PHầN I: LờI Mở ĐầU
Đất nước ta trong quá trình đổi mới đã có nhiều thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực như văn hoá, giáo dục, khoa học kỹ thuật...Nhưng đạt được nhiều thành tựu hơn cả đó là trên lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển kinh tế đất nước ta trong thời kì đổi mới đã có những thành tựu đáng kể, đặc biệt là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Cùng với sự phát triển kinh tế thì tại các thành phố lớn trên đã xuất hiện một số tồn tại, đó là mặt trái của quá trình đô thị hoá. Q
39 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1422 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nâng cao chất lượng vận chuyển hành khách công cộng bằng phương tiện xe buýt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uá trình đô thị hoá tại các thành phố lớn đã làm cho quá trình tăng dân số và nhu cầu đi lại ngày càng tăng lên gấp bội. Điều này tạo ra một áp lực rất lớn đối với hệ thống giao thông đô thị nói chung và nghành vận tải hành khách công cộng (VTHKCC) nói riêng. Hiện nay, ở Việt Nam hệ thống các đô thị có khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 23% dân số cả nước. Với tình hình dân số tại các đô thị như vậy thì tình giao thông tại các đô thị Việt nam nói chung và tại Hà Nội nói riêng khá nghiêm trọng, đặc biệt là tình hình ắc tắc giao thông. Một trong những nguyên nhân gây ắc tắc giao thông là do sự phát triển ồ ạt của các loại phương tiện cá nhân và sự yếu kém của lực lượng VTHKCC. Hợp lí hoá cơ cấu phương tiện là một trong những tiền đề để có thể phát triển giao thông đô thị một cách bền vững, lâu dài. Trong cơ cấu đó thì VTHKCC phải được coi là lực lượng chính trong việc giải quyết nhu cầu đi lại tại các đô thị lớn như thủ đô Hà Nội.
Trong những năm gần đây do có sự quan tâm của đảng và nhà nước ta trên lĩnh vực VTHKCC đã có những bước phát triển nhảy vọt so với thời gian trước. VTHKCC đã đáp ứng được một phần nhu cầu đi lại của người dân tại các đô thị trong đó có Hà Nội. Tuy nhiên để có thể đạt được mục tiêu là vận chuyển hành khách công cộng của Hà Nội chiếm 30% nhu cầu đi lại vào năm 2010 theo mục tiêu của chính quyền thành phố đề ra, thì vấn đề nâng cao chất lượng phục vụ hành khách là một giải pháp không thể thiếu được trong quá trình phát triển. Chính vì vậy việc nghiên cứu đề tài: “Nâng cao chất lượng vận chuyển hành khách công cộng bằng phương tiện xe buýt “ là một điều hết sức cần thiết và có ý nghĩa đối với thủ đô trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lí do để em chọn đề tài này cho đề án môn học của mình.
Mục tiêu của đề tài là nghiên cứu, lựa chọn và đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng phục vụ hành khách khi họ sử dụng loại hình VTHKCC bằng xe buýt với tuyến mẫu 32 .Trong khuôn khổ một đề án môn học em chỉ xin trình bày những vấn đề cơ bản, khái quát về chất lượng sản phẩm, công tác vận tải sau đó sẽ đi sâu vào nghiên cứu, phân tích đánh giá về chất lượng sản phẩm vận tải, nêu lên những tồn tại vướng mắc và kiến nghị các giải pháp để nâng cao chất lượng VTHKCC.
Với mục đích như vậy và trên cơ sở của các số liệu thu thập được từ tình hình sản xuất kinh doanh của xí nghiệp xe buýt thủ đô Hà Nội. Cộng với các số liệu khác do quá trình tham khảo tìm hiểu từ nhiều nguồn thông tin khác bản thân em đã hoàn thành đề tài với toàn bộ nội dung dưới đây. Qua đây em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ công nhân viên xí nghiệp xe buýt thủ đô Hà Nội, các thầy cô giáo trong khoa Khoa học quản lý, đặc biệt là cô giáo TS. Nguyễn Thị Hồng Thuỷ. Trong việc thu thập tài liệu cũng như hướng dẫn em về mặt kiến thức. Đề tài được hoàn thành với sự cố gắng rất lớn của bản thân em nhưng không thể tránh khỏi những thiếu xót. Vì vậy em mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của các thầy cô giáo và bạn đọc để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 10 tháng 11 năm 2006
Sinh viên:
Trịnh Trọng Thắng
PHầN II: NộI DUNG
CHƯƠNG I: SƠ LƯợC Về CHấT LƯợNG SảN PHẩM, CÔNG TáC VậN TảI Và VậN TảI HàNH KHáCH CÔNG CộNG TRONG THàNH PHố.
