Quan điểm lịch sử cụ thể với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay

Đề cương chi tiết A. Đặt vấn đề. B. Nội dung 1,Sự cần thiết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 1.1 Khái niệm kinh té thị trường và những ưu khuyết điểm của nền kinh té thị trường. 1.1.1.Kinh tế thị trường. 1.1.2. Những ưu thế vầ khuyết tật của nền kinh tế thị trường. 1.2 Sự giống và khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.1. Sự giống nhau giữa nền kinh tế

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1450 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm lịch sử cụ thể với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.2.2. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.3 Bối cảnh lịch sử cụ thể của chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam. 1.3.1,Bối cảnh quốc tế 1.3.2, Bối cảnh trong nước 1.4 Những cơ sở lý luận của công cuộc chuyển đổi sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2. Tính đặc thù của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.1.Quan điểm của Mac - Anghen về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2.2 Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. 2.3 Đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2.3.1 Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay 2.3.1.1 Sáu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. 2.3.1.2 Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thầnh phần định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. 2.3.2 Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2.4 Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2.5 Bản chất của thế chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta 2.6 Thành tựu đạt được từ khi xây dựng và phát triển theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 2.7 Những hạn chế vấp phải từ khi xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghia ở nước ta hiện nay. 3. Giải pháp xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. C. Kết luận. D. Danh mục tài liệu tham khảo A. Đặt vấn đề. Đối với nước ta, quá trình chuyển đổi từ cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp sang phát triển kinh tế thị trường, có sự quản lí của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, được bắt đầu từ Đại hội VI (năm 1986) và ngày càng được hoàn thiện. Thực tế, hai mươi năm đổi mới và phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã chứng minh kinh tế thị trường là con đường phát triển kinh tế hiệu quả, từ đó quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là cả một quá trình vừa đổi mới tư duy lý luận, nhất là từ tư duy kinh tế, vừa bám sát các quy luật khách quan và kịp thời tổng kết thực tiễn đầy sống động của Việt Nam. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời điểm nào của lịch sử. Song trong thực tế, không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển , mà gắn với mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hoá cụ thể. Thực tiễn lịch sử cho thấy cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá. Đó là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế thị trường giữa những người sản xuất hàng hoá quyết định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kì quá độ chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng cộng sản lãnh đạo, mục đích của nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản Sự lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không phải là sự gán ghép chủ quan giữa kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội mà là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh té thị trường trong thời đại ngày nay, là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu văn minh nhân loại, nhằm phát huy vai trò tích cực của kinh tế thị trường trong việc phát triển sức sản xuất, xã hội hoá lao động, cảI tiến kĩ thuật công nghệ, nâng cao đời sống nhân dân. Đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế thị trường gây ra. Vì vậy, em đã chọn đề tài: " Quan điểm lịch sử cụ thể với việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay" nhằm làm sáng tỏ hơn vấn đề về quan điểm lịch sử, về mọi mặt của nền kinh tế thi trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phân tích đề ra một số phương hướng hoạt động đưa kinh tế đất nước đi theo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. B. Nội dung. 1. Sự cần thiết phải xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. 