 Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển” [28].
Thực tiễn phát triển ngành du lịch cho thấy, trong những năm qua, du lịch
Việt Nam đã đóng góp rất tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Năm 2016, du lịch Việt Nam đã đạt được những thành tựu hết sức nổi
bật đáng trân trọng, với việc đón và phục vụ 11 triệu lượt khách du lịch quốc tế,
tăng 26% so với năm 2015; 62 triệu lượt khách du lịch nội địa; tổng thu trực tiếp
từ khách du lịch đạt 400.000 tỷ đồng. Trong 6 tháng đầu năm 2017, ngành Du
lịch Việt Nam lại tiếp tục có bước đi bứt phá, với việc đón 6,2 triệu lượt khách
quốc tế, tăng 30,2% so với cùng kỳ năm 2016; khách du lịch nội địa đạt 40,7
triệu lượt, tăng hơn 15%; tổng thu trực tiếp từ du lịch trong 6 tháng đầu năm ước
đạt 255.000 tỷ đồng.
Nhằm tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển ngành du lịch, ngày 16-1-
2017, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn, đặt ra những mục tiêu hết sức to lớn và nặng nề cho
ngành du lịch, đến năm 2020 đón từ 17- 20 triệu lượt khách du lịch quốc tế, 82 lượt
khách du lịch nội địa, đóng góp khoảng 10% GDP cho kinh tế đất nước [5].
Thực hiện nghiêm túc các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước,
trong những năm qua, các cấp ủy, chính quyền và các ban ngành tỉnh Phú Thọ đã
2
triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch, nhờ đó, ngành du lịch Tỉnh đã
có rất nhiều chuyển biến; các khu, điểm du lịch trọng điểm tại các huyện thị từng
bước được xây dựng, như Việt Trì, Thanh Thủy, Tân Sơn, Hạ Hòa, Việc xây
dựng các điểm đến, các tour tuyến mới phục vụ du khách được đặc biệt coi trọng
và đã thu được những kết quả ban đầu. Qua đó, doanh thu du lịch dịch vụ tăng
cao, đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nâng
cao đời sống của người dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số.
Đạt nhiều thành tựu quan trọng, nhưng hoạt động du lịch trên địa bàn thực
sự vẫn rất khó khăn, nhất là vấn đề sản phẩm du lịch nghèo nàn, chưa xây dựng
được những tour, tuyến đặc sắc có sức hấp dẫn mạnh mẽ với du khách. Các sản
phẩm du lịch, các khu du lịch vẫn chưa được khai thác hết tiềm năng. Việc triển
khai và ban hành các chính sách đặc thù liên quan đến lĩnh vực du lịch được ban
hành còn chậm trễ. Công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động du lịch có nơi, có
lúc còn nơi lỏng. Công tác tổng kết, đánh giá thực tiễn đôi khi còn mang tính
hình thức. Một số chính sách ra đời chưa đáp ứng với sự đổi thay nhanh chóng
của đời sống xã hội; một số chính sách còn chồng chéo, hoặc chưa bao quát.
Chính việc thực thi chính sách phát triển du lịch chưa được như mong muốn như
vậy là một trong những nguyên khiến du lich tỉnh Phú Thọ chưa phát huy hết thế
mạnh của mình. Số lượng khách lưu trú ở lại Phú Thọ chưa cao. Doanh thu ngành
du lịch chưa đạt được chỉ tiêu như mong muốn.
Để phát triển du lịch đúng hướng, hiệu quả, xứng với tiềm năng lợi thế và
đặc biệt thể hiện đúng vai trò là một trong những khâu đột phá của nền kinh tế thì
việc nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ là rất
quan trọng. Đó chính là lý do học viên lựa chọn vấn đề Thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ để triển khai nghiên cứu luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trên bình diện vĩ mô, nghiên cứu về phát triển du lịch và chính sách phát
triển du lịch ở Việt Nam cũng đã được một số học giả tập trung làm rõ. Công
3
trình Du lịch văn hóa của Nguyễn Phạm Hùng (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2017); công trình Du lịch Việt Nam: từ lý thuyết đến thực tiễn của hai tác giả
Phan Huy Xu, Võ Văn Thành (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2018) đã
đề cập đến những vấn đề chung về văn hóa, về du lịch, phát triển du lịch; tôn giáo,
tín ngưỡng; phong tục tập quán; lễ hội trong phát triển du lịch. Dù không đề cập
trực tiếp đến chính sách và thực hiện chính sách phát triển du lịch nhưng những nội
dung trình bày trong đó là tài liệu hữu ích cho tác giả luận văn tham khảo.
Ngoài ra, liên quan đến vấn đề này còn có thể kể đến một số công trình
sau: Phạm Trung Lương (2007) - “Phát triển du lịch bền vững từ góc độ môi
trường”, Tạp chí Du lịch số 7/2007; Lưu Đức Hải (2009) - Phát triển các ngành
du lịch trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí số 8 về
Tổng quan kinh tế xã hội Việt Nam số 4-2009, Hà Nội Các công trình này đều
khẳng định tầm quan trọng của phát triển du lịch và thực hiện chính sách phát
triển du lịch; cho thấy vai trò của du lịch đối với sự phát triển kinh tế nói chung,
và công tác bảo tồn di sản văn hóa nói riêng. Các công trình cũng khẳng định,
việc phát triển du lịch cần tránh tình trạng “ăn xổi”, chỉ thấy được cái lợi trước
mắt, mà bỏ qua những tác hại sau đó, như vấn đề ô nhiễm môi trường, bản sắc
văn hóa dân tộc bị mai một trong quá trình thực hiện phát triển du lịch,
Ngoài các công trình trên, đã có một số luận văn cũng đã đề cập đến việc
thực hiện chính sách phát triển du lịch, như Hoàng Thị Thu Hương (2013), “Phát
triển du lịch Quảng Nam theo hướng bền vững”, Luận văn thạc sĩ, Viện khoa
học xã hội Vùng Trung Bộ; Vương Minh Hoài (2011), “Phát triển du lịch theo
hướng bền vững ở Quảng Ninh”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Kinh tế - đại học
Quốc gia Hà Nội; Lê Thị Khánh An (2017), “Thực hiện chính sách phát triển du
lịch bền vững từ thực tiễn thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An”, Luận văn thạc sỹ Chính
sách công, Học viện Khoa học xã hội; Khương Thị Hồng Nhung (2016), “Thực
hiện chính sách phát triển du lịch bền vững từ thực tiễn tỉnh Hòa Bình”, Luận
văn thạc sỹ Chính sách công, Học viện Khoa học xã hội;
4
Ở tỉnh Phú Thọ, trong một chừng mực nhất định, các nghiên cứu liên quan
đến thực hiện chính sách phát triển du lịch cũng đã được tập trung làm rõ. Có thể
kể đến một số chương trình, công trình nghiên cứu liên quan đến phát triển du
lịch của tỉnh Phú Thọ như:
- Quy hoạch các di tích khảo cổ tỉnh Phú Thọ giai đoạn 1997-2015 và
định hướng đến năm 2020. Quy hoạch đã đánh giá được thực trạng các di tích
khảo cổ trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; xác định rõ nhiệm vụ, giải pháp để bảo tồn và
phát triển các di tích trên địa bàn đến năm 2020, là cơ sở để xây dựng hồ sơ và
đề nghị công nhận xếp hạng các di tích khảo cổ cấp quốc gia và cấp tỉnh, đồng
thời đây là cơ sở pháp lý để bảo vệ di tích tránh tình trạng bị mai một và xâm
lấn. Tuy nhiên, Quy hoạch mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá và định hướng trong
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của các di tích khảo cổ, chưa có
đánh giá thực trạng công tác bảo tồn, quy hoạch các di tích; lấy đó là một trong
những căn cứ để bảo tồn và phát huy, thu hút khách du lịch.
- Chu Thị Thanh Hiền: Nghiên cứu tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng
trên địa bàn tỉnh Phú Thọ (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã tập trung nghiên cứu
các điều kiện hình thành và phát triển, đồng thời đã đánh giá sơ bộ được hiện
trạng cũng như tiềm năng phát triển hình thức du lịch cộng đồng trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ; phân tích, đánh giá những thuận lợi, khó khăn trong tổ chức thực
hiện và những hiệu quả phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh do du lịch cộng
đồng mang lại, từ đó đưa ra các giải pháp khai thác tiềm năng phát triển du lịch
cộng đồng trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, đề tài chưa nêu bật được vị trí, vai trò
cũng như tầm ảnh hưởng của hình thức du lịch cộng đồng đối với sự phát triển
kinh tế, xã hội của tỉnh; chưa đưa ra được những giải pháp cụ thể, chiến lược
một cách hệ thống để phát triển tiềm năng du lịch trong tỉnh.
- Nguyễn Thị Thịnh, Ngô Văn Nhuận: Khảo sát thực trạng lao động làm
việc trong các Doanh nghiệp dịch vụ du lịch và đề xuất các giải pháp đào tạo
lao động phục vụ việc phát triển ngành du lịch trên địa bàn huyện Thanh Thủy,
5
tỉnh Phú Thọ (Đề tài nghiên cứu khoa học 2012): Đề tài tập trung rà soát, đánh
giá thực trạng lao động làm việc trong các Doanh nghiệp du lịch trên địa bàn
huyện Thanh Thủy, một trong những huyện có điều kiện thuận lợi để phát triển
loại hình du lịch nghỉ dưỡng với nguồn nước khoáng nóng. Tuy nhiên, cơ bản đề
tài mới chỉ dừng lại ở việc rà soát, thống kê số lượng lao động du lịch trong các
doanh nghiệp trên địa bàn huyện, chỉ ra những tồn tại, hạn chế trong việc quản
lý, sử dụng lao động, chưa đề xuất được hệ thống các giải pháp cụ thể để phát
triển du lịch trong Huyện nói chung, giải pháp đào tạo nhân lực ngành du lịch
nói riêng. Song, những nội dung mà đề tài triển khai là tài liệu tham khảo hữu
ích cho tác giả khi triển khai nghiên cứu luận văn của mình.
- Phùng Quốc Việt: Nghiên cứu, kết nối du lịch Phú Thọ với các tuyến du
lịch vùng Tây Bắc mở rộng (Đề tài khoa học 2012): Đề tài đã nêu bật được cơ sở
lí luận và cơ sở thực tiễn về du lịch và hoạt động du lịch liên vùng, hiện trạng du
lịch tỉnh Phú Thọ và vùng Tây Bắc mở rộng (Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai
Châu, Yên Bái, Lào Cai và Hà Giang), đưa ra những định hướng và đề xuất giải
pháp kết nối du lịch Phú Thọ với du lịch vùng Tây Bắc mở rộng; Xây dựng bản
đồ các tuyến kết nối (theo tuyến đường giao thông: đường bộ, đường thủy,
đường sắt, đường hàng không). Tuy nhiên, đề tài mới chỉ dừng lại ở việc đưa ra
những giải pháp, định hướng cho việc kết nối liên vùng giữa du lịch Phú Thọ với
các tỉnh Tây Bắc, chưa nêu bật được tiềm năng phát triển du lịch của tỉnh Phú
Thọ với vị trí là trung tâm của vùng Tây Bắc, chưa đánh giá cụ thể được những
tồn tại, hạn chế trong việc phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh và địa bàn các tỉnh
Tây Bắc; từ đó đưa ra được những giải pháp khắc phục để du lịch Phú Thọ và
các tỉnh Tây Bắc thực sự là điểm đến của khách du lịch trong và ngoài nước.
Với những điều đã trình bày trên, có thể thấy rằng, liên quan đến chủ đề
phát triển du lịch thì đã có nhiều công trình đề cập đến. Tuy nhiên, hiện nay,
chưa có công trình nào đề cập một cách trực tiếp, có hệ thống vấn đề thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Tuy nhiên, các công trình
6
kể trên là tài liệu tham khảo hữu ích cho học viên trong quá trình thực hiện triển
khai luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và đánh giá thực trạng thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, luận văn đề xuất
một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành được mục đích đặt ra, luận văn tập trung giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về thực hiện chính
sách phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích, làm rõ thực trạng và nguyên nhân của thực trạng thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả việc
thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bản tỉnh Phú Thọ hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tiến hành nghiên cứu, điều tra số liệu và phân tích thực trạng
thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ từ năm 2010
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề trên, luận văn sử dụng các phương pháp như sau:
- Phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
7
- Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể khác như:
phân tích, tổng hợp; thống kê, đối chiếu, so sánh Ngoài ra, đề tài còn tham
khảo số liệu, luận điểm của một số công trình nghiên cứu trước đó.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm rõ hệ thống hóa và làm rõ hơn
một số vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam
hiện nay.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu
tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy những vấn đề liên quan đến phát triển
du lịch, thực hiện chính sách phát triển du lịch ở Việt Nam nói chung, ở Phú Thọ nói
riêng. Luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị trong việc nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cầu gồm 3 chương, 12 tiết.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách phát triển du
lịch ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ.