A; KHáI QUáT CHUNG Về CHấT LƯợNG SảN PHẩM:
I, Định nghĩa chất lượng sản phẩm:
1, Định nghĩa sản phẩm:
Có rất nhiều khái niệm về sản phẩm nhưng ta có thể hiểu tổng quát nhất thông qua định nghĩa sau đây: “ Sản phẩm được hiểu là tất cả mọi hàng hoá dịch vụ có thể đem chào bán, có khả năng thoả mãn một nhu cầu hay mong muốn của con người, gây chú ý, kích thích sự mua sắm và tiêu dùng của họ ” Như vậy khi nói đến sản phẩm thường hàm ý cả những hàng hoá hữu hình và hàng hoá vô hình hay dịch vụ. Ngay trong một hàng hoá hữu hình cũng bao gồm cả yếu tố hữu hình và yếu tố vô hình.
2, Định nghĩa chất lượng:
Cũng như khái niệm về sản phẩm thì chất lượng sản phẩm cũng có nhiều cách định nghĩa khác nhau, vì vậy vấn đề nghiên cứu chất lượng cần được xem xét trên các quan điểm gắn liền với mỗi lĩnh vực và nhìn nhận trên các góc độ đặc thù riêng. Có thể nói chất lượng là một phạm trù phức tạp, mang tính xã hội sâu sắc.
Chất lượng là sự thoả mãn nhu cầu thị trường với chi phí thấp nhất ( J. juran - Mỹ ).
Chất lượng là những đặc điểm tổng hợp của sản phẩm và dịch vụ về mọi mặt: marketing, kỹ thuật, chế tạo và bảo dưỡng mà thông qua đó khi sử dụng sẽ làm cho sản phẩm đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng ( Feigenbaum ).
Theo một số nhà sản xuất thì chất lượng có nghĩa là đáp ứng các chỉ tiêu kỹ thuật để chế tạo sản phẩm...
Tổng hợp từ các định nghĩa trên ta có thể định nghĩa: “ Chất lượng là toàn thể những đặc tính của hàng hoá dịch vụ đáp ứng nhu cầu của người mua hoặc khách hàng “.
3, Định nghĩa chất lượng sản phẩm:
Từ hai khái niệm trên ta có thể đưa ra khái niệm về chất lượng sản phẩm: “ Chất lượng sản phẩm là cơ sở quan trọng để phân biệt sản phẩm bởi các nhà cung cấp dịc vụ khác nhau, nó cho phép các doanh nghiệp thiết lập sự trung thành với nhãn hiệu hàng hoá và có lợi thế cạnh tranh trên thị trường “.
II, Vai trò và thuộc tính của chất lượng sản phẩm:
1, Yêu cầu thuộc tính của chất lượng sản phẩm:
Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm cũng khác nhau và là cơ sở để người sản xuất thiết kế, chế tạo ra sản phẩm đồng thời là cơ sở để đánh giá chất lượng sản phẩm. Nhìn chung chất lượng sản phẩm cần đạt những yêu cầu sau đây:
Phải an toàn: Tính an toàn của sản phẩm là một yêu cầu quan trọng đối với mỗi loại sản phẩm. Đó là mối quan tâm hàng đầu của người tiêu dùng và của nhà sản xuất kinh doanh vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới sức khoẻ, môi trường và tính mạng của người sử dụng và uy tín của người kinh doanh.
Phải thực hiện được chức năng một cách thường xuyên, đáng tin cậy và có tuổi thọ hợp lý.
Tính tiện dụng: Đây là yêu cầu chất lượng quan trọng vì bất kì một sản phẩm nào cũng là để phục vụ con ngưòi. Tính tiện dụng của sản phẩm được thể hiện ở những mặt sau:
+ Không đòi hỏi kỹ năng phức tạp khi vận hành, sử dụng dễ dàng đơn giản và thuận lợi.
+ ít nhân công vận hành, tiện nghi cao cho người vận hành.
+ Bảo quản đơn giản trong quá trình sử dụng.
- Phải có tính thẩm mỹ cao: Đối với hàng tiêu dùng, yêu cầu thẩm mỹ là yêu cầu hàng đầu. Tính thẩm mỹ càng cao thì càng hấp dẫn được khách hàng và tạo cho hàng hoá có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
- Phải có hiệu quả khi sử dụng: Yêu cầu này thể hiện mặt kinh tế của sản phẩm, nó yêu cầu chi phí sản xuất và giá cả hợp lý. Những chi phí trong quá trình sử dụng như: Mức tiêu thụ năng lượng, chi phí bảo dưỡng sủa chữa phải thấp nhưng hiệu quả mang lại khi sử dụng phải cao.
2, Vai trò của chất lượng sản phẩm:
Chất lượng sản phẩm có một vai trò rất quan trọng đối với cả hai phía người tiêu dùng và người sản xuất.
- Về phía nhà sản xuất:
Đối với các nhà sản xuất thì chát lượng sản phẩm là công cụ giúp cho họ tiếp thị sản phẩm của họ tới tay người tiêu dùng. Nó là một trong những đặc điểm để phân biệt sản phẩm của các nhà sản xuất khác nhau. Chất lượng sản phẩm cũng là một trong nhưng nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm có tốt, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường thì mới được thị trường chấp nhận, điều này quyết định trực tiếp đến quá trình sản xuất của nhà sản xuất từ quy mô, số lượng... Đặc biệt trong thời đại ngày nay khi mà cơ chế thị trường phát triển ở cấp độ cao, sự cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt, để có thể tồn tại và phát triển được nhà sản xuất phải có được thế mạnh về chất lượng sản phẩm, giá thành để có thể có được lợi thế trong quá trình cạnh tranh trên thị trường.