1.1 Khái niệm kinh té thị trường và những ưu, khuyết điểm của nền kinh tế thị trường. 1.1.1 Nền kinh tế thị trường. Các nhà kinh tế học phân biệt các nền kinh tế khác nhau dưạ trên cơ chế vận hành của nó. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung là nền kinh tế chỉ huy. Còn nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai? đều do thị trường quyết định. Như vậy, nói tới kinh tế thị trường, về thực chất là nói tới cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường là cơ chế mà trong đó tổng thể các nhân tố, các quan hệ cơ bản vận động dưới sự chi phối của quy luật thị trường, trong môi trường cạnh tranh vì mục tiêu lợi nhuận. Nhân tố cơ bản nhất của nó là cung cầu và giá cả thị trường. Nói tới cơ chế thị trường cũng như nói tới nền kinh té thị trường, trước hết là nói tới những nhân tố, những quan hệ cơ bản của nó, đó là tiền, hàng, là mua, bán, là cung, cầu. Từ đó, hình thành nền các mối quan hệ tiền - hàng, mua - bán, cung - cầu. Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hàng hoá và dịch vụ, nhưng nhìn chung ó hai loại hàng tiêu dùng dịch vụ và hàng yếu tố sản xuất. Các nhân tố và quan hệ cơ bản trên đây của cơ ché thị trường đã vận động dưới sự chi phối của quy luật cung câu. Đó chính là quy luật chi phối sự vận động của các nhân tô và quan hệ cơ bản của cơ chế thị trường. 1.1.2. Những ưu thế vầ khuyết tật của nền kinh tế thị trường. Với cơ chế vận động của kinh tế thị trường, nền kinh tế trường có những ưu thế to lớn: Trước hết, đó là nền kinh tế năng động. Trên thị trường, ngày càng xuất hiện nhiều mặt hàng mới, đa dạng đáp ứng đủ yêu cầu thị yếu phong phú của khách hàng. Thứ hai, lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng. Thứ ba, đây là nền kinh tế có nhiều hàng hoá và dịch vụ, nên không còn tình trạng người chờ hàng, mà hàng chờ người. Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận, các doanh nghiệp đã cải tiến phương thức kinh doanh, thay đổi phương thức phục vụ đẻ thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường có những mặt trái của nó. Chạy theo lợi nhuận, tất cả vì lợi nhuận đã làm cho nền kinh tế thị trường mắc phải những căn bện về khủng khoảng kinh tế, thất nghiệp, phân hoá bất bình đẳng và ô nhiễm môi trường. Khủng khoảng hàng hoá dẫn đến sản xuất thừa. Sản phẩm nhiều hơn mức tiêu dùng. Vì vậ, hàng hoá không bán được, doanh nghiệp không có thu nhập để bù đắp cho những chi phí sản xuất. Do đó, doanh nghiệp phải đóng cửa, người lao động không có việc làm, tình trạng thất nghiệp xảy ra. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, do mục tiêu chạy theo lợi nhuận, có người gặp may trở nên giàu có, có những người vì rủi ro hay kém cỏi trong hoạt động kinh doanh nên bị thua lỗ, phá sản, dẫn đến phân hoá giai cấp. Các doanh nghiệp còn không chú ý đến bảo vệ môi trường. Chất thải từ các nàh máy, cí nghiệp lớn đã làm ô nhiễm bầu không khí, bẩn nguồn nước, tàn phá rừng. Tất cả các khuyết tật đều do cơ chế thị trường sinh ra, nhưng bản thân nó không thể khắc phục được. Vì vậy, phải có sự tác động từ bên ngoài. [9,tr7,tr8] 1.2 Sự giống và khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. CACMAC đã nêu 2 điều kiện để hình thành sản xuất hàng hoá, giai đoạn sơ khai của kinh tế thị trường, là có sự sở hữu khắc nhau về tư liệu sản xuất và sự phân công lao động xã hội. 1.2.1. Sự giống nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự giống nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ tính khách quan của nó. Cả hai kiểu kinh tế thị trường này đều chịu sự tác động của cơ chế thị trường với hệ thống các quy luật : quy luật giá trị, quy luật cung cầu. Đồng thời cả nền kinh tế thị trường ở các nước tư bản chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đều lập các nền kinh tế hỗn hợp, tức là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Tuy nhiên, sự can thiệp của nhà nước ở các nền kinh tế là khác nhau. 1.2.2. Sự khác nhau giữa nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ở mục tiêu, phương thức, mức độ can thiệp của nhà nước và sự can thiệp này do bản chất của nhà nước quyết định. Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Còn nhà nước trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã có ý thức tự điều chỉnh, dung hoà lợi ích của các tầng lớp xã hội, các giai cấp khác nhau để giảm bớt mâu thuẫn, ổn định chính trị, ổn định xã hội, vì mục tiêu phất triển kinh doanh, song do nhiều nguyên nhân khác nhau, nhất là do sự chi phối và điều tiết của các quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản, của lợi ích giai cấp, nên sự điều chỉnh của họ vẫn còn nhiều bất cập. Sự can thiệp của nhà nước bảo đảm mục tiêu phát triển và công bằng, chỉ có thể thực hiện được với một nhà nước của dân, do dân và vì dân - Nhà nước xã hội chủ nghĩa. [10,tr134,tr135] 1.3 Bối cảnh lịch sử cụ thể của chuyển đổi mô hình kinh tế ở Việt Nam. 1.3.1,Bối cảnh quốc tế Thập kỉ 80 của thế kỉ XX, toàn cầu hoá là hiện tượng nổi bật của nền kinh tế thế giới. Sự tác động cảu cuộc cách mạng khoa học - kinh tế hiện đại với sự phát triển đến giai đoạn cao của nền kinh tế đã tăng cường nhanh chóng sự liên kết kinh tế của các nước. Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh hoặc cải cách kinh tế ở các mức độ khác nhau. Một là, ở hầu hết các nước tư bản phát triển, điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tập trung phát triển các nghành có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao. Hai là: các nước đang phát triển, đặc biệt là cá nước Đông Nam A liên tục cải cách cơ cấu đúng đăn để cạnh tranh và phát triển. Cải tổ cơ cấu toàn diện, tức là cảI tổ trong cả 2 lĩnh vực kinh tế và xã hội, cải tổ cơ cấu từng phần được tiến hành trong các nước chỉ cải tổ một số mặt yếu kém, hoặc có trọng đIểm. Ba là, từ cuối thập kỉ 70, đầu thập kỉ 80 của thế kỉ XX ở các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc… đã tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị trường. Như vậy, làn sóng cải cách kinh tế rộng khắp ở các nước trên thế giới từ cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX đã tác động mạnh mẽ đến công cuộc đổi mới ở Việt Nam. 1.3.2, Bối cảnh trong nước. Năm 1954, miền Bắc Việt Nam có nền kinh tế từ sản xuất nhỏ quá độ lên chủ nghĩa , nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp lạc hậu, tự cấp tự túc. Công nghiệp mới phôI thai. Trong điều kiện đó, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương nhanh chóng xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung bắt đầu hình thành. Về cơ bản, năm 1960, cơ chế kế hoạch hoá tập rtung bắt đầu vận hành ở miền Bắc. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất ( 1961 - 1965) được triển khai nahwmf nhanh chóng công nghiệp hoá đất nước. Kế hoạch 5 năm lần thứ nhất đang được thực hiện thì chiến tranh lan rộng ra miền Bắc. Trong điều kiện đó, miền Bắc Việt Nam vừa thực hiện 2 nhiệm vụ chiến lược: vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội trong đIều kiện có chiến tranh, vừa phải chi viện cho cách mạng miền Nam. Tuy vậy, nền kinh tế tăng trưởng chậm, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đến năm 1975, nền kinh tế miền Bắc vẫn nằm trong tình trạng hết sức nghèo nàn và lạc hậu, nền kinh té mất cân đối. Trong quan hệ sản xuất, kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể chiếm vị trí tuyệt đối. Kinh tế tư bản tư nhân bị nó xoá bỏ. Kinh tế cá thể tuy còn tồn tại nhưng không đáng kể, chủ yếu là trong khu vực nhà nước, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán nhỏ. Sau khi miền Nam giảI phóng, mô hình kế hoạch hoá tập trung ở miền Bắc được xây dựng trên phạm vi cả nước. Cuối