Chương 3. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
8
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Khái niệm du lịch, phát triển du lịch
Trước tiên, để hiểu khái niệm phát triển du lịch, cần thiết làm rõ thuật ngữ
du lịch.
Thuật ngữ “du lịch” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “tornos” – mang nghĩa đi
một vòng. Về sau, thuật ngữ “tornos” được dịch sang tiếng Latinh là “tornus” và
tiếng Pháp là “tour” – mang nghĩa đi vòng quanh, cuộc dạo chơi. Tiếp theo đó,
thuật ngữ du lịch xuất hiện trong tiếng Nga: “typnct” và trong tiếng Anh:
“tourism”.
Khoản 1, Điều 3 Luật Du lịch năm 2017 quy định: “Du lịch là các hoạt
động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên
trong thời gian không quá 01 năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục
đích hợp pháp khác” [18]. Luận văn sử dụng định nghĩa của Luật Du lịch Việt
Nam năm 2017 để triển khai nghiên cứu.
Có nhiều loại hình du lịch khác nhau, tùy theo cách phân chia. Theo môi
trường tài nguyên, hoạt động du lịch được chia làm 2 nhóm lớn là du lịch văn
hóa và du lịch thiên nhiên. Gọi là du lịch văn hóa khi hoạt động du lịch diễn ra
chủ yếu trong môi trường nhân văn, hoặc hoạt động du lịch đó tập trung khai
thác tài nguyên du lịch nhân văn. Du lịch thiên nhiên diễn ra nhằm thỏa mãn nhu
cầu về với thiên nhiên của con người (như du lịch biển, du lịch núi, du lịch nông
thôn,) [23,tr.63]. Ngoài cách phân loại như trên, phân loại theo mục đích hoạt
động du lịch thì có thể có du lịch giải trí, du lịch tham quan, du lịch nghỉ dưỡng,
hoặc du lịch kết hợp với các hoạt động khác.
9
Có thể thấy rằng, với các hoạt động liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú nhằm đáp ứng yêu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí,
thì nhắc đến hoạt động du lịch người ta cũng thường coi đó là ngành kinh doanh
tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt: nâng cao nhận thức về tự nhiên, về lịch
sử, văn hóa, đất nước, con người; hiệu quả về mặt kinh tế, Theo nghĩa đó, du
lịch được xem là ngành công nghiệp không khói. Việc đẩy mạnh phát triển du
lịch được các quốc gia trên thế giới hết sức quan tâm, chú trọng. Ở Việt Nam,
trước Đổi mới, du lịch được coi là một hoạt động văn hóa xã hội thuần túy, sau
đó, cùng với sự chuyển đổi nền kinh tế từ quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội, từ năm 1986, du lịch được coi là một ngành kinh tế
trong lĩnh vực kinh tế của Việt Nam. Với tư cách một ngành nghề kinh doanh,
hoạt động du lịch, một mặt, đem lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm
cho các khu vực có điểm du lịch, tạo sự trao đổi giao lưu văn hóa,, nhưng mặt
khác, cũng tạo nguy cơ ô nhiễm môi trường; sự phai nhạt bản sắc văn hóa của
các cộng đồng có nhiều du khách đến thăm, sự quá tải về cơ sở hạ tầng, Chính
vì lý do đó, hoạt động du lịch cần phải được định hướng phát triển.
* Khái niệm phát triển du lịch
Phát triển du lịch là một tất yếu khách quan, gắn với quá trình phát triển
của đời sống kinh tế - xã hội và con người bởi khi con người đã thỏa mãn nhất
định nhu cầu ăn, mặc, ở, họ có thời gian rảnh rỗi, và có điều kiện đi đây đi đó để
cảm nhận được vẻ đẹp của các vùng đất, các nền văn hóa khác nhau,...
Ngày 16 tháng 01 năm 2017, Bộ Chính trị ký ban hành Nghị quyết số
08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Theo đó,
Nghị quyết khẳng định, phát triển du lịch đã, đang góp phần thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ; bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa, tài nguyên thiên nhiên; tạo nhiều việc làm, nâng cao đời sống nhân dân;
đẩy mạnh quá trình hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước, con người
Việt Nam [5,tr.1].
10
Với những điều đã trình bày như trên, có thể thấy, phát triển du lịch là sự
phát triển, một mặt, đáp ứng các yêu cầu về kinh tế - xã hội; mặt khác, là đảm
bảo việc bảo vệ môi trường. Đây là điều mà ngày nay người ta hay gọi là sự
phát triển du lịch bền vững – sự phát triển du lịch đáp ứng nhu cầu hiện tại và
không làm tổn hại đến khả năng phát triển du lịch trong tương lai.
Điều 4, Luật Du lịch năm 2017 quy định nguyên tắc phát triển du lịch như sau:
“1. Phát triển du lịch bền vững, theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, có
trọng tâm, trọng điểm.
2. Phát triển du lịch gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân
tộc, tài nguyên thiên nhiên, khai thác lợi thế của từng địa phương và tăng cường
liên kết vùng.
3. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước,
con người Việt Nam.
4. Bảo đảm lợi ích quốc gia, lợi ích cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp
của khách du lịch, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch.
5. Phát triển đồng thời du lịch nội địa và du lịch quốc tế; tôn trọng và đối
xử bình đẳng đối với khách du lịch”.
1.1.2. Khái niệm chính sách và chính sách phát triển du lịch
*. Khái niệm chính sách
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể
để thực hiện đường lối, nhiệm vụ. Chính sách được thực hiện trong một thời gian
nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào đó. Bản chất, nội dung và phương
hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của đường lối, nhiệm vụ chính trị,
kinh tế, văn hóa...” [31,tr.475].
Tác giả Smith cho rằng “khái niệm chính sách bao hàm sự lựa chọn có
chủ định hành động hoặc không hành động, thay vì những tác động của các lực
lượng có quan hệ với nhau”. Smith nhấn mạnh “không hành động” cũng như
11
“hành động” và nhắc nhở chúng ta rằng “sự quan tâm sẽ không chỉ tập trung vào
các quyết định tạo ra sự thay đổi, mà còn phải thận trọng với những quyết định
chống lại sự thay đổi và khó quan sát vì chúng không được tuyên bố trong quá
trình hoạch định chính sách” [40,tr.4].
Cụm từ “chính sách” khi gắn việc thực hiện chức năng, vai trò của nhà
nước (khu vực công) được gọi là chính sách công. Thuật ngữ “chính sách” sử
dụng trong luận văn này được hiểu là chính sách công. Theo đó, chủ thể ban
hành chính sách, mục đích tác động của chính sách và vấn đề chính sách hướng
tới giải quyết đều gắn với chủ thể ban hành của nó – Nhà nước.
Theo James Anderson, “Chính sách công là đường lối hành động có mục
đích được ban hành bởi một hoặc một tập hợp các nhà hoạt động chính trị để giải
quyết một vấn đề phát sinh hoặc vấn đề cần quan tâm” [41]. Do đó, B.Guy Peter
cho rằng, “Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước có ảnh hưởng
một cách trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi người dân” [19].
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ hành chính: “Chính sách công là chiến
lược sử dụng các nguồn lực để làm dịu bớt những vấn đề của quốc gia hay
những mối quan tâm của nhà nước. Chính sách công cho phép Chính phủ đảm
nhiệm vai trò của người cha đối với cuộc sống của nhân dân. Nó tạo thời cơ, giữ
gìn hạnh phúc và an toàn cho mọi người; tạo ra an toàn tài chính và bảo vệ an
toàn Tổ quốc” [17,tr.99-100]. Tác giả Nguyễn Hữu Hải cho rằng, “Chính sách
công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong
đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc
đẩy xã hội phát triển” [7,tr.14]. Đề tài đồng ý với cách tiếp cận của tác giả
Nguyễn Hữu Hải.
Khi đề cập đến chính sách công, người ta thường đề cập đến chu trình của
một chính sách công, bao gồm: xây dựng chính sách, thực thi chính sách và điều
chỉnh chính sách [22,tr.31-37]. Mỗi giai đoạn có vai trò và vị trí quan trọng riêng.
12
Khái niệm Chính sách phát triển du lịch
Với những điều đã trình bày như trên về phát triển du lịch, về chính sách
(công), có thể thấy rằng, chính sách phát triển du lịch là sự cụ thể hóa chủ
trương, đường lối của Đảng bằng những quyết định, quy định của Nhà nước
nhằm giải quyết các vấn đề trong phát triển du lịch; qua đó, tác động trực tiếp
hoặc gián tiếp đến sự phát triển du lịch của đất nước nói chung; các vùng miền,
lĩnh vực du lịch nói riêng.
Một cách chung nhất, khi đề cập đến chính sách phát triển du lịch thì
người ta thường đề cập đến các nội dung cơ bản sau:
- Phạm vi và đối tượng của chính sách phát triển du lịch
Chính sách phát triển du lịch được Nhà nước ban hành hướng đến giải
quyết vấn đề trong phát triển du lịch Việt Nam. Khi chính sách được ban hành sẽ
có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên sự phát triển du lịch trong phạm vi toàn
quốc, hoặc ở những phạm vi vùng miền, lĩnh vực.
- Mục tiêu của chính sách phát triển du lịch
Về cơ bản, việc đề ra chính sách phát triển du lịch, ngoài thực hiện một
mục tiêu cụ thể nào đó thì cần đạt được mục tiêu chung (mục tiêu cuối cùng) là
phát triển du lịch Việt Nam. Do đó, để thực hiện được mục tiêu chung, trước hết
chính sách phát triển du lịch cần đạt được mục tiêu cụ thể. Điều này có nghĩa là,
việc đề ra và thực hiện chính sách du lịch, dù ở phạm vi vi mô, thì cũng cần có
sự thống nhất với các chính sách phát triển du lịch chung khác, với các chính
sách khác, để tránh trường hợp “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
- Giải pháp của chính sách phát triển du lịch
Trên cơ sở mục tiêu của chính sách phát triển du lịch, Nhà nước cũng đưa
ra các giải pháp để đạt được mục tiêu chính sách trong những điều kiện, hoàn
cảnh cụ thể về không gian, thời gian và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên, vì
mục tiêu của chính sách phát triển du lịch thể hiện ở các cấp độ khác nhau nên
các giải pháp của chính sách phát triển du lịch cũng được điều chỉnh và cụ thể
13
hóa cho phù hợp với từng đối tượng, từng vùng, từng địa phương trong quá trình
triển khai thực hiện chính sách.
- Nguyên tắc chỉ đạo thực hiện chính sách phát triển du lịch
Trên cơ sở mục tiêu và giải pháp đã được xác định, các nguyên tắc chỉ đạo
được thực hiện mục tiêu sẽ được xây dựng. Nguyên tắc chỉ đạo có vai trò quan
trọng nhằm hiện thực hóa các chính sách và đảm bảo việc thực hiện chính sách
thành công.
- Nguồn lực thực hiện chính sách phát triển du lịch
Đây là vấn đề hết sức quan trọng vì chính sách sẽ không thể thực hiện
được một cách hiệu quả nếu như nguồn lực thực hiện chính sách không được
tính toán một cách chính xác, kỹ lưỡng. Nguồn lực ở đây có thể là nhân lực,
cũng có thể là tài chính.
- Cơ quan quản lý và thực hiện chính sách phát triển du lịch
Cần xác định cụ thể đâu là cơ quan, cá nhân quản lý việc thực hiện chính
sách phát triển du lịch và đâu là cơ quan, cá nhân triển khai các hoạt động cụ thể
của chính sách này.
- Thời gian triển khai chính sách phát triển du lịch
Bất cứ chính sách nào cũng phải xác định phạm vi thời gian. Có những
chính sách dài hạn, có chính sách ngắn hạn, hoặc trung hạn. Trên cơ sở xác định
phạm vi thời gian, chúng ta sẽ xây dựng kế hoạch thực hiện hợp lý.
