Phân tích tài chính doanh nghiệp & các giải pháp trong công tác quản lý kinh doanh tại Nhà máy Len Hà Đông

Lời nói đầu Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù họp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh , quy luật cung cầu. Và đặc biệt nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN, mức độ mở cửa hàng hoá dịch vụ tài chính đầu tư sẽ đạt và ngang bằng với

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tài chính doanh nghiệp & các giải pháp trong công tác quản lý kinh doanh tại Nhà máy Len Hà Đông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nước trong khối ASEAN từng bước tạo điều kiện nặng về kinh tế, về pháp lý để hội nhập sâu hơn về kinh tế khu vực và thế giới. Do đó vấn đề phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp là một khâu trọng tâm của quản lý doanh nghiệp. Việc thường xuyên tiến hánh phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin có thể đánh giá tiềm năng , hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các bước tài chính là tài liệu chủ yếu để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình công nợ, nguồn vốn, tài sản các chỉ tiêu về tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên những thông tin mà báo cáo tài chính cung cấp là chưa đầy đủ vì nó không giải thích được cho người quan tâm biết được rõ về thực trạng hoạt động tài chính những rủi ro, triển vọng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính sẽ bổ khuyết cho sự thiếu hụt này. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp kết hợp với kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Nguyễn ái Đoàn cùng toàn thể các cô chú trong phòng tài chính- kế toán Nhà máy Len Hà Đông, em đã chọn đề tài “Phân tích tài chính doanh nghiệp và các giải pháp trong công tác quản lý kinh doanh tại Nhà máy Len Hà Đông” Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 4 phần chính sau: Phần I: Cơ sở lý luận về tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp Phần II: Giới thiệu khái quá chung về doanh nghiệp Phần III: Phân tích tình hình tài chính ở Nhà máy Len Phần IV: Một số kiến nghị và biện pháp cải thiện tình hình tài chính ở Nhà máy Len Phần I cơ sở lý luận về tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1. Khái niệm, bản chất, chức năng tài chính doanh nghiệp và môi trường hoạt động của doanh nghiệp. 1.1.1 Khái niệm. Tài chính là các hoạt động kinh tế diễn ra trong doanh nghiệp và được biểu hiện dười dạng tiền tệ, gắn với hoạt động kinh doanh, bắt đầu từ việc lập nhu cầu về vốn đến huy động và phân bổ nguồn vốn, sau đó sử dụng và đánh giá hiệu quả. 1.1.2 Bản chất tài chính doanh nghiệp. Hình thức biểu hiện của phạm trù tài chính nói chung, tài chính doanh nghiệp nói riêng là tiền tệ và quỹ tiền tệ. Còn bản chất của nó được ẩn dấu bên trong là những biểu hiện kinh tế phức tạp dưói hình thái giá trị gắn liền với việc tạo lập và xây dựng các quỹ tiền tệ trong sản xuất kinh doanh. Có ba mối quan hệ sau đây: - Thứ nhất: Những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước( nộp ngân sách Nhà nước). Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp Nhà nước và có thể góp vốn với Công ty liên doanh hoặc góp cổ phần hoặc cho vay. Doanh nghiệp phải bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả, thực hiện đầy đủ các chế độ tài chính của Nhà nước quan hệ này được giới hạn trong khuôn khổ luật định. - Thứ hai: Những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường. Từ sự đa dạng hoá hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra các yếu tố của thị trưòng: thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường tài chính ( thị trườngvốn). Các mối quan hệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong các thị trường này gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư , giữa doanh nghiệp với bạn hàng và khách hàng thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ trong sản xuất kinh doanh, bao gồm các quan hệ thanh toán tiền mua bán vật tư, hàng hoá, chi trả tiền công, cổ tức… giữ doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng phát sinh trong quá trình doanh nghiệp vay và hoàn trả vốn, trả lại cho ngân hàng, các tổ chức tín dụng. - Thứ ba: Những quan hệ kinh tế trong nội bộ doanghiệp. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng, tổ đội sản xuất và cán bộ nhân viên trong quá trình tạm ứng, thanh toán tài sản, vốn, phân phối thu nhập… 1.1.3 Chức năng của tài chính doanh nghiệp Mỗi một thành viên, một đơn vị nền kinh tế đều phải mang một số chức năng nhất định. Xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế hay của đơn vị đó, khi muốn hoạt động có hiệu quả thì phải thực hiện tốt , đầy đủ và thực hiện một cách sáng tạo những chức năng nhiệm vụ của mình. Một là đối với doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế, được tổ chức một cách chặt chẽ, khoa học thì việc thực hiện chức năng, chủ yếu là chức năng tài chính, là một yêu cầu, một đòi hỏi bắt buộc không chỉ từ bên ngoài mà cả trong nội bộ của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp mang chức năng trọng yếu, chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy hai chức năng này riêng biệt nhưng chúng luôn luôn có mối quan hệ biện chứng, chúng tác động lẫn nhau trong một phạm vi nào đó, giúp đỡ cho nhau. Qua tìm hiểu hai chức năng này ta càng có thể thấy rõ điều đó hơn. * Chức năng phân phối Phân phối là một thuộc tính phản ánh bản chất của của tài chính doanh nghiệp, nó vốn có trong phạm trù tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên khi nói đến chức năng đó trong công việc tài chính doanh nghiệp. Nói đến chức năng phân phối là nói đến biểu hiện khả năng khách quan của doanh nghiệp, nói đến chủ đề phân phối các nguồn tài chính, đến đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp, đến kết quả của quá trình phân phối đó. Còn khi đề cập tới việc thực hiện chức năng phải nói đến con người vận dụng chức năng đó thực hiện như thế nào. Trong phạm vi chức năng phân phối, hoạt động của tài chính bao gồm 3 nhóm lớn: - Phân phối các nguồn lực tài chính để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của chức năng phân phối bởi nó quiyết định đến kết quả, tiến trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do một doanh nghiệp muốn hoạt động cần phải có vốn . Đối với doanh nghiệp Nhà nước, ngoài nguồn tài chính được ngân sách cấp khi thành lập hoặc bổ sung hàng năm thì doanh nghiệp có một nguồn tài chính khác. Đó là nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp sau một quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hoặc do nhận đóng góp tham gia liên doanh của các của các đơn vị khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Đối với các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư ,nhân thì ngoài vốn tự đóng góp và vốn tự bổ sung thì Công ty đó không có nguồn vốn nào khác nữa. Muốn tăng thêm vốn thì các Công ty này chỉ còn cách kêu gọi các cổ đông góp thêm hoặc đi vay ngân hàng.. - Hoạt động phân phối hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã huy động được hình thành các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, các tài chính của doanh nghiệp như tài sản cố định tài sản lưu động…, hoặc để đầu tư… ở khâu này yếu tố hiệu quả sử dụng vốn được đặt lên hàng đầu. Việc bố trí tỷ trọng hợp lý giữ tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp phải phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, việc bổ sung các quỹ tiền tệ còn phải phụ thuộc vào nhu cầu và tình hình tổ chức của doanh nghiệp thời gian tới .. Do vậy với chức năng phân phối nguồn vốn của mình, tài chính doanh nghiệp phải xác định cơ cấu vốn hợp lý. Tuy nhiên có được cơ cấu vốn hợp lý không phải đơn giản, một phần do lượng vốn của doanh nghiệp biến động thường xuyên được bổ xung thêm vào do làm ăn có lãi hoặc bị giảm bớt nếu làm ăn thua lỗ, một phần khác là do hoàn cảnh và điều kiện kinh doanh cũng thường xuyên biến đổi. Mặc dù vậy mỗi nghành kinh doanh đều đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất - Hoạt động phân phối kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều thực hiện công việc phân phối hoặc phân phối lại kết quả hoạt động kinh doanh ( nếu doanh nghiệp đã tiến hành phân phối trước theo kết quả dự tính). Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện thông qua doanh nghiệp, qua lợi nhuận khi trừ chi phí và được phân bổ theo quy định của Nhà nước. Đầu tiên là các khoản nộp cho ngân sách, các khoản góp vào quỹ, lãi chia cho cổ đông(nếu là Công ty cổ phần). Tóm lại, chức năng chủ yếu của tài chính doanh nghiệp, nó xoay quanh nhiệm vụ cơ bản là làm cơ sở cho công tác và tổ chức hoạch định tài chính của nhà quản trị tài chính của Công ty đó. * Chức năng giám đốc Nếu chức năng phân phối đưa ra biện pháp để tổ chức hoạch định tài chính thì chức năng giám đốc lại chính là biện pháp để kiểm tra giám sát tính mục đích, tính hiệu quả của chức năng phân phối. Nó là một định nghĩa như là một khả năng khách quan sử dụng tài chính doanh nghiệp như một công cụ kiểm tra, giám đốc hiệu quả quá trình phân phối các nguồn tài chính để hình thành sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy theo định nghĩa trên chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp là một chức năng khách quan mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập thành các quỹ tiền và sử dụng chúng theo mục đích đã định. Hàng ngày hoặc hàng kỳ quyết toán, doanh nghiệp phải theo dõi sát sao hệ thống tiền tệ của mình , hay nói cách khác công cụ của chức năng giám đốc là tiền tệ. Nhà tài chính doanh nghiệp sử dụng công cụ đó để thực hiện chức năng giám đốc thông qua các chỉ tiêu kinh tế tài chính của mọi hoạt động của doanh nghiệp mình. Qua việc kiểm tra giám đốc đó thì phải tìm ra các ưu nhược điểm của quá trình phân phối và sử dụng các doanh nghiệp để nghiên cứu đưa ra biện pháp tốt nhất thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển. Một điểm cuối đáng ghi nhận trong nội dung chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp bơỉ vì đây chính là công việc giám đốc thông qua các chỉ tiêu giá trị. Tài chính là một phạm trù giá trị sử dụng đồng tiền làm thước đo nên muốn giám đốc được bằng đồng tiền thì phải thực hiện được quy luật giá trị các nội dung của giám đốc tài chính như : giám đốc nguồn vốn, quá trình chu chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn , giám đốc quá trình hình thành và sử dụng tiền tệ, quá trình thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước về kinh tế tiền tệ… Vậy, qua tìm hiểu về ,hai chức năng phân phối và giám đốc tài chính doanh nghiệp ta càng thấy rã mối liên quan mật thiết giữa chúng , thấy được sự nâng đỡ, phụ thuộc lẫn nhau giữa giám đốc vầ phân phối . để thực hiện tốt chức năng phân phối thì chức năng giám đốc cũng được chú ý, đề cao và ngược lại. Phân phối chỉ hợp lý nếu giám đốc có hiệu quả và giám đốc chỉ được nâng cao nếu phân phối được thực hiện tốt. 1.1.4. Vai trò tài chính của doanh nghiệp. Các chức năng tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong thực tế qua các hoạt động của con người. Do vậy việc thực hiện phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà trước hết là cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tiếp theo đó là chế độ hoạch toán kế toán và quản lý tài chính Nhà nước, yếu tố thị trường tài chính và trình độ quản lý tài chính của doanh nghiệp . Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp giữ nhiệm vụ trọng yếu. Tuy nhiên ta có thể thấy tài chính doanh nghiệp có bốn vai trò lớn: + Đảm bảo vốn nâng cao hiệu quả nền kinh tế của doanh nghiệp qua việc thực hiện hai chức năng nêu trên. Nó là điều kiện để cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thuận lợi theo mục đích đã định hoặc thông qua tổ chức khai thác nguồn vốn và sử dụng vốn . + Vai trò là đòn bẩy kinh tế: nhờ có các công cụ tài chính như đầu tư, lãi suất, cổ tức,lãi tức, giá bán, tiền lương, tiền thưởng mà tài chính doanh nghiệp trở thành biện pháp kích thích đầu tư, nâng cao năng xuất lao động của doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng, kích thích quá trình sản xuất kinh doanh và điều tiết sản xuất kinh doanh. + Vai trò kích thích tiết kiệm và kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Nhờ có tài chính tiền tệ hoá tất cả các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu bằng tiền trên các sổ sách kế toán mà ta có thể phân tích, giám sát kiểm tra được quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện được chế độ tiết kiệm, giảm chi phí, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. + Vai trò cuối cùng : Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra và giám sát mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. 1.2. Khái niệm, ý nghĩa, mục tiêu phân tích tài chính. 1.2.1 Khái niệm về phân tích tài chính. Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong qua khứ, hiện tại và đưa ra những giải pháp tích hợp trong tương lai, doanh nghiệp cần nắm được những điểm yếu của mình để đưa ra các quyết định phù hợp, thông qua phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tình hình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành với quá khứ * Môi trường hoạt động của doanh nghiệp cấu thành 4 mảng lớn được thể hiện như sau: - Nhà nước bằng pháp luật và các thể chế , tạo các điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động. - Thị trường sản phẩm, dịch vụ trao đổi các nguồn lược vật chất với doanghiệp(mua và bán) - Thị trường lao động trao đổi nguồn nhân lực cho doanh nghiệp. - Thị trường tài chính trao đổi nguồn lực tài chính với doanh nghiệp( tài trợ và sử dụng). 1.2.2. ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ tình hình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá tri doanh nghiệp. Vấn dề xác định đầy đủ và đúng đắn những nguyên nhân cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính là vấn đề quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính bởi từ đó ta có thể tìm ra những biện pháp ổn định và nâng cao chất lượng công tác quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Phân tích tình hình tài chính không chỉ cần thiết với bản thân doanh nghiệp mà nó còn cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài có liên qua trực tiếp và giám tiếp đến doanh nghiệp như các nhà đầu tư, các nhà bảo hiểm, các cổ đông, kể cả cơ quan chính phủ và ngưòi lao động.. để họ có đủ thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc ra quyết định hợp tác với doanh nghiệp 1.2.3.Mục đích phân tích tài chính Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật kinh doanh. Nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp . Tuỳ theo mục đích của mình, mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa… Do vậy, phân tích tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau đây: Đối ngưòi quản lý hoặc chủ doanh nghiệp. + Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và việc thực hiện các giải pháp tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp hơn. + Làm rõ thực trạng tài sản mà họ đang sở hữu hay quản lý: tình hình và hướng biến động( tăng/ giảm) các loại tài sản đó + Xác định những tiềm năng cần khai thác, những nội lực chưa được phát huy của doanh nghiệp. + Xác định các điểm cần khắc phục, cải tiến + Căn cứ vào kết quả phân tích để đưa ra các giải pháp khả thi, hữu hiệu - Các đối tượng ngoài doanh nghiệp * Các đối tượng ngoài doanh nghiệp , những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như: Những nhà đầu tư, những nhà mua chứng khoán của doanh nghiệp Những ngân hàng và tổ chức tín dụng đang và sẽ cho doanh nghiệp vay tiền Những đối tác có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp trong các mối quan hệ như mua , bán hợp tác liên doanh… Những đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới các góc độ : + Khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp + Khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và tương lai … Để từ đó quyết định các vấn đề: + Có đầu tư mua chứng khoán của doanh nghiệp hay không + Có đặt quan hệ tín dụng hoặc tiếp tục cho doanh nghiệp vay vốn hay không + Có thiết lập hoặc tiếp tục duy trì các quan hệ với doanh nghiệp hay không… Để có thể đáp ứng các yêu cầu về thông tin nói trên , những vấn đề chủ yếu cần được giải quyết trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp là: + Những điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp + Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp + Khả năng sinh lời và mức độ rủi ro về tài chính 1.3. Phương pháp phân tích tài chính. Các công cụ chủ yếu để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. + Trên bảng cân đối kế toán với tổng tài sản, tổng nguồn vốn để đánh giá từng khoản mục so với quy mô chung. + Phân tích theo chiều ngang, phản ánh sự biến động khác của từng chỉ tiêu làm nổi bật các xu thế và tạo nên mối quan hệ của các chỉ tiêu phản ánh trên cùng 1 dòng của báo cáo so sánh. + Phương pháp so sánh: So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện so sánh xác định mục tiêu so sánh. + Điều kiện so sánh. Chỉ tiêu kinh tế được hình thành cùng một khoảng thời gian như nhau: - Chỉ tiêu kinh tế phải thống nhất về mặt nội dung và phương pháp tính toán. - Chỉ tiêu kinh tế phải cùng đơn vị đo lường. - Cùng quy mô hoạt động với điều kiện kinh doanh tương tự nhau + Tiêu chuẩn so sánh: Là các chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (kỳ gốc). + Các phương pháp so sánh thường sử dụng. - So sánh tương đối: Phản ánh kết cấu mối quan hệ tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế. - So sánh số tuyệt đối: Cho biết khối lượng, quy mô doanh nghiệp đạt được từ các chỉ tiêu kinh tế giữa kỳ phân tích và kỳ gốc. - So sánh số bình quân: Cho biết khả năng biến động của một bộ phận chỉ tiêu hoặc nhóm chỉ tiêu. + Phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích. Để phân tích một cách sâu sắc các đối tượng nghiên cứu, không thể chỉ dựa vào các chỉ tiêu tổng hợp, mà cần phải đánh giá theo các chỉ tiêu cấu thành của chỉ tiêu phân tích. Thông thường trong phân tích việc chi tiết chỉ tiêu phân tích được tiến hành theo các hướng sau: - Chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu: Một kết quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả. - Chi tiết theo thời gian , chi tiết theo thời gian giúp các giải pháp có hiệu quả cho công tác sản xuất kinh doanh tuỳ theo đặc tính của quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo nội dung kinh tế của các chỉ tiêu phân tích, tuỳ mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoảng thời gian cần chi tiết khác nhau và chỉ tiêu chi tiết khác nhau. - Chi tiết theo địa điểm: Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo địa điểm là xác định các chỉ tiêu phân tích theo các địa điểm thực hiện các chỉ tiêu đó 1.3.1. Thông tin sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu dự toán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến nhữn thông tin bên ngoài. Thông tin qua trọng thường được sử dụng để phân tích tình hình tài chính lấy từ các báo cáo tài chính. Có bốn loại báo cáo chủ yếu. *) Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có nguồn hình thành tài sản đó của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định theo 2 cách phân loại là kết cấu vốn kinh doanh và nguồn hình thành vốn kinh doanh. Số liệu bảng cân đối kế toán cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và nguồn hình thành tài sản . Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp . Bảng cân đối kế toán thường có kết cấu 2 phần: + Phần tài sản: Phản ánh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tài sản được chia thành 2 phần: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, Tài sản cố định và đầu tư dài hạn. + Phần nguồn vốn: Phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với tài sản đang quản lý và sử dụng tại doanh nghiệp. Nguồn vốn được chia thành nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu. Mỗi phần của bảng cân đối kế toán đều được phản ánh theo ba cột: Mã số, số đầu năm, số cuối kỳ (quý, năm) Nội dung trong bảng cân đối kế toán thoả mãn phương trình cơ bản. Tổng tài sản = Tổng nguồn vốn Ngoài hai phần tài sản và nguồn vốn, cấu tạo bảng cân đối kế toán còn có phần tài sản ngoài bảng. + Phần tài sản ngoài bảng: Phản ánh tài sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp đang quản lý hoặc sử dụng và một số chỉ tiêu bổ sng không thể phản ánh trong bảng cân đối kế toán. Cơ sở số liệu để lập bảng cân đối kế toán là các sổ kế toán tổng hợp và chi tiết các tài khoản loại 0,1,2,3,4 và bảng cân đối kế toán kỳ trước. *) Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh mẫu số B02-DN: Là báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và hiệu quả hoạt động kinh doanh chính và hoạt động khác tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản nộp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh gồm 3 phần: Phần 1: Lãi - Lỗ: phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác. tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều trình bày số liệu của kỳ trước tổng số phát sinh trong kỳ báo cáo. Phần 2: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác. tất cả các chỉ tiêu trong phần này đều được trình bày: số còn phải nộp kỳ trước chuyển sang, số còn phải nộp phát sinh trong kỳ báo cáo, số đã nộp trong kỳ báo cáo, số còn phải nộp đến cuối lỳ báo cáo. Phần III. Thuế giá trị gia tăng (GTGT) được khấu trừ, được miễn giảm, được hoàn lại: phản ánh số thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, đã khấu trừ, và còn được khấu trừ ở cuối kỳ số thuế giá trị gia tăng được hoàn lại, đã hoàn lại và còn được hoàn lại cuối kỳ. Số thuế giá trị gia tăng được miễn giảm, đã miễn giảm và còn được miễn giảm. Cơ sở số liệu để lập báo cáo kết quả kinh doanh là sổ kế toán trong kỳ các tài khoản từ loại 5 đến loại 9, tài khoản 333 và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh kỳ trước. *) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Mẫu số 1303 –DN: Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là báo cáo tài chính phản ánh các khoản thu và chi tiền trong kỳ của doanh nghiệp theo các hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính. Dựa vào báo cáo lưu chuyển tiền tệ thanh toán có thể đánh giá khả năng tạo ra tiền, sự biến động tài sản thuần, khả năng thanh toán và dự đoán được bằng tiền trong kỳ tiếp theo của doanh nghiệp. + Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ đồng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như thu tiền mặt từ doanh thu bán hàng, các khoản thu bất thường bằng tiền mặt khác, chi tiền mặt trả cho người bán hoặc người cung cấp, chi trả lương, nộp thuế, chi trả lãi tiền vay... + Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư phản ánh toàn bộ đồng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động đầu tư của đã nộp. Các khoản thu chi tiền mặt như bán tài sản, bán chứng khoán đầu tư, thu nợ các Công ty khác, thu lại về phần đầu tư. các khoản chi tiền mặt như mua tài sản chứng khoán đầu tư của các doanh nghiệp. + Lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính: Phản ánh toàn bộ đồng tiền thu chi liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao gồm các nghiệp vụ làm tăng giảm vốn kinh doanh của doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn dài hạn, ngắn hạn, nhận vốn góp liên doanh, phát hành trái phiếu... + Có 2 phương pháp lập báo cáo lưu chuyển tiền tệ là phương pháp trực tiếp và phương pháp gián tiếp. Mỗi báo cáo lập theo phương pháp khác nhau thì tuân theo nguyên tắc cơ sở số liệu và cách lập các chỉ tiêu khác nhau. *) Thuyết minh báo cáo tài chính Mẫu B09-DN: Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận lập thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp được lập để giải thích bổ sung thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà báo cáo tài chính không thể trình bày rõ ràng và chi tiết được. Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, nội dung một số chế độ kế toán được doanh nghiệp lựa chọn để áp dụng tình hình và lý do biến động của một số đối tượng sản xuất và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài sản chủ yếu và các kiến nghị của doanh nghiệp. Cơ sở số liệu lập thuyết minh báo cáo tài chính là các sổ kế toán kỳ trước báo cáo, bảng cân đối kế toán kỳ trước báo cáo thuyết minh báo cáo tài chính kỳ trước, năm trước. 1.4. Nội dung phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.4.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp Công việc này sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ là khả quan hay không khả quan. Trước hết cần tiến hành so sánh giữa tổng tài sản và tổng nguồn vốn . Bằng cách này sẽ thấy được quy mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn của doanh nghiệp. Bên cạnh việc huy động và sử dụng , khả năng tự tài bảo đảm về mặt tài chính và mứac độ độc lập về mặt tài chính cũng cho thấy một cách khái quát về tình hình tài chính của doanh nghiệp. Vì vậy, cần tính ra và so sánh chỉ tiêu “tỷ suất tài trợ” Tỷ suất tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp bởi vì hầu hết taì sản mà doanh nghiệp hiện đều được đầu tư bằng vốn của mình. Tình hình tài chính của doanh nghiệp lại được thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán thì doanh nghiệp khả quan và ngược lại. Do vậy đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp không thể không xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp đặc biệt khả năng thanh toán ngắn hạn Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ Nợ ngắn hạn + Hệ số khả năng thanh toán là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn về khả năng thanh toán hiện hành. Bởi khả năng thanh toán hiện hành bao gồm cả hàng tồn kho mà hàng tồn kho có nhiều loại rất khó trong việc chuyển thành tiền để thanh toán. chính vì vậy mà ta cần có một chỉ tiêu chặt hơn. Khả năng thanh toán nhanh = Tiền + Các khoản phải thu Nợ ngắn hạn Ngoài ra còn có một chỉ sốb ta gọi là khả năng thanh toán tức thời, nó được xác định như sau: Khả năng thanh toán tức thời = Vốn bằng Tiền Nợ đến hạn Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán tốt của doanh nghiệp nhưng mặt trái của nó lại cho ta thấy khả năng sử dụng kém hiệu quả trong việc sử dụng tài chính với một ngân quỹ bị ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ yếu đi. 1.42. Phân tích tình hình bảo đảm nguồn vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh. Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có tài sản, bao gồm tài sản cố định và tài sản lưu động. Để hình thành nên hai loại tài sản này, có hai nguồn vốn nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn Nguồn vốn dài hạn = VCSH + Nợ dài hạn + Nợ trung hạn Nguồn vốn ngắn hạn = Nợ ngắn hạn Vốn lưu động thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ = TSLĐ - Nợ ngắn hạn Bảng1.0 Sơ đồ nguồn tài trợ Tài sản Nguồn vốn TSLĐ & ĐTNH TSLĐ Nguồn vốn ngắn hạn A. Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn III.Nợ khác TSCĐ &ĐTDH TSCĐ Vốn lưu động thường xuyên Nguồn vốn dài hạn IV. Nợ dài hạn B. Nguồn vốn chủ sở hữu Trong trường hợp đặc biệt khi vốn lưu động thường xuyên < 0 ( nghĩa là doanh nghiệp hình thành tài sản cố định bằng nợ ngắn hạn ) đó là của việc sử dụng vốn sai , cán cân thanh toán là mất thăng bằng, hệ số thanh toán nợ < 1 , doanh nghiệp phải dùng tài sản dài hạn để thanh toán nợ ngắn hạn Ngược lại đó Vốn lưu động thường xuyên >0 đó việc sử dụng vốn là rất tốt 1.4.3. Đánh giá khái quát sự biến động về tài sản Tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm là toàn bộ giá trị tài sản hiện có cuae doanh nghiệp đang tồn tại trong tất các các giai đoạn, các khâu cảu quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm nào đó. Tài sản cảu doanh nghiệp thường bao gồm: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Đánh giá khái quát sự biến động về tài sản là so sánh tổng số tài sản giữa cuối năm và đầu năm để đánh giá sự biến động về quy mô của doanh nghiệp , đồng thời so sánh giá trị và tỷ trọng của bộ phận cấu thành tài sản ( các mục A, B của phần tài sản trên bảng cân đối kế toán) giữa cuối năm và đầu năm đẻ thấy nguyên nhân ban đầu ảnh hươngr đến tình hình trên. 1.4.4.Đánh giá khái quát biến động nguồn vốn. Nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành nên tài sản có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Nguồn vốn của doanh nghiệp bao gồm: Nợ phải trả Nguồn vốn chủ sở hữu Đánh giá khái quát tình hình biến động về nguồn vốn là so sánh tổng nguồn vốn giữa cuối năm để đánh giá mức độ huy động vốn đảm bảo cho quá trính sản xuất kinh doanh, đồng thời so sánh giá trị và tỷ trọng của bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp ( các mụcA,B của phần nguồn vốn trên bảng cân đói kế toán ) giữa cuối năm với đầu năm để phát hiện nguyên nhân ban đầu ản._.h hưởng đến tình hình trên. 1.4.5. Phân tích mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn Phân tích cân đối giữa Tài sản và Nguồn vốn là xem xét mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn nhằm đánh giá khái quát tình hình phân bổ, huy động sử dụng các loại vốn và nguồn vốn đảm bảo cho việc sản xuất kinh doanh. Các chỉ tiêu trên bảng cân đối kế toán có quan hệ chặt chẽ với nhau, rất thuận lợi cho việc đánh giá. Mặc dầu trên bảng cân đối kế toán có quan hệ chỉ phản ánh trong một thời kỳ nhất định nhưng cũng cho ta nhận thấy sự khác biệt với bảng cân đói kỳ trước bằng cách so sánh số liệu ở các cột cuối kỳ và đầu kỳ của bảng cân đối kế toán. Căn cứ đặc điểm luân chuyển vốn, xét về mặt lý thuyết thì nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp đủ đảm bảo trang trải các loại tài sản cho hoạt động chủ yếu như hoạt động kinh doanh và hoạt động đầu tư mà không phải đi vay và chiếm dụng vốn. Do vậy ta có mối quan hệ cân đối sau: +Cân đối thứ nhất: B. ( nguồn vốn)={[(I+II+IV)+(2,3)V+VI]A+ (I+II+III)B} Tài sản Cân đối chỉ mang tính lý thuyết, thực tế rất khó xảy ra trường hợp này mà xảy ra hai trường hợp sau đây: Bảng1.2 Cân đối thứ nhất Tài sản Nguồn vốn A- Tài sản lưu độngvà đầu tư ngắn hạn B. Nguồn vốn chủ sở hữu I. Tiền II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn IV. Hàng tồn kho V. Tài khoản lưu động khác VI. Chi sự nghiệp 2. Chi phí trả trứơc 3. Chi phí chờ kết chuyển B - Tài sản cố định và đầu tư dài hạn I. Tài sản cố định II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn III. Chi phí XDCB dở dang - Trường hợp I: Vế bên trái > vế bên phải Trường hợp này cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu không sử dụng hết nên bị các đơn vị chiếm dụng. Để đánh giá chính xác cần xem xét nguồn vốn bị chiếm dụng có hợp lý không - Trường hợp II: Vế bên trái < vế bên phải Trường hợp này cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu không đủ trang trải cho những hoạt động chủ yếu, nên tất cả doanh nghiệp phải vay vốn hoặc đi chiếm dụng vốn của đơn vị khác. Mặc dù việc chiếm dụng của đối tác trong mục chừng mực nào đó có tác dụng phục vụ cho việc mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh hoặc đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được thông suốt, thậm chí có hiệu quả. Nhưng nếu việc đi chiếm dụng vượt quá một giới hạn nào đó thì có thể làm cho năng lực thanh toán của doanh nghiệp yếu đi, uy tín của doanh nghiệp đối với bạn hàng có thể bị giảm sút, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong tương lai có thể bị ảnh hưởng. Vì vậy, để có được đánh giá chính xác cần xem xét số vốn chiếm dụng có hợp lý không, vốn vay có quá hạn hay không… từ trường hợp này ta có mối cân đối thứ 2 +Cân đối thứ hai. Bảng1.2 Cân đối thứ hai Tài sản Nguồn vốn A- Tài sản lưu độngvà đầu tư ngắn hạn A. Nợ phải trả I. Tiền 1. Vay ngắn hạn II. Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 2. Nợ dài hạn IV. Hàng tồn kho B. Nguồn vốn chủ sở hữu V. Tài khoản lưu động khác VI. Chi sự nghiệp 2. Chi phí trả trứơc 3. Chi phí chờ kết chuyển B- Tài sản cố định và đầu tư dài hạn I. Tài sản cố định II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn III. Chi phí XDCB dở dang {[(1)I+II]A+B} Nguồn vốn = {I+II+IV+(2,3)V+VI)A Tài sản +(I+II+III)B Tài sản Cân đối này cũng chỉ mang tính lý thuyết, nó thể hiện nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay đảm bảo trang trải cho hoạt động chủ yếu. Trên thực tế, cân đối náy khó đạt được mà thường xảy ra hai trường hợp sau: - Trường hợp 1: Vế bên trái > vế bên phải. Trường hợp này cho thấy nguồn vốn chủ sở hữu và vốn vay chưa sử dụng hết vào quá trình hoạt động, bị các đơn vị khác chiếm dụng. Nói cách khác số vốn của doanh nghiệp đi chiếm dụng nhỏ hơn bị chiếm dụng, cụ thể: [(3-8)I+III]A Nguồn vốn < [III+(1+4+5)V] ATài sản+IVB Tài sản. - Trường hợp 2:Vế bên trái < vế bên phải Trường hợp này cho thấy vốn chủ sở hữu và vốn vay, không đủ trang trải cho những hoạt động chủ yếu, doanh nghiệp phải đi chiếm dụng vốn các đơn vị khác và số chiếm dụng lớn hơn số bị chiếm dụng, cụ thể: [(3-8)I+III]A Nguồn vốn > [III+(1+4+5)V] ATài sản+IVB Tài sản. Từ hai trường hợp trên ta rút ra mối quan hệ cân đối chung như sau: Cân đối chung: (A+B)Tài sản=(A+B) Nguồn vốn 1.5. Phân tích tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp Tài sản của doanh nghiệp bao gồm TSLĐ& ĐTNH và TSCĐ& ĐTDH. Việc phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản của doanh nghiệp là sự đánh giá biến ddộng của các bộ phận cấu thành tài sản của doanh nghiệp. Từ đó thấy được tình hình sử dụng vốn, việc phân bổ giữa các loại tài sản của doanh nghiêph trong quá trình kinh doanh có hiệu quả và hợp lý không vãe rút ra các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Trong nội dung phân tích ta sử dụng phương pháp so sánh theo chiều ngang ( số tuyệt đối , số tương đối) và theo chiều dọc ( tỷ trọng của các khoản mục) để từ đó thấy được sự thay đổi về tỷ trọng từng loại. Từ đó đưa ra nhận xét, đánh giá. 1.5.1 Phân tích tình hình sử dụng TSLĐ Trong các doanh nghiệp khác nhau thì sự vận động của tài sản lưu động có những khác nhau . Việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Vì tài sản lưu động thường phức tạp hơn tài sản cố định nên ta đi vào phân tích từng khoản mục sau: Phân tích chung tình hình nhằm mục đích thấy được sự biến động về tỷ trọng của từng khoản mục và quy mô chung tài sản lưu động qua các khoản mục. Ta lập bảng phân tích sau: a. Phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền Nhằm đánh giá việc quản lý và sử dụng vốn bằng tiền là hợp lý hay không ta đi vào phân tích tình hình sử dụng vốn bằng tiền. Vốn bằng tiền của công ty bao gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển. Sau đó ta lập bảng phân tích b. Phân tích các khoản phải thu: Nhằm phản ánh sụ tăng hoặc giảm của tình hình tiêu thụ sản phẩm, tình hình quản lý công nợ là tốt hay xấu. Nếu các khoản phải thu tăng, đặc biệt là ohải thu khách hàng thì việc quản lý công nợ chưa tốt và ngược lại c. Phân tích hàng tồn kho: Hàng tồn kho là một bộ phận quan trọng trong tổng TSLĐ. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần có một lượng hàng dự trữ. Bơỉ vì có những sản phẩm chỉ bán theo thời kỳ nhất định, nếu không dự trữ trước sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh hoặc nếu dự trữ quá nhiều gây ứ đọng vốn và tăng chi phí bảo quản. 1.5.2 Phân tích hiệu quả sử dụng TSLĐ: a) Phân tích chung: Hiệu quả chung về sử dụng tài sản lưu động được phản ánh qua các chỉ tiêu như sức sản xuất, sức sinh lời của tài sản lưu động: Sức sản xuất của TSLĐ = DT thuần từ HĐSXKD TSLĐ bình quân Sức sinh lời của TSLĐ = LNthuần từ HĐSXKD TSLĐ bình quân b. Phân tích tốc độ luân chuyển của TSLĐ: Trong qú trình sản xuất kinh doanh, tài sản lưu động của doanh nghiệp vận động không ngừng, thường xuyên trải qua các giai đoạn của quá trình sản xuất(dự trữ - sản xuất – tiêu thụ). Đẩy nhanh tốc độ luân chuyển của tài sản lưu động sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vố. Để xác định tốc độ luân chuyển của tài sản lưu động ta tính chỉ tiêu sau: Hệ số vòng quaycủa TSLĐ = Doanh thu từ HĐSXKD TSLĐ bình quân Suất hao phí của TSLĐ = TSLĐ bình quân Doanh thu thuần Chỉ tiêu này phản ánh để có một đồng doanh thu thuầ từ hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần có bao nhiêu đồng vốn lưu động đầu tư vào. chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. c) Phân tích tốc độ chu chuyển công nợ phải thu khách hàng: Trong tất cả các khoản phait thu thì khoản phải thu của khách hàng là quan trọng nhất. Vì vậy mục đích của việc phân tích này nhằm đánh giá hiệu quả của việc thu hồi nợ. Để đánh giá ta đi vào tính các chỉ tiêu tài chính sau: Hệ số vòng quay các khoản phải thu khách hàng = Tổng doanh thu bán chịu thực tế Bình quân các khoản phải thu của khách hàng Trong đó: Tổng doanh thu bán chịu thực tế có thể lấy bằng doanh thuần(01-03) từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêiu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu bằng tiền mặt của doanh nghiệp( hiệu quả của việc đi đòi nợ). Nếu các khoản phải thu khách hàng Thu hồi nhanh( khách hàng nợ ít ) thì số vòng quay sẽ cao và ngược lại. Tuy nhiên số vòng quay quá cao lại không tốt, vì có thể ảnh hưởng đến khối lượng hàng tiêu thụ do kỳ thanh toán ngắn hạn, không hấp dẫn khách hàng . Ngoài chỉ tiêu trên người ta còn tính các chỉ tiêu sau đây: Kỳ thu tiền bình quân = Thòi gian kỳ phân tích Hệ số vòng quay khoản phải thu của khách hàng Chỉ tiêu này cho thấy , để thu được các khoản phải thu các khách hàng cần một khoảng thời gian là mấy ngày. Nếu só ngày thu tiền lớn thời gian quy định khách hàng thì việc thu hồi khoản phải thu là rất chậm và ngược lại . Nguyên tắc chung cho rằng kỳ thu tiền bình quân của doanh nghiệp phải nhỏ hơn hoặc bằng(1+1/3) số ngày quy định bán chịu cho khách hàng. 1.5.3 Phân tích tình hình sử dụng tài sản cố định. Hiệu quả sử dụng tài sản cố định là mục tiêu của việc trang bị tài sản cố định trong doanh nghiệp. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định chính là kết quả của việc cải tiến tổ chức lao động và tổ chức sản xuất , hoàn chỉnh kết cấu tài sản cố định , hoàn chỉnh khâu yếu hoặc lạc hậu của quy trình công nghệ . Đồng thời sử dụng hiệu quả tài sản cố định hiện có tại doanh nghiệp là biện pháp tốt nhất sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả Ngưòi tính các chỉ tiêu sau: Hiệu suất sử dụng TSCĐ = Giá trị sản lượng sản phẩm Giá trị bình quân TSCĐ Trong đó, giá trị sản lượng có thể lấy bằng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này phản ánh, cứ một đồng nguyên giá tài sản cố định bình quân tham gia vào quá trình kinh doanh thì tạo ra đọc bao nhiêu tổng giá trị sản lượng sản phẩm. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ việc quản lý và sử dụng tài sản cố định càng tốt. Sức sinh lời của TSCĐ = Giá trị TSCĐ bình quân Doanh thu thuần 1.6 Phân tích tình hình quản lý và sử dụng vốn. 1.6.1 Phân tích tình hình công nợ phải trả. a) Phân tích chung. Các khoản phải trả là những khoản doanh nghiệp đi chiếm dụng của các tổ chức , cá nhân khác một cách hợp lý trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là các khoản vay ngắn hạn , vay dài hạn phải trả cho ngưòi bán , ngưòi mua trả tiền trước , thuế và các khoản phải nộp nhà nước , phải trả công nhân viên. Phân tích tình hình công nợ là làm rõ mối quan hệ kinh tế của doanh nghiệp với các đối tác bên ngoài . qua đó chủ doanh nghiệp có hướng giải quyết , tạo lòng tin cho các đối tác tam gia góp vốn vào doanh nghiệp. Khi phân tích ta tính số tuyệt đối, tương đối và tỷ trọng cảu từng khoản cụ thể đẻ thấy được xu hướng biến đổi của từng khoản mục và từ đó đưa ra nhận xét đánh giá. Tất cả được trình bày dưới dạng bản b) Phân tích tình hình khả năng thanh toán của doanh nghiệp. * Phân tích khả năng thanh thanh toán: Phân tích tình hình thanh toán thực chất là xem xét cân đối giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, giữa số cuối kỳ và số đầu kỳ, cũng nhu tỷ trọng cuả từng khoản mục so với quy mô chung của khoản phải thu, các khoản phải trả. Tỷ lệ các khoản phải thu so với nợ phải trả = Tổng nợ phải thu Tổng nợ phải trả + Tổng phải thu gồm: Phải thu của khách hàng Trả trước cho người bán Phải thu nội bộ, các khoản phải thu khác. + Tổng nợ phải trả gồm: Nợ ngắn hạn Nợ dài hạn Nợ khác Nếu chỉ tiêu này >1 Thì Nợ phải thu > Nợ phải trả tức là doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng vốn và ngược lại chỉ tiêu này <1 thì Nợ phải thu < Nợ phải trả tức là doanh nghiệp đi chiếm dụng vốn của đơn vị khác chỉ tiêu bằng 1 thì cân bằng thu và trả. Nhằm đánh giá doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán nợ ngắn hạn hay không ngưòi ta thường tính các chỉ số về khả năng thanh toán theo các mức đọ tăng dần yêu cầu thanh toán. Bao gồm các chỉ tiêu sau đây + Hệ số thanh toán hiện hành là mối quan hệ giứa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là các khoản phải thu thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp thường phải dùng tài sản của mình để thanh toán bằng cách chuyểnđổi một phần tài sản của mình thành tiền. Khả năng thanh toán hiện hành = TSLĐ Nợ ngắn hạn + Hệ số khả năng thanh toán là một chỉ tiêu đánh giá chặt chẽ hơn về khả năng thanh toán hiện hành. Bởi khả năng thanh toán hiện hành bao gồm cả hàng tồn kho mà hàng tồn kho có nhiều loại rất khó trong việc chuyển thành tiền để thanh toán. cính vì vậy mà ta cần có một chỉ tiêu chặt hơn. Khả năng thanh toán nhanh = Tiền + Các khoản phải thu Nợ ngắn hạn Ngoài ra còn có một chỉ số ta gọi là khả năng thanh toán tức thời, nó được xác định như sau: Khả năng thanh toán tức thời = Vốn bằng Tiền Nợ đến hạn Hệ số này cho thấy khả năng thanh toán tốt của doanh nghiệp nhưng mặt trái của nó lại cho ta thấy khả năng sử dụng kém hiệu quả trong việc sử dụng tài chính với một ngân quỹ bị ứ đọng. Còn với một giá trị đủ nhỏ thì nguồn lực tài chính được sử dụng dường như có hiệu quả nhưng khả năng thanh toán sẽ yếu đi. 1.6.2 Phân tích khả năng sinh lời, sức sản xuất của nguồn vốn kinh doanh. Phân tích khả năng sinh lời, sức sản xuất của tổng vốn kinh doanh Để đánh giá việc sử dụng vốn vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả hay không hiệu quả ta tính các chỉ số sau đây: Sức sản xuất của vốn kinh doanh = DT thuần + TN của các hoạt động khác Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh bình quân thì tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần và thu nhập khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh. Sức sinh lời của vốn kinh doanh = Lọi nhuận trước thuế Vốn kinh doanh bình quân Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh bỏ ra đầu tư sã mang lại cho doanh nghiệp bao nhiêu đồng lợi nhuận. Suất hao phí = Vốn kinh doanh bình quân DT thuần + TN từ các hoạt động khác Chỉ tiêu này phản ánh để có được một đồng doanh thu thuần và thu nhập khác ngoài hoạt động kinh doanh thì doanh nghiệp cần phải đầu tư bao nhiêu đồng. Chỉ số này càng nhỏ càng tốt. b) Phân tích khả năng sinh lời, sức sản xuất của vốn chủ sở hữu. Sức sản xuất của vốn chủ sở hữu = Doanh thu thuần Vốn CSHbình quân Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng vốn chủ sở hữu bình quân đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì mang lại bao nhiêu đồn doanh thu thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này còn gọi hệ só vòng quay vốn chủ sở hữu. Sức sinh lời của vốn CSH = Lãi ròng sau thuế Vốn CSH bình quân Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng doanh thu thuần thì phải có bao nhiêu đồng vốn chủ sở hữu đầu tuư vào hoạt động kinh doanh, chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt vì cùng mang lại một đồng doanh thu thuần nhưng bỏ ra một lượng vốn ít hơn. Phần II Giới thiệu khái quát chung về doanh nghiệp 2.