Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu nông sản của Công ty XNK & Đầu tư Hà Nội (UNIMEX - Hà Nội)

Lời mở đầu Thực hiện đường lối của Đảng, đặc biệt là chủ trương chuyển dịch cơ cấu hướng về xuất khẩu, trong những năm qua, một số doanh nghiệp Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào sản xuất hàng hoá xuất khẩu và đã gặt hái được nhiều thành công. Thực tế cho thấy kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng cả về quy mô và tốc độ. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu nước ta ngày càng chuyển biến theo chiều hướng đa dạng hơn, trong đó, cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu cũng có hướng đi tương tự. Từ đặc điểm có nền kinh

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động Xuất khẩu nông sản của Công ty XNK & Đầu tư Hà Nội (UNIMEX - Hà Nội), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế là một nước nông nghiệp với dân số chủ yếu tham gia vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp, Việt nam đã xác định nông sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhằm tạo nguồn thu ban đầu rất cần thiết cho sự phát triển đất nước. Xuất phát từ định hướng đó của Nhà nước, Công ty XNK và Đầu tư Hà Nội đã chú trọng mặt hàng này trong cơ cấu xuất khẩu của mình. Trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản, công ty đã gặt hái được nhiều thành công, song bên cạnh những thành công đó vẫn còn những hạn chế nhất định. Vì vậy, đề tài: “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty XNK và Đầu tư Hà Nội (Unimex- Hà Nội)” đã được chọn để nghiên cứu trong chuyên đề. Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm tìm ra vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của quốc gia nói chung và sự phát triển của Unimex Hà Nội nói riêng, đồng thời đánh giá về thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại Công ty XNK và Đầu Tư Hà Nội. Trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu tại công ty. Nội dung của chuyên đề gồm có: Chương I: Lí luận chung về xuất khẩu của doanh nghiệp và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản hàng hoá. Chương II: Thực trạng xuất khẩu nông sản của công ty XNK và Đầu Tư Hà Nội. Chương III: Những giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty XNK và Đầu Tư Hà Nội. Chương I Lý luận chung về xuất khẩu của doanh nghiệp và sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu nông sản hàng hoá I. Khái niệm vai trò của hoạt động xuất khẩu 1. Khái niệm Xuất khẩu là việc buôn bán hàng hoá và dịch vụ cho người nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán với nguyên tắc ngang giá. Tiền tệ ở đây có thể là ngoại tệ đối với một hay hai chủ thể trong quan hệ này. Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế của từng quốc gia trong phân công lao động quốc tế. Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Thực chất xuất khẩu không chỉ là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống quan hệ mua bán trong thương mại có tổ chức nhằm đẩy mạnh sản xuất hàng hoá, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Do vậy bên cạnh những lợi ích kinh tế mang lại khá cao thì hoạt động xuất khẩu cũng dễ đưa đến những hậu quả khó lường vì nó phải đối đầu với toàn bộ hệ thống kinh tế của các nước cùng tham gia xuất khẩu. Đây là một hoạt động nằm trong sự kiểm soát của các quốc gia cùng xuất khẩu một mặt hàng, do vậy khả năng khống chế của mỗi quốc gia riêng biệt là vô cùng khó khăn. Nói theo một cách khác, xuất khẩu chính là việc bán sản phẩm hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài nhằm thu ngoại tệ, tăng tích luỹ cho ngân sách Nhà nước, đồng thời phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống nhân dân. Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn nhiều so với việc mua bán một sản phẩm nào đó trong thị trường nội địa, bởi vì hoạt động xuất khẩu diễn ra trên một thị trường vô cùng rộng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ mạnh. Do vậy, các quốc gia khi tham gia vào hoạt động giao dịch buôn bán quốc tế đều phải tuân theo các thông lệ quốc tế hiện hành. Hoạt động xuất khẩu là hình thức cơ bản của hoạt động ngoại thương, đã xuất hiện từ rất lâu và ngày càng phát triển. Hoạt động này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện từ sản xuất hàng tiêu dùng cho đến máy móc thiết bị, tư liệu sản xuất và cả công nghệ kỹ thuật cao. Dù ở lĩnh vực nào thì hoạt động xuất khẩu cũng đều nhằm mục đích mang lại lợi nhuận cho các quốc gia tham gia. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên phạm vi rất rộng, cả về không gian và thời gian. Nó có thể chỉ diễn ra trong thời gian rất ngắn song cũng có thể kéo dài hàng năm. Nó có thể được tiến hành trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia hay nhiều quốc gia khác nhau. 2. Vai trò của hoạt động xuất khẩu. a. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với một quốc gia. * Xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ để đảm bảo nhu cầu nhập khẩu. Sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia phụ thuộc vào 4 nhân tố đó là: vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Song không phải quốc gia nào cũng có đầy đủ cả 4 yếu tố này, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Hiện nay hầu hết các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển đều thiếu vốn nên họ không có cơ hội để nhập khẩu công nghệ hiện đại và không thể đầu tư nâng cao trình độ nguồn nhân lực, do đó trình độ sản xuất của họ rất thấp. Ngược lại, trình độ sản xuất yếu kém, đến lượt nó, lại là nguyên nhân làm cho quốc gia này thiếu vốn. Vì vậy, đây chính là một vòng luẩn quẩn của các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển. Để thoát khỏi vòng luẩn này buộc các quốc gia này phải có vốn để nhập khẩu công nghệ tiên tiến mà trong nước chưa sản xuất được và nâng cao trình độ nguồn nhân lực, qua đó nâng cao khả năng sản xuất. Nhưng một câu hỏi được đặt ra với các quốc gia là : Làm thế nào để có một lượng ngoại tệ cần thiết đáp ứng cho nhu cầu này? Thực tiễn cho thấy, để có đủ một lượng ngoại tệ đáp ứng cho nhu cầu này, các quốc gia có thể sử dụng các nguồn huy động vốn chính sau: Nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ. Nguồn đầu tư nước ngoài. Nguồn vay nợ, viện trợ. Nguồn từ các dịch vụ thu ngoại tệ như dịch vụ ngân hàng, du lịch. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang phát triển chậm lại như hiện nay thì các quốc gia đang phát triển và chậm phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động được nguồn vốn từ các hoạt động đầu tư, vay nợ, viện trợ và các dịch vụ thu ngoại tệ. Thêm vào đấy, với các nguồn vốn này các quốc gia phải chịu những thiệt thòi và những ràng buộc về chính trị nhất định. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất mà các quốc gia này có thể trông chờ là nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu. * Hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của các quốc gia. Để hoạt động xuất khẩu có hiệu quả thì các quốc gia thường phải lựa chọn các mặt hàng sản xuất ở quốc gia đó có lợi thế hơn so với sản xuất tại các quốc gia khác. Đây chính là những mặt hàng có sử dụng nguồn nguyên liệu dồi dào, lao động rẻ, ứng dụng nền sản xuất trong nước. Chính vì vậy mà hoạt động xuất khẩu phát huy được lợi thế của quốc gia. Ta có thể chứng minh điều này ở ví dụ sau: Giả sử có sự khác biệt năng suất lao động trong sản xuất lúa mỳ (w) và vải (c) giữa Anh và Mỹ như sau: Bảng 1: Lợi thế kinh tế đối với nền kinh tế của mỗi quốc gia Sản phẩm Mỹ Anh Lúa mì (giạ/người/giờ) 6 1 Vải (mét/người/giờ) 4 5 Mỹ và Anh cùng có 2 giờ lao động, nếu không chuyên môn hoá thì Mỹ sản xuất được 6w và 4c, Anh sản xuất được 1w và 5c. Trong khi đó nếu Mỹ tập trung vào sản xuất lúa mì và Anh sản xuất vải thì Mỹ sẽ có 12w, Anh sẽ có 10c, giả sử lượng trao đổi là 5w = 5c thì Mỹ sẽ được 7w và 5c, còn Anh sẽ được 5w và 5c. Như vậy cả 2 nước đều có thể tăng lượng hàng hóa cho tiêu dùng. Nhưng các nước chỉ có thể thu được lợi ích nếu tiến hành hoạt động thương mại quốc tế, tức hoạt động xuất nhập khẩu. Vì thế, có thể kết luận là hoạt động xuất nhập khẩu sẽ tạo cơ hội cho các nước phát huy lợi thế của mình. * Hoạt động xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Thông thường các nhà xuất khẩu sẽ tập trung vào xuất khẩu những mặt hàng có lợi thế của đất nước. Khi lợi nhuận thu được từ xuất khẩu mặt hàng ấy càng lớn thì số người tập trung vào sản xuất mặt hàng ấy ngày càng nhiều. Do vậy cơ cấu sản xuất trong nước sẽ thay đổi. Sự thay đổi này không chỉ diễn ra trong ngành mà còn diễn ra ở cả những ngành phụ trợ cho ngành hàng xuất khẩu. Ví dụ, khi hoạt động xuất khẩu hàng nông sản phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của ngành sản xuất phân bón, ngành vận tải, ngành công nghiệp thực phẩm phát triển kéo theo ngành trồng trọt chăn nuôi phát triển; ngành dệt may phát triển kéo theo ngành trồng bông đay cũng phát triển. * Hoạt động xuất khẩu giải quyết được công ăn việc làm, tạo nguồn thu nhập, nâng cao mức sống và trình độ của người lao động. Hoạt động xuất khẩu là một trong những hoạt động mang lại nguồn lợi nhuận lớn trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. chính vì vậy số lượng lao động hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu hàng hoá không ngừng tăng. hàng năm ngành xuất khẩu giải quyết việc làm cho một số lượng lớn lao động. Thêm vào đó, do có điều kiện tiếp xúc với thị trường mới, phương thức quản lý mới, khoa học công nghệ hiện đại nên trình độ của người lao động cũng được cải thiện để đáp ứng với yêu cầu chung của thị trường quốc tế. * Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế Để đánh giá uy tín của một quốc gia người ta thường dựa vào 4 tiêu chí là: GDP, lạm phát, thất nghiệp và cán cân thanh toán. Hoạt động xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ, góp phần làm cần bằng cán cân thanh toán, do vậy là một trong bốn tiêu chí để đánh giá sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Cao hơn nữa hoạt động xuất khẩu làm tăng tích luỹ ngoại tệ của một quốc gia và có thể biến quốc gia trở thành quốc gia xuất siêu và tạo sự đảm bảo trong thanh toán cho đối tác, tăng được uy tín trong kinh doanh. Qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá của quốc gia được bày bán trên thị trường thế giới, khuyếch trương tiếng vang và sự hiểu biết từ nước ngoài. Ngoài ra hoạt động xuất khẩu còn làm tiền đề cho các hoạt động kinh tế đối ngoại khác như: dịch vụ, ngân hàng, đầu tư, hợp tác liên doanh… và làm cho quan hệ giữa các quốc gia trở nên chặt chẽ hơn. b. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với doanh nghiệp. * Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào cuộc cạnh tranh về giá cả, chất lượng, mẫu mã hàng hoá trên thị trường thế giới. Chính yếu tố này buộc doanh nghiệp phải năng động, sáng tạo hơn, phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị kinh doanh, tăng cường đầu tư đổi mới trang thiết bị… để tự hoàn thiện mình. * Hoạt động xuất khẩu tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng quan hệ buôn bán với nhiều đối tác nước ngoài từ đó người lao động trong doanh nghiệp có thể nâng cao năng lực chuyên môn của mình, tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm quản lý của đối tác. * Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn thu ngoại tệ cho doanh nghiệp để mở rộng và nâng cao trình độ sản xuất đồng thời tạo việc làm và thu nhập ổn định cho người lao động trong doanh nghiệp. 