Nhà nước quản lý thống nhất hoạt động du lịch, P.triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá, thuần..

Phần mở đầu Trong pháp lệnh về du lịch đã nêu rõ: ” Nhà nước quản lý thống nhất hoạt động du lịch, phát triển du lịch theo hướng du lich văn hoá, du lịch sinh thái, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá, thuần phong mỹ tục của Việt Nam”. Như vậy du lịch văn hoá được Nhà nước xác định có tầm quan trọng to lớn. Hà nội là một trong những trung tâm du lịch trọng điểm của đất nước. Trong những năm gần đây, du lich Hà Nội đã đạt dược nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên, những kết quả đạt được chưa thật sự

doc38 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Nhà nước quản lý thống nhất hoạt động du lịch, P.triển du lịch theo hướng du lịch văn hoá, sinh thái, giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá, thuần.., để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tương ứng với tiềm năng du lịch của thủ đô, đăc biệt là du lịch văn hóa bởi Hà Nội là nơi có tiềm năng lớn về du lịch văn hoá. Như vậy có thể nói du lịch văn hoá Hà Nội có vai trò vô cùng to lớn trong sự nghiệp phát triên du lịch Hà Nội nói riêng cũng như của cả nước nói chung. Vì vậy em quyết định chọn đề tài du lịch văn hóa Hà Nội làm đề tài cho đề án môn học. Qua đây, ta có được những lý luận cơ bản về du lịch văn hoá, thấy được thực trạng của du lịch văn hoá Hà Nội từ đó rút ra những phương hướng, giải pháp để phát triển du lịch văn hóa của Hà Nội trong thời gian tới. Phần nội dung Chương I: Cơ sở lý luận về du lịch và văn hoá trong phát triển du lịch. 1.1. Các khái niệm cơ bản về du lịch. 1.1.1. Định nghĩa về du lịch. Trong vòng hơn 6 thập kỷ qua, kể từ khi thành lập hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch IUOTO (International of Union Officeal Travel Organization) năm 1925 tại Hà Lan, khái niệm du lịch luôn luôn được tranh luận. Đầu tiên du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời khỏi chố ở của mình trong vòng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ ngơi, giải trí hay chữa bệnh. Ngày nay người ta đã thống nhất rằng về cơ bản, tất cả các hoạt động di chuyển ở trong hay ngoài nước trừ viêc đi cư trú chính trị hoặc tìm việc làm và xâm lược, đều mang ý nghĩa du lịch. Du lịch là một khái niệm bao hàm nội dung kép. Một mặt nó mang ý nghĩa thông thường của từ: việc đi lại của con người với mục đích nghỉ ngơi, giải trí... Mặt khác du lịch được nhìn nhận dưới một góc độ khác như là hoạt động gắn chặt với những kết quẩ kinh tế (sản xuất, tiêu thụ) do chính nó tạo ra. Trong một số tài liệu công bố gần đây nhất có người quan niệm du lịch bao hàm ba mặt nội dung, nhưng thực chất không khác gì hai nội dung trên vì nội dung đầu được tách làm đôi. Du lịch không chỉ bao gồm các hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi mà còn bao trùm không gian nơi diễn ra các hoạt đông khác nhau, đồng thời cũng là nơi tập trung các xí nghiệp dịch vụ chuyên môn hoá. Khái niệm du lich có thể được xác định như sau: Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần, nâng cao trình độ nhận thức – văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ nhưng giá trị về tự nhiên, kinh tế và văn hóa (I.I Pỉôgiơnic, 1985). 1.1.2. Các loại hình du lịch. Dựa vào đặc điểm, vị trí, phương tiện và mục đích, có thể chia du lịch thành các loại hình khác nhau. 1.1.2.1. Phân chia theo phạm vi lãnh thổ. Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ của chuyến đi du lịch mà phân chia thành du lịch quốc tế và du lịch nội địa. - Du lịch nội địa: Được hiểu là chuyến đi của người du lịch từ chỗ này sang chỗ khác nhưng trong pham vi đất nước mình, chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát và điểm đến đều nằm trong lãnh thổ của một nước. - Du lịch quốc tế: Được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác. Với hình thức này khách phải đi quá biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế đựơc chia ra thành hai loại : du lịch quốc tế chủ động và du lịch quốc tế thụ động. Du lich chủ động là nước này chủ động đón khách du lịch nước khác và tăng thêm thu nhập ngoại tệ. Du lịch bị động là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ. 