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Nhà máy Len 2.1.1 lịch sử hình thành Nhà máy Len Hà Đông là một doanh nghiệp Nhà nước, được khởi công xây dựng vào tháng 4/1958. Năm 1959, chính thức đi vào hoạt động và có tên là Nhà máy Nhuộm in hoa Hà Đông. Khi đó, Nhà máy chỉ là một cơ sở gia công nhuộm tẩy các mặt hàng vải lụa, sợi thuộc Công ty Bông vải, sợi –Bộ nội thương. Ban đầu, công nghệ sản xuất chủ yếu là sản xuất thủ công trên chảo rang và hong khô ngoài trời. 2.1.2. Những mốc thời gian chính trong quá trình phát triển Nhà máy Tháng 1/1961, Nhà máy chính thức được chuyển sang cho bộ Công nghiệp nhẹ quản lý và đổi tên thành Xí nghiệp in hoa Hà Đông. Nhiệm vụ chủ yếu của xí nghiệp lúc đó là in hoa trên vải và khăn mặt bông, nhuộm vải sợi phục vụ tiêu dùng trong nước. Năm 1973, theo kế hoạch đầu tư mở rộng của Bộ Công nghiệp nhẹ, Xí nghiệp được đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len phục vụ cho dệt thảm xuất khẩu. Nhờ đó, thiết bị sản xuất của Xí nghiệp được cơ khí hoá dần dần. Đến năm 1977, Xí nghiệp được đổi tên thành Nhà máy Len Nhuộm Hà Đông, thuộc Liên hiệp các xí nghiệp dệt Bộ Công nghiệp. Từ năm 1990, thực hiên chương trình Đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước, Nhà máy đã tiến hành tổ chức lại sản xuất và sắp xếp lại lao động. Để giải quyết công ăn việc làm cho số lao động dư thừa, Nhà máy đã xây dựng thêm một bộ phận dệt thảm Len xuất khẩu, đồng thời phát triển thêm dây truyền in vải hoa (là nghề truyền thống của Nhà máy). Cũng trong năm này, Nhà máy đổi tên thành Công ty Len Hà Đông. Năm 1996, Nhà máy đầu tư xây dựng thêm một phân xưởng sản xuất len Acrylic đan áo từ xơ hoá học với dây chuyền công nghệ và máy móc nhập khẩu từ Pháp. Năm 1999, Nhà máy chính thức sát nhập trở thành đơn vị trực thuộc Công ty len Việt Nam (Công ty thành viên của Tổng công ty dệt may Việt Nam) và mang tên Nhà máy len Hà Đông. Hiện nay, mặt hàng chủ yếu của Nhà máy là len thảm và len Acrylic. Ngoài ra, Nhà máy còn nhận gia công nhuộm vải và in hoa cho các đơn vị ngoài. Qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, Nhà máy đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sản xuất. Từ một cơ sở gia công, sản xuất thủ công ban đầu, đến nay đã trở thành một Nhà máy với 320 cán bộ công nhân viên. Trong những năm gần đây, do biến động của thị trường tiêu thụ, sản phẩm của Nhà máy phải cạnh tranh với các hàng hoá nhập lậu bằng các đường tiểu nghạch qua biên giới nên Nhà máy gặp rất nhiều khó khăn. Tuy vậy, Nhà máy vẫn luôn cố gắng thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với Nhà nước, đảm bảo việc làm cho số lao động hiện có. 2.2. Chức năng nhiệm vụ của doanh nghiệp: - Chức năng chính của Nhà máy là sản xuất các loại sợi len bao gồm: + Sợi len thảm sản xuất từ lông cừu 100% bán cho các doanh nghiệp và doanh nhân trong nước để dệt thảm len phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. + Sợi len Acrylic sản xuất từ Tow acrylic bán cho các doanh nghiệp và doanh nhân trong nước để làm nguyên liệu dệt các sản phẩm tiêu dùng từ len (quần áo, mũ, khăn len...) phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Ngoài ra một phần sợi len acrylic được dùng làm nguyên liệu cho phân xưởng dệt len mới đầu tư. + Thời gian tới sẽ có thêm các mặt hàng dệt từ sợi len acrylic (quần, áo, mũ. tất, khăn len...) của dây chuyền đan dệt mới đầu tư sắp đi vào hoạt động. -Thực hiện các hoạt động thương mại, dịch vụ khác trong phạm vi nghành nghề kinh doanh. 2.3. Công nghệ sản xuất của một số mặt hàng chủ yếu: 2.3.1 Qui trình công nghệ sản xuất sợi len thảm: Lông cừu sạch nhập về được đưa vào hệ thống xé trộn, sau đó phun các chất trợ để làm mềm (slovatol hoặc taisof) và ủ trong khoảng từ 8 đến 12 giờ sau đó đưa sang máy chải. Cúi chải được đưa váo hệ thống máy sợi con để kéo nhỏ sợi theo chi số mong muốn ( thường là chi số Nm= 4 ). Sợi từ máy sợi con được đưa vào đánh ống dạng côn sau đó được vào nhuộm, sấy trên máy nhuộm, sấy cao áp. Nhuộm sấy xong phải để hồi ẩm từ 48 đến 72 giờ để sợi trở lại trạng thái bình thường sau đó được chuyển vào bộ phận kiểm phẩm, đóng kiện thành phẩm. Chải Lông cừu Xé trộn, phun ủ Thành phẩm Nhuộm, sấy Đánh ống Sợi con Hình 1: Quy trình sản xuất sợi len thảm 2.3.2 Qui trình công nghệ sản xuất sợi len Acrylic: Tow nhuộm ở dạng xơ dải dài liên tục(chưa cắt ngắn). Sau khi vắt, sấy để hồi ẩm 12 giờ được đưa vào máy bứt tách, có thể bứt xơ hơi hoặc bứt xơ nhiệt tuỳ theo loại sợi mà khách hàng yêu cầu. Nếu sợi không cần tạo độ xốp thì chỉ cần bứt xơ hơi(loại này khi kéo sợi sẽ dễ hơn vì ít bị đứt). Nếu cần tạo độ xốp cho sợi thì phải pha lẫn xơ bứt hơi và xơ bứt nhiệt (tỷ lệ tốt nhất là từ 35% đến 40% xơ nhiệt và 60% đến 65% xơ hơi). Xơ sau khi được bứt thì vào hệ thống máy ghép. Đầu tiên là ghép hơi để xử lý xơ hơi và ghép nhiệt để xử lý xơ nhiệt sau đó qua các máy ghép để trộn đều và kéo nhỏ (cúi ở ghép1=16g/m, ghép2=14g/m, ghép3=10g/m, ghép4=6g/m). Cúi ghép được đưa vào máy kéo sợi thô, sợi con, đậu và xe. Sợi sau khi xe xong thì được guồng thành con để hấp hơi tạo độ xốp, qua bộ phận kiểm phẩm sau đó đánh ống và đóng kiện thành phẩm. Ghép Bứt, tách Nhuộm, sấy Tow Xe Guồng Đậu Sợi con Sợi thô Kiểm phẩm Thành phẩm Đóng kiện Hấp hơi Hình 2: Quy trình sản xuất sợi len acrylic 2.4 Hình thức tổ chức sản xuất và kết cấu cấu sản xuất của doanh nghiệp. Nhà máy có 03 phân xưởng sản xuất chính, 01 phân xưởng phụ và các bộ phận phục vụ như : bộ phận kho , bộ phận vận chuyển nội bộ, bộ phận thí nghiệm thử mẫu... +03 phân xưởng chính gồm: - Phân xưởng len 1: chuyên sản xuất sợi len thảm và sợi len PAN. Ngoài ra còn nhuộm toàn bộ Tow acrylic - nguyên liệu dùng để kéo sợi tại phân xưởng len 2. - Phân xưởng len 2: Chuyên sản xuất các loại sợi len acrylic từ Tow đã nhuộm ở phân xưởng len 1. - Phân xưởng đan dệt: Chuyên sản xuất các sản phảm dệt từ sợi len AC lấy từ một phần sản phẩm của phân xưởng len 2 (phân xưởng đan dệt mới đầu tư đang hoàn thiện chưa đi vào hoạt động). +01 phân xưởng phụ là phân xưởng cơ điện. Nhiệm vụ của phân xưởng này là cung cấp điện, hơi, nước, khí nén và chế tạo, gia công một số phụ tùng cho các phân xưởng sản xuất chính. Nhà máy tổ chức sản xuất theo hình thức chuyên môn hoá kết hợp. Các phân xưởng được tổ chức sản xuất theo hình thức chuyên môn hoá sản phẩm. Mỗi phân xưởng sản xuất một số loại sản phẩm nhất định (như đã trình bày ở trên). Riêng bộ phận nhuộm thì được tổ chức theo hình thức chuyên môn hoá công nghệ. Bộ phận nhuộm có nhiệm vụ nhuộm toàn bộ sản phẩm cũng như nguyên liệu đầu vào cho các phân xưởng sản xuất chính (bộ phận nhuộm được đặt ở phân xưởng len 1). Hình thức tổ chức sản xuất chuyên môn hoá sản phẩm là hình thức chủ yếu của Nhà máy do vậy việc tổ chức sản xuất trở nên đơn giản hơn, dây chuyền sản xuất khép kín nên chu kì sản xuất được rút ngắn. Chuyên môn hoá lao động sâu nên năng suất lao động cao tiết kiệm được chi phí tiền lương lao động trực tiếp. Bán thành phẩm ít và dễ kiểm soát chất lượng. Tuy nhiên việc quản lý kĩ thuật phức tạp hơn. Bộ phận nhuộm được tổ chức theo hình thức chuyên môn hoá công nghệ nên có ưu điểm là tận dụng được năng lực sản xuất của thiết bị nhuộm bên cạnh đó cũng còn nhiều bất cập như: việc tổ chức phối hợp giữa 02 phân xưởng đôi khi không ăn khớp, dự trữ vật tư bán thành phẩm trong sản xuất lớn, khó kiểm soát chất lượng và chi phí vận chuyển nội bộ tăng. 2.5 Cơ cấu bộ máy quản lý của Nhà máy Len Hà Đông 2.51. Mô hình quản lý của Nhà máy Len Giám đốc Phó Giám đốc Phòng tài chính kế toán Phòng kinh doanh Phòngtổ chức hành chính Phòng kĩ thuật sản xuất Phân xưởng len 2 Phân xưởng đan dệt Phân xưởng cơ điện Phân xưởng len 1 Hình 3: Mô hình bộ máy quản lý Nhà máy Len Nhà máy có hai cấp quản lý : cấp Nhà máy và cấp phân xưởng. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Nhà máy là cơ cấu kiểu trực tuyến- chức năng. Quyền lực trong quản lý theo kiểu trực tuyến, Giám đốc Nhà máy là người đứng đầu doanh nghiệp và chịu trách nhiệm đưa ra các quyết định về toàn bộ các mặt hoạt động của Nhà máy. Giúp việc cho giám đốc là 01 phó giám đốc và 04 phòng chức năng (kĩ thuật SX, kinh doanh, tổ chức hành chính, tài chính kế toán). Các bộ phận chức năng không trực tiếp ra quyết định mà chủ yếu làm tham mưu cho lãnh đạo trong quá trình ban hành quyết định 2.5.2 Chức năng nhiệmvụ của bộ máy tổ chức quản lý Chịu trách nhiệm trước Nhà nước, trước Nhà máy về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước. Nhà máy có các phòng ban chức năng sau: Phòng tổ chức hành chính: Tham mưu cho giám đốc về công tác tổ chức cán bộ của bộ máy quản lý, lao động, tiền lương và các công tác thuộc phạm vi chế độ chính sách đối với người lao động, công tác bảo vệ, quân sự, thi đua tuyên truyền…Phòng tổ chức hành chính còn có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch dự trù mua sắm, quản lý và cấp phát các dụng cụ, trang bị hành chính phục vụ cho nhu cầu của cán bộ, công nhân viên. chịu trách nhiệm tổ chức công tác văn thư lưu trữ, tổ chức tiếp khách đến giao dịch với Nhà máy, tổ chức khám sức khoẻ định kì cho cán bộ, công nhân viên. Phòng kĩ thuật: Chịu trách nhiệm về mặt kĩ thuật, có nhiệm vụ xây dựng các định mức kinh tế kĩ thuật, chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm. Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ lập các kế hoạch sản xuất kinh doanh và tổ chức thực hiện các kế hoạch sản xuất đối với các phân xưởng. Có nhiệm vụ cung ứng và quản lý toàn bộ nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ cho sản xuất sản phẩm. Tổ chức mạng lưới và tiến hành các hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Nhà máy. Phòng tài chính- kế toán: Có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, phản ánh các số liệu kế toán phát sinh, sao chụp chính xác tình hình tài chính của Nhà máy. trên cơ sở các số liệu đã có, tham mưu tài chính cho giám đốc, cung cấp các thông tin cần thiết và chính xác giúp cho giám đốc đưa ra các quyết định quản trị. Giữa các phòng ban chức năng có sự phối hợp chặt chẽ với nhau, cùng triển khai thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh của Nhà máy. 2.6. Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Nhà máy Len: 2.6.1.Bộ máy kế toán của Nhà máy Len: Bộ máy kế toán của Nhà máy Len Hà Đông được tổ chức thành Phòng Tài chính – Kế toán, chịu sự chỉ đạo và quản lý trực tiếp của Giám đốc. Bộ máy kế toán của Nhà máy được tổ chức theo hình thức tập trung, hạch toán độc lập Trưởng phòng kế toán Kế toán tiền lương, BHXH, kiêm thủ quỹ Kế toán NVL, chi phí giá thành Kế toán tiền mặt, tiền GNH,TSCĐ Kế toán tiêu thụ và công nợ Hình 4: Bộ máy kế toán Nhà máy Len Công tác kế toán được tổ chức theo dõi từ Phòng Kế toán xuống kho và các phân xưởng. Tại phân xưởng, có bố trí các nhân viên thống kê phân xưởng làm nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra công tác hạch toán ban đầu, thu nhận, kiểm tra, sắp xếp các chứng từ, tổ chức công tác chấm công của công nhân sản xuất. Sau đó, các chứng từ này được gửi về Phòng Kế toán để kế toán tiến hành ghi chép kế toán. Tại kho (nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, thành phẩm ....), Thủ kho có nhiệm vụ lập các phiếu nhập, xuất kho, sau đó ghi vào Thẻ kho. Định kỳ, Thủ kho tập hợp các chứng từ gửi lên Phòng Kế toán. Cuối kỳ, tiến hành kiểm kê và lập Báo cáo nhập, xuất, tồn kho gửi lên Phòng Kế toán. Tại Phòng Kế toán, khi nhận được các chứng từ ban đầu, theo sự phân công, các nhân viên kế toán thực hiện công tác kiểm tra, phân loại, xử lý chứng từ, tiến hành ghi sổ liên quan. Từ đó là cơ sở để tổng hợp, hệ thống hoá số liệu cung cấp thông tin cho việc quản lý tại Nhà máy. Cuối kỳ, lập các báo cáo kế toán gửi lên cấp trên và cơ quan quản lý Nhà nước. Phòng Tài chính - Kế toán của Nhà máy hiện nay gồm có 5 người: kế toán trưởng và 4 kế toán viên. - Kế toán trưởng: ở Nhà máy, kế toán trưởng đồng thời là kế toán tổng hợp, có nhiệm vụ tổ chức bộ máy kế toán của Nhà máy. Kế toán trưởng phụ trách chung toàn bộ bộ máy kế toán, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện ghi chép kế toán, chấp hành chế độ kế toán. Định kỳ, kế toán trưởng tập hợp các tài liệu để lập báo cáo gửi lên cơ quan cấp trên và cơ quan quản lý. Đồng thời, kế toán trưởng còn