3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. a. Xuất khẩu trực tiếp. Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu các hàng hoá hoặc dịch vụ do doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các đơn vị sản xuất trong nước tới các khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của mình. Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là : các doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, với thị trường nước ngoài, biết được yêu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên có thể chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra hình thức xuất khẩu này làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp do giảm chi phí trung gian. b. Xuất khẩu uỷ thác. Trong hình thức này, đơn vị xuất khẩu (Bên nhận uỷ thác) nhận xuất khẩu một lô hàng nhất định với danh nghĩa của mình và nhận được một khoản thù lao theo thoả thuận với đơn vị có hàng xuất khẩu (Bên uỷ thác). Ưu điểm của hình thức này là: Đơn vị có hàng xuất khẩu không phải bỏ ra một khoản vốn lớn để đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, do đó sẽ không gặp nhiều rủi ro trong kinh doanh. Tuy nhiên họ lại không trực tiếp liên hệ với khách hàng và thị trường nước ngoài nên không chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Ngoài ra họ thường phải đáp ứng những yêu sách của bên nhận uỷ thác. c. Buôn bán đối lưu. Là phương thức giao dịch trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, bên bán hàng đồng thời là bên mua hàng và lượng hàng hoá mang trao đổi thường có giá trị tương đương nhau. Mục đích của hoạt động buôn bán đối lưu không nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà là nhằm mục đích có được một lô hàng có giá trị tương đương với lô hàng xuất khẩu. Hình thức xuất khẩu này giúp cho doanh nghiệp tránh được sự biến động của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối đồng thời có lợi khi các bên không có đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình. d. Xuất khẩu theo nghị định thư. Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu theo chỉ tiêu mà Nhà nước giao cho để tiến hành xuất khẩu một hoặc một số loại hàng hoá nhất định cho Chính phủ nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã được ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thực hiện hình thức này thường không có rủi ro trong thanh toán. e. Xuất khẩu tại chỗ. Là hình thức kinh doanh mà hàng xuất khẩu không cần vượt qua biên giới quốc gia nhưng khách hàng vẫn có thể mua được. ở hình thức này, doanh nghiệp không cần phải đích thân ra nước ngoài đàm phán trực tiếp với người mua mà chính người mua lại tìm đến với doanh nghiệp, do vậy doanh nghiệp tránh được những thủ tục rắc rối của hải quan, không phải thuê phương tiện vận chuyển, không phải mua bảo hiểm hàng hoá. Hình thức này thường được áp dụng đối với quốc gia có thế mạnh về du lịch và có nhiều tổ chức nước ngòai đóng tại quốc gia đó. f. Gia công quốc tế. Là hình thức xuất khẩu trong đó có một bên nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm (bên nhận gia công) của bên khác (bên đặt gia công) để chế tạo ra thành phẩm giao lại cho bên đặt gia công và qua đó thu được một khoản lệ phí như thoả thuận của cả 2 bên. Trong hình thức này, bên nhận gia công thường là các quốc gia đang phát triển, có lực lượng lao động dồi dào, có tài nguyên thiên nhiên phong phú. Họ sẽ có lợi vì tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, có điều kiện đổi mới và cải tiến máy móc để nâng cao năng suất sản xuất. Còn đối với nước đặt gia công thì khai thác được giá nhân công rẻ và nguyên phụ liệu khác từ nước nhận gia công. g. Tái xuất khẩu. Với hình thức này, một nước sẽ xuất khẩu những hàng hoá đã nhập từ một nước khác sang nước thứ 3. Ưu điểm của hình thức này là doanh nghiệp có thẻ thu được một khoản lợi nhuận cao mà không phải tổ chức sản xuất, đầu tư vào trang thiết bị, nhà xưởng, khả năng thu hồi vốn cao. Hình thức này được áp dụng khi có sự khó khăn trong quan hệ quốc tế giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu. II. Nội dung của hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Xuất khẩu là việc bán hàng hoá cho nước ngoài nhằm phát triển sản xuất kinh doanh , tăng lợi nhuận và cải thiện đời sống. Tuy nhiên để thực hiện thành công hoạt động xuất khẩu không phải là một việc dễ vì nó vô cùng phức tạp. Chính vì vậy hoạt động xuất khẩu phải được tổ chức theo từng nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ phải được nghiên cứu trong mối quan hệ lẫn nhau nhằm tranh thủ nắm bắt những lợi thế và đảm bảo hiệu quả nhất. Sau đây là một số nội dung chủ yếu của hoạt động xuất khẩu: 1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường. a. Nghiên cứu thị trường hàng hoá. Nghiên cứu thị trường theo nghĩa rộng là quá trình điều tra để tìm hiểu triển vọng bán hàng cho một sản phẩm cụ thể, kể cả phương pháp thực hiện mục tiêu đó. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin số liệu về thị trường , so sánh phân tích những số liệu đó và đưa ra kết luận.Những kết luận này sẽ giúp cho nhà quản lý đưa ra kết luận đúng đắn để lập kế hoạch marketing. Công tác nghiên cứu thị trường phải góp phần chủ yếu trong việc thực hiện phương châm hành động :” chỉ bán cái thị trường cần chứ không bán cái có sẵn”. Hay có thể nói xác định đúng đắn nhu cầu khách hàng. Xuất phát từ hai loại thông tin về thị trường kinh doanh hàng hoá mà chúng ta cần nắm được là thông tin sơ cấp và thông tin thứ cấp. Cần áp dụng hai phương pháp nghiên cứu thị trường cơ bản là: Nghiên cứu tại hiện trường và nghiên cứu tại bàn. Nghiên cứu tại hiện trường là cách thu thập thông tin thị trường trực tiếp từ khách hàng thông qua các cuộc phỏng vấn điều tra. Nghiên cứu tại bàn là cách thu thập thông tin thị trường thông qua phương tiện thông tin đại chúng, các xuất bản phẩm hoặc các cơ quan có liên quan. Khi nghiên cứu thị trường cần phải phân tích kĩ tình hình cung cầu trên thị trường các nhân tố khác của thị trường như các yếu tố về quan hệ chính trị giữa hai nước, về thể chế tài chính về văn hoá các nước đó. b. Dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng. Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên phạm vi thị trường nhất định trong một khoảng thời gian nhất định . Dung lượng thị trường biến động chủ yếu là do ảnh hưởng của ba nhóm nhân tố sau: * Nhóm nhân tố làm dung lượng thị trưòng thay đổi có tính chu kì: gồm có : sự vận động tình hình kinh tế của các nước xuất khẩu, tính thời vụ trong sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hoá. Do đặc điểm của sản xuất lưu thông và tiêu dùng là khác nhau nên ảnh hưởng của nhân tố thời vụ đến thị trường hàng hoá cũng rất đa dạng về phạm vi và mức độ * Nhóm các nhân tố ảnh hưởng lâu dài tới đến dung lượng thị trường như : tiến bộ khoa học công nghệ, chế độ chính sách của nhà nước, thị hiếu và tập quán người tiêu dùng . * Nhóm các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến dung lượng thị trường: sự đầu cơ trên thị trường làm đột biến tình hình cùng, cầu, sự biến động của thiên nhiên … c.Giá cả hàng hoá trên thị trường Nghiên cứu thị trường còn phải nghiên cứu giá cả của hàng hoá, xác định và dự đoán khuynh hướng biến động của giá cả thị trường thế giới. Giá cả quốc tế là gía mua bán hàng trên thị trường không kèm theo điều kiện. Xác định đúng đắn giá cả hàng hoá có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với kinh doanh xuất khẩu . Trong kinh doanh quốc tế việc xác định giá cả hàng hoá là vô cùng phức tạp do việc buôn bán diễn ra trong một thời gian dài , hàng hoá vận chuyển qua nhiều nước khác nhau với các chính sách thuế khắc nhau. Khi nghiên cứu giá cả, đối với những hàng hoá không có trung tâm buôn bán lớn thì có thể căn cứ vào gía cả của nước xuất khẩu, hoặc nước nhập khẩu biểu hiện bằng đồng tiền có khả năng chuyển đổi cao. Đối với những hàng hoá thuộc đối tượng buôn bán của sở giao dịch hoặc trung tâm bán đấu giá thì có thể tham khảo ở các trung tâm giao dịch đó. 2.Lựa chọn đối tác giao dịch Khi đã lựa chọn được thị trường, mặt hàng kinh doanh , doanh nghiệp cần lựa chọn bạn hàng để thực hiện nghiệp vụ kinh doanh của mình. Khi nghiên cứu bạn hàng không nên chỉ dựa vào sự quảng cáo hay sự tự giác giới thiệu của họ mà phải tiến hành điều tra theo nhiều phương pháp khác nhau , đặc biệt phải biết được mục đích của khách hàng đó , khả năng tài chính sản phẩm , và chất lượng cũng như quan điểm của họ về chữ “tín” trong kinh doanh với bạn hàng. Trong việc lựa chọn đối tượng giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn đối tác trực tiếp , tránh đối tượng trung gian, trừ trường hợp doanh nghiệp muốn thâm nhập vào thị trường mới mà minh chưa có kinh nghiệm . Việc lựa chọn bạn hàng có căn cứ khoa học là điều kiện cần thiết để thực hiện thắng lợi các hợp đồng kinh doanh song nó cũng phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm của người giao dịch. 3. Lập kế hoạch kinh doanh . Trên cơ sở kết quả thu gom được trong qúa trình nghiên cứu tiếp cận thị trường , đơn vị kinh doanh lập phương án kinh doanh cho mình. Phương án này là kế hoạch hoạt động của đơn vị nhằm đạt tới mục tiêu đã định trong kinh doanh.Việc xây dựng phương án bao gồm: * Đánh giá tình hình thị trường, dựa trên sự đánh giá đó doanh nghiệp sẽ phác hoạ nên bức tranh tổng quát về hoạt động kinh doanh , những thuận lợi và khó khăn. * Lựa chọn mặt hàng thời cơ, điều kiện và phương thức kinh doanh, sự lựa chọn này phải có tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan. * Đề ra mục thiêu cụ thể : Sẽ bán được bao nhiêu hàng, giá bán bao nhiêu , thâm nhập thị trường nào. * Đề ra những biện pháp, cách thực hiện để đạt được những mục tiêu đó. Đó có thể là những biện pháp trong nước và những biện pháp ngoài nước . Một kế hoạch kinh doanh có khoa học dựa trên sự phân tích chuẩn xác và đúng đắn về thị trường , bạn hàng cũng như nội lực của doanh nghiệp sẽ quyết định nhiều đến thành công trong kinh doanh cuả doanh nghiệp. 4. Kí kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu a. Kí kết hợp đồng xuất khẩu . Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu , tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và đối tác sẽ thực hiện bước tiếp theo là kí kết hợp đồng. Khi kí kết hợp đồng doanh nghiệp cần căn cứ vào : * Các định hướng kế hoạch của nhà nước , các chính sách, chế độ và các chuẩn mực kinh tế hiện hành. * Khả năng phát triển của định mức kinh doanh, chức năng hợp đồng kinh tế các bên . b. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Sau khi kí hợp đồng xuất khẩu doanh nghiệp xuất khẩu sẽ tổ chức thực hiện hợp đồng minh kí. Căn cứ vào nội dung hợp đồng , doanh nghiệp tiến hành các công việc phải làm, ghi thành bảng theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng. Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu sẽ được thể hiện ở hình sau: Hình 1: Các bước tiến hành thực hiện hợp đồng xuất khẩu . Chuẩn bị hàng hoá Xin giấy phép xuất khẩu Thuê tàu Kiểm nghiệm hàng hoá Làm thủ tục hải quan Giao hàng lên tàu Mua bảo hiểm Hoàn thành bộ CTTT Giải quyết khiếu nại III. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu. Bất kỳ một hoạt động thương mại nào cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc của môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh có thể tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp, song cũng có thể tạo ra những khó khăn, kìm hãm sự phát triển của hoạt động này. Đối với hoạt động xuất khẩu – một trong những hoạt động quan trọng của thương mại thì ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động này càng trở nên mạnh mẽ bởi trong thương mại quốc tế, các yếu tố thuộc môi trường kinh doanh rất phong phú và phức tạp. Ta có thể phân chia các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thành các nhóm sau: 1. Các nhân tố vĩ mô. a. Các công cụ của Nhà nước trong việc quản lý kinh tế. Các quốc gia khác nhau thường có những chính sách thương mại khác nhau thể hiện ý chí và mục tiêu của Nhà nước trong việc can thiệp và điều chỉnh các hoạt động thương mại quốc tế có liên quan đến nền kinh tế quốc gia mình. Để nền kinh tế quốc dân vận hành có hiệu quả thì những chính sách thương mại thích hợp là thực sự cần thiết. Trong lĩnh vực xuất khẩu, các công cụ chính sách chủ yếu thường được sử dụng để điều tiết hoạt động này gồm * Thuế quan. Trong hoạt động xuất khẩu, thuế quan là loại thuế đánh vào từng đơn vị hàng xuất khẩu. Việc đánh thuế xuất khẩu được Chính phủ ban hành nhằm quản lý hoạt độgn xuất khẩu theo chiều hướng có lợi cho quốc gia mình. Công cụ này thường chỉ được áp dụcn với một số ít mặt hàng xuất khẩu nhằm bổ sung cho Ngân sách Nhà nước, hạn chế xuất khẩu để đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng mặt hàng ấy trong nước. Ngoài thuế quan xuất khẩu, thuế quan nhập khẩu là loại thuế được sử dụng thường xuyên hơn nhiều. Loại thuế này cũng có tác động đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Thuế quan nhập khẩu là loại thuế quan mà nước nhập khẩu đánh vào một đơn vị hàng nhập khẩu. Do vậy, nó sẽ làm cho tính cạnh tranh của mặt hàng nhập khẩu giảm đi, bảo hộ hàng hoá sản xuất trong nước nhập khẩu. Do vậy hàng xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ giảm sức cạnh tranh. * Hạn ngạch. Hạn ngạch được hiểu là quy định của Nhà nước về số lượng cao nhất một mặt hàng hay một nhóm hàng của doanh nghiệp được phép xuất khẩu hay nhập khẩu. Quốc gia xuất khẩu sẽ quy định hạn ngạch xuất khẩu hằm điều chỉnh lượng hàng xuất khẩu, nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Quốc gia nhập khẩu sẽ quy định hạn ngạch nhập khẩu nhằm hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào trong nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước, bảo vệ tài nguyên và cải thiện cán cân thanh toán. Tương tự thuế quan, cả hạn ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều có thể gây tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. * Tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngoài hai công cụ thuế quan và hạn ngạch, một công cụ khác tinh vi hơn ngày càng được nhiều quốc gia sử dụng đó là việc đề ra các tiêu chuẩn chất lượng, kỹ thuật cho sản phẩm nhập khẩu. Đây là biện pháp phi thuế quan cũng nhằm mục đích hạn chế lượng hàng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. * Tỷ giá hối đoái và các chính sách đòn bẩy có liên quan nhằm khuyến khích xuất khẩu. Tỷ giá hối đoái là sức mua của một đồng tiền so với đồng tiền khác. Sức mua của đồng tiền là khả năng than toán của một đơn vị tiền tệ với một khối lượng hàng xuất khẩu nhất định gắn liền với thanh toán quốc tế. Trong thanh toán quốc tế người ta thường sử dụng những đồng tiền mạnh như USD để thanh toán. Nếu tỷ giá hối đoái tăng, tương đương với giá trị ngoại tệ tăng so với nội tệ, khi đó hoạt động xuất khẩu sẽ được khuyến khích. Ngược lại, nếu tỷ giá hối đoái giảm thì sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động xuất khẩu. Trợ cấp xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp có tác dụng thúc đẩy, mở rộng xuất khẩu đối với mặt hàng được khuyến khích xuất khẩu. Biện pháp này thường được nhiều nước sử dụng vì: khi xâm nhập vào thị trường nước ngoài, doanh nghiệp sẽ gặp phải rủi ro cao hơn so với thị trường trong nước. Việc trợ cấp xuất khẩu có thể được Nhà nước sử dụng dưới nhiều hình thức như: trợ giá, miễn giảm thuế xuất khẩu, hạ lãi suất vốn vay, hoặc cấp tín dụng cho bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua sản phẩm của nước mình… * Các chính sách đối với cán cân thanh toán và thương mại. Việc đảm bảo cán cân thanh toán và cán cân thương mại sẽ góp phần củng cố lòng tin của đối tác nước ngoài với quốc gia, nâng cao uy tín của quốc gia trên trường quốc tế. Biện pháp để quốc gia có thể giữ cho cán cân thanh toán, cán cân thương mại của mình ở thế tích cực có thể là: khuyến khích xuất khẩu, cấm hoặc hạn chế nhập khẩu, vay vốn… Tuy nhiên, sự cân bằng theo các hình thức cấm nhập khẩu là biện pháp tiêu cực, gây tác động xấu đến sự phát triển kinh tế của quốc gia. Chính vì vậy, để cải thiện cán cân thanh toán và cán cân thương mại, các quốc gia không còn con đường nào khác ngoài khuyến khích xuất khẩu, trong đó chú trọng đến những mặt hàng mang tính chủ lực. Như vậy nhìn chung việc giữ cân bằng cán cân thanh toán và cán cân thương mại đã chứa đựng trong đó yếu tố thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của quốc gia. b. Các quan hệ kinh tế quốc tế. Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động đến hoạt động thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế, chính vì vậy nó cũng chịu tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này. Khi hàng hoá của doanh nghiệp thâm nhập vào được thị trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào cản thương mại từ quốc gia nhập khẩu. Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các rào cản mà doanh nghiệp phải chịu là nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu. Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều Hiệp định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã được hình thành với mục tiêu giảm bớt các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì các quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các Hiệp định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc thâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp. Tóm lại, có được những mối quan hệ mở rộng, bền vững và tốt đẹp sẽ tạo tiền đề cho việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. c. ảnh hưởng của nền sản xuất, thương mại trong nước và quốc tế . Sản xuất trong nước là nhân tố chủ yếu quyết định đến lượng cung hàng hoá xuất khẩu. Nếu nền sản xuất trong nước phát triển, khả năng cung ứng hàng hoá xuất khẩu sẽ tăng lên , giá cả thu mua hàng xuất khẩu sẽ giảm xuống, doanh nghiêp sẽ gặp thuận lợi trong khâu đầu vào. Ngược lại khi nền sản xuất trong nước bị giảm sút dẫn tới gía cả hàng xuất khẩu sẽ tăng lên , doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc chọn được hàng có chất lượng cao , đồng loạt phục vụ cho xuất khẩu. Đối với nền sản xuất nước ngoài thì ngược lại, khi nền sản xuất nước ngoài phát triển thì nhu cầu nhập khẩu sẽ giảm đi, khả năng xuất khẩu của các doanh nghiệp vào thị trường của họ sẽ bị hạn chế. Ngược lại khi nền sản xuất của họ bị giảm sút, nhu cầu nhập klhẩu của họ sẽ tăng cao, đây là thời cơ để doanh nghiệp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình. Ngoài ra, sự phát triển của hoạt động thương mại trong nước và quốc tế cũng góp phần hạn chế hay khuyến khích xuất khẩu vì nó quyết định đến sự chu chuyển hàng hóa triong nội bộ nền kinh tế của một quốc gia. d. ảnh hưởng của hệ thống tài chính ngân hàng, thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng. Hiện nay hệ thống tài chính ngân hàng đang phát triển khá mạnh và có can thiệp rất lớn tới hoạt động của các doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực. Một hệ thống ngân hàng phát triển không đơn thuần chỉ là nơi cấp vốn cho doanh nghiệp mà nó còn giúp các doanh nghiệp trong việc thanh toán một cách thuận tiện, nhanh chóng và chính xác. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy hoạt động sản xuất của doanh nghiệp. Hệ thống thông tin liên lạc của một quốc gia cũng gọp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp qua việc cung cấp thông tin đầy đủ chính xác, và nhanh chóng cho doanh nghiệp. Hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia cũng tác động rất lớn tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Một quốc gia có hệ thống đường xá , cầu cống phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất, nâng cao khả năng tham gia của doanh nghiệp vào thị trường thương mại quốc tế. Đặc biết là hệ thống nhà ga, bến bãi, cảng biển có tác động trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Nếu hệ thống này được đầu tư xây dựng phù hợp với yêu cầu chung của thị trường quốc tế sẽ là nhân tố tác động tích cức tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. Ngược lại , nếu không đạt yêu cầu tối thiểu về kĩ thuật sẽ gây tâm lí nghi ngại từ nước ngoài và có thể doanh nghiệp sẽ mất cơ hội kinh doanh. 