Lời mở đầu
Con người đã trải qua hàng triệu năm lịch sử ,ứng với mỗi giai đoạn phát triển đó là một hình thái kinh tế xã hội nhất định. Đầu tiên là nguyên thủy tiếp theo là chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN và cao nhất là CNCS mà giai đoạn đầu là CNXH. CNXH là mục tiêu mà con người hướng tới trong giai đoạn hiện nay. Đó là một chế độ xã hội ở đó người dân có địa vị cao nhất, mọi người đều bình đẳng, kinh tế xã hội phát triển cao gắn với công bằng và tiến bộ xã hội.
Có nhiều phương thức để đi l
16 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1987 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì quá độ lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên CNXH có thể đi từ CNTB lên CNXH, hay như phương thức mà nước ta đã chọn thực hiện quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Đó là một bước đi “Rút ngắn” của nước ta. Thời kỳ quá độ là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc , triệt để toàn diện từ xã hội sang xã hôi mới xã hội XHCN . Muốn vậy chúng ta phải kiên định theo chủ nghĩa Mac – LêNin và tư tưởng Hồ Chí Minh là phải tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay đất nước ta đang ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.Quá trình đó đặt ra những nhiệm vụ kinh tế cơ bản. Chúng ta đã tạo ra được một lực lượng sản xuất đồng đều, nền kinh tế hàng hoá làm cho xã hội phát triển nhanh chóng, tạo lên sự cạnh tranh hàng hoá về số lượng, chất lượng và đó là động lực chủ yếu để phát triển kinh tế đất nước.
Tuy nhiên quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN với những nhiệm vụ kinh tế cơ bản ở nước ta vẫn gặp những cản trở trên quan điểm nhận thức cũng như trong việc chỉ đạo.Nghiên cứu vấn đề này có ý nghĩa rất quan trọng giúp chúng ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý trí về thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN từ một nước mà CNTB chưa phát triển.
Nội dung chính
I_Nội dung kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam
Qúa độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN chính là con đường phát triển ‘rút ngắn’ của nước ta. Nhưng cần phải nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng mà phải thực hiện một cách thận trọng, từ từ như chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ ‘tiến lên CNXHkhông thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức,giáo dục.CNXH không thể làm mau được mà phải làm dần dần’
Ta bỏ qua chế độ TBCN nhưng không có nghĩa ta phủ định sạch trơn mà ta tiêp thu những mặt tiến bộ của CNTB đặc biệt là về khoa học công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất.Về chính trị bỏ qua chế độ TBCN là bỏ ưua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản,của kiến trúc thượng tầng TBCN .Về kinh tế bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua sự thống trị cuả quan hệ sản xuất TBCN .Sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hóa sản xuất TBCN bằng con đường phát triển theo định hướng XHCNtức là rút ngắn đáng kể quá trình phát triểnlên CNXH ở nước ta.
CNTBcó vai trò lịch sử quan trọng là phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuấtnhưng mặt hạn chế là phát triển lợc lượng sản xuất dựa trên một quan hệ sản xuất lạc hậu chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất bóc lột giá trị thặng dư của công nhân.Dựa trên những thành quả của CNTB, chúng ta có nhưng mặt thuận lợi nhất định để thực hiện bước ‘rút ngắn’ lên CNXH.Mục tiêu của chúng ta là đến năm 2020 về cơ bản nước ta là một nước công nghiệp, trong khi để đạt được mục tiêu nàyTrung Quốc phải mất tới hơn 40 năm.bước rút ngắn này phải được thực hiện một cách có kế hoạch kết hợp với cơ chế thị trường có sự quản lí của nhầ nước theo định hướng XHCN trên cơ sở xây dựng phát triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân.Để thực hiện thắng lợi kế hoạch đó thì yếu tó quan trọng nhất là sự lãnh đạo của dảng cộng sản Việt Nam một đảng vững mạnh năng đoọng sáng tạo.
II_Tất yếu khách quan của TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam.
1-Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên CNXH ởViệt Nam.
Từ khi hoà bình được lập lại năm 1954, miền bắc nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên CNXH với đặc điểm như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “ Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CHXH không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN’’.
Từ năm 1975,sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất ,cách mạng dân tộc-dân chủ đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, cùng quá độ lên CNXH. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta nói rõ hơn thực trạng kinh tế và chính trị của đất nước: “ Nước ta quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ TBCN, từ một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ XHCN và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta”.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần phải xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nứơc thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: “ nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH… tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử đối với nước ta vì:
Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế – xã hội CSCN mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội XHCN. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã hội XHCN không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. CNXH khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế – xã hội cao hơn CNTB. Quá trình cách mạng đó vù sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.