- Về phía người tiêu dùng:
Đối với những người tiêu dùng thì chất lượng sản phẩm là một trong những tiêu chí để họ đi đến quyết định lựa chọn sản phẩm của nhà sản xuất nào? Chất lượng sản phẩm cũng ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu dùng thông qua việc họ tiêu dùng sản phẩm đó, nếu sản phẩm có chất lượng tốt thì nó sẽ đáp ứng được sự kỳ vọng của người tiêu dùng, phục vụ tốt cho mục đích sử dụng của họ. Nhưng ngược lại thì nó sẽ ảnh hưởng đến mục đích sử dụng của họ, dễ gây thất vọng cho người sử dụng nếu như chất lượng quá tồi.
B: KHáI QUáT CHUNG Về CÔNG TáC VậN TảI:
Trong khuôn khổ đề án môn học em chỉ xin đề cập đến công tác vận tải hành khách công cộng trong thành phố.
I, Khái niệm:
Sự đi lại của hành khách có thể thoả mãn bằng nhiều loại phương tiện, trong đó việc đáp ứng nhu câù đi lại của thị dân bằng phương tiện VTHKCC có sức chứa lớn đang rất được quan tâm.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về VTHKCC:
VTHKCC là tập hợp các phương thức vận tải để thực hiện chức năng vận chuyển hành khách phục vụ sự đi lại của người dân.
VTHKCC là hoạt động trong đó sự vận chuyển được cung cấp cho khách hàng để thu tiền cước bằng những phương tiện không phải là của họ.
VTHKCC là tập hợp những phương tiện nhằm phục vụ đám đông.
II, Đặc điểm của vận tải hành khách công cộng:
Các tuyến phương tiện của VTHKCC có khoảng cách vận chuyển ngắn.
Yêu cầu chạy xe rất cao: xe phải chạy với tần xuất lớn, độ chính xác về thời gian và không gian cao nhằm: một mặt bảo đảm chất lượng phục vụ hành khách, một mặt giữ gìn trật tự giao thông đô thị.
Đảm bảo yêu cầu phục vụ hành khách an toàn, nhanh chóng, thuận tiện, văn minh lịch sự. Phương tiện phải thông thoáng, sạch sẽ và đầy đủ tiện nghi.
Có đầy đủ các công trình và trang thiết bị khác phục vụ VTHKCC như hệ thống nhà chờ, biển báo...
III, Đặc điển của phương tiện VTHKCC:
Có tính năng động lực và gia tốc lớn.
Có sự bố trí hợp lí giữa chỗ đứng và chỗ ngồi, có cấu tạo của lên xuống phù hợp, khoa học đảm bảo cho hành khách lên xuống nhanh chóng, an toàn và liên tục.
Đảm bảo ít gây ô nhiễm môi trường, giảm thiểu lượng phương tiện giao thông lưu hành.
IV, Các phương tiện vận tải hành khách công cộng trong thành phố:
Tuỳ theo đặc điểm quy mô, vị trí địa lý, địa hình, địa chất, sự phân bố dân cư, thói quen sinh hoạt của người dân, tình hình tài chính...của mỗi thành phố từ đó chính quyền tại thành phố sẽ có sự lựa chọn những loại hình VTHKCC nào là hợp lí cho thành phố của mình. Để có quyết định đầu tư vào loại phương tiện vận tải nào đó nhằm đưa ra phục vụ người dân, ta hãy tham khảo một vài loại phương tiện VTHKCC trong thành phố như sau:
Tàu điện ngầm ( Metro ): Đây là loại hình phương tiện giao thông hiện đại. Có tốc độ lưu thông cao, khả năng thông qua lớn, an toàn trong quá trình vận chuyển. Tuy nhiên vốn đầu tư xây dựng hệ thống tàu điện rất lớn, do vậy loại hình VTHKCC này chỉ được sử dụng ở những nước phát triển.
Tàu điện bánh sắt ( Train way ): Đây là loại phương tiện chạy trên ray và sử dụng năng lượng cấp theo đường dây dọc tuyến. Tầu điện banh sắt thích hợp với những thành phố có qui mô trung bình hoặc lớn.
Vận tải đường sắt ( Railway ): Vận tải đường sắt trong các thành phố lớn, đặc biệt trong các đô thị lớn, như là một hình thức vận tải đô thị.
Xe điện bánh hơi ( Trolleybus ): Là sản phẩm kết hợp của ôtô buýt và tàu điện bánh sắt, nó không cần đường dành riêng nên khắc phục sự chiếm dụng đường như tàu điện bánh sắt. Trollebus vận hành trên đường phố như ôtô buýt nhưng sử dụng năng lượng điện nên không gây ô nhiễm môi trường. Trollebus thích hợp với những thành phố trung bình và nhỏ.