2. Các nhân tố vi mô. a. Nguồn nhân lực Con người là chủ thể của mọi hoạt động xã hội và ._.kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vậy con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm khi xem xét các vấn đề có liên quan đến doanh nghiệp. Một đội ngũ lao động vững vàng trong chuyên môn, có kinh nghiệm buôn bán quốc tế, có khả năng ứng phó linh hoạt trước những biến động của thị trường và đặc biệt có lòng say mê trong công việc luôn là đội ngũ lí tưởng trong hoạt động của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp yếu kém về chất lượng và hạn chế về số lượng thì doanh nghiệp sẽ luôn trong tình trạng bị động và kinh doanh kém hiệu quả. Như vậy nhân lực quyết định hoạt động của doanh nghiệp nên doanh nghiệp hoạt động muốn có hiệu quả nhất thiết phải quan tâm tuyển chọn đội ngũ lao động có hiệu quả, thực sự có năng lực, đồng thời chú trọng đến công tác quản lí nhằm tạo động lực hoạt động trong doanh nghiệp có hiệu quả hơn. b. Khả năng tài chính. Đây là một trong những nhân tố quyết định sức mạnh của doanh nghiệp trong thời đại ngày nay. Nếu có tiềm lực tài chính mạnh, doanh nghiệp sẽ có thể đầu tư đổi mới công nghệ, thu hút lao động có chất lượng cao, mở rộng qui mô hoạt động. Ngoài ra khi có tiềm lực về tài chính doanh nghiệp có thể thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình thông qua việc cấp tín dụng cho khách hàng qua hình thức mua trả chậm. Như vậy có thể nói hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng lớn bởi khả năng tài chính của doanh nghiệp. c. Vị trí địa lý . Nếu được bố trí ở gần nơi cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc gần vùng nơi nhà ga cảng bến, doanh nghiệp sẽ giảm được chi phí vận chuyển, đây là cơ sở để doanh nghiệp giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường. Đặc biệt, với ưu thế về khoảng cách địa lí nhà cung ứng yếu tố đầu vào, doanh nghiệp có thể thường xuyên xuống cơ sản xuất tạo lập mối quan hệ, nhằm xây dựng mối chân hàng vững chắc phục vụ hoạt động xuất khẩu. Như vậy để hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả ,doanh nghiệp cần chọn vị trí tối ưu phù hợp với khả năng và điều kiện của mình. d. Uy tín của doanh nghiệp. Uy tín của doanh nghiệp là tình cảm, là sự tin tưởng mà khách hàng gianh cho doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đã có uy tính cao , đối với khách hàng nhiều khi họ mua hàng dựa trên uy tín của doanh nghiệp chứ không hoàn toàn dựa trên chất lượng của doanh nghiệp. Vì vậy uy tín cũng quyết định vị thế của doanh nghiệp trên thị truờng. IV. Đặc điểm của hàng nông sản và sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu nông sản hàng hóa. 1. Đặc điểm của hàng nông sản. Quá trình sản xuất, thu hoạch, buôn bán hàng nông sản mang tính thời vụ. Vào những lúc chính vụ, hàng nông sản dồi dào, phong phú về chủng loại, chất lượng khá đồng đều và giá lại rẻ. Ngược lại vào những lúc trái vụ, hàng nông sản khan hiếm, chất lượng không đồng đều mà giá bán lại cao. Chính vì vậy, đối với mỗi doanh nghiệp tham gia xuất khẩu hàng nông sản, phải nghiên cứu thị trường từ đó đưa ra những dự báo phục vụ cho quá trình thu mua dự trữ để đáp ứng những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ là sự cần thiết. Nếu doanh nghiệp đáp ứng được những đơn đặt hàng vào lúc trái vụ thì lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được so với lúc chính vụ sẽ lớn hơn rất nhiều. Ngoài ra do đặc tinh thu hoạch theo thời vụ nên hoạt động thu hoạch hàng nông sản thường chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn. Với đặc tính này buộc doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua rộng khắp và phải chuẩn bị đủ vốn để thực hiện công tác thu mua có hiệu quả. Hàng nông sản chịu ảnh hưởng nhiều của yếu tố khí hậu,thời tiết. Nếu năm nào, khu vực nào có mua thuận gió hoà thì cây cối phát triển, cho năng xuất cao , hàng nông sản sẽ tràn ngập trên thị trường mà giá lại rẻ. Ngược lại, nếu năm nào có khí hậu thời tiết khắc nghiệt, hạn hán , lũ lụt,thường xuyên thì hàng nông sản sẽ khan hiếm và có chất lượng không cao , giá lại đắt. Căn cứ vào đặc tính nàycác doanh nghiệp có thể tìm ra cơ hội kinh doanh cho mình. Chẳng hạn: Khu vực thị trường nào có các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của mình , mà ở đó bị mất mùa thì doanh nghiệp phải chớp thời cơ, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của mình. Chất lượng hàng nông sản sẽ tác động trực tiếp đến sức khoẻ và tính mạng ngưòi tiêu dùng. Chính vì vậy nó luôn là yếu tố đầu tiên được ngưòi tiêu dùng quan tâm. Tại các quốc gia phát triển nhập khẩu hàng nông sản, ngày càng có nhiều yếu tố đặt ra đối với hàng nhập khẩu về tiêu chuẩn , chất lượng , vệ sinh, an toàn thực phẩm…. Vì vậy để thâm nhập vào các thị trường khó tính này buộc các doanh nghiệp phải đáp ứng được yêu cầu mà họ đặt ra. Đối với hàng nông sản, khâu bảo quản và chế biến là rất quan trọng vì: Giá cả xuất khẩu hàng nông sản phụ thuộc nhiều vào chất lượng. Chất lượng hàng nông sản không những phụ thuộc nhiều vào khâu sản xuất mà còn phụ thuộc rất nhiêù vào khâu bảo quản và chế biến. Chính vì vậy, để nâng cao giá hàng nông sản xuất khẩu thì khâu bảo quản và chế biến phải được các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Ngoài ra, với tính chất ẩm, mốc, dễ biến chất của ghàng nông sản buộc các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu phải quan tâm tới điều khoản thời hạn giao hàng bởi điều khoản này qui định trách nhiệm của doanh nghiệp đối với chất lương hàng nông sản khi có vấn đề phát sinh. Chủng loại hàng nông sản rất phong phú và đa dạng nên chất lượng của cùng một mặt hàng cũng rất phong phú và đa dạng. Thói quen tiêu dùng và sự đánh giá về cùng một mặt hàng trên thị trường thế giới là rất khác nhau. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng gạo, trên thị trường thế giới hiện nay có nhiều loại gạo, mỗi loại lại có thể phân chia thành nhiều nhóm , mỗi nhóm lại thích ứng với từng thị trường riêng. Cụ thể: Thị trường Châu Âu quen tiêu dùng gạo ngon, hạt dài song thị trường Châu á lại quen tiêu dùng gạo chất lượng trung bình, chất lượng không cao song loại gạo này lại không được chấp nhận ở Châu Âu. Như vậy có thể thấy với mỗi loại nông sản nó có thể được ưa thích ở thị trường này song lại không được chấp nhận ở thị trường khác, giá có thể cao ở thị trường này song lại thấp ờ thị trường khác. Vì vậy, trong kinh doanh hàng nông sản đối với một doanh nghiệp vấn đề xác định thị trường mục tiêu , thị trường tiềm năng đóng vai trò quan trọng hàng đầu đối với doanh nghiệp. 2. Sự cần thiết phải tăng cường xuất khẩu nông sản hàng hoá Việc tăng cường xuất khẩu nông sản hàng hoá là rất quan trọng bởi nó: a. Tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp. Việt Nam với các điều kiện tự nhiên và con người thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đã tạo nên lợi thế so sánh về nông sản, để tạo đà cho nền kinh tế phát triển thì trước hết phải khai thác được lợi thế so sánh này. Từ một nền nông nghiệp lạc hậu tự cung tự cấp phát triển lên thành nền nông nghiệp hàng hóa hướng về thị trường trong nước và thế giới, vấn đề lớn nhất của nông nghiệp nước ta cũng như bất cứ quốc gia nào khác trên thế giới là thị trường. Nước ta với gần 80 triệu dân có thể được xem là một thị trường lớn nhưng để phát triển một nền nông nghiệp hiên đại với sản xuất qui mô lớn thì không chỉ dựa vào thị trường nội địa được. Lấy ngành cà phê làm ví dụ, năm 2000 nước ta có 460 nghin ha cà phê với sản lượng đến 690 nghìn tấn nhân nhưng nhu cầu cho cả sản xuất và tiêu dùng trong nước cũng chỉ có 25 đến 30 nghìn tấn, trong khi đó nhu cầu thế giới là gần 7 triệu tấn. Như vậy thị trường thế giới là điều kiện tiên quýết để phát triển nông nghiệp với qui mô lớn nhằm đạt hiệu quả cao, đồng thời khai thác được lợi thế so sánh đối với sản xuất nông sản. b. Tạo nguồn vốn ngoại tệ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu đầu tư cho cơ sở hạ tầng, nhập khẩu máy móc thiết bị, công nghệ hiện đại... của nước ta là rất lớn, trong khi đó nguồn cung ngoại tệ từ du lịch còn hạn chế , đầu tư nước ngoài đang giảm xút, các khoản vay ngaỳ càng khó khăn và xuất khẩu cho các sản phẩm công nghiệp cũng đem lại ngoại tệ chẳng bao nhiêu vì sử dụng quá nhiều nguyên liệu nhập khẩu. Trong bối cảnh đó, xuất khẩu nông sản đã và đang là một nguồn đóng góp ngoại tệ quí giá cho nền kinh tế, hiện nay kim nghạch xuất khẩu nông lâm thuỷ sản hàng năm đạt đến mức 4 tỷ USD , chiếm tỷ trọng gần 30% tổng kim nghạch xuất khẩu, trong đó riêng nông sản đạt ở mức trên 2 tỷ USD/ năm Bảng 2 : Xuất khẩu nông sản việt nam 1995 - 2000 Năm Tổng kim ngạch xuất khẩu Kim ngạch xuất khẩu nông sản Tỷ lệ Triệu USD Triệu USD % 1995 5.448,9 1.745,8 32,04 1996 7.255,9 2.159,6 29,76 1997 9.185,0 2.231,4 24,29 1998 9.360,3 2.274,3 24,30 1999 11.540,0 2.336,6 20,24 2000 14.300,0 2.056,0 14,30 Nguồn: Tổng hợp từ Niên giám thống kê 2001 c. Tạo việc làm giải quyết nạn thất nghiệp. Việt Nam là một nước nông nghiệp với gần 80% dân số sống ở nông thôn và khoảng 76% lao động thuộc khu vực nông nghiệp. Hiện nay tỉ lệ thất nghiệp ở nước ta đang ở mức báo động với con số chính thức là 7,4%, số lao động nông thôn là 29 triệu người và hàng năm bổ sung thêm 0,6 triệu người, trong đó có 9 triệu người thất nghiệp. Thực tế thất nghiệp sẽ còn cao hơn do tình trạng thất nghiệp trá hình. Mặc dù tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị cao hơn ở nông thôn nhưng thực ra đây chính là do lực lượng lao động ở nông thôn đổ xô ra các thành phố để tìm việc làm. Ngoài ra thời gian sử dụng lao động ở nông thôn từ 15 tuổi trở lên chỉ đạt 74,37 %. Tình trạng này gây ra những hậu quả xấu về kinh tế – xã hội. Phát triển nông nghiệp là một trong những giải pháp mang tính chiến lược để giải quyết nạn thất nghiệp hiện nay, trong đó xuất khẩu nông sản phải đóng vai trò là động lực thúc đẩy, tạo đầu ra cho một nền nông nghiệp hàng hoá qui mô lớn, tạo ra hiệu qủa kinh tế cao để thu hút đầu tư, lao động, từ đó giải quyết nạn thất nghiệp nói chung và thất nghiệp trong nông nghiệp nói riêng. d. Nâng cao đời sống nhân dân, tạo động lực phát triển cho các nghành khác. Hiện nay thu nhập của nông dân đang ở mức rất thấp và khoảng cách giữa thành thị và nông thôn đang ngày càng gia tăng, năm 1996, mức chênh lệch giữa thu nhập bình quân đầu người của thành thị và nông thôn là 2,71 lần, từ năm 1999, tốc độ tăng thu nhập của thành thị và nông thôn là 16,4% năm, trong khi đó mức tăng trưởng ở nông thôn chỉ là 6,1% /năm, do vậy mức chênh lệch đã tăng lên thành 3,71 lần. Ngoài ra, tỉ lệ hộ nghèo ở nông thôn cũng ở mức rất cao so với thành thị. ( Xem bảng) Bảng 3: tỉ lệ hộ nghèo 1996- 1999 (đơn vị tính : %) Năm Cả nước Thành thị Nông thôn 1996 15,70 6,85 17,73 1999 13,33 4,51 15,96 Nguồn: Niên giám thông kê 2000 Bảng 4: Thu nhập bình quân đầu người 1996 -1999 ( giá hiện hành) Đơn vị tính: trăm nghìn đồng / người / tháng Năm Cả nước Thành thị Nông thôn 1996 226,7 509,4 187,9 1999 295,0 832,5 225,0 Nguồn : Niên giám thống kê 2000 Từ các phân tích ở trên , ta thấy việc phát triển nông nghiệp , nâng cao đời sống nhân dân, thu hẹp chênh lệch thành thị- nông thôn là một ưu tiên cần được đặt lên hàng đầu do các ý nghĩa kinh tế- chính trị- xã hội của nó. Trong đó thúc đẩy xuất khẩu nông sản là một trong những giải pháp hiệu quả nhất. Theo thống kê, chênh lệch giá gạo xuất khẩu và tiêu thụ nội địa đã đóng góp 23% kim nghạch xuất khẩu, nhờ vậy giá lúa trong nước tăng đáng kể, và hiện đang giao động ở mức 1800-1900 VND/Kg thay vì chưa đến 1 nghìn đồng trên một cân của các năm trước đó. Giá trị gia tăng của nông sản sẽ ở mức cao hơn nếu được xuất khẩu và do đó sẽ nâng cao đời sống của nhân dân, từ đó mức cầu của nông nghiệp sẽ gia tăng và tạo động lực phát triển cho toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra xuất khẩu nông sản còn kéo theo sự phát triển của các nghành sản xuất và dịch vụ có liên quan. Theo tính toán của các chuyên gia của Tổng cục thống kê, tỷ lệ giữa mức tăng giá trị các nghành sản xuất nông nghiệp so với mức tăng kim nghạch xuất khẩu nông sản là 1,62, đó là chưa kể mức tăng của các nghành công nghiệp chế biến và dịch vụ khác, điều đó có nghĩa là tăng xuất khẩu nông sản sẽ tao ra một động lực thúc đẩy sự phát triển của nghành nông nghiệp cũng như các nghành khác, đồng thời nâng cao đời sống của nông dân. Kết luận chương I Tóm lại, hoạt động xuất khẩu là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Nó giúp giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống người lao động, tạo nguồn