Cách mạng Việt nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm cách mạng Tháng tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giảI phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu làm cho người dân được ấm no, tự do hạnh phúc. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại phù hợp với xu thế của thời đại.Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta là một tất yếu lịch sử.
2-Những khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam.
Mặc dù kinh tế lạc hậu do vừa trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc.Trên thế giới Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu sụp đổ.Nhưng nước ta vẫn có những khả năng và tiền đề để quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN.
- Về khả năng khách quan: Trước hết phải kể đến nhân tố thời đại,tức xu thế quá độ lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc gia, không những làm cho quá độ bỏ qua chế độ TBCN trở thành một tất yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ này.Qúa trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng tăng lên ,cũng như sự phát triển của khoa học và công nghệ về khách quan đã tạo ra những khả năng để các nước kém phát triển đi sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nước mình những lực lượng sản xuất hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nước đi trước để thực hiện “ con đường phát triển rút ngắn”. Xu thế toàn cầu hoá, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những nguy cơ và thách thức nhưng vẫn tạo khả năng cho việc khắc phục khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nước chậm phát triển, nếu như có đường lối chính sách đúng đắn. Trong điều kiện đó, cho phép và buộc chúng ta phải biết tranh thủ cơ hội, tận dụng, khai thác, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mà nhân loại đã đạt được để rút ngắn thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
- Về những tiền đề chủ quan:
Việt Nam là nước có số dân tương đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng. Nhân dân ta đã lập lên chính quyền Nhà nước dân chủ nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản, đã xây dựng những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của CNXH.So sánh với Liên Xô trước đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ, ta tuy có mặt yếu nhưng cũng có những mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên CNXH. Cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo-một đảng giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo, khoa học và trí tuệ, có đường lối đúng đắn và gắn bó với quần chúng - đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng, bảo đảm cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa
Nhân dân ta, dưới sụ lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đã từng chiến đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất đủ sức vượt qua mọi khó khăn và xây dựng thành công của chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VI đến nay đa thu được những kết quả bước đầu khả quan, giữ vững ổn định chính trị tạo môi trờng hợp tác đầu tư phát triển kinh tế; đời sống nhân dân được cải thiện… điều đó đã củng cố và khẳng định con đường lựa chọn lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn.
III_Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng của chủ tịch Hồ Chinh Minh,trong cương lĩin xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH, đảng ta đã khẳng định: xã hội XHCN mà nhân dân ta đã dây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
-Có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng phóng ,bóc lột,bất công, làm theo năng lực ,hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no hạnh phúc có điều kiện phát triển cá nhân.
-Các dân tộc trong nước bình đẳng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội, phải xây dựng một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy trong thời kỳ quá độ đó chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau:
1-Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật của CNXH phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế – xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên CNXH ở những nước kinh tế lạc hậu ,CNTB chưa phát triển. Tuy nhiên chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên CNXH phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất – kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở nên phổ biến.
Vì con người lao động là lực lượng sản xuất cơ bản, cho nên trong lao động con người có khả năng sử dụng và quản lý nền sản xuất xã hội hoá cao với kỹ thuật và công nghệ tiên tiến nhất. Bởi lẽ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”.
2-Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN.
Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới.Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước theo định hướng XHCN.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, ở cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần:kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp tác xã,kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài,lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.
Vì quan hệ sở hữu đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.
3- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là mộtnền kinh tế khép kín, mà là phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta “mở cửa” nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm…mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới.Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh quốc tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất – nhập khẩu, tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu,xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia
IV_NHữNG KếT QUả Đã ĐạT ĐƯợc sau 20 năm đổi mới từ 1986 đến nay ở việt nam
Những thanh tựu to lớn về kinh tế xã hội trong thời gian này đã đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng và đặt nền móng cho giai đoạn phát triển mới.Đại hội lần thứ VIII khẳng định quyết tâm tiếp tục và phát triển hơn nữa đường lối đỏi mới kinh tế toàn diện, đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
1-Giai doạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới
Đây là giai đoạn đầu của thời kì đổi mới với việc đổi mới cơ chế quản lí.Trong thời gian này đã ban hành nhiều nghị quyết và quyết định của Đảng và Chính phủ nhằm cải tiến quản lí kinh tế, tiền tệ ,chính sách... Tuy nhiên những năm đầu của kế hoạch 5 năm này cơ chế cũ chưa mất đi, cơ chế mới chưa hình thành nên đổi mới chưa có hiệu quả.Trung bình trong 5 năm tổng sản phẩm trong nước tăng 3,9% /năm.