Tàu điện một ray ( Monorail ): Là phương tiện hiện đại dùng điện nên không gây ô nhiễm môi trường, tiéng ồn ít hơn hẳn so với xe điện bánh sắt. Đạt vận tốc cao (60km/h) với những loại chạy trên đệm không khí vận tốc có thể đạt 500km/h.
Ôtô buýt ( Autobus ): Đây là loại phương tiện VTHKCC được sử dụng phổ biến nhất hiện nay. Nó thích hợp với những tuyến công suất luồng hành khách nhỏ và vừa. Autobus có tính cơ động cao, triệt để, chi phí đầu tư thấp so với các phuơng tiện VTHKCC hiện đại khác, cho phép tận dụng mạng lưới đường hiện tại của thành phố, chi phí vận hành thấp và có thể nhanh chóng mang lại hiệu quả. Tuy nhiên Autobus có nhược điểm là năng lực vận chuyển không cao, gây ô nhiễm môi trường, năng suất vận chuyển thấp, tốc độ khai thác thấp và giá thành tương đối cao.
CHƯƠNG II: CHấT LƯợNG VậN TảI XE BUýT TRONG
THàNH PHố Hà NộI
A; QUAN NIệM Về CHấT LƯợNG DịCH Vụ VậN TảI HàNH KHáCH CÔNG CộNG:
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng: Đối với những sản phẩm hữu hình, chất lượng thường được so sánh đánh giá theo tiêu chuẩn chất lượng hoặc so sánh giữa các sản phẩm với nhau. Nhưng đối với nghành vận tải thì quá trình sản xuất và quá trình tiêu thụ diễn ra đồng thời. Do đó ta không thể loại bỏ các dịch vụ vận tải kém tiêu chuẩn trước khi đem ra thị trường. Trong thực tế còn tồn tại nhiều cách đánh giá khác nhau về chất lượng dịch vụ vận tải. Dưới đây là một số cách đánh giá hay được sử dụng:
I, Đánh giá chất lượng vận tải hành khách công cộng thông qua các chỉ tiêu:
Hai chỉ tiêu số xe buýt / 1000 dân ; số ghế xe / 1000 dân. Căn cứ vào dự đoán nhu cầu của thị dân hằng năm và năng suất vận chuyển của ôtô buýt sẽ tính được số phương tiện tối thiểu đảm bảo thoả mãn nhu cầu đi lại của người dân thành phố trong năm. Nếu khi đó chỉ tiêu số xe buýt / 1000 dân: số ghế xe / 1000 dân đạt tới giá trị tiêu chuẩn hoặc cao hơn thì ta nói hệ thống đó đã đảm bảo chất lượng phục vụ hành khách.
Cách đánh giá này cho phép chung ta xem xét một cách khái quát nhất hệ thống xe buýt đơn thuần về mặt số lượng, chưa xét đến hiệu quả khai thác, hệ thống mạng lưới hành trình hoạt động, các chi phí của hành khách sử dụng phương tiện... gây khó khăn cho người sử dụng.
II, Đánh giá dựa vào sản lượng vận chuyển mà hệ thống xe buýt đảm nhiệm:
Chất lượng phục vụ của hệ thống vận tải càng cao nếu khối lượng vận chuyển do nó đảm nhiệm ngày càng chiếm tỷ trọng lớn so với tổng nhu cầu đi lại của người dân thành phố.
Phương pháp này có ưu điểm là thực tiễn cao và chính xác bởi chất lượng phục vụ hành khách của hệ thống xe buýt có tốt thì khối lượng hành khách sử dụng mới tăng. Tuy nhiên, cách đánh giá này không thể đánh giá được quá trình phục vụ của xe buýt mà chỉ khi quá trình phục vụ kết thúc mới cho phép ta biết được xe buýt đã đáp ứng được nhu cầu đi lại của hành khách ở mức độ nào.
Với một số công ty xe buýt hiện nay ngoài việc thống kê sản lượng vận chuyển hằng năm, người ta còn tính riêng khối lượng vận chuyển bằng vé tháng và hợp đồng. Chất lượng được xem là tốt hơn nếu số lượng vé tháng bán ra và số lượng vận chuyển theo hợp đòng tăng lên. Tuy nhiên nhu cầu đi lại ở thành phố không chỉ đơn thuần của cán bộ, học sinh, sinh viên mà còn có sự tham gia của nhiều thành phần khác ( không thường xuyên ). Do vậy đánh giá chất lượng theo phương pháp này vẫn chưa triệt để.
III, Đánh giá dựa vào chỉ tiêu mật độ mạng lưới hành trình:
Đây là chỉ tiêu thường được sử dụng hiện nay, mật độ mạng lưới hành trình được xác định bằng tỷ số giữa tổng chiều dài mạng lưới xe buýt nội thành với diện tích hay dân số thành phố.