1.1.2.2. Theo nhu cầu của khách du lịch. - Du lịch chữa bệnh: Là hình thức đi du lịch để điều trị một căn bệnh nào đó về thể xác hoặc tinh thần . Mục đích của chuyến đi là sức khỏe. Loại du lịch này gắn liền với việc chữa bệnh hoặc nghỉ ngơi tại các trung tâm chữa bệnh, các trung tâm được xây dựng bên các nguồn nước khoáng, có giá trị, giữa khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và khí hậu thích hợp với viêc chữa bệnh. - Du lịch nghỉ ngơi: Nảy sinh do nhu cầu cần phải nghỉ ngơi để phục hồi sinh lực và tinh thần cho con người. Đây là loại hình du lịch có tác động giải trí, làm cho cuộc sống con người thêm đa dạng và bứt con người ra khỏi công việc hằng ngày. - Du lịch thể thao: Xuất hiện do lòng đam mê thể thao. Đây là loại hình du lịch gắn liền với sở thích của khách về một loại hình thể thao nào đó. - Du lịch văn hoá: Mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân. Loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hóa thông qua các chuyến đi du lịch đến các nơi lạ để tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của đất nươc du lịch. - Du lịch công vụ: Với mục đích chính là nhằm thực hiên nhiềm vụ công tác hoặc nghề nghiệp nào đó. Tham gia loại hình này là khách đi dự các hội nghị, kỷ niệm các ngày lễ lớn , các cuộc gặp gỡ. - Du lịch tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau. Loại hình này có hai dạng: đi thăm nhà thờ, đền chùa vào ngày lễ và đi xưng tội. - Du lịch thăm hỏi: Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội, nhằm thăm hỏi bà con, họ hàng, bạn bè thân quen, đi dự lễ cưới , lễ tang... 1.1.2.3. Theo vị trí địa lý của cơ sở du lịch. - Du lịch nghỉ biển: Là những cơ sở nằm ở vùng ven biển với mục đích đón khách tắm biển. - Du lịch nghỉ núi: Là những cơ sở nằm ở vùng núi với mục đich đón khách tới nghỉ ngơi , leo núi hay ngắm cảnh. 1.1.2.4. Theo việc sử dụng các phương tiện giao thông. Theo phương thức này có thể chia thành các loại hình du lịch như: du lịch xe đạp, du lich ô tô, du lịch máy bay, du lịch tàu hoả, du lịch tàu thủy... 1.1.2.5. Theo thời gian của cuộc hành trình. - Du lịch ngắn ngày: Thường vào cuối tuần nếu ở nhưng nước có chế độ làm viêc 5 ngày. Hoặc là du lịch trong ngày, ngắn hơn du lịch cuối tuần, kéo dài một ngày và không ngủ qua đêm. - Du lịch dài ngày: Thường vào các kỳ nghỉ hè, nghỉ đông hoăc nghỉ phép trong năm. Thông thường kéo dài vài tuần, đi xa , du lịch nghỉ ngơi hay du lịch văn hóa. 1.1.2.6. Theo lứa tuổi. - Du lịch thanh niên: tuổi từ 17 dến 35. - Du lịch thiếu niên: dưới 17 tuổi. - Du lịch gia đình: là hình thức cả nhà đi du lịch. 1.1.2.7. Theo hình thức tổ chức. - Du lịch co tổ chức theo đoàn với sự chuẩn bị từ trước, hay thông qua các tổ chức du lịch. - Du lịch cá nhân: Cá nhân tự định ra hành trình, kế hoạch lưu trú , ăn uống... 1.1.2. Các điều kiện để phát triển các loại hình du lịch. 1.1.2.1. Dân cư và lao động. Dân cư là lực lượng sản xuất quan trọng của toàn xã hội. Cùng với hoạt động lao động, dân cư còn có nhu cầu nghỉ ngơi và du lịch. Số người lao động và học sinh tăng lên sẽ tham gia vào các loại hình du lịch khác nhau. Số lượng người lao động trong ngành sản xuất và dịch vụ ngày càng đông gắn liền trực tiếp với kinh tế du lịch. Việc nắm vững dân số, thành phần dân tộc, đặc điểm nhân khẩu, cấu trúc phân bố và mật độ dân cư có ý nghĩa rất lớn đến sự phát triển du lịch. Nhu cầu đi du lịch của con người tuỳ thuộc vào đặc điểm xã hội, nhân khẩu của dân cư. 1.1.2.2. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội và các ngành kinh tế. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội có tầm quan trọng hàng đầu làm xuất hiên nhu cầu đi du lịch và biến nhu cầu đi du lịch của con người thành hiện thực. Không thể nói tới nhu cầu đi du lịch của xã hội nếu như lực lượng sản xuất xã hội còn trong tình trạng thấp kém. Vai trò to lớn của nhân tố này được thể hiện ở nhiều khía cạnh quan trọng. Sự phát triển của nền sản xuất xã hội đẻ ra nhu cầu đi du lịch. Các nhà kinh điển đã chỉ ra rằng sự xuất hiện và mở ra nhưng nhu cầu khác nhau (tất nhiên trong đó có nhu cầu nghỉ ngơi du lịch) là kết quả của sự phát triển của nền sản xuất. Các nhu cầu thường nảy sinh trực tiếp từ sản xuất. Nền sản xuất xã hội càng phát triển, thị trường nhu cầu của nhân dân càng lớn, chất lượng càng cao, đặc biệt là nhu cầu đi du lịch của con người. 1.1.2.3. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch và sự thay đổi của nó theo thời gian và không gian trở thành một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến quá trình ra đời và phát triển du lịch. Sự hoạt động mang tính chất xã hội của cá nhân trong thời gian rỗi được quyết định bởi nhu cầu và những định hướng có giá trị. Nhu cầu nghỉ ngơi là hình thức thể hiện và giải quyết mâu thuẫn giữa chủ thể với môi trường bên ngoài, giữa điều kiện sống hiện có với điều kiện sống cần có thông qua các dạng nghỉ ngơi khác nhau. Nhu cầu nghỉ ngơi du lịch đặc trưng cho mọi giai đoạn phát triển của xã hội. Nó ra đời ở một trình độ phát triển nhất định của sự phát triển lực lượng sản xuất, là kết quả tác động tổng hợp của quá trình công nghiệp hoá và đô thị hóa, tăng mật độ và sự tập trung dân cư vào thành phố, kéo dài tuổi thọ... Song chỉ trong điều kiện khoa học kỹ thuật, nhu cầu mới trở thành hiện thực trên qui mô xã hội. 1.1.2.4. Cách mạng khoa học kỹ thuật. Cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghiệp hoá và tự động hoá quá trình sản xuất liên quan chặt chẽ với nhau. Chúng là những nhân tố trực tiếp nhằm nảy sinh nhu cầu du lịch và hoạt động du lịch. Cách mạng khoa học kỹ thuật đồng thời cũng là nhân tố đẩy mạnh sự phát triển của du lịch. “Công nghiệp du lịch” chắc chắn sẽ không thể phát triển mạnh được nếu thiếu sự hỗ trợ của cách mạng khoa học kỹ thuật và quá trình công ngiệp hóa. Cuộc cách mạng này đã khuấy động mọi ngành sản xuất, đem lại năng xuất lao động và hiệu quả kinh tế cao. Đó là tiền đề nâng cao thu nhập của người lao động, tăng thêm khả năng thực tế tham gia hoạt động nghỉ ngơi du lịch, hoàn thiện cơ cấu hạ tầng và tạo cho du lịch có bước phát triển mới, vững chắc hơn... 1.1.2.5. Đô thị hóa. Là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, đô thị hóa như nhân tố phát sinh góp phần đẩy mạnh nhu cầu đi du lịch.Đô thị hóa tạo nên một lối ssống đặc biệt- lối sống thành thị, đồng thời hình thành các thành phố lớn và các cụm thành phố. Trong lối sống đó nghỉ ngơi giải trí trở thành một nhu cầu không thể thay thế được của người dân thành phố. Ngoài những chuyến đi dài ngày, vào ngày nghỉ cuối tuần họ có nhu cầu thay đổi không khí và được sống thoải mái giữa thiên nhiên. Nhu cầu này đã lam xuất hiện một loại hình du lịch đặc biệt, du lịch ngắn ngày. 1.1.2.6. Điều kiện sống. Đây là điều kiện quan trong để phát triển du lịch và được hình thành nhờ việc tăng thu nhập của người dân. Du lịch chỉ có thể phát triển khi mức sống của con người đạt tới trình độ nhất định. Một trong những nhân tố đó là mức thu nhập thu nhập thực tế của mỗi ngưòi trong xã hội. Nếu mức thu nhập không cao thì người ta khó mà nghĩ tới việc đi du lịch. 1.1.2.7. Thời gian rỗi. Du lịch chắc chắn sẽ không thể phát triển nếu thiếu một nhân tố vô cùng quan trọng, đó là thời gian rỗi. Thời gian rỗi là thời gian cần thiết cho con người nâng cao học vấn, phát triển trí tuệ, hoàn thành các chức năng xã hội, tiếp xúc với bạn bè, vui chơi giải trí bằng sức lực và trí tụê... Trong các công trình nghiên cứu về kinh tế xã hội thời gian nghỉ ngơi cần thiết cũng được xem