phải tổ chức bảo quản hồ sơ, tài liệu kế toán theo chế độ lưu trữ . Kế toán trưởng có trách nhiệm đúc rút kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo các phương pháp kế toán ngày càng hợp lý, chặt chẽ, phù hợp với tình hình, điều kiện của Nhà máy. - Kế toán tiền lương, BHXH, kiêm Thủ quỹ: Có trách nhiệm tổng hợp, tính toán, phân bổ và tiến hành thanh toán lương, tính các khoản trích theo lương của cán bộ, công nhân viên toàn Nhà máy. Đồng thời, có nhiệm vụ theo dõi sự biến động quỹ tiền mặt, tổ chức thu, chi tiền mặt vào quỹ. Cuối kỳ, kiểm kê tồn quỹ và lập Báo cáo tồn quỹ. - Kế toán vật liệu, chi phí và giá thành: có nhiệm vụ theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn kho nguyên, vật liệu. Cuối kỳ, tập hợp các chi phí sản xuất phát sinh, phân bổ chi phí cho các đối tượng liên quan để tính giá thành sản phẩm. - Kế toán tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tài sản cố định : Theo dõi tình hình tăng, giảm, luân chuyển tiền mặt, tiền gửi Ngân hàng của Nhà máy, đồng thời theo dõi tình hình tăng giảm TSCĐ, mức trích khấu hao tài sản cố định vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ kế toán. - Kế toán tiêu thụ, công nợ: Theo dõi các khoản nợ phải trả, nợ phải thu, tình hình hình thanh toán các khoản nợ này; theo dõi tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm, tình hình tiêu thụ sản phẩm. 2.6.2. Hình thức sổ kế toán - Hệ thống sổ kế toán: Để phù hợp với khối lượng nghiệp vụ kinh tế phát sinh khá nhiều, đáp ứng kịp thời yêu cầu quản ký trong điều kiện bộ máy kế toán gọn nhẹ, chưa áp dụng phần mềm kế toán trong việc xử lý các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, việc trang bị máy vi tính mới ở mức độ phục vụ cho tính toán, hình thức sổ kế toán Nhật ký – chứng từ được áp dụng tại Nhà máy là phù hợp nhất. Nhà máy áp dụng phương pháp kế toán hàng tồn kho là theo phương pháp kê khai thường xuyên, đánh giá theo giá thực tế, chuyển đổi ngoại tệ theo tỷ giá thời điểm hạch toán, thực hiện tính và trích khấu hao tài sản cố định theo Quyết định 166 của Bộ Tài chính. Sổ( thẻ) hoạch toán chi tiết Chứng từ gốc Sổ quỹ Bảng phân bổ Bảng kê Nhật ký-chứng từ Bảng tổng hợp chi tiết Sổ cái Ghi chú: Báo cáo kế toán Ghi hàng ngày Ghi cuối tháng Quan hệ đối chiếu Hình 5: Ghi sổ theo hình thức nhật ký - chứng từ Hệ thống sổ kế toán được Nhà máy sử dụng: Nhật ký chứng từ : Nhật ký chứng từ số 1: Ghi có Tài khoản 111-Tiền mặt Nhật ký chứng từ số 2: Ghi có Tài khoản 112-Tiền gửi Ngân hàng Nhật ký chứng từ số 4: Ghi có Tài khoản 341-Vay dài hạn Ngân hàng Nhật ký chứng từ số 5: Ghi có Tài khoản 331-Phải trả cho người bán Nhật ký chứng từ số 6: Ghi có Tài khoản 151 - Hàng mua đang đi trên đường Nhật ký chứng từ số 7: Tập hợp chi phí sản xuất kinh doanh toàn doanh nghiệp Nhật ký chứng từ số 8: Theo dõi việc tiêu thụ sản phẩm, doanh thu, kết quả Nhật ký chứng từ số 9: Theo dõi việc ghi giảm TSCĐ Nhật ký chứng từ số 10: Ghi có các Tài khoản: TK 141, TK 414, TK138(8), TK 411,TK431 - Bảng kê: Bảng kê số 1: Theo dõi về thu tiền mặt Bảng kê số 2:Theo dõi việc thu tiền gửi ngân hàng Bảng kê số 4: Tập hợp chi phí sản xuất theo phân xưởng Bảng kê số 5: Tập hợp chi phí đầu tư xây dựng cơ bản, chi phi bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp Bảng kê số 8: Theo dõi việc tình hình nhập, xuất, tồn kho thành phẩm Bảng kê số 11: Phải thu của khách hàng - Sổ chi tiết: Sổ chi tiết TSCĐ, sổ chi tiết bán hàng, sổ chi tiết vật liệu, công cụ dụng cụ, sổ theo dõi thanh toán .... - Sổ cái các Tài khoản. 2.7 Tình hình lao động của Nhà máy Bảng 2.1 Cơ cấu lao động của nhà máy Đơn vị tính:người TT Chỉ tiêu lao động TH BQ 2001 TH BQ 2002 Tổng._. hạn 10224407 1801324 -8423083 -468 1. Vay ngắn hạn 1000000 0 -1000000 2. Phải trả cho người bán 435505 688929 253424 37 3. Người mua trả tiền trước 0 393 393 4. Thuế và các khoản phải nộp nhà nước 42105 49462 7357 15 5. Phải trả công nhân viên 804196 913527 109331 12 6. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 7730345 9023 -7721322 -85574 7. Các khoản phải trả, phải nộp khác 212256 139990 -72266 -52 Tổng cộng nợ phải trả 10224407 1801324 -8423083 -468 Qua bảng phân tích tình hình công nợ phải trả ta có nhận xét Tình hình nợ ngắn hạn năm 2002 giảm so với năm 2001 là -8423083 đơn vị tính 1000đ tốc độ giảm –468% trong khi đó giảm chủ yếu là các khoản vay ngắn hạn –1000000 đơn vị tính1000đ và khoản phải trả cho các đơn vị nội bộ –7721322 đơn vị tính1000đvà các khoản phải trả phải nộp khác-72266đơn vị tính1000đ trong khi đó có một số khoản tăng nhẹ phải trả công nhân viên ngoài ra thuế và các khoản phải nôp nhà nước tăng nhẹ do quy định của pháp luật và người mua trả tiền trước cũng tăng nhẹ 393 đơn vị tinh1000đ và khoản phải trả cho ngưòi bán tăng là 253424 đơn vị tính1000đ 3.4.2 Phân tích tình hình khả năng thanh toán Tình hình tài chính được phản ánh rõ nét qua tình hình thanh toán và khả năng thanh toán của nhà máy. nếu hoạt động tài chính tốt sản xuất ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít đi chiếm dụng vốn cũng như ít bị chiếm dụng vốn. Ngược lại nếu tài chính không tốt sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau. * Phân tích hệ số khả năng thanh toán: Hệ số thanh toán của nhà máy được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: Hệ số thanh toán tổng quát = Tổng TSLĐ bình quân Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nhanh = Tiền+ Đ tư ngắn hạn Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán tổng quát = Tiền Nợ ngắn hạn Số liệu tính toán các chỉ tiêu ở bảng sau Bảng 3.19 Phân tích hệ số khả năng thanh toán giữa phải thu và phải trả Đơn vị tính: 1000đ Chỉ tiêu Năm Chênh lệch 2001 2002 Mức tăng Tốc độ tăng 1. Các khoản phải thu 5563230 6422772 859542 13 2. Nợ phải trả 12442196 4603624 -7838572 -170 Khả năng thanh toán 0.45 1.4 0.95 68 Qua bảng phân tích ta thấy tổng phải thu hàng năm đều nhỏ hơn tổng phải trả hệ số khả năng thanh toán giữa khả năng thanh toán giưa phải thu và phải trả là rất cao cụ thể là năm 2001 tổng phải thu là 5563230 đơn vị tính1000đ và nợ phải trả là 12442196 đơn vị tính 1000đ hệ số giữa phải thu và phải trả là 0,45 và năm 2002 hệ số giữa phải thu và phải trả là1,4 Qua phân tích trên đây ta thấy doanh bị đơn vị bạn chiếm dụng vốn nhất là năm 2002. * Phân tích các chỉ tiêu thanh toán Bảng 3.20 Phân tích các chỉ tiêu thanh toán Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch Tiền % 1TSLĐ bình quân 13436427 14727995 1291568 8.8 2Tiền + các khoản phải thu 7716747 7372803 -343944 -4.7 3Tiền 2153517 950031 -1203486 -126.7 4Nợ ngắn hạn 10224407 1801324 -8423083 -467.6 Khả năng thanh toán hiện hành(1/4) 1.31 8.18 6.87 84 Khả năng TT nhanh(2/4) 0.75 4.09 3.34 81.7 Khả năng thanh toán tức thời(3/4) 0.21 0.53 0.32 60.4 Qua số liệu phân tích các chỉ tiêu thanh toán trên ta thấy: Về khả năng thanh toán hiện hành qua hai năm đều lớn hơn 1 nhà máy luôn có khat năng thanh toán nợ, tình hình tài chính của nhà máy là tốt đảm bảo cho điều kiện hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đặc biệt năm 2002 hệ số thanh toán hiện hành tới 8,18 hay cứ một đồng nợ có 8,18 đồng vốn tài sản lưu động bình quân để thanh toán nợ. Tình hình rất khả quan trong lĩnh vực tài chính của doanh nghiệp Về khả năng thanh toán nhanh cho thấy năm 2001 hệ số thanh toán này là 0,75 ; năm 2002 là 4,09. Các hệ số này nhu cầu hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Khả năng thanh toán tức thời qua hai năm đều >0 Năm 2001 hệ số này là 0,21 Năm 2002 hệ số này là 0,53 Hệ số này là tương đối ổn định đảm bao cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy, dảm bảo độ tin cậy, uy tín cho khách hàng. Để xem xét sự ảnh hưởng do biến động của các khoản phải thu đến tình hình tài chính của Nhà máy, ta cần phải phân tích kỹ hơn về nhu cầu thanh toán Phân tích nhu cầu thanh toán Bảng3.21 Phân tích nhu cầu thanh toán Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu Năm Nhu cầu thanh toán 2001 2002 số tiền thanh toán 10224409 1800931 1. Vay ngắn hạn 1000000 0 2. Phải trả cho người bán 435505 688929 3. Thuế và các khoản phải nộp nhà nước 42105 49462 4. Phải trả công nhân viên 804196 913527 5. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 7730345 9023 6. Các khoản phải trả, phải nộp khác 212256 139990 Qua bảng số liệu trên cho ta thấy nhu cầu thanh toán của năm 2002 giảm so với năm 2001 là -8423478đơn vị tinh1000đ chủ yếu là phải trả cho các đơn vị nội bộ giảm là do nhà máy nhận lại vốn lưu động khi sát nhập(1/7/1999)công ty len có ý định điều chuyển vốn của nhà máy về công ty(nhưng thực sự chưa chuyển) vì vậy nhà máy đang treo ở phải trả nội bộ. Cho nên nhu cầu thanh toán của nhà máy giảm đến như vậy Phân tích khả năng thanh toán Bảng 3.22 Phân tích khả năng thanh toán Đơn vị tính:1000đ Khả năng thanh toán Năm 2001 2002 A. Các khoản có thể dùng thanh toán ngay 2153517 950031 - Tiền 2153517 950031 - Trong đó + Tiền mặt tại quỹ 44314 113495 +Tiền gửi Ngân hàng 2109203 836536 B. Tiền có thể dùng thanh toán 12160131 14192311 - Các khoản phải thu 5563230 6422772 - Hàng tồn kho 6536958 7735183 - Tài khoản lưu động khác 59943 34356 Tổng cộng: 14313648 15142342 Khả năng thanh toán của nhà máy năm 2002 tăng so với năm 2001 là 828694 đơn vị tính 1000đ Tỷ suất khả năng thanh toán = Khả năng T toán Nhu cầu T toán Tỷ suất khả năng thanh toán năm 2001 = 14313648 10224409 Tỷ suất khả năng thanh toán năm 2001 = 1,4 Tỷ suất khả năng thanh toán năm 2001 = 15142342 1800931 Tỷ suất khả năng thanh toán năm 2002 = 8,4 Qua tính toán tha thấy khả năng thanh toán của nhà máy 2 năm gần đây là tuơng đối ổn định, khả năng thanh toán là đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng nguyên nhân tại sao nó lại có thay đổi lớn đến như vậy là do nhà máy nhận lại vốn lưu động khi sát nhập(1/7/1999)Công ty Len có ý định điều chuyển vốn của nhà máy về công ty(nhưng thực sự chưa chuyển) vì vậy nhà máy đang treo ở phải trả nội bộ. Cho nên khả năng thanh toán của nhà máy năm 2002 có sự thay đổi so với năm 2001. 3.5 Phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh 3.5.1 Phân tích khả năng sinh lời của tổng nguồn vốn kinh doanh Mục đích của phân tích là đánh giá nhận xét xem nhà máy sử dụng vốn có mang lại hiệu quả hay không ta lập bảng phân tích sau để xem xét tình hình sinh lời của tổng nguồn vốn kinh doanh Bảng3.23 Phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Chênh lệch Tiền % 1 Doanh thu thuần + Thu nập Hđộng khác 15602078 18032877 2430799 13.5 2Tổng lợi tức trước thuế 413240 800613 387373 48.4 3 Vốn kinh doanh BQ 11061719 14678281 3616562 24.6 Sức sản xuất của vốn KD(1/3) 1.41 1.229 -0.181 -14.7 Hệ số sinh lời(2/3) 0.04 0.05 0.01 20 Suất hao phí(3/1) 0.709 0.814 0.105 12.9 Qua bảng phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh trên sức sản xuất của vốn kinh doanh bình quân năm 2001 giảm so với năm 2001 là (-14,7%). Nhưng xét đến chỉ tiêu sinh lời chung của 3 hoạt động (HĐKD, hoạt động bất thường). Nhìn trên tổng thể là tốt , thể hiện chiều hướng đi lên của doanh nghiệp. Xét đến chỉ tiêu suất hao phí vốn kinh doanh bình quân cho một đơn vị giá( doanh thu thuần+ thu nhập từ hoạt động khác) năm 2002 lại tăng hơn so với năm 2001 là12,9%. Xét các nhân tố ảnh hưởng đến xuất hao phí của vốn kinh doanh bình quân như sau: Đối tượng phân tích: 0.814 - 0.709 = 0.105 + ảnh hưởng của nhân tố với vốn kinh doanh bình quân 14678281 - 11061719 = 0,201 18032877 18032877 + ảnh hưởng của nhân tố doanh thu thuần + thu nhập từ hoạt động khác 11061719 - 11061719 = -0,009 18032877 15602078 Tổng hợp hai nhân tố ta có 0,201 + (-0,009) = 0,102 Như vậy yếu tố ảnh hưởng cần xem xét đó là yếu tố doanh thu của nhà máy cần có những biện pháp để tăng doanh thu có thể chúng ta dùng chính sách thương mại giảm giá, nâng cao chất lượng sản phẩm .. 