1.1.3. Khái niệm thực hiện chính sách, thực hiện chính sách phát triển
du lịch
Khái niệm thực hiện chính sách hay cũng có nhiều tài liệu sử dụng cách
gọi “thực thi chính sách” hoặc “tiến hành thực hiện chính sách”, thực chất đều
cùng một nội hàm; thông thường, đó là giai đoạn tiếp sau quá trình hoạch định
và trước quá trình đánh giá chính sách công.
Theo Thomas Dye, “thực thi bao gồm tất cả các hoạt động được thiết kế
để thực hiện các chính sách công đã được thông qua bởi cơ quan lập pháp. Vì
14
các chính sách công có những tác động mong muốn hoặc có chủ định, nên chính
phải được chuyển thành các chương trình và các dự án mà sau đó được thực hiện
để đạt được một tập hợp các mục tiêu hoặc mục đích” [38,tr.4].
Tác giả William Dunn cho rằng: “Các hành động chính sách công có hai
mục đích chính: điều chỉnh và phân bổ” [39,tr.277-278]. Các hành động điều
chỉnh là những hành động được thiết kế để bảo đảm sự tuân thủ các tiêu chuẩn
hoặc thủ tục nhất định. Các hành động phân bổ là những hành động đòi hỏi các
đầu vào như tiền, thời gian, nhân sự và thiết bị. Các hành động điều chỉnh và
phân bổ có thể có những kết quả là phân phối và phân phối lại [22,tr.97].
Về cơ bản, có thể coi thực hiện chính sách (công) – một khâu trong chu
trình chính sách để đưa chính sách vào thực tiễn đời sống xã hội. Đây là quá
trình ban hành các văn bản, chương trình, dự án,... nhằm hiện thực hóa nội dung
chính sách để đạt được mục tiêu đã định hướng.
Có thể thấy, thành công của một chính sách phụ thuộc vào rất nhiều vào
việc tổ chức thực thi chính sách đó trên thực tế. Người ta thường không biết
trước được chính sách có đạt được mục tiêu mong muốn hay không hay đạt đến
mức độ nào, tác động của chính sách đối với xã hội ra sao Những điều này
phụ thuộc chủ yếu vào quá trình thực thi chính sách” [20,tr.24]. Việc thực hiện
chính sách công có vai trò quan trọng. Đó là từng bước hiện thực hóa mục tiêu
của chính sách, khẳng định tính đúng đắn của chính sách công và giúp cho chính
sách công ngày càng hoàn thiện hơn [9,tr.12-14].
Về cơ bản, việc thực hiện chính sách bao gồm nhiều giai đoạn. Theo các
tác giả Lê Như Thanh và Lê Văn Hòa, chu trình thực hiện chính sách công gồm:
(1) Xây dựng và ban hành các văn bản, chương trình, dự án thực hiện chính sách
công (2) Tổ chức thực hiện các văn bản, chương trình, dự án,... thực thi chính
sách công. Giai đoạn này bao gồm nhiều nội dung nhỏ, như xây dựng kế hoạch
tổ chức thi hành văn bản, hoặc lập kế hoạch thực hiện chương trình, dự án; tuyên
truyền, phổ biến nội dung văn bản, chương trình dự án; tập huấn văn bản, bồi
15
dưỡng những kiến thức và kỹ năng cần thiết để triển khai văn bản, chương trình,
dự án; bảo đảm cơ sở vật chất, kinh phú, tổ chức bộ máy và nguồn nhân lực để
triển khai thi hành văn bản, chương trình, dự án; chỉ đạo, tổ chức kiểm tra, đôn
đốc việc thi hành văn bản, việc thực hiện chương trình dự án (3) Sơ kết, tổng kết
thực hiện văn bản, chương trình, dự án thực thi chính sách công [22,tr.109-111].
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn xem xét chu trình thực hiện
chính sách công bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách
Thứ hai, phổ biến, tuyên truyền chính sách
Thứ ba, phân công, phối hợp thực hiện chính sách
Thứ tư, duy trì chính sách
Thứ năm, điều chỉnh chính sách
Thứ sáu, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách
Thứ bảy, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.
* Khái niệm thực hiện chính sách phát triển du lịch
Một chính sách khi được hoạch định bao giờ cũng hướng tới giải quyết
một vấn đề nào đó đang diễn ra trong đời sống xã hội để đạt được những mục
tiêu nhất định. Trong chu trình chính sách, tổ chức thực hiện chính sách là trung
tâm kết nối. Nếu thiếu giai đoạn này thì việc hoạch định chính sách sẽ không còn
ý nghĩa.
Về cơ bản, có thể coi Thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ
quá trình đưa chính sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục
chặt chẽ và thống nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch đối với
những đối tượng cụ thể trong một không gian và thời gian nhất định.
Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đảm bảo tuân theo chu trình
thực hiện chính sách nói chung. Theo đó, chu trình thực hiện chính sách phát
triển du lịch hiện nay bao gồm các bước sau đây:
- Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch
16
Đây là bước đầu tiên. Để hiện thực hóa một mục tiêu nào đó, trước tiên, cần
triển khai thực hiện chính sách du lịch từ Trung ương đến địa phương; phải xây
dựng kế hoạch, chương trình thực hiện chính sách. Tiếp theo, các chủ thể có thẩm
quyền, trách nhiệm lên kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du lịch.
- Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch
Đây là một hoạt động quan trọng, có ý nghĩa với chủ thể và đối tượng
thực hiện hiện chính sách phát triển du lịch. Ở Việt Nam hiện nay, hoạt động này
cần được tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng thực hiện chính sách. Thực
tế chỉ ra rằng không ít cơ quan, cán bộ, công chức vì năng lực chuyên môn, trình
độ nghiệp vụ, phẩm chất chính trị,... nên trong quá trình phổ biến, tuyên truyền
chính sách nói riêng, trong thực hiện chính sách nói chung đã làm cho chính sách
bị biến dạng, khiến dân chúng mất lòng tin vào nhà nước.
- Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch
Bước tiế...ực cạnh tranh của Phú Thọ năm
2013 xếp thứ 40/63 tỉnh thành) nên Phú Thọ đã thu hút nhiều dự án đầu tư bên
ngoài. Các dự án đầu tư đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển du
33
lịch và trở thành một trong những yếu tố nguồn lực của phát triển kinh tế Phú
Thọ nói chung và du lịch nói riêng.
2.2. Kết quả đạt được trong việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch tỉnh Phú Thọ và nguyên nhân của chúng
2.2.1 Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách phát triển du
lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Ngày 14/7/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 99/2008/QĐ-
TTg Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ đến
năm 2020 [27]. Theo đó, phấn đấu xây dựng Phú Thọ trở thành Trung tâm kinh
tế vùng; là một trong những trung tâm khoa học, công nghệ; giáo dục - đào tạo, y
tế, văn hóa, thể thao, du lịch của vùng trung du và miền núi Bắc Bộ; là đầu mối
giao thông quan trọng nội Vùng và là Thành phố lễ hội về nguồn của dân tộc
Việt Nam. Ngày 21/4/2017, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 552/QĐ-
TTg phê duyệt quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị Khu di tích lịch sử Đền
Hùng, tỉnh Phú Thọ đến năm 2025 [29]. Đây thực sự là nền tảng quan trọng để
Phú Thọ xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trong
đó có chính sách phát triển du lịch.
Bên cạnh sự quan tâm của Trung ương, trong những năm qua công tác
lãnh đạo, chỉ đạo và trách nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong công tác
phát triển du lịch, huy động các nguồn lực đầu tư phát triển du lịch, kịp thời tháo
gỡ khó khăn cho nhà đầu tư du lịch được tăng cường từ cấp tỉnh đến các huyện,
thành thị... Việc xây dựng, ban hành và triển khai thực hiện kế hoạch phát triển du
lịch, công tác xây dựng quy hoạch, kế hoạch và thẩm định dự án về du lịch...
được các sở, ban, ngành, huyện, thành, thị và các tổ chức, cá nhân nghiêm túc
triển khai thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. 13/13 huyện thành thị của
tỉnh, các cấp ủy đảng, chính quyền, chỉ đạo xây dựng các nghị quyết, kế hoạch,
chương trình, đề án phát triển du lịch, hoặc lồng ghép với các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội. Cụ thể như sau:
34
Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú
Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2009 – 2020 [33]: Đề án đánh giá thực trạng các lễ hội trên địa bàn tỉnh Phú
Thọ; xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch giai đoạn 2009 – 2020; từ đó tập
trung tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc, đạt hiệu quả cao để hoàn thành các
mục tiêu, nhiệm vụ của đề án đã đề ra.
Nghị quyết số 09-NQ/TU ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015 [3]:
Điểm trọng tâm của Nghị quyết là đưa ra các giải pháp: nâng cao trách nhiệm,
hiệu quả quản lý nhà nước về du lịch; tập trung huy động các nguồn vốn thực
hiện mục tiêu phát triển du lịch; tập trung đầu tư xây dựng hình thành một số hạ
tầng du lịch – thương mại trọng điểm; đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân
lực đảm bảo chất lượng, đủ số lượng, cơ cấu phù hợp đáp ứng nhu cầu phát triển
du lịch; xây dựng cơ chế, chính sách đầu tư phát triển du lịch;...
Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015 [34]: Kế hoạch đề ra
mục đích, yêu cầu; đánh giá tình hình phát triển du lịch giai đoạn 2006 – 2010; kế
hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015; từ đó kiến nghị, đề
xuất các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa phương tổ chức triển khai thực hiện
đạt hiểu quả để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra.
Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân
dân tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 –
2020, định hướng đến năm 2030 [10]: Nghị quyết đưa ra quan điểm và mục tiêu
quy hoạch, các nhiệm vụ cụ thể, các giải pháp thực hiện để sau năm 2020, du
lịch Phú Thọ tập trung nâng cao chất lượng, phát triển hệ thống cơ sở vật chất kỹ
thuật đồng bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch chất lượng cao, đa dạng, có thương
hiệu, có sức cạnh tranh; mang đậm bản sắc văn hóa vùng đất Tổ, hướng tới mục
tiêu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
35
Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 15/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ về phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [4]: tổng
kết những kết quả đạt được sau 05 năm triển khai thực hiện Nghị quyết số 09-
NQ/TW ngày 19/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII về phát
triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2015, chỉ ra những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân của tồn tại, hạn chế. Từ đó, Nghị quyết nêu phương hướng, mục
tiêu và các giải pháp chủ yếu nhằm tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi
thế nguồn tài nguyên du lịch phong phú sẵn có của tỉnh, đặc biệt hai di sản văn
hóa thế giới được UNESCO vinh danh - “Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương” và
“Hát Xoan Phú Thọ”.
Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của Hội đồng Nhân dân tỉnh
Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động nguồn lực đầu tư kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển du
lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [11]: Nghị quyết
nêu những phương hướng chung, các mục tiêu chủ yếu (về cải cách hành chính,
huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển
nguồn nhân lực, phát triển du lịch); và đề ra các nhiệm vụ, giải pháp (về đẩy
mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính;
huy động nguồn lực đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then
chốt; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực; huy động
nguồn lực đầu tư phát triển du lịch; tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo đối với đầu tư
phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân lực, phát triển
du lịch và cải cách hành chính).
Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35]: Kế hoạch
chỉ ra những nhiệm vụ trọng tâm, các nhóm giải pháp thực hiện, nhu cầu vốn
thực hiện, tổ chức thực hiện để đạt được mục tiêu xây dựng Phú Thọ trở thành
địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ điều kiện để Phú Thọ đăng cai
Năm Du lịch quốc gia vào năm 2020.
36
Chương trình hành động số 24-CTr/TU ngày 04/4/2017 của Tỉnh ủy Phú
Thọ thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn [30]: Trong đó đưa ra những quan điểm, mục
tiêu; nhiệm vụ, giải pháp để các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội có trách nhiệm tổ chức quán triệt, triển khai Nghị
quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị và Chương trình hành động của Tỉnh ủy
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức và
hành động để đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Nhìn chung, tỉnh Phú Thọ đã chủ động, tích cực xây dựng và thực hiện
các chính sách phát triển du lịch để phấn đấu trở thành địa phương trọng điểm du
lịch của vùng và du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
2.2.2 Phổ biến, tuyên truyền chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ
Trên cơ sở các chính sách, kế hoạch, công tác phổ biến tuyên truyền các
hoạt động liên quan đến du lịch đã được các bên liên quan tập trung đẩy mạnh.
Bởi đây là một trong những khâu quan trọng trong việc thực hiện chính sách.