những năm 70 của thế kỉ XX, nền kinh tế bắt đầu lâm vào tình trạng khó khăn. Kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976- 1980) với các chỉ tiêu kinh tế xã hội quá cao đã được vạch ra nhung thất bại. Kế hoạch 5 năm lần thứ ba ( 1981 - 1985) tuwowng tự thực hiện các mục tiêu mà đại hội Đảng lần thứ IV đã đề ra, kết quả neenfkinh tế làm tình trạng khủng khỏang, trầm trọng. Như vậy, sau hai kế hoạch 5 năm kể từ khi thống nhất đất nước ( 1976 - 1985) nền kinh tế Việt Nam đã rơI vào tình trạng khủng khoảng nghiêm trọng. Trước những khó khăn của đất nước, Đảng ta đã suy nghĩ, tìm tòi cách giải phóng, thực hiện đổi mới, đề ra những chính sách cụ thể. Đại hội Đảng lần thứ VI quyết định đưa nền kinh tế nước ta trở thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.4 Nguồn gốc tư duy lí luận của mô hình mới: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Chủ nghĩa Mac-Lê Nin được những người cộng sản và đông đảo nhân dân lao động Việt Nam tiếp thu một cách hồ hởi. Mục tiêu xã hội chủ nghĩa tốt đẹp được vạch ra dựa trên cơ sở thiết lập chế độ công hữu. Những mục tiêu đó ngày càng xa vời với thực tiễn ở Việt Nam. Lực lượng sản xuất trong lòng chế độ công hữu không tìm được động lực phát triển, thể chế lực lượng sản xuất do hình thức xã hội chủ nghĩa thế giới chi viện cũng không được sử dụng một cách có hiệu quả. Dường như chủ nghĩa xã hội đi vào bế tắc, cần phảI có sự đổi mới vĩ đại mà đổi mới ngay trong lĩnh vực nhận thức, trước hết là tư duy về kinh tế. Cơ sỏ lí luận về kế hoạch hoá tập trung. Đến những năm 80, khi nền kinh tế của các nước xã hội chủ nghĩa đã khai thác hết các yếu tố chiều rộng, bắ đầu đI vào đúng quỹ đạo của nó là phục vụ đời sống con người thì dường như nền kinh tế không tự tạo ra động lực để khai thác các yếu tố chiều sâu nhằm nâng cao chát lượng sống của xã hội. Những biến đổi của hệ thống xã hội chủ nghĩa trước khủng khoảng đã có ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế đang có nhiều khủng hoảng của Việt Nam. Viện trợ kinh tế, kinh tế từ các nước xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp, trao đổi ngoại thương tuân theo quy luật ngangn giá, viện trợ không hoàn lại dẫn đến cơ chế kế hoạch hoá tập trung của nhà nước chỉ đạo. Cho đến đại hội của Đảng lần thứ VIII, chúng ta đã chuyển sang nhận thức tương đối rõ hơn là xây dựng kinh té thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính kế hoạch là đã đạt đến các mục tiêu đích thực cho sự phát triển kinh tế - con đường nhanh nhất. Thứ hai là sự biến đổi nhận thức về vị trí, vai trò của donah nghiệp. Hệ thống các doanh nghiệp càng hùng mạnh, đa dạng, quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp càng mật thiết, phức tạp dẫn đến thể hiện kinh té phát triển. Đã ó thời kì nhận thức sai lầm vì tính ưu việt của chế độ công hữu triệt để thoát ly các đIều kiện để thực hiên chính chế độ sở hữu công hữu đó.Từ đó mà biến đổi sinh hoạt chung thành vô chủ. VIệt Năm đã áp dụng chế độ công hữu thuần nhất hơn 30 năm trời. Đến năm 1986, mới hiểu quan hệ sản xuất tiên tiến tự nó không thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Giờ đây, chúng ta đã nhận thức đúng đắn về nền kinh tế nhiều thành phần. Việc khẳng định nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu đời trong suốt thời kì quá độ là kết quả của quá trình tư duy lý luận và tổng kết hoạt động thực tiẽn của toàn Đảng, toàn dân. Thứ ba là thay đổi về các tieu chuẩn đo lường và thang giá trị của nền kinh tế. Giờ đây, nhận thức của giới trẻ ( những người dễ tiếp thu tri thức mới, không bị tư tưởng cũ níu kéo), những quan niệm về thành đạt, phong cách sống, đảm bảo sinh tồn cho bản thân và gia đình đã hơn hẳn lớp thanh niên những năm 70. Nhận thức về dân chủ trong kinh tế: phảI dực vào sự phát huy tối đa sự sáng tạo đa dạng của từng cá nhân. Do vậy, từ chuyên chế phong kiến đến trình độ dân chủ pháp quyền tư sản với đảm bảo riêng nhà nước là của dân, do dân, vì dân là một bước tiến thực sự so với thứ dân chủ trước kia. Tóm lại, phải dũng cảm