Phép biện chứng về mâu thuẫn & vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

MỤC LỤC Lời mở đầu . Chương I. Lý luận chung về mâu thuẫn . 1. Khái quát chung về quy luật mâu thuẫn . 2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn . 3. Một số loại mâu thuẫn . 4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn . Chương II. KTTT và mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT ở Việt nam. 1. Khái quát chung về KTTT. 2. KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. 3. Những mâu thuẫn phát sinh trong quá trình chuyển sang KTTT ở Việt Nam. Chương III. Một số giải pháp cho nền KTTT ở Việt Nam hiện nay.

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 3634 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phép biện chứng về mâu thuẫn & vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền Kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kết luận. Tài liệu tham khảo và các từ viết tắt LỜI MỞ ĐẦU Quy luật mâu thuẫn là một quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển, nó chỉ ra nguyên nhân của sự thay đổi cái này thành cái khác, đồng thời nó tác động đến tất cả quy luật và phạm trù của phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng: mọi sự vật và hiện tượng trong tự nhiên đều tồn tại mâu thuẫn bên trong. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi sự vật và hiện tượng của giới tự nhiên, đời sống xã hội và tư duy con người. Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện đến khi sự vật kết thúc. Trong mỗi một sự vật có thể có nhiều mâu thuẫn và sự vật trong cùng một lúc có rất nhiều mặt đối lập. Mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại hình thành... Ở nước ta hiện nay việc phát hiện ra các cơ hội và thách thức; thuận lợi và nguy cơ là trung tâm điểm của việc phát hiện và giải quyết mâu thuẫn, thực hiện chiến lược phát triển đất nước. Bên cạnh đó, việc phát hiện và giải quyết hàng loạt các mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là một nội dung quan trọng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế xã hội. Nước ta đã trải qua hơn 20 năm đổi mới, chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đã đưa lại hiệu quả và đã tạo nên những thành tựu to lớn đưa nước ta vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tuy nhiên, nền KTTT định hướng XHCN là một nền kinh tế quá độ với điểm xuất phát và bản chất của chế độ cũ nên nó không tránh khỏi những mâu thuẫn quá độ của nó. Những mâu thẫn đó luôn chứa đựng những mặt tiêu cựu mang tính nội tại và kìm hãm, gây trở ngại cho công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế đòi hỏi phải được giải quyết. Giải quyết được những mâu thuẫn đó sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển một cách vững chắc và ổn định theo đúng định hướng đã đặt ra. Qua thời gian nghiên cứu bộ môn Triết học và tình hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt nam, nhận thấy tầm quan trọng của phép biện chứng về mẫu thuẫn và những mâu thuẫn thực tế đang xảy ra trong nền kinh tế nước ta hiện nay cũng như những vướng mắc trong các vấn đề chính trị xã hội có liên quan đến quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo PGS.TS Dương Thị Liễu và thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Sinh, tôi đã quyết định chọn đề tài : ''Phép biện chứng về mâu thuẫn và vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong quá trình phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam" cho bài tập tiểu luận của mình. Ngoài Lời nói đầu, Kết luận, Phụ lục tham khảo thì bài tập này trình bày theo 3 chương sau : Chương I : Lý luận chung về mâu thuẫn. Chương II : KTTT và mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT ở Việt nam. Chương III : Giải pháp cho nền KTTT ở Việt Nam hiện nay. Mặc dù đã rất nhiều cố gắng nhưng do thời gian cùng vốn kiến thức còn hạn chế nên việc hoàn thành bài tập không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo đóng góp của cô giáo và các bạn để có thể bổ xung nâng cao vốn kiến thức của mình. CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÂU THUẪN. 1. Kháí quát chung về quy luật mâu thuẫn . a. Các khái niệm chung. -Mâu thuẫn: từ trước đến nay đã có nhiều hình thức định nghĩa khác nhau về mâu thuẫn, nhưng ta chỉ xét trên cơ sở khái niệm của phép biện chứng duy vật: Mâu thuẫn là mối liên hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. -Mặt đối lập: là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng ...trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật và hiện tượng, chúng luôn có xu hướng loại trừ nhau nhưng lại là điều kiện tồn tại của nhau. -Thống nhất của các mặt đối lập :Nghĩa là các mặt đối lập nương tựa vào nhau, tạo ra sự phù hợp, cân bằng nhưng liên hệ phụ thuộc, quy định và ràng buộc, mặt đối lập này lấy mặt đối lập kia làm tiền đề cho sự tồn tại của chính mình và ngược lại. -Đấu tranh của các mặt đối lập: là sự bài trừ gạt bỏ phủ định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập. b. Vị trí và vai trò của quy luật: -Quy luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và là hạt nhân của phép biện chứng duy vật. -Quy luật chỉ ra nguồn gốc bên trong, động lực của mọi sự vận động và phát triển của thế giới khách quan. 2. Nội dung của quy luật mâu thuẫn: a. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Để hiểu được nội dung quy luật, trước hết cần nắm đươc khái niệm ''mặt đối lập''. Khái niệm mặt đối lập trong quy luật mâu thuẫn là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng… phát triển trái ngược nhau nhưng chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, chúng vừa thống nhất với nhau lại vừa đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau. Trong đó thống nhất là tương đối, tạm thời còn đấu tranh là vĩnh viễn tuyệt đối. Chính những mặt như vậy nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Do đó cần phải phân biệt rằng mỗi mâu thuẫn phải có hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Bởi vì trong các sự vật hiện tượng của thế giới khách quan, không phải chỉ tồn tại trong hai mặt đối lập mà trong cùng một thời điểm mỗi sự vật có thể cùng tồn tại nhiều mặt đối lập, có những mặt đối lập là tồn tại thống nhất trong cùng một sự vật có liên hệ khăng khít với nhau, tác động qua lại với nhau nhưng có khuynh hướng phát triển ngược chiều nhau, bài trừ, phủ định và chuyển hóa lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Ví dụ như lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất của phương thức sản xuất, chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học …Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh với nhau. * Sự thống nhất nhất của các mặt đối lập. Trong một mâu thuẫn, hai mặt đối lập có quan hệ thống nhất với nhau. Sự ''thống nhất'' trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên hệ với nhau, ràng buộc nhau quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề cho sự tồn tại của mình và ngược lại. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì nhất định không có sự tồn tại của sự vật. Bởi vậy sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không thể thiếu được cho sự tồn tại của bất kỳ sự vật, hiện tượng nào. Sự thống nhất này do những đặc điểm riêng của bản thân sự vật tạo nên. Ví dụ, trong xã hội tư bản, giai cấp vố sản và giai cấp tư sản là hai mặt đối lập thống nhất với nhau, nếu không có giai cấp vô sản tồn tại với tư cách là một giai cấp bán sức lao động cho nhà tư bản thì cũng không có giai cấp tư sản tồn tại với tư cách là một giai cấp mua sức lao động của giai cấp vô sản để bóc lột giá trị thặng dư. Giữa các mặt đối lập bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau, ''đồng nhất'' với nhau. Vì vậy ''đồng nhất'' và ''thống nhất" trong trường hợp này là đồng nghĩa với nhau. Song khái niệm ''đồng nhất'' còn có một nghĩa khác đó là sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các măt đối lập. Như vậy, theo quan điểm của phép biện chứng, sự đồng nhất không tách rời với sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật vừa là bản thân nó, vừa là một cái khác với bản thân nó,trong sự đồng nhất đã bao hàm sự khác nhau, sự đối lập. Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập diễn ra có giới hạn, có khởi đầu, có kết thúc. Giới hạn đó chính là sự tồn tại của vật. Vì thế nó chỉ là hiện tượng tương đối tạm thời nhưng sự thống nhất giữa các mặt đối lập đã tạo ra mâu thuẫn, tạo ra địa bàn cho sự đấu tranh giữa chúng và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Trong nền kinh tế thị trường, nếu khống có sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, tích lũy và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội … thì khó có thể thúc đẩy nền kinh tế phát triển . Nghiên cứu về tính thống nhất giữa các mặt đối lập giúp chúng ta có một thế giới quan đúng đắn trong việc nhận thức thực tiễn và áp dung trong viêc xây dựng nền kinh tế đất nước. * Sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tính thống nhất của các mặt đối lập mà ta xem xét ở trên chỉ là đặc tính tạm thời, còn sự đấu tranh giữa chúng mới là cái thương xuyên diễn ra. Khái niệm "đấu tranh" giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ phủ định nhau. Sự bài trừ, phủ định nhau trong thế giới vật chất được thể hiện dưới những dạng khác nhau, cùng tồn tại trong một sự vật thống nhất như một chỉnh thể trọn vẹn nhưng không nằm yên bên ngoài nhau mà điều chỉnh chuyển hóa lẫn nhau tạo thành động lực phát triển của bản thân sự vật.Ví dụ :Sự đấu tranh giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản được diễn ra dưới dạng xung đột với nhau về nhiều mặt rất gay gắt và quyết liệt, chỉ có thể thông qua cách mạng xã hội bằng nhiều hình thức, kể cả bạo lực mới giải quyết được mâu thuẫn này một cách căn bản. Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp. Quá trình ấy có thể chia ra từng giai đoạn. Mỗi giai đọan lại có những đặc điểm riêng của nó. Khi mới xuất hiện mâu thuẫn hai mặt đối lập chưa thể hiện rõ xung khắc gay gắt, mà được biểu hiện ở sự khác nhau của hai mặt đối lập-giai đoạn hình thành mâu thuẫn. Song không phải bất cứ sự khác nhau nào của các mặt cũng là mâu thuẫn. Chỉ có hai mặt khác nhau nào liên hệ hữu cơ với nhau trong một chỉnh thể và có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau thì mới hình thành bước đầu của mâu thuẫn. Khi xung đột trở nên gay gắt, có điều kiện chín muồi, thì hai mặt đối lập sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật mới là một thể thống nhất mới của hai mặt đối lập và quá trình đấu tranh lại diễn ra, sự chuyển hóa cuối cùng lại được thực hiện và một sự vật mới hơn lại hình thành làm cho sự vật không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Vì thế, đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, là động lực bên trong của sự vận động và phát triển. Với tư cách là hai trạng thái đối lập trong mối quan hệ qua lại giữa hai mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự thống nhất có tính tam thời, tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng yên tương đối của các sự vật và hiện tượng. Còn sự đấu tranh của mối quan hệ có tính tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hóa về vật chất của các mặt đối lập gắn liền với sự tự thân vận động, tự thân phát triển diễn ra không ngừng của các sự vật và hiên tượng trong thế giới vật chất. b. Sự chuyển hóa của các mặt đối lập. Sự chuyển hóa cuối cùng giữa hai mặt đối lập là sự kiện quan trọng nhất trong quá trình vận động giải quyết mâu thuẫn của sự vật. Nếu như đấu tranh giữa các mặt đối lập không dẫn đến sự chuyển hóa cuối cùng thì mâu thuẫn chưa được giải quyết, sự vật vẫn là nó. Chuyển hóa của các mặt đối lập chính là lúc mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời, đó chính là qúa trình diễn biến rất phức tạp với nhiều hình thức phong phú khác nhau. Do đó, không nên hiểu sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập một cách đơn giản là sự đổi chỗ cơ giới mà cần phải hiểu được cả hai mặt đối lập đều cùng vận động, phát triển lên một tính chất và trình độ mới, mâu thuẫn của sự cũng có tính chất mới vì thế đòi hỏi phải có những biện pháp mới để giải quyết mâu thuẫn nhằm thúc đẩy sự vật phát triển. Các hình thức chuyển hoá của các mặt đối lập là rất đa dạng, thông thường có 3 hình thức chuyển hóa : - Sự chuyển đổi vị trí của các mặt đối lập, đồng thời tính chất của mỗi mặt đối lập đều có sự thay đổi. Thí dụ, tính chất thống trị giai cấp được thay đổi qua các cuộc cách mạng xã hội, tư cách người mua và người bán trong nền kinh tế thị trường. - Các mặt đối lập thủ tiêu lẫn nhau trong quá trình chuyển hoá và xác lập mặt đối lập mới. Thí dụ có hai giả thuyết khoa học cũ đều mất đi và xác lập giả thuyết mới. - Các mặt đối lập thâm nhập chuyển hoá lẫn nhau và cùng phát triển. Thí dụ như vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế… Như vậy, từ những phân tích trên cho ta thấy trong thế giới hiện thực bất kỳ một sự vật- hiện tượng nào cũng chứa đựng trong bản thân nó những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Sự đấu tranh và chuyển hoá của các mặt đối lập trong những điều kiện cụ thể tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới hình thành, sự vật mới lại nảy sinh các mặt đối lập và mâu thuẫn mới. Các mặt đối lập này lại đấu tranh chuyển hóa, phủ định lẫn nhau để trở thành sự vật mới hơn. Cứ như vậy mà các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan thường xuyên phát triển và biến đổi không ngừng. Vì vậy mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của mọi sự phát triển, Lênin từng nói :"Sự phát triển là một cuộc "đấu tranh" giữa các mặt đối lập". 3. Một số loại mâu thuẫn. Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong mọi lĩnh vực của thế giới với những hình thức rất đa dạng. Tính đa dạng của mâu thuẫn do tính đa dạng của các mối liên hệ trong sự vận động và phát triển của thế giới vật chất quy định. Mỗi loại mâu thuẫn đều có những đặc điểm riêng và có vai trò khác nhau đối với sự phát triển của sự vật. a. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành một sự vật nhất định. Mâu thuẫn này bao giờ cũng là nhân tố quyết định bản chất và xu thế vận động của chính bản thân sự vật. Ví dụ như mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong phương thức sản xuất nhất định. Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa mặt đối lập của sự vật này với mặt đối lập của sự vật khác. Ví dụ mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng của quốc gia này với bọn phản cách mạng trong một quốc gia khác. Việc phân chia mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài cần có quan điểm lịch sử cụ thể và tuỳ phạm vi phân tích. Mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển của sự vật. Còn mâu thuẫn bên ngoài có vai trò hỗ trợ. Mâu thuẫn bên ngoài muốn phát huy tác dụng nhất định phải thông qua mâu thuẫn bên trong. Không thông qua mâu thuẫn bên trong, tư nó mâu thuẫn bên ngoài không thể phát huy được vai trò của mình. Tuy nhiên mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài lại vận động trong sự tác động lẫn nhau. Mỗi bước giải quyết mâu thuẫn này cũng là điều kiện để giải quyết mâu thuẫn kia. Chẳng hạn, trong công cuộc xây dựng và phát triển nước ta hiện nay, việc giải quyết những mâu thuẫn bên trong của đất nước là điều kiện quyết định để giải quyết những mâu thuẫn bên ngoài trong quá trình hợp tác giữa các quốc gia. b. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản. Mâu thẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật. Nó tồn tại gắn liền với sự vật từ khi sự vật sinh ra đến khi sự vật kết thúc. Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển của một mặt nào đó của sự vật. Mâu thuẫn cơ bản đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự vật.Trong quá trình phát triển của mình, mâu thuẫn cơ bản là cơ sở hình thành và chi phối các mâu thuẫn khác trong sự vật. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi về chất. Còn mâu thuẫn không cơ bản thì tồn tại bao giờ cũng gắn liền với mâu thuẫn cơ bản. Ví dụ, mặc dù bị các quy luật cơ bản của nền kinh tế chi phối nhưng mâu thuẫn giữa sức phát triển nhanh của công cụ sản xuất và công nghệ tiên tiến với sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên là nguyên liệu trực tiếp ở từng khu vực, có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển của sản xuất. Mâu thuẫn không cơ bản chỉ xuất hiện cùng với mâu thuẫn cơ bản khi sự vật hình thành, mà trong quá trình vận động, mâu thuẫn cơ bản có thể làm nảy sinh mâu thuẫn không cơ bản. Bởi vậy trong hoạt động thực tiễn, việc phân tích và nhận thức đúng hai loại mâu thuẫn này có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế. c. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu. Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển của mọi sự vật. Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định đối với quá trình phát triển của sự vật. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu cũng có thể chuyển hoá cho nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Việc xác định đúng từng loại mâu thuẫn sẽ cho phép con người tìm được những giải pháp phù hợp, tối ưu để giải quyết mâu thuẫn, tạo diều kiện thúc đẩy sự vật phát triển. d. Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau. Ví dụ như mâu thuẫn giữa giai cấp phong kiến với giai cấp nông dân, mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những những lực lượng, khuynh hướng xã hội mà lợi ích về căn bản là nhất trí với nhau. Ví dụ mâu thuẫn giữa các tầng lớp nông dân, giữa các bộ phận công nhân khác nhau, giữa lao động trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn… ở nước ta hiện nay. Phân biệt mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đố kháng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phương pháp giải quyết mâu thuẫn. Mâu thuẫn đối kháng theo nguyên tắc chung chỉ được giải quyết thông qua các cuộc cách mạng xã hội. Còn mâu thuẫn không đối kháng, xu hướng phát triển của nó ngày càng dịu đi. Mâu thuẫn này được giải quyết vẫn phải tuân thủ nguyên tắc là thông qua đấu tranh nhưng bằng phương pháp hoà bình. Trên đây là những nội dung và phân tích những nội dung cơ bản của quy luật mâu thuẫn, đó chính là cơ sở lý luận cho việc vận dụng quy luật này vào việc xây dựng những nguyên tắc chung trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế. 4. Ý nghĩa phương pháp luận của quy luật mâu thuẫn . - Xuất phát từ mâu thuẫn là hiện tượng khách quan phổ biến nên muốn phát hiện bản chất của mọi sự vận động và phát triển thì cần phải phân tích được mâu thuẫn vốn có của sự vật, xác định được những xu hướng vận động đối lập của mỗi sự vật mà ta phân tích, đồng thời phân tích xu hướng đối lập ấy trong tính thống nhất biện chứng của nó. - Xuất phát từ vai trò của đấu tranh giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực của mọi sự vận động phát triển nên về nguyên tắc chỉ có thể giải quyết mâu thuẫn thông qua sự đấu tranh của các mặt đối lập. Tuy nhiên biện pháp giải quyết mâu thuẫn rất đa dạng.. Khi đấu tranh giải quyết mâu thuẫn của sự vật cần có những quan điểm lịch sử cụ thể. CHƯƠNG II: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM. 1. Khái quát chung về KTTT. Trước hết ta tìm hiểu một số khái niệm :Khái niệm kinh tế hàng hóa, thị trường, cơ chế thị trường. +Kinh tế hàng hóa :Là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị trường". +Thị trường :Trong nền sản xuất, mọi sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đều được mua bán trên thị trường. Thị trường là một tập hợp tất yếu và hữu cơ của toàn bộ quá trình sản xuất và lưu thông hành hóa. Nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa. - Thị trường gắn liền với địa điểm nhất định, trên đó diễn ra những quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa. - Sản xuất hàng hóa phát triển, lượng sản phẩm hàng hóa lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào, phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm vật môi giới. - Ngày nay các nhà kinh tế học thống nhất với nhau khái niệm về thị trường như sau :Thị trường là một quá trình mà trong đó người bán và người mua tác động qua lại với nhau để xác định giá cả và sản lượng. +Cơ chế thi trường :là cơ chế tự điều chỉnh nền kinh tế hàng hóa dưới sự tác động khách quan của các quy luật kinh tế vốn có của nó, cơ chế đó giải quyết những vấn đề cơ bản của nền kinh tế. Từ đó ta có khái niệm:" Nền kinh tế mà trong đó những vấn đề cơ bản của nó do thị trường quyết định, vận động theo cơ chế thị trường gọi là "nền kinh tế thị trường"". * Đặc điểm của nền KTTT. Có thể nói, KTTT là kinh tế hàng hóa phát triển ở giai đoạn cao. KTTT là một loại hình mà trong đó, các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trường, tức là thông qua việc mua- bán, trao đổi hàng hóa- tiền tệ. Trong KTTT, các quan hệ hàng hóa- tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát nhiều lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. Do nảy sinh và hoạt động một cách khách quan trong những điều kiện lịch sử nhất định, KTTT phản ánh trình độ văn minh và sự phát triển của xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hội tiến lên. Tuy nhiên, KTTT cũng có những khuyết tật tự thân, đặc biệt là tính tự phát mù quáng, sự cạnh tranh lạnh lùng, dẫn đến sự phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ... KTTT trước hết là kinh tế hàng hóa, với đặc trưng phổ biến của nó là người sản xuất làm ra sản phẩm với mục đích để bán, để trao đổi chứ không phải để tự tiêu dùng, hay sản phẩm dư thừa ngẫu nhiên như trước. KTTT là nền kinh tế có sự đa dạng về hình thức sở hữu, về thành phần kinh tế, về hình thức phân phối. KTTT được sử dụng như một công cụ, một phương tiện để phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kih tế phục vụ lợi ích của đa số nhân dân lao động nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. KTTT là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển kể cả trong điều kiện vốn, ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp. KTTT luôn vận động, phát triển tái sinh, do đó để nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, các chính sách kinh tế vĩ mô phải thường xuyên được bổ xung hoàn thiện. KTTT gắn liền với Nhà nước pháp quyền và Nhà nước sẽ quản lý chủ yếu bằng pháp luật. 2.Kinh tế thi trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam. a. Sự cần thiết khách quan phải phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Việt nam. Lịch sử phát triển của sản xuất và đời sống của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hóa mà giai đoan cao của nó được gọi là KTTT. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế- xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì sự sinh tồn của con người. Kinh tế hàng hóa, bắt đầu bằng kinh tế hàng hóa đơn giản, ra đời từ khi chế độ Cộng sản nguyên thủy tan rã, dựa trên hai tiền đề cơ bản là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung- tự cấp sang kinh tế hàng hóa là đánh dấu bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. KTTT là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa và có những đặc trưng cơ bản như: phát triển kinh tế hàng hóa, mở rộng thị trường, tự do kinh doanh, tự do thương mại, tự định giá cả, đa dạng hóa sở hữu, phân phối do quan hệ cung cầu... đó là cơ chế hỗn hợp "có sự điều tiết vĩ mô" của Nhà nước để khắc phục những khuyết tật của nó. Cho đến đầu những năm 90, về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật, tự cung- tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam, về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số một đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong bước đường đi tới. Muốn vậy phải phát triển kinh tế hàng hoá, phát triển nền KTTT, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. b.Một số đặc điểm chung của nền KTTT ở Việt Nam. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung-quan liêu- bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế nước ta trong hiện nay và tương lai. Nền KTTT và phát triển nền KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam có những đặc trưng cơ bản sau : -Nền KTTT định hướng XHCN mà nước ta xây dựng là nền KTTT hiện đại với tính chất xã hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa, KTTT, thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn KTTT hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hóa giản đơn và giai đoạn KTTT tự do mà đi thẳng vào phát triển KTTT hiện đại. Mặt khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế- xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết khách quan và cũng là nội dung yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Sự nghiệp "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển KTTT định hướng XHCN ở nước ta. -Nền kinh tế của chúng ta là nền kinh tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong một số lĩnh vực, một số khâu quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng hóa, nền KTTT phải là một nền kinh tế đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Nền KTTT mà chúng ta sẽ xây dựng là nền KTTT hiện đại, cho nên cần có sự tham gia bởi "Bàn tay hữu hình" của nhà nước trong việc điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời, chính nó sẽ bảo đảm sự định hướng phát triển của nền KTTT. Việc xây dựng kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo là sự khác biệt có tính chất bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT TBCN. Tính định hướng XHCN của nền kinh tế ở nước ta đã quy định kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, bởi lẽ, mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở kinh tế tương ứng với nó. Kinh tế nhà nước tạo cơ sở cho chế độ xã hội mới- chế độ XHCN. -Nhà nước quản lý nền KTTT theo định hướng XHCN ở nước ta là nhà nước pháp quyền XHCN, là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền KTTT hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhà nước ta là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", nhà nước công nông, nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sảnViệt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và đang tự đổi mới để bảo đảm giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền KTTT hiện đại ở nước ta. -Cơ chế vận hành của nền kinh tế được thực hiện thông qua cơ chế thị trường với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước. Mọi hoạt động sản xuất- kinh doanh trong nền kinh tế được thực hiện thông qua thị trường. Điều đó có nghĩa là nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vận động theo những quy luật nội tại của nền KTTT nói chung, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế. Việc quản lý Nhà nước nhằm hạn chế, khắc phục những "thất bại của thị trường", thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không thể làm được.Vai trò quản lý của Nhà nước trong nền KTTT hết sức quan trọng. Sự quản lý của Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả, đặc biệt là bảo đảm sự công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà nước có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu- nghèo, giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất nước. Tuy vậy, sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế phải phù hợp với thị trường. -Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia là nội dung quan trọng của nền KTTT ở nước ta. Quá trình phát triển của KTTT đi liền với xã hội hóa nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hóa trên cơ sở phát triển của KTTT là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của KTTT hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hóa đời sống kinh tế với những khu vực hóa và toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện nay. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của KTTT hiện đại, Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung- tự cấp mà phải mở của, hội nhập với nền kinh tế thế giới trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. -Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng là một nội dung rất quan trọng trong nền KTTT ở nước ta. Phát triển trong công bằng được hiểu là những chính sách phát triển phải bảo đảm sự công bằng xã hội, là tạo cho mọi tầng lớp nhân dân đều có thể tham gia vào quá trình phát triển va được hưởng những thành quả tương xứng với sức lực, khả năng và trí tuệ họ bỏ ra, là giảm bớt chênh lệch giàu - nghèo giữa các tầng lớp dân cư giữa các vùng. Khác với nhiều nước, chúng ta phát triển KTTT nhưng chủ trương bảo đảm công bằng xã hội, thực hiện sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển kinh tế ở nước ta. Mức độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của quốc gia. Đại hội IX khẳng định :"Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN" Chủ trương xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN thể hiện tư duy, quan niệm của đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ củ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0501.doc
Tài liệu liên quan