Tỉnh Phú Thọ chỉ đạo Ban Tuyên giáo tỉnh ủy, Sở Thông tin và Truyền
thông, Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh chủ động xây dựng và
triển khai kế hoạch tuyên truyền, phố biến chính sách phát triển du lịch của tỉnh;
các huyện thành thị trong toàn tỉnh tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể đối với công tác phổ biến, tuyên truyền
chính sách.
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh hằng năm đều tổ chức các lớp tập
huấn, phổ biến cho các huyện thành thị trong toàn tỉnh về chính sách phát triển
du lịch của tỉnh và phối hợp với chính quyền các huyện thành thị tổ chức hội
nghị tập huấn cho các công ty du lịch – lữ hành, các khách sạn, nhà hàng, cơ sở
lưu trú trên địa bàn về nghiệp vụ du lịch, đặc biệt là trước các dịp lễ hội lớn như
Giỗ Tổ Hùng Vương, hội phết Hiền Quan
37
Tỉnh Phú Thọ cũng chủ động tham dự các hội chợ, triển lãm du lịch trong
và ngoài nước để quảng bá hình ảnh du lịch của địa phương như Hội nghị xúc
tiến đầu tư khu vực Tây Bắc, Hội chợ du lịch quốc tế TP.Hồ Chí Minh ITE, Hội
chợ du lịch quốc tế Việt Nam – VITM Hà Nội. Các địa điểm du lịch nổi tiếng,
trọng điểm của tỉnh, các huyện thành thị cũng chủ động giới thiệu quảng bá hình
ảnh trên mạng internet nhằm quảng bá rộng rãi hơn tới khách du lịch trong và
ngoài nước như đón các đoàn farmtrip (Cung đường Tây Bắc, Khám phá di sản
văn hóa vùng đất Tổ, Qua miền Tây Bắc, Du lịch về nguồn).
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá được thực hiện dưới nhiều thức đa
dạng, phong phú như: xây dựng chuyên mục, chuyên trang quảng bá các khu,
điểm du lịch trên Đài phát thanh và tuyền hình Phú Thọ, Đài Truyền hình Kỹ
thuật số VTC, Truyền hình Nhân dân, Báo Phú Thọ, thành lập Trung tâm thông
tin xúc tiến du lịch tỉnh, quảng bá trên trang thông tin điện tử du lịch 8 tỉnh
TBMR và cổng giao tiếp điện tử của tỉnh, xuất bản tập gấp, bản đồ du lịch, tờ
rơi, đĩa VCD/DVD mời gọi đầu tư, in băng zôn, biển quảng cáo
Công tác phổ biến, tuyên truyền và vận động sâu rộng các tầng lớp nhân
dân tích cực xây dựng hình ảnh con người Phú Thọ hiền hòa, thân thiện, mến
khách; tự giác tham gia giữ gìn vệ sinh môi trường, bảo vệ cảnh quan di tích, an
ninh trật tự, xây dựng Phú Thọ trở thành điểm đến du lịch an toàn, văn minh,
lịch sự.
2.2.3. Phân công, phối hợp thực hiện chính sách phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ
Có thể thấy rằng, một chính sách thành công cần nhiều yếu tố, trong đó,
việc phân công, phối hợp thực hiện chính sách có vai trò quan trọng. Theo đó, để
đảm bảo chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ được thực hiện
đồng bộ, đáp ứng được mục tiêu chính sách đề ra, các sở, ban ngành, các bộ
phận liên quan đến việc thực hiện chính sách phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ đã
có những hoạt động triển khai tương đối tốt. Trước tiên, có thể thấy, với tư cách
38
cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ chủ trì, tham
mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo, tổ chức triển khai kế hoạch, Sở Văn hóa,
Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ có trách nhiệm cụ thể hóa các nội dung kế
hoạch và chủ động phối hợp với các cấp, ngành liên quan để thực hiện. Sở đã
xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển khu du lịch quốc gia Đền Hùng. Xây
dựng hồ sơ đề nghị công nhận khu, điểm du lịch quốc gia; xây dựng kế hoạch
phát triển các làng nghề phục vụ phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Rà
soát điều chỉnh quy hoạch du lịch tại các khu, điểm du lịch trọng điểm; xây dựng
và tham gia các chương trình, hội nghị, hội chợ xúc tiến đầu tư, tuyên truyền
quảng bá các giá trị văn hóa, tiềm năng du lịch vùng Đất Tổ tới du khách trong
và ngoài nước. Xây dựng chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát huy giá trị
02 di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại Hát Xoan Phú Thọ và Tín ngưỡng thờ
cúng Hùng Vương ở Phú Thọ gắn với phát triển du lịch. Đẩy mạnh các hoạt
động liên doanh, liên kết phát triển du lịch; chủ trì phối hợp với các sở, ban,
ngành xây dựng một số chính sách phát triển du lịch như: Ưu đãi đầu tư, hỗ trợ
doanh nghiệp lữ hành và doanh nghiệp vận tải khánh du lịch, đào tạo nguồn nhân
lực du lịch địa phương, chính sách hỗ trợ các làng nghề và cơ sở sản xuất đưa
các sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp đặc thù tiêu biểu của tỉnh tham gia hoạt
động phục vụ khách du lịch; tham gia sản xuất sản phẩm hàng lưu niệm, quà
tặng du lịch; nghiên cứu, xây dựng bộ tiêu chí xếp hạng các doanh nghiệp, cá
nhân hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn tỉnh; xây dựng dự toán kinh phí
sự nghiệp hỗ trợ cho phát triển du lịch tỉnh hàng năm của tỉnh.
Sở cũng đã hướng dẫn các huyện, thành, thị triển khai thực hiện Chương
trình hành động số 24-CTr/TU ngày 4/4/2017 của Tỉnh ủy Phú Thọ về triển khai
thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh
tế mũi nhọn và Kế hoạch số 1573/KH-UBND ngày 21/4/2017 của UBND tỉnh về
phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ năm 2017.
Cùng với Sở Văn hóa, thể thao và du lịch, Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh
Phú Thọ đã tham mưu giúp UBND tỉnh các giải pháp cải thiện môi trường đầu tư
39
du lịch, kịp thời tháo gỡ vướng mắc cho các nhà đầu tư du lịch trên địa bàn. Tiến
hành kiểm tra, rà soát, đôn đốc các doanh nghiệp đầu tư du lịch trên địa bàn tỉnh
đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án. Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch và các sở ngành xây dựng cơ chế ưu đãi thu hút đầu tư vào lĩnh vực du lịch
trên địa bàn tỉnh. Nhờ đó, trong những năm qua, một số dự án đầu tư cơ sở hạ
tầng du lịch trọng điểm đã được xây dựng, như Dự án Khu du lịch sinh thái cao
cấp bãi nổi La Phù (Đảo Ngọc Xanh) địa bàn huyện Thanh Thủy trị giá 500 tỷ
đồng; Dự án Khu điều dưỡng tắm nước khoáng nóng Thanh Thủy (huyện Thanh
Thủy) trị giá 50 tỷ đồng; Dự án Khu du lịch nghỉ dưỡng Vườn Vua (huyện
Thanh Thủy) trì giá 159.90 tỷ đồng; Dự án khách sạn 4 sao Sài Gòn – Phú Thọ
(TP.Việt Trì) trị giá 80 tỷ đồng; Dự án Trung tâm thương mại Vincom – Quảng
trường Hùng Vương (TP. Việt Trì) trị giá 403,40 tỷ đồng...
Sở Tài chính cũng đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch bố trí
nguồn vốn theo các nội dung trong kế hoạch đề ra hàng năm. Các khu du lịch
trọng điểm đã được ưu tiên cấp vốn ngân sách; dự án phát triển du lịch cộng
đồng; dự án phát triển nguồn nhân lực du lịch, trùng tu di tích, phục dựng lễ
hội... đều được Sở đảm bảo nguồn kinh phí.
Với chức năng, nhiệm vụ của mình, trong những năm qua, Sở Công
thương đã chủ trì, phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và các đơn vị
liên quan nghiên cứu, xây dựng và phát triển sản phẩm quà tặng, hàng lưu niệm
phục vụ khách du lịch; triển khai tốt các dự án trong quy hoạch đã được phê
duyệt như: Dự án trung tâm thương mại, trung tâm mua sắm, các dự án thủ công
nghiệp, làng nghề; xây dựng và triển khai thực hiện dự án đầu tư cơ sở hạ tầng
tại các làng nghề gắn với phát triển du lịch:... Đặc biệt, trong bối cảnh khi mà du
khách đi du lịch còn có hiện tượng bị “chèn ép” về giá cả thì Sở đã có những cố
gắng nỗ lực trong việc bình ổn giá cả thị trường tại các khu, điểm du lịch tạo môi
trường kinh doanh du lịch lành mạnh, an toàn và thân thiện.
Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng đã chủ trì xây dựng và thực
hiện kế hoạch phát triển làng nghề nông thôn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 -
40
2020, trong đó xây dựng các tuyến du lịch gắn với làng nghề đã được UBND
tỉnh công nhận (như khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy, khu du lịch
vườn quốc gia Xuân Sơn, đình Hùng Lô...); chủ trì phối hợp với Sở VHTT&DL,
UBND các huyện xây dựng và thực hiện các đề án: Phát triển vùng chè Thanh
Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du
lịch trong việc xây dựng, quản lý và khai thác tài nguyên du lịch phục vụ hoạt
động du lịch tại khu vực vườn quốc gia Xuân Sơn.
Ngoài ra, các Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Xây dựng, Sở Giao thông
vận tải, Sở Khoa học và Công nghệ, Công an tỉnh, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh... đã
chủ động tăng cường hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện bảo vệ an ninh, an toàn
cho du khách; bảo vệ môi trường du lịch tại địa phương; Thẩm định và kiểm tra
thiết kế cơ sở, dự án đầu tư xây dựng liên quan đến du lịch; hướng dẫn các sở,
ngành, địa phương ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ trong hoạt động
kinh doanh du lịch và trong sản xuất các sản vật đặc trưng của Phú Thọ như bưởi
Đoan Hùng, hồng Hạc, chè Phú Thọ, cá Lăng, cá Anh vũ;...
Sở Giáo dục và Đào tạo; Sở Lao động, Thương binh và xã hội cùng với các
cơ sở giáo dục, đào tạo khác trên địa bàn tỉnh đã mở rộng và nâng cao chất lượng
hệ thống cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh, từng bước chuẩn
hóa chương trình đào tạo tại các cơ sở có đào tạo các ngành về du lịch. Các chương
trình đào tạo mở ra đa dạng, như đào tạo ngắn hạn, dài hạn về chuyên ngành du
lịch (quản lý cơ sở lưu trú, hướng dẫn viên, lễ tân, buồng, bàn, bar, bếp...); phù hợp
với điều kiện, khả năng của doanh nghiệp và yêu cầu thực tế của xã hội.
Báo Phú Thọ, Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh cũng đã thực hiện tốt
nhiệm vụ và chức năng của mình trong việc thực hiện chính sách phát triển du
lịch của Tỉnh. Đó là xây dựng các chuyên mục, chuyên trang, chương trình quảng
bá tiềm năng, hình ảnh du lịch Phú Thọ; thường xuyên tuyên truyền, giới thiệu các
điểm, khu du lịch hấp dẫn của tỉnh trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Hiệp hội Du lịch tỉnh Phú Thọ cũng đã tăng cường công tác tuyên truyền
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước trong
41
lĩnh vực du lịch đến các hội viên để mọi hội viên chấp hành nghiêm chỉnh; động
viên các hội viên đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau về kinh tế, kỹ thuật và tạo
môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, cùng nhau phát triển bền vững; vận
động Hội viên nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm cải thiện hình ảnh du lịch, tạo
ấn tượng tốt với du khách; Tích cực tham gia góp ý, đề xuất với cơ quan quản lý
nhà nước về những chính sách, luật pháp, cơ chế nhằm thúc đẩy ngành du lịch
phát triển....
Các đơn vị kinh doanh du lịch, dịch vụ trên địa bàn tỉnh: xây dựng
phương án kinh doanh, chủ động mời gọi nguồn vốn đầu tư, khai thác thị trường,
có cơ chế thu hút nhân lực có trình độ cao; chú trọng đến công tác đầu tư nâng
cấp cơ sở vật chất kỹ thuật, xây dựng sản phẩm du lịch đặc thù của tỉnh, tăng
cường công tác đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người lao động, từng bước
chuẩn hóa các dịch vụ và đội ngũ cán bộ công nhân viên phục vụ, đẩy mạnh hoạt
động liên doanh liên kết, xây dựng thương hiệu, xây dựng và phát triển các dịch
vụ du lịch có chất lượng đáp ứng nhu cầu ăn, nghỉ, tham quan, vui chơi giải trí
của khách du lịch.