3.5.2 Phân tích khả năng sinh lời của vốn CSH Vốn kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở hữu và công nợ phải trả. Để đánh giá khả năng sinh lời của vốn nói chung, vốn chủ sở hữu nói riêng. Ta đi phân tích các chỉ tiêu sau Sức sản xuất của VCSH = Doanh thu thuần Vốn CSH bình quân Chỉ tiêu này cho biết cứ 1 đ giá trị vốn CSH bình quân tham gia vào sxkd tạo ra được bao đồng donh thu Sức sinh lời vốn CSH = Lãi dòng sau thuế Vốn CSH bình quân Suất hao phí của vốn CSH = Vốn CSH bình quân Doanh thu thuần Bảng3.24 Phân tích khả năng sinh lời của VCSH Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu Năm chênh lệch 2001 2002 giá trị % 1 Doanh thu thuần 15037946 17555199 2517253 14.3 2lợi tức sau thuế 207819 552423 344604 62.4 3Nguồn vốn chủ sở hữu bình quân 8674499.5 13216013 4541513.5 34.4 4Sức sản xuất của vốn CSH( hệ số vòng quay vốn CSH(1/3) 1.73 1.33 -0.4 -30.1 5Sức sinh lời vốn CSH(2/3) 0.02 0.04 0.02 50 6Suất hao phí của vốn CSH(3/1) 0.58 0.75 0.17 22.7 7Hệ số doanh lợi của doanh thu thuần(2/1) 0.01 0.03 0.02 66.7 Xác định nhân tố ảnh hưởng đến hệ số sinh lời của vốn CSH Đói tượng phân tích: 0.04 - 0.02 = 0.02 +ảnh hửơng nhân tố của vốn CSH: 552423 - 552423 = -0,018 13216013 8674499 + ảnh hưởng của nhân tố doanh lợi 552423 - 207819 = O,039 8674499 8674499 Tổng hợp hai nhân tố O,039 + (-0,018) = 0,02 Từ công thức trên ta có: Sức sinh lời Vốn CSH = Doanh thu thuần x LN sau thuế Vốn CSH Doanh thu thuần Năm 2001 là 1,73 x 0,01 = 0,0173 Năm 2002 là 1,33 x 0,03 = 0,04 Vậy mức tăng vốn CSH của nhà máy là do tăng vòng quay vốn chủ sở hữu(1,73 – 1,33 = 0,4) còn hệ số doạn lợi tăng không đáng kể Vậy qua đó cho ta thấy việc tăng Vốn CSH là 34,4% trong khi đó doanh thu thuần chỉ là 14,3% là chưa hợp lý nhà máy cần tích cực hơn nữa. Bảng 3.25 Tóm tắt các chỉ tiêu tài chính Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu năm 2001 Năm 2002 Giá trị % Giá trị % 1- cơ cấu tài sản 21438844 100 22025438 100 A- Tài sản lưu độngvà đầu tư ngắn hạn 14313648 67 15142342 69 B- Tài sản cố định và đầu tư dài hạn 7125196 33 6883096 31 2- cơ cấu nguồn vốn 21452408 100 22025438 100 A. Nợ phải trả 12442196 58 4603624 21 B. Nguồn vốn chủ sở hữu 9010212 42 17421814 79 Bảng 3.26 Tóm tắt các chỉ tiêu tài chính Đơn vị tính:1000đ Chỉ tiêu năm 2001 2002 3 Hiệu quả sử dụng TSLĐ bình quân Sức SX( tính cho 1 đồng giá trị doanh thu thuần) 1.119 1.192 Sức sinh lời( tính cho một đồng lợi nhuận thuần) -0.011 0.024 Suất hao phí 0.894 0.839 4 Hiệu quả sử dụng TSCĐ bình quân Sức sản xuất 2.27 2.684 Sức sinh lời -0.023 0.054 Suất hao phí 0.44 0.373 5 Tốc độ luân chuển TSLĐ Số vòng quay của TSLĐ 1.119 1.192 Số ngày một vòng quay 322 302 6. Tình hình và khả năng thanh toán Tình hình thanh toán(phải thu/ phải trả) 0.45 1.4 Khả năng thanh toán hiện hành 1.31 8.18 Khả năng thanh toán nhanh 0.75 4.09 khả năng thanh toán tức thời 0.21 0.53 tỷ suất khả năng thanh toán 1.4 8.4 7 Hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh Sức sản xuất của vốn kinh doanh 1.41 1.229 Sức sinh lời của vốn kinh doanh 0.04 0.05 Suất hao phí 0.709 0.814 8Hiệu quả sử dụng vốn CSH Suất vốn CSH 1.73 1.33 Hệ số sinh lời 0.02 0.04 Suất hao phí 0.58 0.75 9 Hệ số doanh lợi DT thuần 0.01 0.03 3.6. Nhận xét đánh giá. Trong hai năm qua việc Hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy vẫn đảm bảo sản xuất kinh doanh có lãi doanh năm sau cao hơn năm trước lợi nhuận thuần và lợi nhuận ròngcũng được duy trì theo chiều hướng tăng. Hoạt động tài chính tương đối tốt.Thể hiện qua khả năng thanh toán, khả năng độc lập về mặt tài chính, Hầu hết các chỉ số tài chính đều tốt , nguồn vốn chủ sở tăng. Về cơ cấu tài sản cần để ý mấy điểm sau là tài sản và đầu tư ngắn hạn tăng theo từng năm nhưng tăng chủ yếu là hàng tồn kho và các khoản phải thu trong khi đó tiền giảm mạnh .Nhà máy cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề này để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Phần IV một số kiến nghị và biện pháp cải thiện tình hình tài chính ở nhà máy len 4.1 Các hướng đề xuất để cải thiện tình hình tài chính của Nhà máy Len Bất cứ một doanh nghiệp nào cũng mong muốn có một tình hình tài chính khả quan và mang tính lành mạnh. Cải thiện tình hình tài chính là mục tiêu của mọi doanh nghiệp, đó là cả một vấn đề rộng lớn mang tính cấp bách, liên quan và thúc đẩy nhau. Tình hình tài chính tốt hay xấu đều ảnh hưởng đến mọi hoạt động của doanh nghiệp và ngược lại. Nhà máy len Hà Đông là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên sản xuát các sản phẩm len là một nhu cầu cấp thiết đối người tiêu dùng và các doanh nhân muốn sử dụng len để sản xuát ra các sản tư len như áo mũ… để làm tốt được điều này thì Nhà máy phải có một chiến lược ngay từ bay giờ . Nhưng để làm được điều đó Nhà máy cần phải khắc phục những tồn tại, nhằm đáp ứng kịp thời được yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh doanh của nhà máy. + Hoàn thiện tổ chức quản lý, có phương án thu hút cán bộ quản lý có trình độ kỹ thuật cao từ đại học trở lên. + Tiết kiệm chi phí hạ giá thành sản phẩm + Đổi mới công nghệ sản xuất + Nâng cao chất lượng sản phẩm + Phải có phương án tiêu thụ sản phẩm của nhà máy một cách hiệu quả nhất Đứng trên góc độ là một sinh viên thực tập tìm hiểu về Nhà máy Len Hà Đông em xin đề xuất những phương hướng sau. Thứ nhất: Nhà máy cần phải tích cực hơn thu hồi các khoản nợ, chủ yếu là các khoản phải thu hồi từ khách hàng nợ. Thực tế cho thấy nếu tổ chức thanh toán tốt tiền hàng với người mua sẽ có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Nhà máy. Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này phải dùng những chiến lược kinh doanh của mình như là nếu Anh mua nhiều và số lượng lớn và trả tiền hàng đúng thời hạn sẽ được giảm giá và được khuyến khích bằng vật chất như tăng phẩm của Nhà máy… ngoài ra Nhà máy phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao về cách bán hàng và giao dịch thương mại khôn khéo để thu nhanh được các khoản nợ từ khách hàng và phải có quy chế trả luơng họp lý cho các cán bộ này có như vậy việc chiếm dụng vốn sẽ hạn chế. Thứ hai: Nhà máy cần phải có kế hoạch thanh lý máy móc thiết bị và hàng tồn kho. Các thiết bị máy móc của Nhà máy đã cũ nát lạc hậu nếu không thanh lý thì số máy sẽ xuống cấp và xuống giá và hàng tồn kho vì một số sản phẩm của nhà máy sản xuất của nhà máy sản xuất từ những năm 1990 đang có nguy cơ hỏng cần phải có biện pháp giải quyết để có vốn để kinh doanh . 4.2. Biện pháp cải thiện tình hình tài chính của Nhà máy Len Biện pháp 1: Cải thiện tình hình tài chính ở khâu công nợ, phải thu của khách hàng Trong điều kiện sản xuất kinh doanh phát triển doanh nghiệp , luôn phát sinh việc thu chi và thanh toán, do vậy vấn đề thanh toán trở nên đặc biệt quan trọng đối với những doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn. Cải thiện tình ở khâu thanh toán nhằm tìm ra nguyên nhân của mọi sự ngưng trệ trong các khoản thanh toán tiền trước làm chủ về mặt tài chính. Điều này có một ý nghĩa quan trọng trong việc tồn tại và phát triển của Nhà máy. Vấn đề này em xin đưa ra để nghiên cứu tìm biện pháp cải thiện công tác thu hồi công nợ. Đối với nợ của khách hàng: Bảng 4.0 Trích số liệu thống kê: số khách hàng còn nợ đến31/12/2002. Đơn vị tính:đồng STT Tên người nợ Số nợ (đ) 1 HTX Hoà Phát-Hoa Vang-QNĐN 11.539.300 2 Nguyễn Văn Mạnh-Cục thuế Hà Tây 2.000.000 3 Nhà máy giầy Yên Viên 965.579 4 Nhà máy dệt vải công nghiệp HN 867.500 ………. Tổng cộng 2385055000 Nhìn vào bảng cân đối kế toán ta thấy số nợ phải thu của khách hàng 1995616 đơn vị tính 1000đ (Năm2001) số phải thu của khách hàng 2385055đơn vị tính 1000đ (năm2002) cho Nên nhà máy cần phải có chiến lược rút ngắn thời hạn thu tiền của nhà máy để làm cho vòng quay vốn của nhà máy ngắn lại thì lúc đó hoạt động của doanh nghiệp của nhà máy mới tốt và giữa được uy tín của những nhà ngân hàng giới đầu tư… Cho nên em dùng chính sách tín dụng để giải quyết vấn đề này Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu thuần/360 Khoản phải thu = Kỳ thu tiền bình quân x DT bán chịu 360 +Năm 2002 Kỳ thu tiền bình quân = 6422772 x 360 17599393 Kỳ thu tiền bình quân là 131 ngày Giá trị những khoản nợ khó đòi là 15372đơn vị tính 1000đ DT bán chịu = Khoản phải thu x 360 Kỳ thu tiền bình quân DT bán chịu = 2385055 x 360 131 DT bán chịu = 6519010 đơn vị tính 1000đ Chi phí thu tiền là 0,02 x DT bán chịu Chí phí thu tiền = 0,02 x 6519010 = 1303802 đơn vị tính 1000đ Chi phí sử dụng vốn là 10% x Vốn đầu tư vào khoản phải thu Vốn đầu tư vào khoản phải thu = DT bán chịu x khoản phải thu Các loại chi phí Vốn đầu tư vào khoản phải thu = 6519010 x 2385055 5750494 Vốn đầu tư vào khoản phải thu = 2703802 đơn vị tính 1000đ Chi phí sử dụng vốn là 2703802 x 10% = 270380 đơn vị tính 1000đ Tỷ lệ sinh lời trên tài sản cần thiết là 0,05 + Phương án thay đổi như sau: Kỳ thu tiền bình quân giảm xuống còn 100 ngày Doanh số bán chịu là 6453900 đơn vị tính 1000đ Khoản phải thu của nhà máy là Khoản phải thu = 100 x 6453900 360 Khoản phải thu = 1792750 đơn vị tính 1000đ Khoản nợ khó đòi là 15372 đơn vị tính 1000đ Chi phí thu tiền 0,02 x DT bán chịu Chi phí thu tiền = 0,02 x 6453900 = 129078 đơn vị tính 1000đ Chi phí sử dụng vốn là 10% x Vốn đầu tư vào khoản phải thu Vốn đầu tư vào khoản phải thu = DT bán chịu x khoản phải thu Các loại chi phí Vốn đầu tư vào khoản phải thu = 6453900 x 1792750 5693060 Vốn đầu tư vào khoản phải thu = 2032339 đơn vị tính 1000đ Chi phí sử dụng vốn là 203233 đơn vị tính 1000đ Tỷ lệ sinh lời tài sản cố định là 0,05 Để làm được vấn đề này chúng ta cần phải đi xem xét một số khía cạnh thuận lợi và khó khăn có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh + Khó khăn : Ngoài Nhà máy sản xuất len ra còn rất nhiều doanh nghiệp cũng sản xuất len cho nên việc cạnh tranh len của nhà máy sẽ gặp khó khăn dẫn đến một số khách hàng quen biết mình từ trước sẽ có ý định mua hàng chỗ khác làm giảm doanh thu của Nhà máy. Tiếp theo là một số khách hàng mua hàng của nhà máy thường xuyên nhưng do doanh nghiệp của khách hàng làm ăn không có hiệu quả dẫn tới khả năng để thu được những khoản tiền dự tính sẽ giảm xuống Tiếp theo chúng ta cần phải nói đến Nhà máy chuyên sản xuất các sản phẩm Len và để cung ứng chủ yếu cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm từ len cho nên những sản phẩm này thì làm theo mùa vụ cho nên kỳ thu tiền phải có một khoảng thời gian cho nên nó cũng là một vấn đề gặp khó khăn khi ta đưa ra chính sách này + Thuận lợi : Nhà máy có đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề và đội ngũ bán hàng ở phòng kinh doanh rất tốt