xét tương tự như thời gian làm việc cần thiết cho xã hội. Hiện nay nhiều nước đã thực hiện chế độ tuần làm việc 5 ngày. Điều này đã kích thích sự phát triển du lịch trong nước. Như vậy có thể nói thời gian rỗi là yếu tố cần thiết cho sự phát triển du lịch. 1.1.2.8. Các nhân tố chính trị. Đây là điêu kiện đặc biệt quan trọng có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của du lịch trong nước và quốc tế. Du lich chỉ có thể xuất hiện vàphat triển trong điều kiện hoà bình và quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc. Ngược lại chiến tranh ngăn cản các hoạt động du lịch, tạo nên tình trạng mất an ninh, đi lại khó khăn, phá hoại các ccông trình du lịch, làm tổn hại đến môi trường tự nhiên. 1.2. Định nghĩa du lịch văn hoá. Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục đích chính của chuyến đi là nâng cao hiểu biết cho cá nhân. Loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hóa thông qua các chuyến đi du lịch đến các nơi lạ để tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của đất nươc du lịch. 1.3. Các giá trị văn hóa. 1.3.1. Các giá trị văn hóa hữu hình. 1.3.1.1. Các danh lam thắng cảnh. ở nước ta, danh lam thắng cảnh có ý nghĩa là nơi cảnh đẹp, có chùa nổi tiếng. Phần lớn các danh lam thắng cảnh đều có chùa thờ phật. Hương Tích – Hà Tây có cả một hệ thống chùa (Long Vân, Thiên Trù, Giải Oan, Tuyết Sơn); động Tam Thanh – Lạng Sơn có chùa Tiên; cảnh đẹp Yên Tử cũng gắn với hệ thống chùa... Các danh lam thắng cảnh không chỉ có cảnh đẹp thiên nhiên bao la, hùng vĩ mà còn có giá trị nhân văn do bàn tay, khối óc của con người tạo dựng nên. Các danh lam thăng cảnh thường chứa đựng trong đó nhiều loại di tích lịch sử văn hóa và vì thế nó có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động du lịch. 1.3.1.2. Các di tích văn hóa nghệ thuật. Đây là các di tích gắn với các công trình kiến trúc có giá trị nên còn được gọi là di tích kiến trúc nghệ thuật. Những di tích này không chỉ chứa đựng những giá trị kiến trúc mà còn chứa đựng cả những giá trị văn hóa xã hội, văn hóa tinh thần (các ngôi đình làng, văn miếu Quốc Tử Giám, nhà thờ Phát Diệm, toà thánh Tây Ninh...). 1.3.1.3. Các di tích lịch sử. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đều có những đặc điểm lịch sử riêng, được ghi dấu lại ở những di tích lịch sử. Sự ghi dấu ấy khác nhau về số lượng, sự phân bố và nội dung giá trị. Loại hình di tích lịch sử thường bao gồm: - Di tích ghi dấu về dân tộc học: sự ăn, ở, mặc của các tộc người. - Di tích ghi dấu về các sự kiện quan trọng, tiêu biểu, có ý nghĩa quyết định chiều hướng phát triển của đất nước, của địa phương. - Di tích ghi dấu chiến công chống xâm lược (Điện Biên Phủ, Đống Đa...). - Di tích ghi dấu những kỉ niệm. - Di tích ghi dấu những vinh quang trong lao động. - Di tích ghi dấu những tội ác của đế quốc và phong kiến. 1.3.1.4. Các di tích khảo cổ. Các di tíhc khảo cổ là những di tích ẩn giấu một bộ phận giá trị văn hóa, thuộc về thời kì lịch sử xã hội loài người chưa có văn tự và thời gian nào đó trong lịch sử cổ đại. Đa số các di tích văn hóa khảo cổ nằm trong lòng đất, cũng có trường hợp tồn tại trên mặt đất (thí dụ như các bức trạm khắc trên vách đá...). Di tích văn hóa khảo cổ còn được gọi là các di chỉ khảo cổ, nó được phân thành di chỉ cư trú và di chỉ mộ táng. Di chỉ cư trú gồm có di chỉ hang động, di chỉ cư trú có thành lũy (bằng đất hoặc xếp bằng đá), di chỉ cư trú không có thành lũy (gắn với tộc người sinh sống bằng nghề trồng trọt, nhăn nuôi ở các bãi, sườn đồi gò, dọc triền sông, bên cạnh những đầm hồ lớn) và di chỉ đống vỏ sò (thường gặp ở những vùng ven biển). 1.3.2. Các giá trị văn hóa vô hình. 1.3.2.1. Các lễ hội. Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hóa tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú, là một kiêu sinh hoạt văn hóa tập thể của nhân dân sau thời gian lao đọng mẹt nhọc hoặc là một dịp để cn người hướng về một sự kiện trọng đại: ngưyỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền thống hoặc là để giải quyết những nỗi lo âu, những khao khát, ước mơ mà cuộc sống hiện tại chưa giải quyết được. Lễ hội gồm hai phần: phần nghi lễ và phần hội. - Phần nghi lễ: các lễ hội dù lớn hay nhỏ đều có phần nghi lễ với nghi thức nghiêm túc, trọng thể mở đầu ngày hội theo thời gian và không gian. Phần nghi lễ mở đầu ngày hội bao giờ cũng mang tính tưởng niệm lịch sử, hướng về một sự kiện trọng đại, một vị anh hùng dân tộc lỗi lạc có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội. Nghi lễ tế lễ nhằm bày tỏ lòng tôn kính với các bậc thánh hiền và thần linh, cầu mong được thiên thời, địa lợi, nhân hoà và sự phồn vinh hạnh phúc. Nghi lễ tạo thành nền móng vững chắc, tạo một yếu tố văn hóa thiêng liêng, một giá trị thẩm mỹ đối với toàn thể cộng đồng người đi hội trước khi chuyển sang phần xem hội. - Phần hội diễn ra những hoạt động biểu tượng điển hình của tâm lý cộng đồng, văn hóa dân tộc, chứa đựng những quan niệm của dân tộc đó với thực tế luịch sử, xã hội và thiên nhiên. Trong hội thường có những trò vui, những đêm thi nghề, thi hát, tượng trưng cho sự nhớ ơn và ghi công của người xưa. Tất cả những gì tiêu biểu cho một vùng đất, một làng xã được mang ra phô diễn, mang lại niềm vui cho mọi người. Các chàng trai,cô gái đi hội là cái cớ để gặp nhau, tìm nhau. Phần hội thường gắn liền với tình yêu, giao duyên nam nữ nên thường có vị phong tình. Mặc dù qui mô lễ hội khác nhau (có hội làng, hội vùng và hội cả nước), nhưng đều phải có một làng làm gốc, đăng cai. Hội làng là lễ hội tổ chức theo đơn vị làng. Làng là tổ chức thuần Việt và là cơ cấu gốc của xã hội cổ truyền. Bản sắc dân tộc ở từng làng quy tụ thành bản sắc dân tộc Việt Nam chung. Nước là sức mạnh tổng thể của làng cũng như làng là gốc của nước. 1.3.2.2. Các đối tượng văn hóa, thể thao và hoạt động nhận thức khác. Các đối tượng văn hóa cũng thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Đó là trung tâm của các viện khoa học, các trường đại học, các thư viện lớn và nổi tiếng, các thành phố có triển lãm nghệ thuật, các trung tâm thường xuyêntổ chức liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu thể thao quốc tế, biểu diễn âm nhạc... Các đối tượng văn hóa thể thao thu hút không chỉ khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu mà còn thu hút đa số khác du lịch với các mục đích khác, ở các lĩnh vực khác và từ nơi khác đến. Tất cả khách du lịch có trình độ văn hóa trung bình trở lên đều có thể thưởng thức các giá trị văn hóa của một đất nước mà họ đến thăm. 1.4. Mối quan hệ tương hỗ giữa văn hóa và du lịch. 1.4.1. Văn hóa là tài nguyên, là nguồn lực quan trọng của du lịch. - Trong sản phẩm du lịch thường bao gồm hai loại tài nguyên là tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn. Nếu tài nguyên tự nhiên hấp dẫn du khách ở sự hoang sơ thì tài nguyên nhân văn hấp dẫn du khcách bởi tính phong phú, đa dạng, độc đáo cũng như tính đặc trưng địa phương của nó. Việt Nam có khoảng 4000 di tích trong đó có 2250 di tích được xếp hạng về giá trị thẩm mỹ, đa dạng bao gồm đình chùa, đền, miếu, các cung điện, lăng tẩm... Những công trình này vừa hội tụ tư tưởng dân tộc vừa hội tụ những quan điểm triết học phương Đông. - Văn hóa là nguyên nhân phát sinh của nhu cầu đi du lịch vì du lịch cho đến cùng là sinh hoạt văn hóa của con người nhằm hưởng thụ các giá trị vật chất và tinh thần. - Văn hóa là điều kiện, là đối tượng cho du lịch khai thác và phát triển. Các sản phẩm du lịch của một nước quyết định chiến lược phát triển chất lượng và hiệu quả du lịch. Dưới góc độ thị trường văn hóa vừa là yếu tố cung vưa góp phần hình thành yếu tố cầu trong du lịch. Về mặt các nghiệp vụ củ thể thì văn hóa có vai trò rất lớn ở chỗ: + Góp phần xây dựng luận chứng kinh tế để gọi vốn đầu tư. + Đây là bộ phận kiến thức rất quan trọng để xây dựng