Ngoài ra, các huyện thị khác, đặc biệt là những huyện, thị có địa điểm du
lịch cũng đã có kế hoạch, đề án phát triển du lịch, như huyện Hà Hòa, Thanh
Sơn, Đoan Hùng, Cẩm Khê,... đã xây dựng đề án phát triển di tích đền Mẫu Âu
Cơ, Khu du lịch hồ Ao Châu, Khu du lịch Ao giời - Suối tiên; vùng chè Thanh
Sơn; vườn bưởi huyện Đoan Hùng; xây dựng nhà tưởng niệm nhà thơ Bút Tre tại
xã Đồng Lương, huyện Cẩm Khê.
2.2.4. Duy trì chính sách phát triển du lịch
Cùng với việc phân công, phối hợp thì việc duy trì chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng được thực hiện một cách tương đối tốt.
Theo đó, để duy trì chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, UBND tỉnh đã
giao nhiệm vụ cho các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện chương trình
trong kế hoạch công tác hằng năm. Căn cứ các kế hoạch về phát triển du lịch tỉnh
42
giai đoạn 2011 – 2015, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát triển giai
đoạn 2016 – 2020, các địa phương trong tỉnh đã ban hàng các văn bản điều hành,
tổ chức triển khai thực hiện phát triển du lịch của địa phương mình và duy trì
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh, cụ thể Thành phố Việt Trì: Nghị
quyết số 31/2012/NQ-HĐND ngày 25/2/2012 của Hội đồng Nhân dân về phát
triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm 2020; Kế hoạch số 2555/KH-UBND
ngày 21/12/2012 của UBND về phát triển du lịch thành phố Việt Trì đến năm
2020; Huyện Thanh Thủy: Đề án số 768/ĐA-UBND ngày 15/9/2011 của UBND
huyện về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015, định hướng đến năm 2020;
Nghị quyết 23/2012/NQ-HĐND ngày 18/7/2012 của Hội đồng Nhân dân huyện
thông qua Đề án số 402/ĐA-UBND ngày 18/4/2012 của UBND huyện Hạ Hòa
về phát triển du lịch giai đoạn 2011 – 2015; Thị xã Phú Thọ: Kế hoạch số
703/KH-UBND ngày 30/12/2011 của UBND về phát triển du lịch thị xã Phú Thọ
đến năm 2020; Huyện Cẩm Khê: Kế hoạch số 338/KH-UBND ngày 12/8/2012
của UBND về phát triển du lịch huyện Cẩm Khê giai đoạn 2012 – 2015; Đề án
số 1408/ĐA-UBND ngày 07/7/2011 của UBND về xây dựng và phát triển khu di tích
lịch sử Tiên Động, Tiên Lương thành điểm du lịch văn hóa tín ngưỡng; Huyện Phù
Ninh: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2020, trong
đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện; Kế hoạch số 412/KH-
UBND ngày 18/6/2013 của UBND về phát triển du lịch huyện Phù Ninh năm 2013.
Các huyện Lâm Thao, Tân Sơn, Đoan Hùng, Tam Nông, Thanh Sơn, Thanh Ba,...
đều xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm
2020, trong đó có quy hoạch về phát triển du lịch trên địa bàn huyện.
2.2.5 Điều chỉnh chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Nhận thức rõ vai trò của du lịch trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh, công
tác xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển du
lịch của tỉnh Phú Thọ được triển khai đồng bộ, rộng khắp, nhận được sự đồng
thuận, hưởng ứng của các cấp, các ngành và người dân.
43
Để đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch tỉnh phù hợp với từng giai đoạn cụ
thể, việc điều chỉnh chính sách được tỉnh quan tâm, cụ thể:
Đề án số 3020/ĐA-UBND ngày 28/9/2009 của Ủy ban Nhân dân tỉnh Phú
Thọ xây dựng điểm du lịch tạo tuyến du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn
2009 – 2020 [33]; Kế hoạch số 654/KH-UBND ngày 05/3/2012 của Ủy ban
Nhân dân tỉnh Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2012 – 2015
[34]; Nghị quyết số 30/2012/NQ-HĐND ngày 17/12/2012 của Hội đồng Nhân dân
tỉnh Phú Thọ về quy hoạch phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2011 – 2020,
định hướng đến năm 2030 [10]; Nghị quyết số 17/NQ-HĐND ngày 19/7/2016 của
Hội đồng Nhân dân tỉnh Phú Thọ về về việc thực hiện 4 khâu đột phá về huy động
nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội then chốt, phát triển nguồn nhân
lực, phát triển du lịch và cải cách hành chính tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020
[11]; Kế hoạch số 4772/KH-UBND ngày 20/10/2016 của Ủy ban Nhân dân tỉnh
Phú Thọ phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2016 – 2020 [35].
Căn cứ vào mỗi giai đoạn khác nhau, tình hình thực tiễn của tỉnh và xu
hướng phát triển du lịch của đất nước và trên thế giới, chính sách phát triển du
lịch của Phú Thọ được điều chỉnh cho phù hợp.
Ở giai đoạn 2012 – 2015, tình hình kinh tế thế giới biến động khó lường,
tình trạng khủng hoảng kinh tế kéo dài; chiến tranh, khủng bố, thiên tai, dịch
bệnh diễn biến phức tạp làm ảnh hưởng nặng nề đến ngành du lịch. Cùng với đó
là việc kết cấu hạ tầng ngành du lịch tỉnh Phú Thọ chưa được tập trung đầu tư,
cơ sở hạ tầng ngành du lịch còn thiếu thốn, chưa đầy đủ. Trước thực tế đó, Ủy
ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đề ra mục tiêu chung: “Từng bước đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng và các công trình du lịch – thương mại – dịch vụ phù hợp với
đặc điểm tài nguyên du lịch, gắn với các địa bàn trọng điểm du lịch tạo thành
cụm liên kết phục vụ phát triển du lịch. Tập trung xây dựng các tua, tuyến; liên
kết các khu, điểm du lịch, trung tâm thương mại, khu vui chơi giải trí, làng nghề
truyền thống. Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng của tỉnh Phú Thọ, tạo
44
sức thu hút du khách như: Du lịch văn hóa – lễ hội, du lịch sinh thái – danh
thắng và du lịch nghỉ dưỡng, ẩm thực cội nguồn,... Xây dựng sản phẩm hàng lưu
niệm của tỉnh Phú Thọ phục vụ cho phát triển du lịch” [34].
Tới giai đoạn 2016 – 2020, khi hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng ngành du
lịch tỉnh Phú Thọ về cơ bản đã được đầu tư, xây dựng đầy đủ, hoàn chỉnh; tình
hình ngành du lịch trên thế giới và Việt Nam cũng thay đổi. Nhu cầu du lịch của
khách du lịch hướng nhiều hơn đến các quốc gia châu Á, trong đó có Việt Nam.
Mục tiêu phát triển du lịch tỉnh Phú Thọ giai đoạn này cũng được đề ra cao hơn
so với giai đoạn trước: “Tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi thế nguồn
tài nguyên du lịch của tỉnh; huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn
lực để phát triển du lịch bền vững. Tăng cường xúc tiến quảng bá và từng bước
xây dựng Phú Thọ trở thành địa bàn trọng điểm du lịch của vùng, đảm bảo đủ
điều kiện để Phú Thọ đăng cai Năm du lịch quốc gia vào năm 2020” [35].
Thông qua việc điều chỉnh chính sách, tỉnh Phú Thọ đã khẳng định chủ
trương nhất quán cũng như những điều chỉnh phù hợp với tình hình thực tế trong
phát triển du lịch. Kết quả là đã tạo động lực cho ngành du lịch tỉnh có những
bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua.
2.2.6. Theo dõi kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách phát triển
du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác kiêm tra, đôn đốc, UBND
tỉnh ban hành nhiều kế hoạch triển khai thực hiện việc theo dõi, đôn đốc và thực
hiện tổng hợp báo cáo định kỳ theo quy định. Theo đó, các bên liên quan trong
tỉnh luôn “Tăng cường công tác quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn tỉnh,
tuyên truyền hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch năm 2017 và các Thông tư, Nghị
định hướng dẫn thực hiện Luật Du lịch đến các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh
du lịch, dịch vụ trên địa bàn; tư vấn hướng dẫn hoạt động Hiệp hội Du lịch; tư
vấn hướng dẫn hỗ trợ các địa phương xây dựng sản phẩm du lịch cộng đồng,
sản phẩm du lịch đặc trưng của các địa phương” [25]. Hằng năm, trên cơ sở báo
45
cáo của Sở tổng hợp, UBND tỉnh đã có những điều chỉnh, xử lý những vướng
mắc hay cho chủ trương đối với các vấn đề liên quan đến phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh như bố trí kinh phí đầu tư các dự án, chương trình xúc tiến, quảng bá
hình ảnh, chương trình lễ hội
Công tác kiểm tra, thanh tra cũng được coi trọng: “Tăng cường công tác
thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm. Tổ chức các cuộc kiểm tra chuyên ngành, liên
ngành các hoạt động văn hoá, thể thao và du lịch trên địa bàn toàn tỉnh, trọng
tâm, trọng điểm là những lĩnh vực hoạt động nhạy cảm, dễ gây bức xúc, xảy ra
tình trạng vi phạm kéo dài như: công tác tổ chức lễ hội, hoạt động tu bổ, tôn tạo
di tích, biểu diễn nghệ thuật” [24]. Cụ thể là, năm 2016, Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch tỉnh Phú Thọ đã phối hợp với Công an tỉnh và các đơn vị liên quan tổ
chức kiểm tra công tác phòng chống cháy, nổ tại các cơ sở karaoke, vũ trường,
quán bar trên địa bàn tỉnh. Đến nay đã kiểm tra 359 cơ sở, ra quyết định tạm
đình chỉ hoạt động đối với 76 cơ sở kinh doanh dịch vụ karaoke vi phạm các quy
định về điều kiện an ninh trật tự và an toàn phòng cháy, chữa cháy.
2.2.7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Với ý nghĩa và tầm quan trọng của ngành du lịch đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh, công tác tổ chức đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
luôn được lãnh đạo tỉnh quan tâm nhằm đánh giá đúng thực trạng, kết quả của
nội dung chính sách, quá trình tổ chức triển khai thực hiện và đề xuất giải pháp,
kiến nghị bổ sung, sửa đổi nội dung của chính sách cũng như việc tổ chức thực
hiện hiệu quả của chính sách phù hợp với điều kiện thực tế.
Hằng năm, Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ đều tổ chức các cuộc họp, hội
nghị tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa
bàn tỉnh để từ đó có những điều chỉnh, thay đổi việc thực hiện chính sách sao
cho phù hợp với thực tiễn triển khai thực hiện chính sách vào cuộc sống nhằm
đạt được mục tiêu đã đề ra trong phát triển du lịch tỉnh ở từng giai đoạn cụ thể.
46
Thông qua các buổi họp, hội nghị đó, các cấp, các ban, ngành, đoàn thể có trách
nhiệm trong việc thực hiện chính sách báo cáo tình hình thực hiện công việc
mình phụ trách để từ đó có những căn cứ đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành
nhiệm vụ và rút ra những kinh nghiệm, khắc phục thiếu sót, tồn tại trong việc
thực hiện chính sách ở những giai đoạn sau đó.
Một số kết quả về sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ
Chính sự thực hiện tương đối tốt của các bên liên quan trong thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ những năm gần đây, mà
do đó, đã tạo ra sự phát triển của du lịch tỉnh Phú Thọ và các lĩnh vực khác của
đời sống xã hội. Cụ thể là:
- Về mặt kinh tế:
Việc thực hiện chính sách phát triển du lịch đã và đang góp phần tạo nhiều
việc làm, nâng cao đời sống nhân dân.
Năm 2016, ngành Du lịch tỉnh Phú Thọ thu hút 11.918 lao động, trong đó
có 3.418 lao động trực tiếp, tăng 3,1% so với cùng kỳ 2015, tăng 0,5% kế hoạch;
Năm 2017, thu hút 12.505 lao động, trong đó có 3.505 lao động trực tiếp, tăng
2,5% so với cùng kỳ 2016, tăng 0,1% kế hoạch; Năm 2018, ước tính thu hút
13.272 lao động, trong đó có 3.792 lao động trực tiếp, tăng 1,1% kế hoạch, tăng
8,2% so với cùng kỳ 2017 [32].