Vào cuối thập kỉ 80 tình hình bắt đầu biến chuỷên rõ rệt.Riêng lĩnh vực nông nghiệp có sự tiến bộ đột biến.Kết quả là nếu năm 1988 phải nhập 450 nghìn tấn lương thực thì năm 1989 trở thành nước xuất khảu gạo gần 1 triệu tấn và năm 1990 thành nước xuất khẩu gạo đướng thứ 3 trên thế giới với gần 1.5 triệu tấn.Một số nghành công nghiệp then chốt như điện,thép,xi măng.dầu thô đạt mức tăng trưởng khá.Gía trị xuất nhập khẩu bình quân tăng28%/năm, tỉ lệ nhập siêu giảm nhanh.Năm 1976-1980 tỷ lệ giữa xuất và nhập là 1/4 thì những năm 1986-1990 chỉ còn là 1/1.8.Một thành công lớn là lạm phát bị đẩy lùi.Tóm lại, thành công trong những năm 1986-1990 là sản xuất được phục hồi,kinh tế tăng trưởng, lạm phát bị đẩy lùi.Điều quan trọng hơn là đã chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lí cũ sang cơ chế quản lí mới.
2-Giai đoạn 1991-1996:đổi mới đạt kết quả quan trọng
Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam tháng 6/1991 đã đưa ra chiến lược “ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000” đồng thời đưa ra phương hướng ,nhiệm vụ cho kế hoạch 5 năm 1991-1995. Giai đoạn này tuy gặp nhiều khó khăn nhưng chúng ta cũng đã đạt được những thành tựu nổi bật là:
-Cơ chế quản lí kinh tế đã thay đổi căn bản: Trong nền kinh tế xuất hiện nhiều thành phần:quốc doanh,tư bản tư nhân,hợp tác xã,cá thể...trong đó kinh tế ngoài quốc doanh chiếm60% tổng sản phẩm trong nước .Các thành phần kinh tế được trao quyền sử dụng đất và xuất nhập khẩu.Kinh tế quốc doanh tiếp tục được chú trọng và giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
-Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao: Trong 5 năm tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 8.2%. Năm 1996 tăng 9.5%.Sản xuất nông nghiệp đạc biệt là sản xuất lương lực phát triển liên tục và vững chắc mỗi năm tăng thêm 1 triệu tấn.Sản xuất công nghiệp đã từng bước thích nghi với cơ chế quản lí mới,bình quân mỗ năm tăng 13.5%.Sản xuất trong nước đã có tích lũy,đảm bảo trên 90% quĩ tĩch lũy và quĩ tiêu dùng hàng năm.Từ 1991-1995 có 1491 dự án FDI với 20.413 tỷ USD vốn đăng kí.Đây là thời kì vốn FDI vào Việt Nam cso nhất .Về xuất khẩu trong giai đoạn này,kim ngạch xuất khẩu bình quân mỗi năm tăng 27% gấp 3 lần tốc độ tăng GDP.
-Đổi mới cơ cấu kinh tế:cơ cấu kinh tế đã chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng khu vực công nghiệp và dịch vụ,giảm dần của khu vực nông ,lâm ngư nghiệp .Cơ cáu vùng kinh tế cũng bắt đầu thay đổi theo hướng hình thành các vùng trọng điểm,các khu công nghiệp trọng tâm,các khu chế xuất và các vùng chuyên canh sản xuất lương thực ,thực phẩm ,cây công nghiệp.
-Lạm phát tiếp tục bị kìm chế và bị đẩy lùi:Nhờ sản xuất phát triển,lưu thông hang hóa thông thoáng lại có thêm kinh nghiệm chống lạm phát nên giá hàng hóa ổn định dần.Gýa hàng hóa và dịch vụ năm 1991 tăng 67.5%,năm 1993 là 5.2%.
-Tăng cường kinh tế đối ngoại:Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước và trung tâm kinh tế lớn trên thế giới.Ngày28/07/1995 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN .7/1995 Việt Nam và liên minh Châu Âu đã kí hiệp định khung về hợp tác kinh tế thương mại và khoa học kĩ thuật và bình thường hóa quan hệ với Mĩ.Nhiều nước và tổ chức đã giành cho Việt Nam viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay để phát triển kinh tế xã hội.
3-Giai đoạn từ 1996 đến nay:tiếp tục tăng cường đổi mới.
Đại hội VII của Đảng cộng sản Việt Nam đã đua ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam “trở thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất hiện đại,cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ...”