vốn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cải thiện cán cân thanh toán , phát huy lợi thế của một quốc gia...Chính vì vây, đây có thể là một hoạt động mang tính chất sống còn đối với nhiều quốc gia. Trong những năm vừa qua , kể từ khi nước ta chuyển sang cơ chế thị trường, hoạt động xuất khẩu của nước ta đã có những bước tiến lớn. Trong đó không thể không kể đến hoạt động xuất khẩu hàng nông sản. Hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trong những năm qua có tốc độ tăng trưởng khá nhanh, nhiều mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao , và đã vươn lên đứng vị trí cao trong số các nứoc tham gia xuất khẩu trên thế giới. Cùng với sự tăng lên về số lượng , chất lượng hàng nông sản trong những năm qua cũng có sự cải thiện rõ rệt. Do vậy, ngoài những thị trường truyền thống như thị trường Nga và các nước Đông Âu trước đây, nay hàng nông sản Việt Nam đã có mặt ở hầu hết các châu lục, bắt đầu thâm nhập vào những thị trường khó tính như Anh, Pháp, Nhật Bản... và đã xây dựng được mối quan hệ liên doanh, liên kết lâu dài với một số cơ sở chế biến nông sản nổi tiếng trên thế giới. Tuy đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên song hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam cũng còn không ít tồn tại. Đó là: Hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu còn tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, bao bì , mẫu mã lạc hậu, thiếu hấp dẫn, khả năng thâm nhập vào những thị trường chính ngạch chưa cao, thị trường xuất khẩu không ổn định, hoạt động thu thập thông tin, xúc tiến thương mại còn bộc lộ nhiều yếu kém,.,.chính vì vậy , trong thời gian tới, Việt Nam cần có những chính sách phù hợp nhằm phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những tồn tại, để khai thác tối đa thế mạnh trong sản xuất và xuất khẩu hàng nông sản của mình. Chương II: Thực trạng xuất khẩu nông sản của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội I/ Khái quát về Công ty XNK và đầu tư Hà Nội 1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty. Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà nội là một tổ chức kinh tế, làm chức năng quản lý sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu, chịu sự chỉ đạo về kinh tế – kỹ thuật ngoại thương của Bộ Ngoại thương nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cùng với sự phát triển và xu hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới của đất nước, công ty XNK và Đầu tư Hà Nội đã trải qua các giai đoạn hình thành và phát triển với các mốc thời gian như sau: Tháng 2/1962, Công ty thu mua hàng xuất khẩu được thành lập do nhu cầu kinh doanh, sản xuất hàng xuất khẩu của thành phố ngày càng phát triển. Năm 1976 được đổi tên thành công ty Ngoại thương Hà Nội, sau đó là Sở ngoại thương Hà Nội. Tháng 4/1980 hoạt động ngoại thương của Thành phố phát triển, UBND Thành phố Hà Nội đã thành lập Liên hiệp công ty XNK Hà Nội. Với tổng số hơn 2000 lao động gồm 6 công ty kinh doanh XNK và 2 xí nghiệp thảm len, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội là một đơn vị kinh tế làm chức năng kinh doanh XNK tổng hợp, tổ chức sản xuất và kinh doanh trong nước. Năm 1981, Liên hiệp công ty XNK Hà Nội được Nhà nước cho trực tiếp kinh doanh XNK với thị trường nước ngoài. Năm 1987, UBND Thành phố đã chỉ đạo việc sắp xếp lại các cơ sở kinh doanh sản xuất trực thuộc liên hiệp công ty theo hướng tạo điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và cơ chế quản lý để các công ty cấp dưới có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, bộ phận văn phòng công ty vừa làm chức năng quản lý trong phạm vi được phân công, vừa trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư sản xuất và kinh doanh trong nước. Trong thời kỳ này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu theo hướng đổi mới, nhưng hoàn toàn chưa có tính thực tế để xây dựng thành các quy định chính thức, nền nếp suy nghĩ trong công tác quản lý của cơ chế bao cấp chưa dễ thay đổi . Đây cũng là những khó khăn của công ty. Nhưng với những cố gắng của toàn bộ đội ngũ cán bộ, công ty đã đạt được những kết quả nhất định. Điều này đã chứng minh được hướng đi đúng đắn của công ty cũng như khả năng phát triển trong tương lai. Cuối năm 1991, để phù hợp với yêu cầu phát triển trong tình hình mới, hoạt động của liên hiệp công ty được tăng thêm chức năng đầu tư, liên doanh với nước ngoài, nên được đổi tên thành Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội. Trong giai đoạn này tình hình kinh tế trong nước và quốc tế có nhiều biến động lớn ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành kinh tế, trong đó có lĩnh vực phân phối và lưu thông hành hoá bị tác động mạnh mẽ. Đây là giai đoạn cơ chế thị trường dần dần rõ nét. Vấn đề cạnh tranh xảy ra dữ dội, các khách hàng cũ của công ty trong nước không còn như trước nữa. Hầu hết các đơn vị Tỉnh đã trực tiếp xuất khẩu. Chính vì vậy, thị trường xuất khẩu và nhập khẩu đã bị thu hẹp, mất thị trường các nước XHCN, khu vực thị trường TBCN bắt đầu bị các đơn vị khác cạnh tranh. Các mặt hàng xuất khẩu uỷ thác lớn của công ty không còn nhiều, tình trạng thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau trong tổ chức kinh doanh khá phổ biến… Tóm lại, giai đoạn này công ty hoạt động trong tình hình chung đang diễn biến phức tạp, nên việc giữ vững và phát triển để thoát khỏi bế tắc là một nỗ lực rất lớn của công ty. Sau khi nghiên cứu kỹ Quyết định số 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng chính phủ, Chỉ thị số 18/CP-UB ngày 16/04/1994 của UBND Thành phố Hà Nội, Thông tư số 04-UB/KHH ngày 5/5/1994 của Uỷ ban kế hoạch Nhà nước và Chỉ thị số 272/TTg ngày 3/5/1995 của Thủ tướng chính phủ, Hội đồng giám đốc liên hiêp, ban chấp hành Đảng bộ liên hiệp, Ban chấp hành công đoàn Liên hiệp công ty xin chuyển đổi: Liên hiệp công ty XNK và đầu tư Hà Nội thành: Tổng công ty XNK và đầu tư Hà nội. Việc thành lập Tổng công ty XNK và đầu tư Hà nội trên cơ sở của liên hiệp công ty là cần thiết, tạo khả năng phát triển sản xuất kinh doanh của từng cơ sở và toàn Tổng công ty. Công ty XNK và đầu tư Hà nội (nằm trong Tổng công ty XNK và đầu tư Hà Nội, được thành lập ngày 24/3/1993 theo Quyết định thành lập Doanh nghiệp Nhà nước số 1203/QĐUB của Uỷ ban Nhân dân Thành phố) là đơn vị kinh tế, hạch toán kinh doanh độc lập, có tư cách pháp nhân, có tài khoản tại ngân hàng (kể cả tài khoản ngoại tệ tại ngân hàng Ngoại thương) và sử dụng con dấu riêng theo quy định của Nhà nước. Công ty XNK và đầu tư Hà Nội có tên giao dịch đối ngoại: Hà Nội IMPORT-EXPORT-CORPORATION. Tên điện tín: UNIMEX Hà Nội, trụ sở giao dịch: 41 Ngô Quyền. Telex: 411506 UHVT Telex Fax: 84-4-5926 Telephone: 8255008 Tổng hợp vốn của UNIMEX Hà Nội có kết quả sau: Vốn cố định: 5.538.394.661 đồng Vốn lưu động:34.858.477.601 đồng. Vốn khác: 27.424.439.632 đồng. Từ năm 1995 đến nay, công ty bắt đầu mở rộng đối tượng kinh doanh ra các đơn vị nhỏ, lẻ như: Quận, Huyện, kể cả các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, chuyển dần từ XNK uỷ thác sang tự doanh; triển khai kinh doanh gia công XNK; khai thác việc nhập hàng phi mậu dịch phục vụ cho đối tượng người Việt Nam công tác, lao động, học tập ở nước ngoài được hưởng chế độ miễn thuế; xây dựng kho chứa hàng XNK… Nhờ hàng loạt biện pháp kịp thời, đúng lúc, có hiệu quả nên công ty vẫn đứng vững và tiếp tục phát triển. 2. Cơ cấu tổ chức quản lý của công ty Ban giám đốc: chịu trách nhiệm trước Nhà nước và pháp luật về mọi hoạt động của công ty. Ban giám đốc gồm có giám đốc và các phó giám đốc. Mỗi phó giám đốc phụ trách một số lĩnh vực công tác và chịu trách nhiệm trước giám đốc công ty về lĩnh vực công tác được giao. Phòng kế toán và tài vụ: có nhiệm vụ hạch toán kế toán, đánh giá toàn bộ kết quả hoạt động kinh doanh trong từng kế hoạch (tháng, quý, năm). Đảm bảo vốn phục vụ cho các hoạt động của phòng, ban trong công ty, điều tiết vốn nhằm mục tiêu kinh doanh có hiệu quả nhất, vốn quay vòng nhanh. Quyết toán với cơ quan cấp trên và các cơ quan hữu quan, tổ chức tài chính, ngân hàng hàng năm. Phòng tổ chức: quản lý toàn bộ nhân lực của công ty, tham mưu cho giám đốc về sắp xếp, bố trí nhân lực một cách phù hợp. Quy hoạch đào tạo, điều hành, bổ sung yêu cầu kinh doanh. Ngoài ra phòng tổ chức còn làm một số công việc khác như: bảo vệ chính trị nội bộ, thanh tra lao động tiền lương và bảo hiểm xã hội. Hình số 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty Ban Giám Đốc Các đơn vị quản lí Các đơn vị trực thuộc Phòng tổng hợp Phòng tổ chức Liên doanh Chi Nhánh Hải Phòng Phòng Kinh Doanh 1 Phòng Kinh Doanh 2 Phòng Kinh Doanh 3 Phòng Kinh Doanh 4 Phòng Kinh Doanh 5 Các đơn vị kinh doanh Phòng kế toán Tổng Kho Chi Nhánh TP HCM Phòng Thị Trường Phòng kế hoạch tổng hợp: đưa ra kế hoạch dài hạn, ngắn hạn, nắm toàn bộ tình hình công ty về kinh doanh XNK, báo cáo cho giám đốc nhằm giúp cho giám đốc có quyết định đúng đắn phù hợp với yêu cầu phát triển của công ty. Các phòng nghiệp vụ: Phòng kinh doanh1 Phòng kinh doanh2 Phòng kinh doanh3 Phòng kinh doanh4 Phòng kinh doanh5 Phòng thị trường Phòng hành chính và quản trị Liên doanh. Liên doanh với công ty du lịch Hà Nội kinh doanh khách sạn Sofitel Metropol. Liên doanh với Malaysia triển khai trung tâm thương mại dịch vụ Cầu Giấy Chi nhánh. Chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh. Chi nhánh tại Hải Phòng. Tổng kho Cầu Diễn. 3. Tình hình lao động Công ty hiện nay đang dần dần kiện toàn đội ngũ lao động của công ty sao cho phù hợp với tình hình mới, có đủ điều kiện thực hiện nhiệm vụ kinh doanh cả trong và ngoài nước, công ty luôn quan tâm bồi dưỡng trình độ nghiệp vụ và ngoại ngữ cho cán bộ , công nhân viên trong công ty . Hiện nay tổng số cán bộ công nhân viên của công ty là 208 người, trong đó 75% có trình độ đại học. Nhìn chung, ở Công ty XNK và đầu tư Hà Nội hầu hết cán bộ công nhân viên đều có sức khỏe tốt, trình độ khá được tuyển chọn và có kinh nghiệm trong kinh doanh, vì vậy công ty là một đơn vị có uy tín cao trong kinh doanh xuất nhập khẩu. 4. Chức năng và quyền hạn của công ty a. Chức năng Xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm sản, khoáng sản, hàng thủ công mỹ nghệ, hàng tạp phẩm, hàng công nghiệp, hàng gia công chế biến và các sản phẩm dệt may. Nhập khẩu vật tư máy móc, thiết bị, nguyên liệu phục vụ sản xuất, vật liệu xây dựng, phương tiện vận tải, hoá chất, hàng tiêu dùng. Hoạt động theo pháp luật hiện hành của nước CHXHCN Việt Nam và những qui định riêng của toàn công ty. b. Quyền hạn Được sản xuất và gia công chế biến hàng xuất khẩu và hàng tiêu dùng trong nước, hàng may mặc, đồ chơi điện tử, lắp ráp xe máy, điện tử điện lạnh, hàng nông lâm, hải sản chế biến và dược liệu. Được làm dịch vụ thương mại nhập khẩu, tái xuất, chuyển khẩu quá cảnh và môi giới thương mại. Được cho thuê văn phòng, kinh doanh khách sạn, cho thuê kho tàng, nhà xưởng. Được mở đại lý và mở cửa hàng buôn bán lẻ hàng XNK và hàng sản xuất trong nước theo quy định hiện hành của Nhà nước, được liên doanh liên kết, hợp tác đầu tư với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước ở các lĩnh vực sản xuất kinh doanh 5. Một số kết quả kinh doanh của công ty trong những năm gần đây a. Một số chỉ tiêu chung đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Nhìn vào bản báo cáo kết quả kinh doanh trong 3 năm (xem bảng 5), ta thấy doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2002 đã tăng vọt so với năm 2001 và năm 2000, mức tăng này là gần gấp đôi. Đối với hoạt động đầu tư tài chính thì mức tăng trưởng về thu nhập cũng vào khoảng 1,5 lần. Thu nhập từ hoạt động bất thường còn có mức tăng trưởng kỳ diệu hơn nhiều: gần 5 lần so với năm 2001. Nếu nói về doanh thu thì đây quả là những con số tăng trưởng rất ấn tượng, đặc biệt là trong hoàn cảnh công ty vừa trải qua năm 2001, một năm đầy sóng gió và công ty đã phải hứng chịu nhiều tác động có chiều hướng tiêu cực của thị trường quốc tế. Mức tăng trưởng ấy đã phản ánh những nỗ lực đáng khâm phục của cán bộ công nhân viên toàn công ty trong việc nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, nhu cầu của khách hàng và những biến động của mọi nhân tố ảnh hưởng đến công việc kinh doanh của công ty. Từ đó tìm ra được những giải pháp đúng đắn để giúp công ty dần khôi phục và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Bảng 5 : Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm 2000, 2001, 2002. Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2000 2001 2001/2000 2002 2002/2001 Tổng doanh thu 115.146 88.892 154.440 Doanh thu thuần 115.146 88.892 77,19% 154.440 173,73% Giá vốn hàng bán 110.425 84.981 76,96% 150.165 176,70% Lợi nhuận gộp 4.721 3.911 82,63% 4.275 109,31% CP bán hàng 2.269 1.738 76,59% 2.211 127,71% Chi phí QLDN 2.161 1.952 90,86% 1.774 90,88% Lợi nhuận thuần 291 211 72,50% 290 137,44% Thu nhập hoạt động tài chính 934 1.376 147,32% 1.904 138,37% Chi phí hoạt động tài chính 747 1.201 160,78% 1.776 147,5% Lợi nhuận thuần từ HĐTC 186 175 94,08% 128 73,14% Thu nhập HĐ bất thường - 624 - 2.918 467,63% Chi phí HĐBT - 510 - 2.839 556,67% Lợi nhuận HĐ BT - 114 - 79 69,30% Tổng lợi nhuận trước thuế 478 500 104,6% 497 99,40% Thuế TNDN 153 160 104,57% 159 99,37% Lợi nhuận sau thuế 325 340 104,61% 338 99,41% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội trong 3 năm . b. Tình hình chi phí của công ty Bảng 6: Bảng các yếu tố chi phí của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2000 2001 01/00 2002 02/01 Tiền lương + Phụ cấp 1.198 1.295 108,1 1.937 149,6 BHXH, BHYT, KPCĐ 300 324 108 484 149,4 Khấu hao TSCĐ 354 369 104,23 630 170,7 Tiền thuê đất đai 384 292 76,04 440 150,68 Chi phí điện nước, điện thoại 200 191 95,5 540 282,72 Chi phí dịch vụ mua ngoài 151 132 87,41 184 139,39 Thủ tục phí ngân hàng, lãi vay ngân hàng 885 943 106,55 1.893 200,74 Phí uỷ thác XNK 832 1.040 125 1.694 162,88 Chi phí khác 70 118 168,57 731 619,5 Tổng 5.177 5.411 104,52 8.600 158,94 Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Nhìn vào bảng số liệu, ta thấy ngay rằng trong năm 2002, mọi khoản chi phí của công ty đều tăng lên, có khoản tăng lên rất cao. Điều ấy chứng tỏ rằng công ty đang tích cực mở rộng quy mô hoạt động của mình. Những khoản chi phí như tiền lãi vay ngân hàng tăng lên gấp đôi là chuyện rất bình thường khi doanh thu của công ty tăng lên cũng với tốc độ tương tự như vậy. Điều này chứng tỏ công ty đã tìm kiếm được những thị trường mới, có thêm những hợp đồng có giá trị cao, nên mới cần nhiều vốn như vậy. Một trong những khoản chi phí tăng lên gấp rưỡi là chi phí nhân công. Chi phí về nhân công tăng trong khi số lượng nhân viên trong năm 2002 không tăng lên, điều ấy chứng tỏ rằng mức sống của nhân viên trong công ty đã tăng lên tương đối cao, công ty đã cố gắng chăm lo cho người lao động trong công ty mình. Có thể nói đây là một tín hiệu đáng mừng cho bản thân những người lao động trong công ty nói riêng và cho xã hội nói chung. c.Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước Bảng 7: Tình hình nộp ngân sách của công ty Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu 2000 2001 2002 Nộp ngân sách 14.036 21.680 15.686 Thuế giá trị gia tăng 512 817 703 Thuế tiêu thụ đặc biệt 153 792 900 Thuế xuất khẩu 12.544 19.707 13.577 Thuế thu nhập của doanh nghiệp 153 160 159 Thu trên vốn 104 139 248 Các khoản nộp khác 64 65 99 Nguồn: Báo cáo quyết toán năm 2000, 2001, 2002 Sau vài năm khó khăn, hoạt động kinh doanh của công ty trong những năm gần đây đã gặt hái được những kết quả khả quan, công ty luông thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước. Điều đó được thể hiện qua những con số tổng nộp ngân sách năm 2000 là 14.036 triệu đồng, năm 2001 là 21.680 triệu đồng và năm 2002 là 15.686 triệu đồng. Sang năm 2002 do có sự biến động về thuế nhập khẩu giảm từ 19.707 xuống còn 13.579 triệu đồng làm cho tổng ngân sách giảm xuống 15.686 triệu đồng. Như vậy có thể nói kết quả kinh doanh của công ty trong 3 năm qua chưa phải là hoàn hảo nhưng cho thấy hướng phát triển đứng đắn của công ty , mặc dù còn nhiều vướng mắc trong hoạt động kinh doanh nhưng kết quả đạt được là sự khích lệ to lớn đối với tập thể công ty , tạo động lực cho công ty ngày càng vươn lên hơn nữa. II. Phân tích thực trạng xuất khẩu hàng nông sản của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Từ khi thành lập đến nay, mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn như: bị hạn chế trong chức năng kinh doanh , cơ sở kĩ thuật vừa yếu lại vừa thiếu, cán bộ công nhân viên trong công ty mới chỉ được tiếp xúc với cơ chế thị trường trong một thời gian ngắn nên có rất ít kinh nghiệm về thị trường, …Nhưng vượt lên trên những khó khăn, cùng với ban lãnh đạo đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty đã nỗ lực không ngừng để tìm ra các hình thức kinh doanh có hiệu quả nhất. Để hiểu rõ hơn về kết quả kinh doanh hàng nông sản của công ty trong thời gian qua ta sẽ đi sâu nghiên cứu một số chỉ tiêu sau: 1. Kim nghạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty Từ khi chuyển đổi sang cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng nông sản công ty cũng đã có những bước tiến đáng kể. Kim nghạch xuất khẩu nông sản không ngừng giă tăng và đến nay nông sản đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của công ty. Bảng 8: kim nghạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty trong nhưng năm gần đây. Đơn vị :USD Stt Năm 2000 2001 2002 1 Giá trị 2.990.925 3.743.774 2.397.178 2 Tốc độ tt 25,17% - 35,96% Nguồn: báo cáo kết quả kinh doanh của công ty năm 2002 Qua bảng số liệu trên ta thấy, nếu năm 2000 giá trị xuất khẩu hàng nông sản của công ty đạt 2.990.925 USD thì năm 2001 giá trị xuất khẩu này đạt 3.773.774 tăng 25, 17%. Nhưng sang năm 2002 kim nghạch này lại giảm sút đáng kể, chỉ còn 2.397.178 USD. Đây là sự giảm sút tương đối lớn của công ty. Nguyên nhân chính làm kim nghạch xuất khẩu năm 2002 giảm so với năm 2000 và 2001 là do năm 2002 công ty đã bị giảm mạnh trong việc xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực như : lạc, càphê, cao su , hạt tiêu. Đây là những mặt hàng đem lại doanh thu rất cao cho công ty nhưng năm 2002 do cung trên thế giới tăng mạnh, trong nước lại xuất hiện nhiều công ty cung tham gia vào lĩnh vực xuất khẩu nông sản, do vậy mà._.doanh có đức , có tài, đủ sức gánh vác nhiệm vụ phát triển kinh doanh trong giai đoạn tới. 4. Phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu cơ bản như sau : Kim nghạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hàng năm từ 16- 18 % Doanh thu tăng bình quân từ hàng năm 10% Bảo toàn vốn và kinh doanh có lãI Nộp ngân sách thành phố tăng bình quân hàng năm 5% Bảo đảm thu nhập cho người lao động năm sau cao hơn năm trước, tuỳ theo năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người tăng 10%. II. Một số giảI pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản tại Công ty XNK và Đầu tư Hà Nội. 1. Tổ chức nghiên cứu thị trường, xác định mạng lưới thông tin và xúc tiến thương mại. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho sự thành công của doanh nghiệp. Nghiên cứu thị trường là một việc làm hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của một công ty . Công ty XNK và đầu tư Hà Nội là một doanh nghiệp xuất nhập khẩu tổng hợp nên phạm vi nghiên cứu của công ty về thị trường là rất rộng . Vốn kinh doanh của công ty cũng không phải là lớn cho nên công tác thị trường gặp nhiều khó khăn vì đòi hỏi một lượng kinh phí tuơng đối lớn . Thêm vào đó do công ty thực hiện chiến lược đa dạng hoá kinh doanh , chưa xác định rõ cần ưu tiên mặt hàng chủ lực nào do vậy mức độ nghiên cứu còn nhiều hạn chế. Hiện nay phương pháp nghiên cứu của công ty mới chỉ là nghiên cứu tại văn phòng thông qua báo chí và tài liệu trong nước , ngoài ra công ty còn mua thông tin từ các tổ chức tư vấn trong nước và nước ngoài. Đây là phương pháp nghiên cứu có phần thụ động và không mấy hiệu quả trong khi thị trường thế giới biến động từng ngày. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần đầu tư thêm cho công tác nghiên cứu thị trường, công ty nên có những cán bộ trẻ có khả năng nắm bắt thị trường một cách nhanh nhạy, có khả năng làm việc độc lập, linh hoạt và có thể làm việc ở cường độ cao. Đối tượng nghiên cứu của công ty chính là các hàng hoá , dịch vụ trên thị trường thế giới và thị trường trong nước. Công tác nghiên cứu thị trường nước ngoài cần xác định rõ những vấn đề sau: Hãng nào có nhu cầu mua hàng hoá nào của công ty , giá cả, điều kiện thanh toán và điều kiện giao hàng như thế nào? Giá cả trên thị trường quốc tế của sản phẩm có những nhân tố nào ảnh hưởng, mức độ ảnh hướng ra sao? Xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái trên thị trường, ảnh hưởng của sự phá giá các đồng tiền đối với các mặt hàng mà công ty đang kinh doanh như thế nào?công ty có cần hạ giá để thu hút khách hàng , đồng thời để tăng khả năng cạnh tranh của mình hay không ? Công ty nên chọn thị trường nào để giao dịch ? thị trường đó có những ưu điểm và bất lợi gì đối với công ty ? Mặt hàng mà công ty đang kinh doanh ở thị trưòng đó đang ở giai đoạn nào? Công ty nên chọn đối tác nào để lập quan hệ làm ăn. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, công ty cần tiến hành nắm vững thông tin về thị trường trong nước . Sự thay đổi của nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng làm ảnh hưởng tới gía cả của các mặt hàng. Nghiên cứu thị trường trong nước còn giúp công ty tìm được nguồn hàng xuất khẩu nhanh và rẻ phù hợp với khả năng kinh doanh của công ty . Ngoài ra xúc tiến thương mại cũng rất quan trọng đối với mỗi công ty tham gia xuất khẩu. Bởi công ty sẽ không có được khách hàng nước ngoàI nếu như khách hàng nước ngoai không hề biết về công ty và không thích mua sản phẩm của công ty. Vì thế công ty cần xúc tiến các hoạt động mở văn phòng giao dịch tại những khu vực thị trường trọng đIểm của công ty, đẩy mạnh tuuyêm truyền, quảng cáo. . . 