Lượt khách lưu trú trong nước và quốc tế cũng như doanh thu du lịch tăng
đều qua các năm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xuất khẩu tại chỗ:
Lượt khách lưu trú: Năm 2016, phục vụ 455.035 lượt khách, tăng 1,1% so
với kế hoạch, tăng 16% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ 500.126 lượt
khách, tăng 0,4% so với kế hoạch, tăng 10% so với năm 2016. Năm 2018, ước
đạt 580.000 lượng khách, tăng 5,4% so kế hoạch năm và tăng 16% với cùng kỳ
năm 2017.
Lượt khách lưu trú quốc tế: Năm 2016, phục vụ 5.718 lượt khách, tăng
2,1% so với kế hoạch năm và tăng 5,2% so với năm 2015; Năm 2017, phục vụ
47
6.512 lượt khách 8,5% kế hoạch năm và tăng 13,8% so với năm 2016. Năm 2018,
đạt 7.200 lượt, tăng 10,7% kế hoạch năm, tăng 10,6% so cùng kỳ năm 2017.
Về doanh thu du lịch, dịch vụ: Năm 2016 doanh thu du lịch dịch vụ khách sạn
nhà hàng đạt 2.381 tỷ đồng, tăng 10,0% so với cùng kỳ 2015, đạt 99,2% kế hoạch;
Năm 2017 đạt 2.682 tỷ đồng, tăng 12,6% so với năm 2016,...hai thác các trò chơi dân gian trong các lễ hội của các vùng.
- Đầu tư hệ thống thu gom nước thải, rác thải ở các khu, điểm du lịch, kết
nối đến các các điểm tập kết, xử lý chất thải tập trung đã được quy hoạch.
63
Đồng thời với việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư hạ tầng và công
trình kết cấu hạ tầng trọng điểm, cần tăng cường thu hút vốn đầu tư từ các thành
phần kinh tế ngoài nhà nước, từ cộng đồng dân cư cho các dự án đầu tư cơ sở
lưu trú, ăn uống cao cấp, trung tâm thương mại, mua sắm, dự án xây dựng các
công trình vui chơi giải trí, dự án đầu tư tại các khu, điểm du lịch đã quy hoạch.
Việc thu hút các nguồn vốn từ dân cư và tư nhân cho xây dựng hạ tầng theo
hướng: công trình hạ tầng chính, then chốt, đòi hỏi vốn đầu tư lớn và thời gian
thu hồi vốn chậm do nhà nước đầu tư, các hợp phần hạ tầng nhỏ gắn với công
trình chính, mức đầu tư ít, sau đầu tư có thể khai thác để thu hồi vốn nhanh và
trực tiếp, phù hợp với điều kiện của các nhà đầu tư tư nhân hoặc cộng đồng dân
cư thì khuyến khích cộng đồng tham gia, góp vốn đầu tư.
Đẩy mạnh thu hút đầu tư du lịch phải gắn với việc rà soát, đánh giá, thẩm
định năng lực của các nhà đầu tư, chất lượng dự án đầu tư để đảm bảo tính khả
thi của dự án. Tạo môi trường, khuyến khích, thực hiện các chính sách ưu đãi, hỗ
trợ đầu tư đồng thời phải đôn đốc, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các dự
án du lịch, kiên quyết thu hồi các dự án chậm tiến độ quá thời gian pháp luật cho
phép hoặc dự án vi phạm cam kết, vi phạm quy định pháp luật, để đảm bảo hiệu
quả thu hút đầu tư, tránh lãng phí các nguồn lực, nhất là đất đai và nguồn tài
nguyên du lịch.
Cùng với đầu tư nguồn vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng, thực hiện các
dự án phát triển du lịch, cần chú trọng dành nguồn đầu tư thoả đáng cho công tác
đào tạo nguồn nhân lực, xúc tiến, quảng bá du lịch; quản lý và sử dụng tốt các
nội dung đầu tư này để đảm bảo hiệu quả đầu tư.
3.3. Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch có vai trò quan trọng trong việc thu hút khách du lịch.
Tài nguyên nói chung được hiểu là nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc văn hóa để
tạo ra của cải vật chất, hàng hóa, sản phẩm phục con người [15,tr.277]. Sự hấp
dẫn du khách cũng phụ thuộc tương đối nhiều vào sự đa dạng, phong phú, mới lạ
64
của hai loại tài nguyên này và phụ thuộc vào môi trường mà hai tài tuyên này
thuộc về. Do đó, trên cơ sở danh mục tài nguyên du lịch đã được xác định, tiếp
tục thường xuyên rà soát, đánh giá, kiểm kê thực trạng, xây dựng hệ thống cơ sở
dữ liệu đầy đủ về tài nguyên du lịch của tỉnh (bao gồm cả tài nguyên du lịch tự
nhiên và tài nguyên du lịch)
Xây dựng quy hoạch sử dụng, bảo vệ hệ thống tài nguyên trên địa bàn
tỉnh, trong đó cần đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất về quan điểm sử dụng và bảo
vệ của các ngành, các địa phương dưới sự quản lý tập trung của UBND tỉnh đối
với những tài nguyên du lịch. Các tài nguyên dễ bị tổn thương, ảnh hưởng do tác
động của các hoạt động du lịch và các hoạt động kinh tế khác như nông lâm
nghiệp, thủy sản, khai thác khoáng sản, xây dựng cần phải được bảo vệ, quản lý
chặt chẽ – đó là các khu dụ lịch gắn với cảnh quan thiên nhiên, hệ sinh thái rừng
núi,... Quản lý chặt chẽ những hoạt động du lịch và hoạt động kinh tế xã hội
khác có nguy cơ gây ảnh hưởng đến tài nguyên du lịch; kiểm tra, kiểm soát
thường xuyên việc sử dụng tài nguyên, tránh sử dụng quá mức gây nguy cơ cạn
kiệt, suy giảm hoặc xuống cấp nghiêm trọng tài nguyên.
- Thường xuyên theo dõi biến động của tài nguyên để có những giải pháp
phối hợp kịp thời giữa cơ quan quản lý chuyên ngành về du lịch với các cơ quan,
ngành chức năng liên quan và các địa phương trong tỉnh trong việc khắc phục sự
cố, tình trạng suy thoái, xuống cấp của tài nguyên du lịch. Các khu vực tài
nguyên quý hiếm, các khu vực có nguy cơ suy thoái hoặc có khả năng chịu ảnh
hưởng cao của các tác động xấu do hoạt động khai thác của con người đều phải
được xác định, khoanh vùng dưới sự kiểm soát chặt chẽ để có biện pháp nghiêm
ngặt và giải pháp xử lý phù hợp nhằm bảo vệ tài nguyên, môi trường như khu
vực nước khoáng nóng Thanh Thuỷ; vườn Quốc gia Xuân Sơn, đầm Ao Châu
Trong đó, ở đây, chúng tôi muốn đề cập đến việc bảo vệ môi trường thiên nhiên
trong sạch. Nếu môi trường du lịch không vụ đời sống an toàn, không vệ sinh, bị
ô nhiễm thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến du lịch. Không một du khách nào
65
muốn đến du lịch một nơi mà môi trường xã hội không đảm bảo, môi trường
sinh thái bị ô nhiễm [37,tr.197].
- Xây dựng chính sách ưu đãi với các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân
kinh doanh trong lĩnh vực du lịch trong việc huy động, thu hút vốn đầu tư vào
các hoạt động bảo vệ, tôn tạo tài nguyên du lịch. Theo đó, các dự án đầu tư phát
triển du lịch có những cam kết cụ thể về bảo vệ, tôn tạo và phát triển tài nguyên
du lịch sẽ được khuyến khích và có cơ chế đặc thù. Trong bối cảnh hiện nay, tỉnh
cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh du lịch
áp dụng công nghệ ít tiêu thụ năng lượng và thân thiện với môi trường trong đầu
tư và hoạt động (như sử dụng các giải pháp thiết kế nhà hàng, khách sạn phù hợp
để tránh tiêu tốn năng lượng khi vận hành; sử dụng hệ thống pin mặt trời để cung
cấp nước nóng, sử dụng các vật liệu thân thiện với môi trường.).
- Đối với các tài nguyên du lịch nhân văn, cần nghiên cứu, xác định được giới
hạn áp lực của hoạt động du lịch lên tài nguyên để có biện pháp duy trì áp lực và
cường độ sử dụng trong giới hạn an toàn cho tài nguyên. Thực hiện các biện pháp cụ
thể như xây dựng quy chế quản lý khách du lịch, nội quy lễ hội, các bộ quy tắc ứng
xử..., tuyên truyền để du khách tôn trọng và có thái độ ứng xử văn hoá với các tài
nguyên du lịch nhân văn (tôn trọng di sản, tôn trọng truyền thống văn hoá, chuẩn
mực văn hoá, đạo đức của cộng đồng địa phương nơi có hoạt động du lịch); đồng
thời nâng cao nhận thức, ý thức giữ gìn các giá trị văn hoá truyền thống, môi trường
xã hội truyền thống của cộng đồng khi tham gia hoạt động du lịch.
Trong quá trình này, cần lưu ý đến các tài nguyên, sản phẩm du lịch đặc
thù của Phú Thọ. Sản phẩm đặc thù “là những sản phẩm có được yếu tố hấp
dẫn, độc đáo/duy nhất, nguyên bản và đại diện về tài nguyên du lịch (tự nhiên và
nhân văn) cho một lãnh thổ/điểm đến du lịch; với những dịch vụ không chỉ làm
thỏa mãn nhu cầu/mong đợi của du khách mà còn tạo được ấn tượng bởi tính độc
đáo và sáng tạo” [37,tr.215-216]. Với Phú Thọ hiện nay, các khu di tích Đền
Hùng, Gò Mun, hay du lịch tâm linh cần phải được chú trọng đầu tư.
66
- Thực hiện nghiêm quy định về khảo sát, đánh giá tác động môi trường
khi đầu tư dự án du lịch. Khuyến khích, tăng cường quảng bá cho các loại hình
du lịch thân thiện với môi trường. Hoàn thiện hệ thống nội quy, quy chế, quy
định về bảo vệ môi trường tại các khu, điểm du lịch. Tổ chức cho các cơ sở kinh
doanh học tập và ký cam kết thực hiện quy chế. Đôn đốc, giám sát thường xuyên
các cơ sở thực hiện đầy đủ các quy định, quy chế bảo vệ môi trường trong các
hoạt động du lịch.
- Tỉnh cần tăng cường đầu tư cho lực lượng bảo vệ môi trường, vệ sinh tại
các khu vực du lịch. Chú trọng xây dựng hạ tầng xử lý chất thải, nước thải ở các
khu, điểm du lịch, các cơ sở lưu trú và ăn uống phục vụ du lịch. Kiểm soát chặt
chẽ tác động của các hoạt động kinh tế trong những lĩnh vực khác (xây dựng,
giao thông, công nghiệp, nông nghiệp) đến môi trường tại các khu, điểm du lịch.
Kiểm tra thường xuyên các hoạt động kinh doanh du lịch; xử lý nghiêm đối với
các doanh nghiệp, cơ sở gây ô nhiễm môi trường khi tham gia hoạt động du lịch
gây ô nhiễm môi trường du lịch.
- Tuyên truyền nâng cao nhận thức về bảo vệ tài nguyên, môi trường du
lịch.. Lồng ghép nội dung giáo dục về môi trường trong chương trình của hệ
thống các cấp độ đào tạo du lịch cũng như đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục qua
phương tiện thông tin đại chúng. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp, các đối tượng tham gia kinh doanh lịch, khách du lịch, cộng đồng dân cư
trong nỗ lực chung để đảm bảo môi trường cho phát triển du lịch.
- Đa dạng hóa các sản phẩm du lịch, xây dựng các sản phẩm du lịch phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu của du khách
3.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển
du lịch
- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nguồn nhân lực du lịch cả về số
lượng, chất lượng, cơ cấu đào tạo. Trên cơ sở dự báo về lượng khách du lịch, xây
dựng và tổ chức thực hiện các chính sách phát triển nguồn nhân lực ngành du
67
lịch phù hợp với yêu cầu phát triển và các mục tiêu, dự báo, định hướng phát
triển du lịch.
- Nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng nhân lực đầu vào cho bộ máy
hoạt động liên quan đến du lịch, cả nhân lực quản lý và nhân lực du lịch nói
chung, phù hợp các quy định về tiêu chuẩn chất lượng nhân sự tương ứng với
mỗi vị trí công việc và quy trình tuyển dụng. Các chuyên gia giỏi, lao động có
trình độ tay nghề cao cần được ưu đãi tuyển dụng; trong đó đặc biệt ưu tiên vào
lĩnh vực, công việc mà nguồn nhân lực du lịch ở tỉnh còn chưa mạnh, như quản
trị kinh doanh khách sạn cao cấp, lữ hành, quản lý các khu du lịch, hợp tác
quảng bá du lịch ra với thị trường nước ngoài.
- Với các nhân lực du lịch địa phương, định kỳ nên tổ chức các hoạt động
đào tạo, đào tạo lại đáp ứng yêu cầu phát triển ngành, của sự phát triển ngày
càng gia tăng cả về chất lượng lẫn số lượng. Trong quá trình này cần chú ý với
các đối tượng sau: thứ nhất, là các chuyên gia trong từng lĩnh vực chuyên ngành
hẹp của du lịch, như quản lý, nghệ nhân,; thứ hai, là với đội ngũ cán bộ, công
chức quản lý nhà nước các cấp về du lịch: với đội ngũ này cần nâng cao trình độ
xây dựng và thực thi chính sách, trang bị những kiến thức cần thiết liên quan đến
lĩnh vực du lịch; thứ ba, đối với đội ngũ nhân lực làm việc trực tiếp với du khách
thì cần nâng cao kỹ năng nghề nghiệp, tính chuyên nghiệp, trình độ ngoại ngữ,
văn hóa ứng xử .
- Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách trong tuyển dụng, đào tạo và
đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao chất lượng, kỹ năng công việc cho đội ngũ
chuyên gia, cán bộ, lao động du lịch, chính sách khuyến khích, xã hội hóa công
tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch. Tăng cường năng lực đào tạo bồi dưỡng
của các cơ sở đào tạo nhân lực du lịch trên địa bàn tỉnh (trường đại học Hùng
Vương, cao đẳng Văn hoá và Du lịch, cao đẳng nghề Phú Thọ), phát triển và
nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, hỗ trợ tăng cường cơ sở vật chất và điều
kiện giảng dạy; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo lý thuyết và thực hành; mở rộng
68
hợp tác, liên kết đào tạo nguồn nhân lực du lịch với các trường, cơ sở, tổ chức
đào tạo trong nước và quốc tế có uy tín trong việc đào tạo chuyên môn nghiệp vụ
quản trị và kinh doanh du lịch; khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh các
sản phẩm, dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh (như các khách sạn, nhà hàng lớn, các
cơ sở kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí) thoả thuận và ký kết hợp đồng đào tạo
theo địa chỉ. Tạo điều kiện cho các tổ chức xã hội, các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế phối hợp, liên kết với các cơ sở đào tạo mở rộng các hình
thức đào tạo ngắn hạn, không tập trung, phục vụ nhu cầu vừa học vừa làm, nâng
cao trình độ tay nghề của người lao động.
Hỗ trợ giáo dục cộng đồng, mở các lớp tập huấn các kiến thức về du lịch
cho người dân tham gia trực tiếp vào các hoạt động du lịch. Hỗ trợ đào tạo và
hướng dẫn phát triển kinh tế hộ gia đình, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ
làm du lịch; đào tạo tay nghề để khôi phục, phát triển nghề cổ truyền tạo điểm
tham quan du lịch và sản xuất hàng lưu niệm phục vụ du lịch.
3.5. Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển
thị trường
- Cần triển khai ngay việc xây dựng chiến lược, các chương trình, kế
hoạch dài hạn và hàng năm về xúc tiến, quảng bá du lịch; đẩy mạnh các nội dung
xúc tiến, quảng bá riêng của tỉnh đồng thời gắn với xúc tiến, quảng bá du lịch
khu vực và cả nước để tạo hiệu quả tổng hợp trong xúc tiến, quảng bá. Tăng
cường phối hợp với Bộ VH,TT&DL, với các cơ quan thông tin đại chúng ở
Trung ương và các tỉnh bạn, cơ quan thông tin đối ngoại, các hiệp hội, hội hữu
nghị, cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để quảng bá hình
ảnh của du lịch Phú Thọ trong nước và ra với thế giới. Tiếp tục lan tỏa mạnh mẽ
hình ảnh Phú Thọ với ý nghĩa là vùng đất Tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam và
gắn với 2 di sản phi vật thể đại diện của nhân loại đã được vinh danh.
- Tăng cường cung cấp thông tin, hướng dẫn cho khách du lịch; đầu tư đổi
mới thiết kế, hình thức các ấn phẩm du lịch Phú Thọ như: Bản đồ du lịch, cẩm
69
nang du lịch, đĩa DVD, VCD, bản tin du lịch,... để tăng tính hấp dẫn và phong
phú; xây dựng hệ thống điểm hướng dẫn và cung cấp thông tin cho khách du lịch
ở những đầu mối giao thông quan trọng và đặc biệt là ở các khu điểm du lịch,
các trung tâm lữ hành. Phát triển các hoạt động E-Marketing, mở rộng nội dung
thông tin trên các Website của tỉnh, trên Website riêng của ngành du lịch Phú
Thọ, cập nhật đầy đủ các thông tin du lịch của tỉnh, hoàn chỉnh hơn các công cụ
tra cứu du lịch và xây dựng các ấn phẩm giới thiệu, quảng cáo điển tử trên
Website với giao diện và cách thức thể hiện hấp dẫn hơn; có quy định cụ thể,
khuyến khích, hướng dẫn, hỗ trợ, tạo điều kiện để các dự án du lịch lớn, các khu,
điểm du lịch trọng tâm đều có Website riêng của mình, tạo sự liên kết giữa các
Website du lịch trong tỉnh và với các mạng xã hội, tận dụng quảng bá du lịch
trên các trang mạng xã hội. Đây là giải pháp phù hợp với xu thế của xã hội hiện
đại, tiện lợi để nhanh chóng đưa thông tin cập nhật về du lịch Phú Thọ đến với
các thị trường khách du lịch không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới.
- Thực hiện các chương trình thông tin tuyên truyền, quảng bá rộng rãi về
những sự kiện sẽ diễn ra hàng năm trên địa bàn tỉnh như lễ giỗ Tổ và các lễ hội
truyền thống, sự kiện văn hoá, thể thao Tổ chức các chiến dịch xúc tiến, quảng bá
sự kiện, phát động thị trường theo chuyên đề; chủ động liên kết, mời gọi các đoàn
dã ngoại thực tế đến nghiên cứu điểm đến, giúp tỉnh quảng bá, kết nối sản phẩm du
lịch với các thị trường nguồn khách; mời gọi, khuyến khích và tạo điều kiện cho các
hoạt động sáng tạo nghệ thuật (sáng tác tác phẩm văn học, thơ, nhạc, nhiếp ảnh, làm
phim...) gắn với hình ảnh, bối cảnh hoặc kết hợp quảng bá về địa phương; đầu tư tổ
chức, đăng cai và tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao, du lịch, các hội nghị, hội
thảo du lịch trong nước và quốc tế để giới thiệu, quảng bá rộng rãi tiềm năng du lịch
địa phương, kích thích nhu cầu du lịch trong nước và quốc tế.
- Tổ chức thường xuyên các hoạt động tuyên truyền giáo dục nâng cao ý
thức và văn hóa phục vụ khách du lịch của doanh nghiệp và cộng đồng dân cư;
phát động chiến dịch làm sạch môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm cho khách
du lịch...
70
- Đẩy mạnh các chương trình hợp tác, liên kết quảng bá, giới thiệu, xúc
tiến du lịch trong nước với các tỉnh trong vùng Thủ đô, vùng du lịch trung du
miền núi Bắc Bộ, mở rộng các chương trình hợp tác song phương với các tỉnh
bạn trong nước, với tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Luông Nậm Thà (Lào), Nara
(Nhật Bản) và tìm thêm cơ hội liên kết hợp tác với một số địa phương, vùng lãnh
thổ tương đương cấp tỉnh ở các quốc gia khác. Thống nhất các nội dung hợp tác,
liên kết theo hướng cụ thể và thực chất hơn. Tiếp tục đầu tư quảng bá mạnh mẽ
cho thương hiệu du lịch về cội nguồn, hành trình du lịch tâm linh, du lịch di sản
với các di sản của nhân loại và thành phố lễ hội Việt Trì, các khu điểm du lịch
thuộc vùng nước khoáng nóng Thanh Thuỷ, khu du lịch vườn Quốc gia Xuân
Sơn, khu du lịch Đầm Ao Châu.
- Tăng cường đầu tư nguồn kinh phí tập trung cho công tác xúc tiến,
quảng bá; mở rộng xã hội hoá công tác quảng bá du lịch, khuyến khích động
viên các doanh nghiệp tích cực, chủ động hơn trong công tác quảng bá của
doanh nghiệp mình và góp phần quảng bá cho hình ảnh du lịch chung của tỉnh
đồng thời tập huấn, hướng dẫn, tuyên truyền giáo dục tính trách nhiệm, trung
thực trong hoạt động quảng bá; kiểm tra chặt chẽ các nội dung quảng bá, xử lý
nghiêm các vi phạm trong hoạt động quảng bá du lịch để đảm bảo uy tín của
thương hiệu du lịch Phú Thọ.
- Xác định đúng đắn các ưu tiên phát triển thị trường khách du lịch. Do
đặc thù tài nguyên du lịch riêng có, Phú Thọ cần chú trọng đến thị trường khách
du lịch nội địa và kiều bào Việt Nam trên thế giới. Trong các thị trường khách
quốc tế, tỉnh cần chú trọng đến thị trường Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Trung
Quốc, các nước Đông Nam Á, các nước Bắc Mỹ, một số nước châu Âu, nghiên
cứu khả năng tiếp cận và phát triển thị trường Trung Đông.
- Coi trọng phát triển thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần
kinh tế, mở rộng hợp tác phát triển du lịch với các địa phương bạn trong đó có
hợp tác kết nối tour du lịch liên tỉnh để tăng cường hiệu quả sử dụng tài nguyên
71
du lịch, khai thác thị trường. Thực hiện các chính sách đơn giản hoá các thủ tục
xuất nhập cảnh thuộc thẩm quyền của địa phương; tăng cường đầu tư chiều sâu
cho du lịch, nâng cao chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm du lịch tương
xứng với hình ảnh được quảng bá.
- Củng cố, phát huy trách nhiệm và chất lượng hoạt động của Trung tâm xúc
tiến du lịch thuộc sở chuyên ngành để tham mưu thực hiện tốt các nội dung hoạt
động này. Về lâu dài cần thành lập các Văn phòng đại diện của tỉnh tại các trung
tâm du lịch lớn trong nước và hướng đến các thị trường khách quốc tế tiềm năng.
3.6. Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên quan
trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
3.6.1. Phát huy vai trò, ý thức trách nhiệm của khách du lịch
Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến bảo vệ
tài nguyên du lịch, tuyên truyền về quyền gắn với trách nhiệm của khách du lịch
nhằm nâng cao ý thức tự giác của du khách về bảo vệ tài nguyên du lịch, bảo vệ môi
trường, ý thức tôn trọng cộng đồng, tôn trọng văn hóa bản địa. Hướng dẫn du khách
tự giác thực hiện các nội quy, quy chế, các bộ quy tắc ứng xử khi tham gia du lịch.
Bố trí thời gian và nội dung hợp lý trong các hành trình du lịch, các tour
du lịch để du khách thực sự được chủ động tham gia, trải nghiệm cùng cộng
đồng địa phương nơi có tài nguyên du lịch, từ đó tạo sự ghi nhận, chia sẻ, trân
trọng và ý thức cộng đồng trách nhiệm của khách du lịch trong bảo vệ tài
nguyên, môi trường. Tổ chức thường xuyên các hoạt động bảo vệ tài nguyên,
môi trường ở điểm đến du lịch và mời khách du lịch tham gia (như tổ chức trồng
cây và gắn biển tên cho khách tham gia, hướng dẫn khách cùng thử nghiệm các
kỹ năng đan lát, thêu dệt có thưởng bằng chính sản phẩm làm ra...). Thực hiện
việc bình chọn, ghi danh, trao quà lưu niệm cho các du khách có đóng góp tích
cực cho bảo vệ tài nguyên, môi trường trong hành trình du lịch, tổ chức các gói
du lịch giảm giá, khuyến mại gắn với trách nhiệm tiêu dùng các sản phẩm địa
phương, với mức độ hiểu biết của khách về văn hóa bản địa...