Trên cơ sở nghiên cứu qui luật phân bố dân cư của thành phố, nhu cầu đi lại của người dân, sự bố trí các điểm thu hút hành khách... mà người ta đưa ra mật độ mạng lưới hành trình tố ưu. Mật độ mạng lưới hành trình xe buýt được xem là tối ưu khi chi phí chi phí về mặt thời gian cho chuyến đi của hành khách sử dụng xe buýt là nhỏ nhất, nằm trong giới hạn cho phép và những điều kiện ổn định.
Qua thăm dò điều tra ý kiến của khách hàng sử dụng xe buýt, ngoài tiêu chuẩn về mặt thời gian người sử dụng còn có những yêu cầu khác nhau về chất lượng dịch vụ như tính an toàn, tính kinh tế khả năng tin cậy của hệ thống. Do vậy cách đánh giá theo chỉ tiêu mật độ mạng lưới đường cũng chưa thoả mãn thoả đáng tất cả các chi phí của khách hàng.
Tóm lại vấn đề chất lượng dịch vụ vận tải xe buýt là vấn đề rất khó khăn, không thể đánh giá thông qua một chỉ tiêu cụ thểmà phải đánh giá qua hệ thống chỉ tiêu. Do đó chất lượng dịch vụ vận tải xe buýt trong thành phố được hiểu như sau : “Chất lượng dịch vụ vận tải xe buýt trong thành phố được hiểu là hệ thống các chỉ tiêu ở mức qui định đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân trong thành phố bằng xe buýt”. Hệ thống chỉ tiêu đó bao gồm: chỉ tiêu về tính nhanh chóng, kịp thời, chỉ tiêu về tính an toàn, chỉ tiêu về tính kinh tế, chỉ tiêu về tính thuận tiện , tiện nghi.
B; CáC YếU Tố ảNH HƯởNG ĐếN CHấT LƯợNG VậN TảI HàNH KHáCH CÔNG CộNG BằNG PHƯƠNG TIệN XE BUýT.
Chất lượng sản phẩm, dịch vụ là vấn đề tổng hợp nên nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau. Có nhiều cách phân loại các yếu tố ảnh hưởng, theo tính tất yếu các yếu tố ảnh hưởng chia thành hai nhóm chính: Yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan. Phần này sẽ tập trung làm rõ chi tiết các yếu tố khách quan, các yếu tố chủ quan sẽ trình bày ở phần thực trạng xe buýt Hà Nội.
I, Nhóm các yếu tố khách quan:
Các yếu tố khách quan là nhóm yếu tố mà việc khắc phục nó được coi như nằm ngoài khả năng của doanh nghiệp kinh doanh VTHKCC, đây là những yếu tố mang tính vĩ mô, nằm ngoài khả năng tác động của doanh nghiệp. Các yếu tố này bao gồm:
1, Trình độ dân trí, thu nhập của người dân:
Đây là một yếu tố rất quan trọng có tính quyết định đến việc đánh giá, lựa chọn của hành khách về chất lượng sản phẩm vận tải trước khi họ quyết định có tham gia sử dụng phương tiện VTHKCC bằng xe buýt hay không?
Giao thông tại Hà Nội hết sức đặc biệt vì tỷ lệ xe hai bánh (xe máy và xe đạp) chiếm tới 85 % (nguồn: điều tra giao thông của IMV, 03/2004).
Tỷ lệ giao thông cơ giới ở Hà Nội rất cao, đạt mức 250 xe / 1000 người. Mặc dù mức sống chưa cao nhưng người dân Hà Nội vẫn sử dụng xe máy rất nhiều do chi phí cho phương tiện này còn khá thấp.
Xe đạp trước đây vốn được ưa chuộng (đến năm 1995 vẫn còn chiếm 61% các phương tiện đi lại) nhưng nay đã phải dần nhường chỗ cho xe máy do mức sống của người dân Hà Nội ngày càng được nâng cao. Xu hướng này ngày càng rõ nét khi các loại xe máy Trung Quốc có giá rẻ hơn xe máy Nhật tràn vào thị trường Việt Nam
Xe hơi mặc dù đang tăng mạnh song mới chỉ chiếm 4,5 % tổng số phương tiện tại Hà Nội (phục vụ 5% số người tham gia giao thông). Những tác hại do xe hơi gây ra (tắc nghẽn, mất an toàn cho phần đông người đi xe máy) hoàn toàn tỷ lệ nghịch với mức độ đóng góp của phương tiện này đối với giao thông đô thị
Phương tiện cuối cùng là xe buýt chỉ chiếm 0.7 % lượng xe nhưng đáp ứng được khoảng 14 % nhu cầu đi lại, điều đó cho thấy đây là phương tiện được sử dụng nhiều thứ hai sau xe máy. Những số liệu này cho thấy rõ lợi thế so sánh của giao thông công cộng so với các loại hình giao thông khác : diện tích chiếm dụng ít nhưng khả năng chuyên chở nhiều
Như vậy, trình độ dân trí và thu nhập có ý nghĩa quyết định đến việc có sử dụng phương tiện VTHKCC của người dân Hà Nội. Khi thu nhập chưa cao người ta có xu hướng sử dụng xe máy và xe buýt vì tính cơ động, thuận tiện của xe máy. Những người không có điều kiện để sở hữu xe máy thì chọn loại hình phương tiện là xe buýt do chi phí thấp và mức độ tiện lợi là tương đối.