Tốc độ tăng trưởng GDP có xu hướng tăng dần,năm2001 đạt 6.89% và 2002 đạt 7.05% năm 2003 đạt 7%.Công nghiệp có tốc độ tăng trưởng cao nhất đặt10% mỗi năm.Tốc độ tăng của dịch vụ đạt xấp xỉ tốc độ tăng của GDP.Gía trị nông nghiệp phục hồi.Cơ cơ kinh tế đang chuyển dịch thei hướng đã định,năm2002 tỷ trọng nông nghiệp còn 23%,công nghiệp 38.6%,và dịch vụ 35.5%.Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển ,kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới.Thành phần kinh tế tư nhân và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có bước phát triển mạnh mẽ. Kinh tế tập thể đang được tổ chức lại có hiệu quả hơn.Hoạt động kinh tê đối ngoại cũng có bước phát triển ổn định,kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng tăng lên.Năm 2001 đạt trên 15 tỷ USD xuất khẩu và nhập khẩu 16 tỷ USD .Hệ thống tài chính tiền tệ cũng đang từng bước được cải thiện và nâng cấp nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
Nhìn chung hơn 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới,Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế quan trọng, từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới.Những thành công đó thực sự đã làm thay đổi bộ mặt đất nước theo hướng tiến bộ.
Kết luận
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một bước tiến vĩ đại trong lịch sử dân tộc. Đặc biệt Đại hội Đảng lần thứ VI thực sự là Đại hội của những quyết sách lớn nhằm xoay chuyển tình hình và tạo ra một bước ngoặt cho sự phát triển của đất nước ta.
Thời kỳ quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta với những nhiệm vụ kinh tế cơ bản đã đổi mới toàn diện – từ đổi mới kinh tế là chủ yếu, đi đến đổi mới chính trị, văn hoá, xã hội,từ đổi mới tư duy, nhận thức, tư tưởng đến đổi mới hoạt động thực tiễn của Đảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân.
Thời kỳ này đã từ bỏ những nhận tức sai lầm, những quan điểm lạc hậu lỗi thời vể CNXH; phải nhận thức lại cho đúng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH, phải căn cứ vào những điều kiện lịch sử mới của nước ta và của thời đại để vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng của các ông.
Thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đã mở ra thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Qua độ lên CNXH ở Việt Nam trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Qua toàn bài chúng ta thấy quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu khách quan đối với Việt Nam. Quá độ lên CNXH tạo điều kiện để phát triển một nền kinh tế mạnh mẽ, đồng đều trên mọi phương diện. Việt Nam đang trên đường đi lên CNXH tiền thân của CNCS tuy đạt được nhiều thành tựu to lớn nhưng cũng đang còn rất nhiều gian nan thử thách. Song Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân từng bước giải quyết các mâu thuẫn và đã có những bước tiến đáng kể, thực tế qua gần 20 năm đổi mới đất nước ta đã có những bước tiến vững chắc.
Bên cạnh những cái đạt được thì trong thực tế vẫn còn tồn tại một số vấn đề mà xã hội quan tâm và Đảng ta cần phải có những biện pháp hữu hiệu hơn trong các vấn đề này để đưa Việt Nam sớm đạt tới đỉnh vinh quang.
Công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta hiện nay là một vấn đề quan trọng nhất, xuyên suốt nhất trong đó nhiệm vụ cấp bách là chú trọng phát triển lực lượng sản xuất, tạo tiền đề vật chất cho công cuộc xây dựng XHCN ở nước ta. Nhưng chúng ta cũng phải nhận thấy rằng bên cạnh mặt tích cực của xã hội mới thì cũng còn có những mặt hạn chế và khiếm khuyết.
Các tài liệu tham khảo
Giáo trình kinh tế chính trị Mác-Lênin – NXB Chính trị Quốc gia.
Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX.
Hồ chí Minh : toàn tập – NXB chính trị quốc gia 1996.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH – NXB sự thật 1991.
Tạp chí cộng sản – năm 2006
Tạp chí phát triển kinh tế - năm 2006
Tạp chí kinh tế và dự báo – năm 2006
Các tài liệu tham khảo khác.
.
Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung chính
I_Nội dung kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam 2
II_Tất yếu khách quan của TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. 3
1-Tính tất yếu khách quan của thời kì quá độ lên CNXH ởViệt Nam. 3
2-Những khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam. 5
III_Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam. 6
. 1-Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 7
2-Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng XHCN. 8
3- Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. 9
IV_NHững kết quả đã đạt được sau 20 năm đổi mới từ 1986 đến nay ở việt nam 9
1-Giai doạn 1986-1990: Giai đoạn đầu đổi mới 9
2-Giai đoạn 1991-1996:đổi mới đạt kết quả quan trọng 10
3-Giai đoạn từ 1996 đến nay:tiếp tục tăng cường đổi mới. 11
Kết luận 14
Các tài liệu tham khảo 15
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0016.doc