2. Đa dạng hóa mặt hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu Hiện nay các nước ASEAN là những thị trường truyền thông tiêu thụ sản phẩm của công ty. Tại những thị trường này công ty thường cung cấp các mặt hàng ổn định cho những bạn hàng ổn định. Thị trường này có yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao nhưng một sự thay đổi về giá sẽ có thẻe tác động đến mức độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Vì vậy , trong thời gian tới, để duy trì và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại khu vực này thì việc xây dựng một chính sách về giá cả hợp lí phảI được công ty đặc biệt quan tâm. Đối với những mặt hàng tương tự đối với đối thủ cạnh tranh, công ty nên khuyến khích khách hàng mua hàng của công ty thông qua hinh thức giảm giá cho những người mua hàng với khối lượng lớn hoặc đối với những người là khách hàng mới của công ty. Còn đối với những mặt hàng được xem là độc đáo của mình thì công ty cớ thể áp dụng mức giá linh hoạt sao cho vừa đảm bảo có lãI , vừa bán được nhiều sản phẩm. Ngoài ra trong sự biến động mạnh mẽ của thị trường một số mặt hàng nông sản trên thế giới hiện nay , để hạn chế rui ro và tăng kim nghạch xuất khẩuthì việc đa đạng hoá mặt hàng và mở rộng thị trừong đối với công ty là vô cùng cần thiết. Những thị trường mà công ty có thể hướng tới trong tương lai là :thị trưòng EU, Nhật Bản, Mỹ. Đây là những thị trường có nhu cầu về nông sản rất là lớn, có khả năng chi trả cao nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã cũng rất cao. Vì vậy , để thâm nhập vào những thị trường này đòi hoỉ công ty phảI cảI tiến mẫu mã, bao bì , nâng cao chất lượng sản phẩm. 3. Tăng cường huy động nguồn vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Vốn luôn là một vấn đề khó khăn đối với các công ty xuất nhập khẩu tổng hợp muốn đầu tư vào lĩnh vực chế biến sản phẩm. Để giải quyết vấn đề này công ty phải chủ động tạo nguồn vốn kinh doanh từ nguồn vốn trong và ngoài nước . Việc huy động vốn trong nước , công ty có thể thực hiện qua một số nguồn sau: Huy động vốn từ ngân hàng thông qua hình thức vay. Mặc dù có nhiều khó khăn để tiếp cận nguồn vốn này nhưng công ty vẫn phải coi đây là nguồn vốn quan trọng nhất để khai thác. Hiện nay ngân hàng đã giảm lãi xuất cho vay nên rất thuận lợi cho công ty vay vốn trực tiếp từ ngân hàng để thu mua nông sản , chế biến , xuất khẩu . Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty . Hiện nay nguồn vốn nhàn rỗi trong lực lượng nay là khá lớn. Tận dụng nguồn vốn này , công ty có thể phải trả lãi suất cao hơn một chút song thu lợi về được nhiều mặt Công ty phải tự huy động vốn từ lợi nhuận tích luỹ được . Đây là nguồn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của công ty Ngoài việc huy động vốn trong nước thì vay vốn nước ngoài cũng là giải pháp quan trọng và có hiệu qủa mà công ty cần lưu ý. Nguồn vốn nước ngoài có ưu điểm là rất lớn song huy động lại khó vì các chủ nợ nước ngoài thường đòi hỏi công ty phải có những đảm bảo đáng tin cậy như tài sản thế chấp , tình hình sản xuất, xuất khẩu của công ty . Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của công ty: đặc biệt là đối tượng khách hàng có số lượng mua lớn, đã có quan hệ truyền thống đối với công ty. Để huy động được nguồn vốn này công ty phảI đảm bảo được chữ tín trong kinh doanh. Có nghĩa là công ty phảI thường xuyên chấp hành nghiêm chỉnh các đIều khoản đã thoả thuận trong hợp đồng kinh doanh. Hợp tác đầu tư, liên doanh, liên kết với nước ngoàI: đây cũng là một giảI pháp hữu hiệu mà công ty có thể áp dụng trong giai đoạn hiên nay. Với phương thức này , công ty dựa vào quan đIểm cả hai bên cùng có lợicó như vậy thì quan hệ của công ty và đối tác liên doanh mới đươc lâu. Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần phảI quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phảI thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phảI có biện pháp quản lí nguồn vốn sao cho đạt hiệu quả cao nhất. Vốn của công ty phảI tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt công ty phảI hạn chế kinh doanh những mặt hàng thô, có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế lại không cao, để dần dần chuyển sang nhưng mặt hàng tinh có gía trị kinh tế cao và sức cạnh tranh lớn. 4. Nâng cao hiệu quả trong công tác thu mua tạo nguồn hàng. Khác với sản phẩm công nghiệp, ở Việt Nam hoat động sản xuất nông nghiệp diễn ra trên một diện tích rộng , công tác thu mua lại diễn ra trong một thời gian ngắn với khối lượng lớn. Vì vậy đòi hỏi doanh nghiệp phải có mạng lưới thu mua nông sản rộng khắp. Mặc dù hiện nay nguồn hàng cung cấp nông sản là khá dồi dào nhưng để tránh những biến động về nguồn hàng do diện tích gieo trồng ngày càng bị thu hẹp, do thiên tai, do có nhiều doanh nghiệp được phép xuất khẩu nông sản , do hạn ngạch xuất khẩu giatăng,...Công ty XNK và đầu tư Hà Nội cần kết hợp chặt chẽ với ngưòi sản xuất. Trong trường hợp dự báo khả năng xuất khẩu nông sản sẽ có nhiều thuận lợi, giá nông sản quốc tế sẽ tăng thì ngoài việc thu mua nông sản trước cho người sản xuất, công ty nên cố gắng cấp vốn cho nguời lao động mở rộng diện tích gieo trồng , đầu tư sâu để nâng cao sản xuất chất lượng sản phẩm. Trong khâu thu mua công ty phải thực hiện giám định chất lượng sản phẩm nghiêm túc vì đây là yếu tố quyết định đến chất lượng nông sản xuất khâủ của công ty Kết thúc khâu thu mua công ty phải đặc biệt chú trọng đến bảo quản hàng hoá, các hoạt động đóng gói bảo quản cũng phải được tiến hành khẩn trương để sẵn sàng xuất khẩu. 5. Nâng cao trình độ chuyên môn cán bộ công nhân viên Với Công ty XNK và đầu tư Hà Nội nhiệm vụ hàng đầu là phải xây dựng một đội ngũ có trình độ chuyên môn cao , có kinh nghiệm trong kí kết hợp đồng mua bán . Kinh doanh trong môi trường quốc tế đầy biến động, thông tin thay đổi từng giờ , đòi hỏi cán bộ kinh doanh phải năng động sáng tạo, thường xuyên được bồi dưỡng về trình độ để có thể dự báo dược những biến động của thị trường, nắm bắt nhanh thông tin về tinh hình thế giới và xử lí linh hoạt trước những biến động đó. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ , nhân viên đòi hỏi công ty phải bỏ ra một chi phí không nhỏ song hiệu qủa mà nó đem lại thì vô cùng lớn , quyết định sự thành bại trong kinh doanh của công ty. III.Một số kiến nghị với nhà nước. Vai trò của Nhà nước là định hướng, là tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp phát huy khả năng thanh toán của mình. Trong những năm vừa qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách thông thoáng hơn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh, đặc biệt là trong kinh doanh xuất khẩu. Tuy nhiên trong thực tế hoạt động kinh doanh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp đã gặp phải không ít khó khăn cần tới sự điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của mỗi doanh nghiệp cũng như hiệu quả toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Xuất phát từ thực tế công ty UNIMEX, những khó khăn vướng mắc mà công ty đã gặp phải, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau: 1. Hỗ trợ các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản. Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty XNK và Đầu Tư Hà Nội nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yều cầu cao của những thị trường khó tính nhưng có khả năng chi trả lớn. Do vậy, hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì thế trong thời gian tới . nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản để taọ ra những sản phấm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp tiến hành bao gồm: Hỗ trợ vốn ban đầu cho nông dân. Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết vì để thay đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học và quản lý vào trong sản xuất đòi hỏi những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không thể tự trang trải nổi. Trong thời gian qua các chương trình trợ giúp cho nông dân đã được thực hiện song kết quả thu đươc còn hạn chế, người nông dân vay vốn lãI xuất dàn trảI, thiếu tập trung , thời gian hoàn vốn ngắn đIều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ vay được một vàI trăm ngàn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chẫp nhận đI vay với lãI xuất tín dụng thông thường thì lại gặp khó khăn trong vấn đề tàI sản thế chấp trong khi đó các ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng về tiền mặt. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới nhà nước cần đưa ra chính sách ưu đãI đối với những ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản để họ cung cấp vốn cho nông dân nhiều hơn , hiệu quả hơn. Hỗ trợ về giống , phổ biến kiến thức cho người nông dân. Hiện tại , nhiều nông dân chưa hiểu biết đầy đủ về các kiến thức về nông nghiệp như: giống cây trồng nào phù hợp với loại đất nào , được trồng ở khu vực có đIều kiện khí hậu nào và mức độ sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu ra sao... để cho ra các loại sản phẩm có chất lượng cao . Vì vậy , có hiện tượng nông dân gieo các loại giống cây trồng cho năng xuất cao nhưng chất lượng không đảm bảo, hoặc quá lạm dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón hoá học. Chính vì vậy nhà nước nên hỗ trợ nông dân các loại giồng tốt, cho năng suất cao, đồng bộ. Hiện tại ngân sách của nhà nước còn hạn hẹp do vậy nàh nước không thể cung cấp miễn phí giống cho mọi người dân. Vì vậy nhà nước có thể sử dụng hình thức bán giống tốt cho nông dân với gía ưu đãI hoặc bán chịu cho nông dân, cuối vụ thu hoạch nhà nước sẽ nhận tiền .. Đồng thời nhà nước cũng cần có chương trình phổ biến kiến thức cho cho nông dân. Tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân. Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính thời vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong thời gian ngẵn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các đIều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phảI bán sản phẩm ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đó nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân, đIều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép bán hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dân.. để hạn chế bớt sự ép giá của tư thương đối với nông dân vào những lúc chính vụ. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho công ty tham gia xuất khẩu. Tăng cường đầu tư tạo ra vùng nguyên liệu tập trung. Vùng nguyên liệu tập trung là một vùng mà ở đó trồng các loại cây phù hợp với đIều kiện khí hậu , đất đai, đIều kiện kinh tế , xã hội của từng vùng.. Ví dụ: một vùng nguyên liệu trồng mía phảI đặt ở những nơI có loại đất phù hợp với cây mía, có cơ sở hạ tầng thuận để vận chuyển mía từ nơI thu hoạch đến kho chứa và các cơ sở chế biến. Vơí nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiên nay thì đây có thể là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng và đồng bộ hoá sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề là phảI xác định đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng . Đầu tư cho phát triển c ông nghiệp chế biến hàng nông sản. Đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôI khi là quá sức đối với các công ty tham gia xuất khẩu mặt hàng này bởi công việc này đòi hoỉ công ty phảI bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy nhà nước nên đầu tư, xây dựng các cơ sơ chế biến hàng nông sản. Chẳng hạn như các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để đem lại giá trị cao. Bên cạnh đó nhà nước nên khuyến khích các công ty xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến thông qua các chính sách như: giảm thuế xuất khẩu, ưu tiên hạn nghạch xuất khẩu.. để thúc đẩy hoạt động chế biến trong nước phát triển. 