2, Cơ chế, chính sách của nhà nước đối với VTHKCC:
Trợ giá, chính sách nhiên liệu, các biện pháp ưu tiên trong quá trình phương tiện tham gia hoạt động trên đường phố...
Hệ thống xe buýt hiện nay của Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung rất thuận lợi và phù hợp với lợi ích, nhu cầu của mọi người dân. Sử dụng xe buýt để vận chuyển khách trong nội thị, ngoại thị với mục tiêu cơ bản là giảm thiểu ách tắc giao thông nơi đô thị, hạn chế các phương tiện giao thông cá nhân tham gia giao thông, và cuối cùng là hạn chế và ngăn ngừa được số vụ tai nạn giao thông chung của cả nước. Đồng thời, bộ mặt xã hội ngày một đẹp, văn minh bởi phương tiện giao thông cũng làm cho văn hoá xã hội, quan hệ con người ngày càng trở lên đẹp. Đây là mong muốn của các cấp lãnh đạo thành phố, lãnh đạo ngành giao thông vận tải và toàn xã hội.
Sở giao thông công chính Hà Nội đã tạo điều kiện phân đường dành riêng cho xe buýt. Đường cho xe buýt sẽ nằm trong làn dành cho xe thô sơ hiện nay, phân biệt với đường dành cho xe cơ giới bằng dải phân cách. Làn đường rộng 5 m, sắp tới sẽ dành 3 m cho xe buýt chạy. Để đảm bảo an toàn cho các phương tiện tham gia giao thông, phần dành cho xe buýt và xe thô sơ được ngăn bằng gờ phân cách. Ngoài ra, hệ thống biển báo giảm tốc báo hiệu xe buýt giảm tốc độ sẽ cắm tại tất cả đường ngang. Tuyến đường đầu tiên được thí điểm là Nguyễn Trãi, đường Nguyễn Trãi mới được sửa chữa nên chất lượng tốt, làn đường rộng, có thể đảm bảo việc tổ chức giao thông dành riêng chạy xe buýt. Sau đó đã có nhiều tuyến đường được phân dành riêng cho xe buýt. Điều này cho thấy sự quan tâm của chính quyền và nhà nước đối với VTHKCC đặc biệt là xe buýt.
3, Sự phân bố luồng hành khách:
Đó là các khu dân cư, trường học, bệnh viện, các khu công nghiệp và các điểm thu hút hành khách khác... Đây cũng là một yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm VTHKCC bằng phương tiện xe buýt.
Điều tra số lượng khách sử dụng giao thông công cộng tại Hà Nội, điều tra này được thực hiện vào tháng 03 / 2004 đối với 20 tuyến buýt chính trong toàn mạng lưới. đến tháng 06 / 2004, nhà tư vấn MVA Asia Limited đã thực hiện một cuộc điều tra bổ sung đối với các tuyến còn lại. Cuộc điều tra đã cho phép tập hợp một lượng lớn thông tin về toàn bộ các tuyến buýt của Hà Nội (lượng khách lên và xuống tại mỗi điểm dừng, lượng khách thay đổi giữa các điểm dừng, tính đúng giờ, thời gian chạy xe giữa các điểm dừng).
Chọn tuyến 32 làm tuyến mẫu điểm Nhổn của tuyến 32 đối với 1118 hành khách:
- Hơn 73 % hành khách là học sinh, sinh viên. đây là tỷ lệ khá lớn song cũng tương đối gần với tỷ lệ hành khách của các mạng lưới giao thông công cộng ở Pháp (ngoại trừ Paris). Chẳng hạn tại Lyon số lượng học sinh, sinh viên chiếm tới 2/ 3 tổng số hành khách..
- 20% số hành khách là người trong tuổi lao động. Trong số này, những đối tượng là thợ thủ công, người buôn bán và nông dân chiếm đa số. Những đối tượng này hoàn toàn hợp lý bởi đây là một khu vực ven đô có ít cơ quan hành chính hay cơ sở công nghiệp.
- 30,6% số hành khách chuyển tuyến ít nhất 1 lần. Tỷ lệ này khá cao vì nếu so với những trường hợp ở châu Âu thì đây là tỷ lệ của một mạng lưới giao thông công cộng rất hoàn chỉnh gồm một hoặc nhiều tuyến xe điện. Những số liệu lớn như vậy có thể lý giải một số đặc điểm sau của tuyến 32 :
Tuyến này đi qua nhiều điểm trung chuyển quan trọng như Cỗu Giấy, khách sạn Daewoo, bến xe Kim Mã, ga Hà Nội và bến xe Giáp Bát.
Tuyến này có chất lượng dịch vụ tốt nhất trong toàn mạng lưới (tần suất 5 phút / chuyến, xe có chất lượng tốt) và chắc chắn là tuyến được hành khách sử dụng nhiều trước khi chuyển tuyến.