72
- Thực hiện các giải pháp đảm bảo an ninh trật tự, môi trường xã hội an
toàn cho khách du lịch ở điểm đến; đồng thời nhắc nhở, chấn chỉnh những du
khách vi phạm nội quy, quy định, ứng xử thiếu văn hóa bằng các biện pháp cần
thiết. Xử lý các trường hợp lợi dụng hoạt động du lịch để tổ chức, tham gia các
tệ nạn xã hội, gây mất an ninh trật tự, mất an toàn giao thông theo quy định của
pháp luật.
3.6.2. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm của các chủ thể kinh doanh
- Nâng cao ý thức cộng đồng trách nhiệm, nhận thức về kinh doanh du lịch
bền vững, văn hóa kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh du lịch và người lao động
du lịch. Thực hiện tốt và đồng bộ các giải pháp ổn định giá cả, chăm sóc khách
hàng, khuyến mại phù hợp... để kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng và giảm tính thời
vụ của du lịch, giảm áp lực lên tài nguyên du lịch, bảo đảm việc làm cho người lao
động du lịch. Hỗ trợ, ưu đãi đầu tư, kinh doanh đối với các cơ sở lựa chọn đầu tư
kinh doanh các nội dung mà tỉnh cần khuyến khích để đa dạng hóa sản phẩm và
tăng sức hút với khách; hỗ trợ nâng cao năng lực tổ chức, quản trị kinh doanh của
các cơ sở kinh doanh du lịch. Quản lý chặt chẽ các hoạt động kinh doanh, không để
xảy ra tình trạng bắt chẹt, lừa dối khách; phát hiện và xử lý nghiêm vi phạm. Phát
huy tốt vai trò của các hiệp hội du lịch, hội doanh nghiệp, các tổ chức bảo vệ khách
hàng, người tiêu dùng... để vừa bảo vệ và tạo sự cạnh tranh lành mạnh đồng thời
liên kết, hợp tác chặt chẽ giữa các cơ sở kinh doanh du lịch, vừa bảo vệ tốt quyền
lợi khách du lịch, từ đó thu hút, tăng số lượng khách du lịch đến với tỉnh.
- Thực hiện các biện pháp quản lý tài chính đúng quy định, đảm bảo
nguồn thu cho ngân sách nhà nước từ hoạt động kinh doanh du lịch. Bố trí đầu tư
trở lại thỏa đáng từ ngân sách cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường
du lịch và phát triển cộng đồng ở các khu, điểm có hoạt động kinh doanh du lịch.
Huy động sự tham gia tích cực của các doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh du lịch
cho các hoạt động bảo vệ tài nguyên, môi trường, góp phần giảm nghèo, phát
triển văn hóa xã hội, phát triển cộng đồng ở điểm đến du lịch.
73
3.6.3. Phát huy vai trò, trách nhiệm của cộng đồng trong thực hiện
chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Quan hệ giữa du khách và cộng đồng người dân địa phương ảnh hưởng
đến hoạt động du lịch. Mối quan hệ này tốt đẹp là một trong những yếu tố tạo ra
sự tham quan du lịch, đặc biệt là sự trở lại tham quan du lịch của du
khách[2,tr.151-160]. Do đó, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của công đồng
trong thực hiện chính sách phát triển du lịch ở tỉnh Phú Thọ hiện nay là rất quan
trọng. Để làm được điều đó, cần thiết:
- Có cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ (bằng việc sử dụng các đòn
bẩy vật chất, hỗ trợ đào tạo, tập huấn), tạo môi trường thuận lợi cho cộng đồng
tham gia đầu tư kinh doanh du lịch. Các nội dung kinh doanh du lịch khác nhau
được khuyến khích, hỗ trợ, tạo môi trường ở các mức độ khác nhau; thông qua
đó cơ quan quản lý huy động được sự tham gia tích cực của cộng đồng, đồng
thời điều tiết được sự phát triển du lịch của địa phương theo hướng bền vững,
tránh được sự phát triển không cân đối hoặc quá mức, quá tải trong việc sử dụng
tài nguyên, ảnh hưởng đến môi trường du lịch. Các lĩnh vực kinh doanh cần tăng
cường thu hút, khuyến khích cộng đồng tham gia đầu tư là: Đầu tư các dự án xây
dựng cơ sở lưu trú chất lượng cao, dự án xây dựng các khu vui chơi giải trí, hoạt
động lữ hành, các dịch vụ phục vụ hành trình du lịch nông thôn, du lịch cộng
đồng, du lịch làng nghề.
- Hướng dẫn, phát huy trí tuệ và khả năng của các cá nhân trong cộng
đồng trong việc phát triển đa dạng các loại hàng hoá, sáng tạo ra các dịch vụ
mới, tạo sự độc đáo trong phong cách phục vụ; khuyến khích sự tham gia, sáng
tạo của cộng đồng để khôi phục các sản phẩm đặc sản truyền thống và tạo nên
các sản phẩm hàng hoá, các dịch vụ có thương hiệu gắn với du lịch Phú Thọ
để từ đó đa dạng hoá sản phẩm du lịch.
- Khuyến khích, hỗ trợ cộng đồng bản địa phát huy bản sắc (đặc biệt là
đối với đồng bào dân tộc thiểu số), truyền thống văn hoá, sử dụng các yếu tố văn
74
hoá truyền thống của cộng đồng để trực tiếp tạo ra các dịch vụ thu hút khách du
lịch (như hỗ trợ thành lập các câu lạc bộ hát Xoan, diễn xướng dân gian, đâm
đuống, đội cồng chiêng thôn bản ở các bản động vùng cao huyện Thanh Sơn,
Tân Sơn, Thanh Thuỷ, Yên Lập; hỗ trợ phục dựng các làng nghề cổ vùng Lâm
Thao, Việt Trì; hỗ trợ mở các dịch vụ du lịch thôn bản ở Tân Sơn, Thanh
Sơn).
- Tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cộng đồng dân cư địa
phương về ý thức giữ gìn, bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên, ý thức giữ gìn bản
sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục, các nét kiến trúc làng xã cổ, nét đẹp nguyên
bản của các lễ hội,
Có sự đầu tư cần thiết về nguồn kinh phí và các biện pháp hỗ trợ thông
tin, truyền thông cho các hoạt động này (hỗ trợ duy trì lễ hội Trò Trám ở Tứ
Xã, tục cướp cây bông ở Đào Xá, hát Xoan Kim Đức, vật đuổi giải Cao Xá).
Thực hiện các nhóm giải pháp nói trên liên quan đến vai trò và đặt ra yêu
cầu trách nhiệm của nhiều chủ thể, trong đó, UBND tỉnh, với vị trí, chức năng
theo quy định của pháp luật là cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, có trách
nhiệm chủ động tham mưu để Tỉnh ủy có các chủ trương lãnh đạo về phát triển
du lịch bền vững của tỉnh Phú Thọ; tham mưu và đề xuất trình HĐND tỉnh ban
hành các quyết sách chung về phát triển du lịch bền vững; trực tiếp chỉ đạo thực
hiện đồng bộ, thống nhất các giải pháp phát triển du lịch bền vững trên toàn tỉnh;
trao đổi, phối hợp với các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội, nghề
nghiệp để huy động sự tham gia và phát huy vai trò của các tổ chức này cho phát
triển du lịch. Sở VH,TT&DL và các cơ quan chức năng liên quan của tỉnh tham
mưu, giúp UBND tỉnh trong tổ chức thực hiện các giải pháp phát triển du lịch
bền vững gắn với chức năng của đơn vị mình. UBND tỉnh, với sự tham mưu,
giúp việc của các cơ quan chuyên môn trực thuộc, sử dụng tổng thể các biện
pháp quản lý như tạo môi trường (thể chế, chính sách, hành chính, an ninh, xã
hội...), tạo điều kiện (tiếp cận nguồn lực, thị trường, xúc tiến, quảng bá...), tuyên
75
truyền, động viên khuyến khích, hỗ trợ tháo gỡ khó khăn, đôn đốc, thanh tra,
kiểm tra, khen thưởng, xử lý vi phạm, để thúc đẩy thực hiện các giải pháp phát
triển du lịch bền vững thuộc trách nhiệm của các chủ thể của hoạt động du lịch.
Các cơ sở kinh doanh du lịch, du khách, cộng đồng dân cư được động viên và có
trách nhiệm tham gia, góp phần thực hiện những giải pháp cụ thể liên quan trực
tiếp đến nghĩa vụ theo quy định của pháp luật hoặc gắn với quyền lợi của mình,
từ đó góp phần thực hiện tốt các giải pháp chung về phát triển du lịch bền vững,
hướng đến đạt mục tiêu phát triển du lịch bền vững của tỉnh.
76
Tiểu kết Chương 3
Có thể thấy rằng, việc thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ hiện nay đạt được cả những thành tựu và hạn chế. Để có thể khắc
phục những hạn chế, phát huy tính tích cực, nâng cao hiệu quả việc thực hiện
chính sách phát triển du lịch ở Phú Thọ hiện nay, theo chúng tôi cần thực hiện
một số giải pháp như nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực
hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn
lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục
vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa
các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch, phát triển thị trường; Nâng cao nhận
thức và phát huy vai trò của các bên liên quan trong thực hiện chính sách phát
triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Các giải pháp này có sự thống nhất với
nhau; do đó, cần thiết phải thực hiện một cách đồng bộ.
77
KẾT LUẬN
Du lịch ngày càng khẳng định được vị thế của mình đối với với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Phát triển du lịch hiện nay là vấn đề đang được Nhà nước ta
quan tâm, chỉ đạo thực hiện. Để có thể phát triển du lịch một cách hiệu quả cần
có một chính sách phát triển du lịch chất lượng. Chính vì vậy, việc nghiên cứu,
phân tích thực hiện chính sách phát triển du lịch có tầm quan trọng đặc biệt.
Theo đó, thực hiện chính sách phát triển du lịch là toàn bộ quá trình đưa chính
sách vào thực tế đời sống xã hội theo một quy trình, thủ tục chặt chẽ và thống
nhất nhằm giải quyết vấn đề trong phát triển du lịch. Quá trình này cần tập trung
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách; phổ biến, tuyên truyền chính
sách; phân công, phối hợp thực hiện chính sách; duy trì chính sách; điều chỉnh
chính sách; theo dõi, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chính sách; đánh giá, tổng
kết, rút kinh nghiệm trong thực hiện chính sách.
Phú Thọ là địa phương có tài nguyên du lịch phong phú và đa dạng với định
hướng phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Những phân
tích, tổng hợp trong những năm qua cho thấy, việc thực hiện chính sách phát
triển du lịch của tỉnh đã đạt được những thành quả nhất định, góp phần thúc đẩy,
tạo động lực cho sự phát triển du lịch của tỉnh. Qua đó, khẳng định vị thế của
Phú Thọ trong thị trường du lịch của vùng. Tuy nhiên, bên cạnh đó, quá trình
này còn những hạn chế nhất định. Những hạn chế này có thể xuất phát từ nhiều
nguyên nhân. Chính vì vậy, để có thể phát triển hơn nữa du lịch của tỉnh Phú
Thọ, cần nâng cao hơn nữa hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển du lịch
của tỉnh, nhằm phát huy hơn nữa những ưu điểm của chính sách cũng như khắc
phục, hạn chế những hạn chế còn tồn tại của chính sách. Đó là nâng cao năng lực
và hiệu quả quản lý nhà nước trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ; Tăng cường nguồn lực, thu hút vốn đầu tư; đẩy mạnh phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển du lịch; Tăng cường bảo
vệ và phát triển tài nguyên du lịch; Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
78
yêu cầu phát triển du lịch; Đa dạng hóa các hình thức xúc tiến, quảng bá du lịch,
phát triển thị trường; Nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của các bên liên
quan trong thực hiện chính sách phát triển du lịch trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Việc thực hiện đồng bộ các giải pháp này là một trong những cơ sở để xây dựng
Phú Thọ trở thành một vùng du lịch trọng điểm của khu vực và du lịch trở thành
một ngành kinh tế mũi nhọn như Nghị quyết của Tỉnh cũng như Chiến lược phát
triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 đề ra.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_thuc_hien_chinh_sach_phat_trien_du_lich_tren_dia_ba.pdf