đây là khâu quan trọng khi nhà máy muốn giảm kỳ thu nợ và họ là nhũng người truyền tải ngôn ngữ của nhà máy đến khách hàng nên đó là điều thuận lợi cho nhà máy Thị phần len của nhà máy trong những năm gần đây dần dần được cải thiện trong khi một số nhà máy khác có chiều hướng đi xuống thì sản phẩm len của nhà máy có chiều hướng đi lên Vậy từ đó ta có bảng sau Bảng 4.1 Hiệu quả kinh tế thu đựơc áp dụng biện pháp như sau Đơn vị tính: 1000đ STT khoản mục Năm 2002 sau thay đổi 1 Doanh số bán chịu 6519010 6453900 2 Các loại chi phí 5750494 5693060 3 Lời gộp 768516 760840 4 Khoản phải thu 2385055 1792750 5 Vốn đầu tư vào khoản phải thu 2703802 2032339 6 Chi phí sử dụng vốn của khoản phải thu 270380.2 203233.9 7 Nợ khó đòi 15372 15372 8 Chi phí thu tiền 13038.02 6453.9 9 Tri giá tài sản cần thiết để tạo ra doanh số 6539564 6539564 10 Tỷ lệ sinh lời cần thiết trên tài sản 355845 355845 11 lợi nhuận trước thuế 113880.78 179935.2 12 lợi nhuận sau thuế 78577.7382 124155.288 Hiệu quả thu được là: 124155 -78577= 45577đơn vị tính 1000đ Biện pháp 2: Giải phóng hàng tồn kho và thanh lý máy móc thiết bị Để có một lượng vốn nhất định để có ý định sản xuất kinh doanh trong thời gian tới thì chúng ta phải có vốn vậy thì tìm vốn ở đâu ra trước hết chúng ta hãy nhìn lại các sản phẩm tồn kho còn lại từ những năm 90 đến nay những hàng hóa không tiêu thụ được do liên bang nga không nhập nữa và các máy móc tiết bị cũ nát hết thời gian sử dụng cần phải bán không xống cấp. để nghiên cứu vấn đề này ta xem bảng số liệu về hàng tồn kho và các máy móc thiết bị cũ nát cuả nhà máy len Hàng tồn kho Nhà máy đã mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản mục (gồm: Hàng mua đang đi đường; Nguyên liệu, vật liệu tồn kho; Công cụ, dụng cụ trong kho; Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang;Thành phẩm tồn kho; hàng hoá tồn kho và Hàng gửi đi bán). Định kỳ (tháng, qúy), Nhà máy tiến hành đối chiếu, tổng hợp, phân tích tình hình hàng tồn kho. Riêng đối với công cụ lao động nhỏ, Nhà máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như đồi với TSCĐ và đã tính toán, phân bổ dần giá trị của chúng vào chi phí kinh doanh theo thời gian sử dụng cho phù hợp. Đối với công cụ đã phân bổ hết mà vẫn sử dụng được, Nhà máy đã theo dõi, quản lý, sử dụng chúng như những công cụ lao động nhỏ bình thường nhưng không phân bổ giá trị của nó vào chi phí kinh doanh. Đặc biệt, ngày 6/12/2001, Nhà máy len Hà Đông đã thành lập Hội đồng kiểm kê gồm: Giám đốc, Trưởng phòng tài chính-kế toán, Trưởng phòng kinh doanh, Trưởng phòng kỹ thuật sản xuất đầu tư và hai phó phòng kỹ thuật sản xuất đẩu tư cùng nhau kiểm tra xem xét đánh giá chất lượng các loại vật tư hàng hoá thành phẩm kém mất phẩm chất của Nhà máy tại thời điểm 0 giờ ngày 1/1/2002 như sau: + Thảm len phục vụ xuất khẩu: Là loại thảm dệt ra với hy vọng trả nợ cho CH Liên bang Nga. Nhưng do chỉ tiêu trả nợ từ năm 1996 đến nay không có, cho nên không tiêu thụ được. Tổng số loại thảm này tồn kho đến 31/12/2001 là 1211,74 m2, số thảm này được dệt ra từ những năm 1991, 1994, 1995 nên chất lượng bị suy giảm nhiều, mặt thảm bị con nhậy cắn, các tua đa phần bị úa vàng, chất lượng kém; + Hoá chất thuốc nhuộm tồn kho ứ đọng lâu ngày: Do không có chỉ tiêu trả nợ cho CH liên bang Nga nên mặt hàng len thảm bị thu hẹp lại. Vì vậy, số hoá chất thuốc nhuộm mua về để chuẩn bị phục vụ cho sản xuát len thảm bị tồn kho ứ đọng nhiều, vì tồn kho lâu năm nên số hoá chất thuốc nhuộm này bị tác động của độ ẩm, không khí, oxy hoá làm chất lượng giảm đi rất nhiều, đại bộ phận là vón cục, chảy nước, thậm chí có những loại không còn sử dụng được trong sản xuất công nghiệp nữa (chỉ đưa vào sản xuất ở dạng thủ công nghiệp); + Vải thành phẩm tồn kho lâu ngày: Đại bộ phận số vải này là vải đầu tấm, vải có khuyết tật trong quá trình nhuộm và cũng có cả khuyết tật ngay khi còn là vải mộc được dồn từ năm này sang năm khác, số vải này do chất lượng kém, khó tiêu thụ nên tồn kho quá lâu năm, vì vậy độ bền cũng như màu sắc các dạng lỗi, không còn đảm bảo theo tiêu chuẩn phân loại nữa; + Len thảm: Số len thảm tồn kho từ đầu những năm 1990 đến nay đã bị nhậy cắn nhiều, ố vàng, chất lượng suy giảm rất nhiều; + Len Acrylic: Do mới đầu tư nên chất lượng chưa đạt được như len Acrylic của các Nhà máy có truyền thống như len Vĩnh Thịnh, len Biên Hoà. Mặt khác, do chưa có kinh nghiệm trong khâu tiếp cận thị trường, nắm bắt những nhu cầu của khách hàng cho nên một số màu sắc bị lạc mốt, chỉ số sợi bị lạc hậu + Phụ tùng dụng cụ: Một số phụ tùng dụng cụ để từ lâu không sử dụng đến dẫn đến bị han rỉ, nứt hỏng, giá trị sử dụng bị giảm đi rất nhiều Bảng 4.2 Giá trị nguyên nhiên vật liệu, thành phẩm ứ đọng kém, mất phẩm chất đến 31/12/2001 đơn vị: đồng stt Tên vật tư Theo giá trị sổ sách Theo giá trị xác định lại Chênh lệch tăng(+) giảm(-) A B 1 2 3=1-2 1 Hàng mộc 8.670.560 4.947.400 -3.723.160 2 Thuốc nhuộm hoá chất 1.259.331.692 536.851.416 -722.480.276 3 Xăng dầu mỡ 202.173.366 148.617.506 -53.555.860 4 Phụ tùng và vật liệu khác 94.185.309 24.501.660 -69.683.649 5 Công cụ dụng cụ 14.289.789 7.843.330 -6.446.459 6 Vải các loại 305.660.388 140.603.779 -165.056.609 7 Thảm len 588.978.514 98.210.000 -490.768.514 8 Len thảm 482.085.827 428.186.000 -53.899.827 9 Len đan 1.175.293.162 695.744.000 -479.549.162 Tổng 4.130.668.607 2.085.505.091 -2.045.163.516 Nguồn: Biên bản xác định chất lượng vật tư, hàng hoá, thành phẩm kém, mất phẩm chất tồn kho đến 1/1/2002 Bảng 4.3 Thanh lý máy móc thiết bị Đơn vị tính: 1000đ STT Máy móc thiết bị Định giá lại 1 1 Máy xé săn 145000 2 1 Máy chải số 1 156790 3 1 Hệ thống hút bụi máy chải 115000 4 1 Hệ Máy nén làm lạnh 107,3kw 150000 5 1 Hệ Tháp làm mát 116m3/h 45000 6 1 Hệ Máy điều hoà không khí 2000 7 2 Nồi hơi đốt dầu Pháp 135000 8 1 Máy xé Lông cừu ET 60 65000 9 1 Máy In GL h/c 2000 10 2 Máy Vi tính 300 A t/v 4000 11 1 Máy in LQ 2180 t/v 3000 12 1 Nồi hơi đốt than 65000 13 1 Máy đánh ống chuyển từ NĐ lên 35000 14 3 Máy nhuộm len 150000 15 1 Máy sấy lông cừu 45000 Tổng cộng 1117790 * Biện pháp của em đối với hàng tồn kho sau khi đã kiểm kê đánh giá lại toàn bộ hàng tồn kho kém phẩm chất thì chúng ta lau chùi đánh giá từng mặt hàng loại tốt , loại trung bình loại hỏng riêng ra một chỗ và bán cho những đối tượng khách hàng hoặc doanh nhân đang cần những loại hàng hoá đó ví dụ như thuốc nhuộm công cụ dụng cụ có thể bán cho các đơn vị đang dùng nhất là nhuộm những dịch vụ in, nhuộm quần áo họ rất cần thuốc nhuộm chúng ta có thể giao bán cho họ còn công cụ dụng cụ có thể bán cho những nhà sản xuất cơ khí Nhà máy họ có cần thiết để sửa chữa, còn các sản phẩm thảm len chúng ta có chính sách bán hàng đại hạ giá thì lúc đó chúng ta sẽ có môt khoản tiêng không nhỏ để hoạt động sản xuất kinh doanh sau này. Nhưng để bán được lô hàng đó ta cũng phải trích ra 1 khoản cho anh em công nhân viên + Tiền vận chuyển bốc xếp + Tiền kiểm phẩm + Tiền giao dịch + Các khoản khác Toàn bộ các khoản đó khoảng 10% sau khi bán hết hàng tồn kho chúng ta còn Số tiền thu được khi bán hàng tồn kho là: 2085505 x (1-10%) = 1876955 đơn vị tính 1000đ * Còn đối với máy móc tiết bị đã hết thời gian sử dụng để trong kho lâu ngày sẽ xuống giá và sẽ hỏng cho nên em cũng có biện pháp thanh lý toàn bộ số máy móc thiết bị đó bằng biện pháp bán đấu giá em sẽ cử người đi thăm dò và thu thập thông tin các đối tượng có nhu cầu cần để mua các máy móc đó nhất là các đơn vị cơ khí các doanh nghiệp tư nhân đang cần mua máy đó để phục vụ sản xuất kinh doanh sau khi đã thu thập xong mời các đơn vị đó đến 1 ngày chúng ta sẽ bán đấu giá các sảm đó với mức giá khởi điểm như đã định ở trên thì chúng ta sẽ thu được một khoản tiền cũng khá cao để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh donh của mình nhưng để làm được điều đó chúng ta cần phải có 1 số chi phí để làm điều đó + Chi phí đi giao dịch + Chi phí lau chùi máy móc thiết bị + Các loại chi phí khác Tổng các khoản chi đó vào khoản 10% số tiền bán được và chúng ta thu được số tiền đó là 1117790 x (1-10%) = 1006011 đơn vị tính 1000đ Sau khi thanh lý hàng tồn kho kém phẩm chất và máy móc thiết bị chúng ta thu được là 1006011 + 1876955 = 2882966 đơn vị tính 1000đ Làm cho khả năng thanh toán tức thời chủa Nhà máy Năm 2002 là Hệ số thanh toán tổng quát = Tiền Nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán tổng quát = 950031 1801324 Hệ số thanh toán tổng quát = 0,53 Sau khi thanh lý hàng tồn kho kém phẩm chất và máy móc thiết bị ta sẽ thu được là Hệ số thanh toán tổng quát = 950031+2882966 1801324 Hệ số thanh toán tổng quát = 2,12 Hệ số nợ = Nợ Phải trả Vốn chủ sở hữu Năm 2002 Hệ số nợ = 4603624 17421814 Hệ số nợ = 0.3 Hệ số nợ = 4603624 17421814 +2882966 Hệ số nợ = 0.23 Đây là con số rất tốt để ta có thể giữ uy tín với nhà ngân hàng khi muốn vay tiền họ và các giới đầu tư muốn làm ăn với Nhà máy để có vốn mua máy móc thiết bị mới để tạo ra sản phẩm có chất lượng đủ sức cạnh tranh trên thị trường khi mà hàng hoà của Trung Quốc Ân Độ và các đối thủ trong ngành có như vậy Nhà máy mới từng bước đi nên được. Kết luận Phân tích tình hình tài chính ở các doanh nghiệp nói chung và phân tích tình hình tài chính của Nhà máy Len nói riêng là vấn đề đáng quan tâm của chủ doanh nghiệp cũng như nhiều đối tượng liên quan khác. Tình hình tài chính , quy mô tài sản, nguồn vốn, hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh và khả năng sinh lời cũng như tình hình công nợ và khả năng thanh toán của Nhà máy Len có nhiều mặt tích cực đáng khích lệ. Song bên cạnh đó còn không ít những điểm tồn đọng đòi hỏi cần thiết được khắc phục để từng bước khẳng định vị trí của mình trên thương trường. Bằng những kiến thức lý luận đã được trang bị kết hợp với thực tiễn nghiên cứu tìm hiểu tại Nhà máy. Em đã mạnh dạng đưa ra một số ý kiến đề xuất với mong muốn tăng cường hơn nữa nhằm phân tích và hoàn thiện tình hình chính tại Nhà máy Len nói riêng và các doanh nghiệp nói chung. Song thời gian tiếp xúc với thực tế có hạn, hiểu biết trong lĩnh vực tài chính còn nhiều hạn chế nên những phân tích trong đề tài cũng như những suy nghĩ ban đầu có tính chất gợi mở sẽ không tránh khỏi những khiếm khuyết nhất định. Em rất mong các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ phòng kế toán - tài chính của Nhà máy cùng toàn thể các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp nói chung đóng góp ý kiến với mục đích hoàn thiện hơn công tác quản lý tài chính doanh nghiệp ở Nhà máy ngày một tốt hơn, thích hợp hơn trong điều kiện hiện nay. Tài liệu tham khảo Lê Phương Hiệp, Giáo trình giảng dậy môn phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh, NXB thống kê, 2003 Nghiêm Sỹ Thương, Giáo trình giảng dạy môn quản lý tài chính Vũ Việt Hùng, Quản lý tài chính, NXB thống kê Ngô Thế Chi, Đọc, Lập, Phân tích bào cáo tài chính doanh nghiệp, NXB thống kê , 6/2001 Nguyễn Hải Sản, Quản trị tài chính doanh nghiệp, NXB thống kê Josette Peyrard, Quản lý tài chính doanh nghiệp, NXB thống kê, 1994 Josette Peyrard, Phân tích tài chính NXB thống kê Và một số tài liệu tham khảo khác của các thầy giáo trong khoa quản lý tài chính giảng dạy ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0002.doc
Tài liệu liên quan