2. Thực hiện trợ giúp cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản Trợ giúp vốn. Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phảI có lượng vốn đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ xuất khẩu cho cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo đIều kiện cho các công ty vay vốn với lãI xuất thấp, thời gian hợp lí và đặc biệt thủ tục hành chính cần phảI được cảI tiến. Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vưc xuất khẩu nông sản. Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá lớn nhưng các công ty của Việt Nam thường rất thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, về sự biến động giá cả, về đối thủ cạnh tranh.. Vì vậy trong thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoàI nước cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Nhà nước cần lập quĩ bảo hiểm xuất khẩu. Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoàI, nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu cho khách hàng hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hoá và lợi nhuận cho công ty có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay, tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phảI nhiều rủi ro, dễ mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một quĩ bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng ho á của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro. Nhà nước cần lập quĩ ổn định giá cả và áp dụng chính sách thuế ưu đãI, mở rộng hơn nữa đối với một số mặt hàng được miễn thuế. 3. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lí xuất khẩu nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường Những qui định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, hệ thống các chính sách và qui định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn: Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lí Hệ thống văn bản pháp lí phảI đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuât hàng xuất khâủ để tạo nguồn hàng ổn định lâu dàI cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn: hiện nay Nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy, trong thời gian tới, Nhà nước phảI xem xét và có các chính sách ưu đãI đối với các đơn vị này. Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của Công ty. Để nộp thuế VAT, Công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi suất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của Nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho Công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. Trong thời gian tới, Nhà nước cần xem xét lại chính sách này tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu. Đơn giản hoá cơ chế quản lý xuất khẩu. Hiện nay, công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra Nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho Công ty cũng như Nhà nước. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, Nhà nước thường thực thi chính sách phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải trong một thời gian hợp lý để thu được hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp” trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này, việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Giả sử như: ngày 7/8/1998, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức từ 11.800 VNĐ/USD lên 12.998VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giúp giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị lỗ đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá ở các doanh nghiệp trong nước nói chung và công ty UNIMEX nói riêng, Nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của Nhà nước. Kết luận Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, Nhà nước, tất cả các Bộ, Ngành nói chung trên tầm vĩ mô và đặc biệt là của các Công ty đang tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu trên tầm vi mô, trong đó có Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội. Từ khi thành lập đến nay, Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội đã không ngừng đổi mới, từng bước hoàn thiện mình, để tiếp tục tồn tại và phát triển trong bối cảnh mới. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi về cơ chế kinh tế, do những biến động về chính trị, kinh tế trên thế giới, song Công ty đã không chịu bó tay mà vẫn tìm cho mình những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh xuất khẩu. Nhằm nghiên cứu những vấn đề của thực tiễn, trong thời gian thực tập ở Công ty XNK và Đầu tư Hà Nội, em đã chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty XNK và Đầu tư Hà Nội (UNIMEX – Hà Nội)”. Nội dung chính của đề tài đề cập đến 3 vấn đề chính. Đó là trên cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất nhập khẩu của một doanh nghiệp, phân tích thực trạng của Công ty, qua đó thấy được những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả xuất khẩu nhóm mặt hàng này của Công ty. Để hoàn thành được bài viết này, một lần nữa em xin chân thành cảm ơn Cô giáo Nguyễn Thị Hường cùng Thầy giáo Mai Thế Cường và toàn thể các Cô Chú phòng Kinh doanh 1 đã tận tình giúp đỡ cho em hoàn thành nhiệm vụ của mình. Tài liệu tham khảo Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty XNK và Đầu tư Hà Nội các năm 2000, 2001, 2002. Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế”: chủ biên PTS Đỗ Đức Bình, NXB Giáo Dục, 1997. Giáo trình “ Marketing quốc tế” : chủ biên PTS Nguyễn Văn Cao, NXB Thống Kê, 1999. Thời báo kinh tế Việt Nam Tạp chí Kinh Tế Việt Nam Sách “ Mấy vấn đề kinh doanh lương thực của Việt Nam” Hướng phát triển thị trưòng xuất khẩu tới năm 2010 Tạp chí những vấn đề kinh tế Thế Giới. Sơ đồ số 1 : Bộ máy quản lý của công ty Ban giám đốc Các đơn vị quản lý Các đơn vị trực thuộc Phòng kế toán Phòng tổ chức Phòng tổng hợp Liên doanh Chi nhánh Hải Phỏng Chi nhánh TP HCM Tổng kho Các đơn vị kinh doanh Phòng kinh doanh 1 Phòng kinh doanh 2 Phòng kinh doanh 3 Phòng kinh doanh 4 Phòng kinh doanh 5 Phòng thị trường Nguồn : Phòng tổ chức Công ty XNK và đầu tư Hà Nội năm 2003 Bảng 2: Kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản theo mặt hàng từ năm 2001 - 2003 stt Mặt hàng năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1 sản lượng (tấn) Giá trị (USD) Giá cả (USD/ tấn) sản lượng (tấn) Giá trị (USD) Giá cả (USD/ tấn) SL tăng trưởng 02/01 Sản lượng (tấn) Giá trị (USD) Giá cả (USD/ tấn) SL tăng trưởng 03/02 2 Gạo 784.1 196.025 250 798,60 195.843 243 101.85% 1041.3 258.242 248 130.3% 3 Lạc 351,3 462.662 1.317 378,00 498.960 1.320 107,7% 36,0 42.090 1.169 -90,5% 4 Hạt tiêu 287,21 631.480 2.200 251,58 641.805 2.255 84,5% 97,7 342.230 3.500 -61,1% 5 Hạt điều 250,78 207.184 2.800 241,46 965.575 2.880 96,4% - - - - 6 cao su 503,0 365.178 726 426,87 237.627 641 84,9% 194,6 96.000 491 -55,4% 7 Chè 500,0 795.000 1.590 496,11 793.448 1.599 99,2% 558,8 865.372 1.548 112,6% 8 Cà phê 121,8 177.828 1.460 110,88 128.359 1.157 90,9% 42,0 61.320 1.460 -61,8% 9 Quế 10,00 20.000 2000 12,45 25.522 2.050 120% 8,8 12.833 1.460 -29,4% 10 Hoa hồi 58,4 110.668 1.895 71,20 235.635 1.905 122,4% 334,1 461.490 1.381 333% 11 Sa nhân 6,00 45.000 7.500 4,00 30.000 7.500 66,7% 15,8 120.000 7.590 157% Nguồn : Phòng tổng hợp Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội năm 2003 Bảng 9: Bảng các yếu tố chi phí của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Đơn vị: Triệu VNĐ Chỉ tiêu 2001 2002 02/01 2003 03/02 Tiền lương + Phụ cấp 1.198 1.295 108,1 1.937 149,6 BHXH, BHYT, KPCĐ 300 324 108 484 149,4 Khấu hao TSCĐ 354 369 104,23 630 170,7 Tiền thuê đất đai 384 292 76,04 440 150,68 Chi phí điện nước, điện thoại 200 191 95,5 540 282,72 Chi phí dịch vụ mua ngoài 151 132 87,41 184 139,39 Thủ tục phí ngân hàng, lãi vay ngân hàng 885 943 106,55 1.893 200,74 Phí uỷ thác XNK 832 1.040 125 1.694 162,88 Chi phí khác 70 118 168,57 731 619,5 Tổng 5.177 5.411 104,52 8.600 158,94 Nguồn: Báo cáo quyết toán hàng năm của Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Bảng 5: Cơ cấu độ tuổi của cán bộ công nhân viên của công ty từ năm 1999 - 2003 STT Độ tuổi 1999 2000 2001 2002 2003 Số người % số lao đông Số người % số lao động Số người % số lao động Số người % số lao động Số người % số lao động 1 22 - 30 12 8 24 14,6 55 27,4 45 21,6 49 23,6 2 31 - 40 18 52 80 48,7 91 45,2 85 40,9 80 38,5 3 41 - 60 60 40 60 36,7 55 27,4 78 37,5 79 37,9 Tổng 150 164 201 208 208 Nguồn: Báo cáo về lao động của phòng tổng hợp năm 2003 Bảng1: Báo cáo kết quả kinh doanh các mặt hàng nhập khẩu từ năm 2001 - 2003 STT Mặt hàng Đơn vị 2001 2002 2003 số lượng giá trị (USD) số lượng giá trị (USD) % giá trị tăng 02/01 số lượng giá trị (USD) % tăng giá trị 03/02 1. máy xúc + đào chiếc 3 92.035 2 61.358 66,67 7 200.000 325,96 2 Nhựa PVC tấn 1.500 209.018 1.500 217.588 104,1 2.000 318.432 146,34 3 Thiết bị văn phòng chiếc - 310.200 - 110.028 35,47 - 110.445 100,38 4 Hoá chất các loại tấn 100 334.400 1.000 382.452 114,40 2.000 750.555 196,25 5 Ôtô các loại chiếc 20 150.110 40 345.021 229,84 75 589.000 170,71 6 sắt thép các loại tấn 4.000 818.294 1.000 217.589 26,59 8.000 1.800.589 827,52 7 dây cáp + dây điện cuộn 500 125.868 1.000 320.705 254,79 1.000 271.577 84,669 8 cao su tấn 2.000 251.320 4.000 573.866 228,34 5.000 751.100 130,89 9 chảo chống dính chiếc 5.000 40.500 20.000 160.610 396,56 10.000 100.555 62,61 10 gỗ các loại tấn 4.000 844.323 3.000 638.468 75,62 4.500 812.400 127,24 Tổng 3.176.068 2.994.023 94,27 5.704.653 190,53 Nguồn: Phòng tổng hợp Công ty XNK và đầu tư Hà Nội Bảng 3: Báo cáo kết quả kinh doanh theo thị trờng từ năm 2001 - 2003 Thị trờng 2001 2002 2003 Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) 02/01 (%) Giá trị (USD) Tỷ trọng (%) 03/02 (%) SNG 793.448 20,41 717.698 22,02 -9,55 1.119.957 56,18 156,05 ASEAN 340.904 8,77 60.102 1,85 -82,37 0 0 0 Singapo 551.550 14,19 167.917 5,17 -69,56 24.395 1,22 -85,47 Hàn Quốc 346.685 8,92 51.202 1,58 -85,24 82.003 4,12 160,21 TrungQuốc 120.678 3,1 243.055 7,49 201,41 0 0 0 Đài Loan 165.668 4,26 13.550 0,42 -91,86 0 0 0 Hồng Kông 9.194 0,24 8.899 0,27 -10,24 0 0 0 Nhật 45.000 1,16 38.925 1,20 -23,50 20.000 1,00 -48,6 ấn Độ 0 0 531.170 16,36 - 425.409 21,43 -19,83 Indonexia 3.667 0,09 0 0 0 0 0 0 Philippin 13.395 0,34 22.610 0,70 168,88 0 0 0 I Rắc 793.448 20,41 531.170 15,36 33,06 198.699 9,97 -62,59 Mỹ 296.550 7,62 26.000 0,80 -91,22 24.85 1,24 -4,56 Thái Lan 323.832 8,33 28.666 0,88 -91,17 54.320 2,72 189,93 CH Séc 0 0 0 0 0 34.580 1,73 - Nguồn: phòng tổng hợp công ty xuất nhập khẩu và đầu tư Hà Nội ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0348.doc
Tài liệu liên quan