- Phần lớn hành khách (65% - 70%) đi bộ để đến và đi khỏi điểm này. Như vậy, họ có thể xuất phát hoặc đi tới một điểm gần đó, đặc biệt là trường đại học.
- 18,5 % số hành khách qua lại điểm này là những người sử dụng xe buýt tuyến 20. Như vậy, có thể thấy Nhổn cũng là một điểm chuyển tuyến tương đối quan trọng.
- 8 - 13% sử dụng xe máy hoặc xe đạp để đi hoặc đến điểm này, nhưng tại đây không hề có bãi để xe nên có thể những hành khách này được người khác đưa đến, tức là họ không phải là những người chủ động về phương tiện (học sinh, sinh viên, người già, phụ nữ) và thường phải nhờ một người thân đưa đến bến xe buýt.
Có thể nói việc bố trí các điểm trung chuyển gần các khu vực tập trung đông người sử dụng loại hình vận tải xe buýt là hết sức có ý nghĩa trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng phục vụ của xe buýt. Vấn đề là phải nghiên cứu để bố trí hợp lý nhất cac trạm trung chuyển lớn, đảm bảo thuận tiện nhất cho tất cả mọi hành khách.
4, Điều kiện ngoại cảnh:
Điều kiện môi trường ( thời tiết, khí hậu, môi trường kinh doanh...) điều kiện khai thác ( mạng lưới giao thông, đường xá...) Những điều kiện này cũng có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm VTHKCC.
Xe buýt Hà Nội có môi trường kinh doanh hết sức lý tưởng vì được sự hậu thuẫn từ chính quyền thành phố, dư luận và xã hội. Giới sinh viên thì hết sức ửng hộ xe buýt vì tính tiện lợi, thoải mái và đặc biệt là là rất rẻ. Trong mùa đông và mùa hè, đặc biệt là trong những ngày thời tiết quá khăc nghiệt nhiều người cũng lựa chọn phương tiện này vì tính tiện nghi của nó.
Giao thông tại Hà Nội có lưu lượng rất lớn. Điều tra tại 9 địa điểm là những tuyến đường lớn dẫn vào Hà Nội và một số đường lớn dẫn vào khu vực trung tâm (số liệu điều tra của Dự án đào tạo Chuyên ngành đô thị (IMV : cơ quan hợp tác giữa Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và Vùng Ile-de-France)):
Nếu tính cả hai hướng thì số lượng xe mỗi giờ dao động từ 7.500 đến trên 22.000 xe. đây là một trong những mức lưu lượng cao nhất thế giới. Nếu so với Lyon (thành phố có quy mô tương đương với Hà Nội nếu chỉ tính riêng khu vực đô thị) thì lưu lượng xe trên đường ôtô đô thị vào giờ cao điểm chỉ đạt khoảng 7.000 xe/h theo mỗi hướng
Trên tổng số các trục đường được điều tra, lưu lượng giao thông theo hướng vào nội thành đạt mức cao nhất vào buổi sáng, còn hướng ra ngoại thành đạt mức cực điểm vào buổi chiều. Cụ thể như sau :
Buổi sáng có 49,332 người đi ra khu vành đai và 85 873 người đi vào trung tâm, tức là mức chênh lệch lên tới 74%.
Buổi chiều có 60,196 người đi vào trung tâm và 76 535 người đi ra khu vành đai, tức là mức chênh lệch đạt 27%.
Những số liệu này cho thấy rõ các luồng di chuyển luân phiên hai chiều giữa nơi ở và nơi làm việc. Vào buổi sáng, những khu vực ở trung tâm thành phố luôn thu hút nhiều lao động sống ở những khu vành đai, sau đó đến giờ cao điểm buổi chiều những người này lại trở về nhà sau giờ làm việc.
Có thể nói hệ thống giao thông ở Hà Nội tương đối hiệu quả. Vận tốc di chuyển trung bình là 20 km/h, tức là cao hơn hẳn so với vẫn tốc di chuyển trung bình tại hầu hết các thủ đô khác trong khu vực (Bangkok 9 km/h, Manila 10 km/h, Jakarta 15 km/h...). Cho đến nay, tình trạng tắc đường vẫn chưa phổ biến nhiều. Đây là những điều kiện hết sức thuận lợi cho VTHKCC bằng phương tiện xe buýt.
II, Nhóm các yếu tố chủ quan:
Đây là nhóm yếu tố mà bản thân doanh nghiệp hoàn toàn có thể khắc phục để phục vụ khách hàng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doang. Nhóm yếu tố này bao gồm:
1, Cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp:
Yếu tố này được coi là chủ đạo vì chất lượng, hiệu quả làm việc của mọi thành viên trong doanh nghiệp sẽ quyết định đến chất lượng sản phẩm VTHKCC (đặc biệt là lái xe và phụ xe).