một chương trình, một tour du lịch. + Nó là cơ sở để tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị để xúc tiến du lịch. + Văn hóa cung cấp cách giao tiếp, ứng xử, đồng thời cũng là vốn kiến thức hết thức hết sức quan trọng của hướng dẫn viên du lịch. 1.4.2. Vai trò của du lịch đối với nền văn hóa dân tộc. - Du lịch là phương tiện trình diễn và truyền tải các giá trị văn hóa để thực hiện sự giao lưu văn hoá. - Nhờ có du lịch mà phục hồi được các giá trị truyền thống như các lễ hội văn nghệ dân gian, các làng nghề thủ công truyền thống... - Do có nguồn thu từ du lịch mà có điều kiện đầu tư trở lại cho việc bảo tồn các di tích lịch sử, công trình văn hóa. Chương II: Thực trạng phát triển loại hình du lịch văn hóa ở Hà Nội. 2.1. Khái quát về phát triển du lịch Hà Nội. Qua việc khảo sát và phân tích thực tế tiình hình kinh doanh của ngành du lịch Hà Nội trong những năm đổi mới cho thấy những thành công cũng như những hạn chế còn tồn tại làm cho Hà Nội chưa xứng đáng là một trong những điểm đến của thiên niên kỷ mới . Trước hết là những thành công: Nếu lấy mốc so sánh là năm 1990, có thể thấy số lượng khách quốc tế và khách nội địa đến Hà Nội có tốc độ tăng định gốc rất cao, trong đó khách quốc tế tăng 3619%, khách nội địa tăng 2500%, rất đa dạng về quốc tịch (đến từ 153 quốc gia), nhưng tập trung vào 10 quốc gia hàng đầu đã chiếm tới hơn 60%. Những năm cuối thập niên 90 có xu hướng tăng mạnh khách đến Hà Nội, đó là Trung Quốc, Đan Mạch, Hà Lan, Thụy Sỹ, Mỹ và Canada, và có xu hướng giảm là: Đài Loan, Singapo, Thái Lan, Hàn Quốc. Thời gian lưu lại của khách du lịch quốc tế đến Hà Nội trung bình là 2,5 ngày. Mục đích chính của chuyến đi đến Hà Nội là công vụ kết hợp với thăm quan du lịch. Tốc độ phát triển trung bình các năm từ 1990 đến 1999 đối với khách quốc tế đến Hà Nội là 115,25%, khách nội địa là143,4%. Khách du lịch quốc tế đến Hà Nội có xu hướng tăng trưởng ổn định đó là khách du lịch người Pháp, Đức, Anh và Nhật bản. Cung du lịch Hà Nội đã phát triển mạnh đáp ứng được các nhu cầu của khách, tốc độ tăng định gốc của cung khách sạn Hà Nội là 2,6 lần về số lượng buồng và 3,7 lần về số lượng buồng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Tốc độ phát triển bình quân về khách sạn 110,9%, về buồng khách sạn là 117,3%, về buồng đạt tiêu chuẩn quốc tế là 120,55%. Hà Nội là thành phố có tỷ trọng vốn đầu tư vào liên doanh xây dựng khách sạn lớn nhất nước chiếm 31,7% với tổng số vốn 1.174.287.000 USD. Điều này chứng tỏ môi trường đầu tư ở Hà Nội là khá thuận lợi và hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Lao động trong ngành du lịch Hà Nội chiếm 17% tổng số lao động của ngành du lịch Việt Nam. Đội ngũ lao động du lịch của Hà Nội nhìn chung được đào tạo cơ bản , có khả năng nghiệp vụ và ngoại ngữ đặc biệt là các lao động trong các khách sạn, doanh nghiệp lữ hành liên doanh với nước ngoài. Hà Nội đã có nhiều dự án nhằm tu bổ tôn tạo các di tích lịch sử ,các làng nghề truyền thống và khu vui chơi giải trí... Điều đó làm tăng thêm tính đa dạng và phong phú cho sản phẩm du lịch Hà Nội. Hệ thống phân phối của sản phẩm du lịch Hà Nội đóng vai trò chính là các công ty lữ hành du lịch, cấc chi nhánh đại diện đã tăng lên đáng kể. Tốc độ tăng định gốc của hệ thống này là: lữ hành quốc tế đạt 2,12 lần ; lữ hành nội địa 1,77 lần và chi nhánh đại diện của các công ty địa phương đặt tại Hà Nội tăng lên 3,88 lần. Chính sự phát triển của lượng khách du lich quốc tế và khách nội địa đến Hà Nội vào những năm 90 đã góp phần thúc đẩy các ngành khác phát triển, làm cho các cấp các ngành và dân cư nhận thức đúng đắn hơn và đầy đủ hơn về du lịch. Quản lý nhà nước về du lịch bước đầu đẵ có sự kết hợp quản lý theo ngành với quản lý theo địa phương và lãnh thổ. Sở Du lịch Hà Nội từ khi được thành lập đến nay đã giúp Tổng cục du lich và UBND thành phó Hà Nội thực hiện được nhiều việc liên quan đến công tác quản lý cho các hoạt động du lịch trên địa bàn. Nhờ vậy công tác quản lý du lịch tên địa bàn Hà Nội đã dần đi vào khuôn phép. Sở du lịch Hà Nội đá phối hợp với các ban ngành thành phố tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp , kiểm tra hướng dẫn cho các đơn vị hoạt động đúng pháp luật, tạo điều kiện để các doanh nghiệp từng bước kinh doanh có hiệu quả. Do đó doanh thu và nộp ngân sách của ngành du lịch Hà Nội đều tăng. Ngoài những thành công trên đây không thể không nhắc đến một số mặt hạn chế cần giải quyết như: việc định hướng và khai thác thị trường khách của các nhà cung cấp sản phẩm du lịch Hà Nội còn nhiều lúng túng đặc biệt đối với các nhà cung cấp sản phẩm có qui mô nhỏ. Mối quan hệ giữa các nhà cung cấp du lịch Hà Nội với các công ty lữ hành thiếu sự găn bó và thực sự chưa được các nhà cung cấp sản phẩm quan tâm đúng mức. Do những hạn chế về tài chính nên số lượng các công ty du lịch có văn phòng đại diện hoặc chi nhánh tại các thị trường nước ngoài còn ít. Mặt khác một số công ty có văn phòng hoặc chi nhánh thì qui mô hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Hoạt đông xúc tiến của du lich Hà Nội cần chú trọng hơn nữa đến chiều sâu. Mặt khác, chưa xác định được lợi thế cạnh tranh của sản phẩm du lịch Hà Nội với sản phẩm du lịch của các địa phương khác trong nước và các nước trong khu vực châu á và đặc biệt là các nước ASEAN. Do đó lợi thế cạnh tranh của sản phẩm du lịch Hà Nội là chất lượng phục vụ hay là tài nguyên du lịch hay là tất cả? Bên cạnh đó sự phân tán đơn điệu thiếu tính đồng bộ đó là đặc điểm của sản phẩm du lịch Hà Nội mà chưa có giải pháp hữu hiệu để khắc phục. Việc tổ chức quản lý của các cấp các ngành của Hà Nội đối với ngành du lịch Hà Nội chưa có sự kết hợp đồng bộ để phát huy vai trò của ngành du lịch là hệ thống phân phối sản phẩm cho chính họ; chưa có những chính sách ưu đãi thoả đáng đối với các nhà kinh doanh du lịch khi mà họ thiêu thụ một số lượng lớn sản phẩm cho các ngành này. Hệ thống thống kê du lịch chưa có các tiêu chí thống nhất. Việc sử dụng lao động có chuyên môn về du lịch và khách sạn chưa được đựơc các doanh nghiệp coi trọng hàng đầu, phần lớn các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến trình độ ngoại ngữ và hình thức người lao động còn xem nhẹ chuyên môn. Trên đây là một số thành công cũng như bất cập của ngành du lịch Hà Nội trong những năm gần đây. Du lịch Hà Nội đang trên đà phát triển nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng du lịch của thủ đô. Điều này cần được các nhà quản lý cũng như các doanh nghiệp kinh donh lữ hành quan tâm hơn đến sự phát triển chung của ngành du lịch thủ đô. 2.2. Tiềm năng các giá trị văn hoá của Hà Nội. Có thể nói Hà Nội là nơi có tiềm năng văn hóa vô cùng to lớn. Đây là điều kiện quan trọng số một để phát triển loại hình du lịch văn hóa. 2.2.1. Các di tích lịch sử văn hóa. Với lịch sử lâu đời, Hà Nội là nơi có nhiều di tích văn hóa nổi tiếng, phong phú và đa dạng cả về nguồn gốc lẫn loại hình. Vì vậy đây là tiềm năng lớn của rất ngành du lịch Hà Nội. Về số lượng, cho tới nay ước tính trên địa bàn Hà Nội có khoảng 2000 di tích, với mật độ 2 di tích/km2. Tính đến năm 1995 cả nước có 1662 di tích được xếp hạng. Trong đó Hà Nội đã có tới 322 di tích được cấp bằng, đứng đầu cả nứoc về số di tích được xếp hạng. Nếu so sánh giữa ba trung tâm du lịch lớn của cả nước thì tỷ lệ di tích được xếp hạng của Hà Nội cao hơn nhiều. Bảng 1: Tương quan về số lượng di tích xếp hạng ở Hà Nội- Huế- Thành phố Hồ Chí Minh. Số TT Địa điểm Số di tích xếp hạng Tỷ lệ(%) 1 2 3 Cả nước: Hà Nội Thành phố Hồ Chí Minh Thừa Thiên- Huế 1.662 322 30 209 100,00 19,37 1,80 12,57 Về loại hình, theo tài liệu của cục bảo tồn bảo tang bộ văn hóa thông tin, trong số các di tích được xếp hạng ở Hà Nội, số lượng di tich kiến trúc nghệ thuật chiếm tỷ lệ cao nhất (52,17%) tiếp đến là các di tích lịch sử (13,42%) rồi