2, Phương tiện:
Chất lượng, mức độ tiện nghi... của phương tiện có ảnh hưởng trực tiếp, quyết định đến chất lượng VTHKCC và là yếu tố đảm bảo cho hành khách sự an toàn, tiện nghi...
3, Cơ sở hạ tầng:
Là nhân tố có đóng góp quan trọng trong việc nâng cao chất lượng phục vụ hành khách. Cơ sở hạ tầng bao gồm: Bến xe, nhà chờ, trạm đón trả khách, dịch vụ sửa chữa bảo dưỡng...
4, Công tác tổ chức, điều hành:
Làm tốt công tác này sẽ tạo sự nhịp nhàng, thông thoáng, lưu thông giữa các phương thức đón trả khách và giữa các tuyến tạo cho hành khách sự thuận tiện trong đi lại của mình, đặc biệt là trong việc hành khách phải thay đổi tuyến xe trong hành trình đi lại của mình.
III, Nhóm các yếu tố khác:
Tình hình an ninh trật tự trên tuyến, trên xe, cơ chế chính sách của nhà nước đối với VTHKCC thói quen của người dân... đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến chất lượng dịch vụ VTHKCC bằng xe buýt trong thành phố.
CHƯƠNG III: THựC Tế PHáT TRIểN XE BUýT ở Hà NộI,
NHữNG THàNH TựU Và TồN TạI CầN KHắC PHụC.
A; THàNH TựU:
I, Chất lượng phục vụ ngày càng được cải thiện cả về chiều rộng lẫn chiều sâu:
1, Xe buýt ngày càng thu hút được nhiều hành khách:
Năm 2000 giao thông công cộng chỉ đáp ứng 4% nhu cầu đi lại, tức là ở mức thấp nhất trong số các nước đông Nam á. Tình hình này là kết quả của một quá trình suy giảm dần chất lượng của giao thông công cộng từ cuối những năm 1970. Do đó, số lượng hành khách đã giảm từ 76,5 triệu người vào năm 1978 (khoảng 25 - 30% lưu lượng giao thông) xuống chỉ còn 3,9 triệu người vào năm 1992. Sự suy giảm này là do xe máy ngày càng được ưa chuộng, song cũng bắt nguồn từ sự sa sút chất lượng dịch vụ và không được chính quyền thành phố quan tâm từ khi tiến hành công cuộc đổi Mới (ngừng trợ giá cho giao thông công cộng). Các tuyến buýt đều bị bãi bỏ, mạng lưới tổ chức kém, xe quá cũ, giá vé quá cao so với chất lượng dịch vụ.
Kể từ năm 2001, chính quyền thành phố đã quyết định đầu tư trở lại cho giao thông công cộng. Hàng loạt biện pháp đã được áp dụng khiến cho hành khách sử dụng xe buýt ngày càng nhiều :
- Năm 2001, các xí nghiệp xe buýt được sát nhập lại trở thành Công ty Vận tải và Dịch vụ công cộng Hanoi Transerco nhằm tạo sự thống nhất toàn mạng lưới các tuyến buýt và hệ thống vé.
- Các nguồn trợ cấp cho hoạt động xe buýt đã tăng gấp 6 lần trong vòng từ năm 2000 đến 2003.
- Một chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ đã được áp dụng sau khi thu được thành công từ ba tuyến buýt mẫu thí điểm trong khuôn khổ dự án Asia Trans giai đoạn 2002 ? 2004 : nâng cao tính đúng giờ, áp dụng chính sách giá vé phù hợp hơn, mua thêm những xe buýt tiện nghi hơn...
Tất cả những biện pháp đó đã giúp cho giao thông công cộng trở nên hấp dẫn hơn. Năm 2004, lượng hành khách đi xe buýt đã vượt mức 270 triệu người (*theo ước tính của Tổng công ty vận tải Hà Nội, tên gọi mới của Hanoi ? Transerco). Măc dù chỉ chiếm 0.7 % lượng xe nhưng xe buýt đã đáp ứng được khoảng 14 % nhu cầu đi lại, điều đó cho thấy đây là phương tiện được sử dụng nhiều thứ hai sau xe máy. Điêù này cho thấy rõ lợi thế so sánh của giao thông công cộng so với các loại hình giao thông khác : diện tích chiếm dụng ít nhưng khả năng chuyên chở nhiều. Xe buýt hiện nay đã thu hút rất nhiều thành phần dân cư thị thành lựa chọn là phương tiện VTHKCC trong đời sống hàng ngày.
2, Các dự án phát triển VTHKCC
Trong thời gian qua rất nhiều dự án đã được tiến hành, có dự án thành công trở thành mô hình phát triển cần được nhân rộng, có dự án tuy chưa thực sự đem lại hiệu quả nhưng cũng là bài học cho công tác quản lý phát triển VTHKCC. Một số dự án đã triển khai có hiệu quả ở Hà Nội như Asia Trans, dự án đào tạo chuyên nghành đô thị IMV:
Mạng lưới xe buýt Hà Nội gồm 41 tuyến. Do đặc điểm cấu tạo của mạng lưới đường đô thị của Hà Nộ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV353.doc