đến các di tích nghệ thuật (10,87%). Trong các di sản văn hoá phải kể đến giá trị của các di tích cổ bao gồm những ngôi đền, đình, chùa, miếu… còn in đậm dấu ấn của lịch sử, là di sản vô giá của các bậc tiền nhân. Di tích cổ ở Hà Nội đa dạng, phong phú nhiều chủng loại, có những niên đại tồn tại từ thời Lý đến thời Nguyễn . Theo cuộc kiểm kê của ban quản lý di tích và danh thắng Hà Nội năm 1984 cho thấy Hà Nội có 1995 di tích lịch sử văn hoá cổ. Bảng 2: Số lượng và tỷ lệ các loại hình di tích Hà Nội. Số TT Loại hình di tích Số lượng di tích Tỷ lệ(%) 1 2 3 4 5 6 7 8 9 Di tích lịch sử Di tích lịch sử nghệ thuật Di tích lịch sử liến trúc Di tích lịch sử liến trúc nghệ thuật Di tích kiến trúc nghệ thuật Di tích kiến trúc Di tích nghệ thuật Di tích cách mạng Danh thắng Tổng số 42 25 4 30 168 9 35 7 3 322 13,04 7,76 1,24 9,32 52,17 2,80 10,87 2,18 0,62 100,00 Nổi bật trong các di tích kiến trúc cổ ở Hà Nội là một số các di tích như : - Di tích thành Cổ Loa: Năm 257 trước công nguyên Thục Phán sáng lập ra nước Âu Lạc đóng đô ở Cổ Loa đã đắp một toà thành bằng đất. Nay có 3 vòng qui mô lớn . Vòng thành ngoài là đường cong tự do dài tới 8 km. - Chùa Trấn Quốc (trước kia gọi là chùa Khai Quốc) do Lý Nam Đế xây dựng năm 544 trên bờ sông Hồng. Tới thế kỷ 17 do bờ sông bị lở, chùa được dời vào Hồ Tây đổi tên thành An Quốc rồi Trấn Quốc như ngày nay. - Chùa Một Cột: Là ngôi chùa cổ nhất thời Lý của Hà Nội, chùa Một Cột (Hay còn gọi là chùa Diên Hưu) xây dựng năm 1049 tiêu biểu cho lối kiến trúc tôn trọng nghiêm nghặt sự can thiệp của môi trường tự nhiên. - Khu phố cổ Hà Nội : ở Việt Nam ngoài Hội An ra chỉ có Hà Nội còn giữ được khu phố cổ. Theo các nguồn sử liệu thì khu vực này là nhân lõi của đô thị Hà Nội nay cả khi nơi này trở thành kinh đô Thăng Long. Năm 542 Lý Nam Đế đã tầng dựng toà thành bằng gỗ ở cửasông Tô Lịch tức là khu các phố Chợ Gạo, Nguyễn Siêu ngày nay. Các ngôi nhà được thiết kế theo kiểu “nhà ống” nhà như một cái ống ngang hẹp chiều dài sâu có khi thông sang các ngõ khác, phố khác. 2.2.2. Về cảnh quan tự nhiên. Một trong những yếu tố quan trọng tạo nên sự hấp dẫn du khách là vẻ đẹp của cảnh quan tự nhiên. Khách đi du lịch một phần muốn chiêm ngưỡng cảnh đẹp, một phần muốn nâng cao hiểu biết. Cảnh quan tự nhiên cho du lịch văn hoá là những công trình kiến trúc được lồng ghếp hay hiểu rộng hơn là những công trình kiến trúc có dấu ấn con người. Phần lớn diện tích Hà Nội và các vùng phụ cận là vùng đồng bằng với diện tích trung bình trên dưới 10 m, thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam theo dòng chảy của sông Hồng nằm giữa hai vùng đồi núi tách biệt. Địa hình là một trong những thành phần cơ bản nhất của môi trường tự nhiên , của cảnh quan, trên đó diễn ra tất cả các hoạt đọng du lịch. Nhìn chung địa hình có ảnh hưởnh sâu sắc đến các hiện tượng, các tiền đề và nhân tố được phản ánh rõ rệt đến các địa điểm, cấu trúc bên trong, và bộ mặt cảnh quan, thông qua đến các hoạt động du lịch và giải trí. Chính vì thế với Hà Nội, vùng đồng bằng đã được khai thác và sử dụng, đứng trên góc độ du lịch , vùng đồng bằng là những cảnh quan quen thuộc và gần gũi con người. Địa hình còn hấp dẫn khách du lịch ở tính hay thay đổi của ná, do đó thông thường các địa hình đồi núi có sức hơn điạ hình đồng bằng. Với một địa hình không thống nhất, với vị trí trung tâm là của ngõ phía Bắc của Việt Nam hoạt động du lịch ở Hà Nội trở nên phong phú. Hà Nội có rất nhiều cây xanh, như ở công viên Lê Nin, công viên Thủ Lệ, Bách Thảo…, cây xanh ở Hà Nội có đủ cả 4 mùa, có những cây đã sống hàng ngàn năm, chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử. Kiến trúc cổ truyền, và những cây xanh đại thụ là hai mặt sinh tồn của di tích. Hà Nội còn có rất nhiều hồ, tới 3.600 ha hồ, ao, đầm với 27 hồ, đầm lớn có thể khai thác phục vụ du ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35554.doc
Tài liệu liên quan