nhận rằng, nhận thức về mô hình, đường đi, cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lí của nhà nước trong giai đoạn trước Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều đIều bất hợp lí. Song nhận ra được những bất cập và kiên quyết đổi mới là thực hiện tinh thần dũng cảm và bản lĩnh của dân tộc Việt Nam. 2. Tính đặc thù của quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 2.1.Quan đIểm của Mac - Anghen về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bàn về tính lý luận và tính thực tiễn của vấn đề về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam chưa thể được xếp vào hàng các nước " tiên tiến nhất" trong quan đIểm của Mác, biểu hiện ở chỗ 80% lao động của nước ta còn tập trung trong ngành nông nghiệp ít sử dụng máy móc. Hơn nữa, nước ta cũng chưa có một tiền đề vật chất do sự phát triển tới trình độ cao của chủ nghĩa tư bản tạo ra để chuyển biến sang một phương thức sản xuất tiến bộ hơn. Vậy đặt vấn đề " định hướng xã hội chủ nghĩa" là một chiến lược hết sức đúng đắn, quán triệt. Quan đIểm mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản của Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân. Những sách lược cụ thể để thực hiện chiến lược định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là gì ? Cho đến nay, nhân loại vẫn chưa tìm được cơ chế nào hữu hiẹu hơn cơ chế thị trương có sự điều tiết của Nhà nước về thực hiện trao đổi sản phẩm và qua đó thể hiện một phần lợi ích của người sản xuất. Kinh tế học hiện đại đã và đang tìm cách luận giải cho mọt nền kinh tế hàng hoá xã hội chủ nghĩa. Về mặt thực tiễn, cơ chế thị trường vẫn còn là cơ chế hiện thực mang lại hiệu quả cao cho nền kinh tế quốc dân xét về mặt thúc đẩy và phát triển lực lượng sản xuất. Cũng chỉ bằng kinh té hàng hoá mới có thể xoá bỏ sản xuất tiểu nông, nhỏ hẹp, phân tấn, tự cung tự cấp với tư cách một cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất và kéo theo một sự cải biến về chất quan hẹ sản xuất. Do vây, phát triển kinh tế hàng hoá là một hướng đi hợp lí để đoạn tuyệt từng bước đổi mới những tàn dư của ché độ phong kién cũ, tạo những tiền đề mới cho lực lượng sản xuất của tương lai. Về mặt quan hệ sản xuát, phải luôn luôn ghi nhớ tư tưởng sâu xa của Mác và Ăngghen cho rằng giai cấp tư sản luôn luôn cách mạng hoá công cụ sản xuất ( một yếu tố cơ bản và năng động nhất của hàng háo sản xuất - người dân). Do đó, cách mạng hoá toàn bộ những quan hệ xã hội". Trình độ lực lượng sản xuát nhất định, bao giờ cũng cho phép chỉ một quan hệ sản xuất phù hợp với nó và tồn tại trong một phương thức sản xuất cụ thể, do tính chất phát triển không đều của lực luownjg sản xuất, sẽ luôn tồn tại cùng một lúc các kiểu quan hệ sản xuất khác nhau trong đó có một kiểu quan hệ sản xuất thống trị. Đó chính là biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, trong một phương thức sản xuất lịch sử cụ thể. Cũng có nghĩa là không có hiện tượng quan hệ sản xuất tiên tiến lại có thể mở đường cho một lực lượng sản xuất thấp kém phát triển. Hình thức phải phù hợp với nội dung chứ không phải thay đổi hình thức sẽ dẫn đến biến đổi nội dung. Đây chính là một số trong số những cơ sở lí luận đẻ thực hiện chính sách cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta. Trở lại vấn đề định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế nước ta. Mục đích cuối cùng là công hữu cộng sản chủ nghĩa. [8,tr78,tr79] 2.2 Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Kể từ đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm1986) đến nay, tư duy lý luận của Đảng về đổi mới chung và đổi mới trong xây dựng và phát triển nền kinh tế đã xó những bước phát triển rất rõ rệt. Nếu như tại đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương phát riển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần thì đến đại hội VII, cương lĩnh ( năm 1991) khẳng định: " Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước". Như vậy, Đảng ta đã xác định rõ cơ chế vận hành nền kinh té là cơ chế thị trường có sự quản lí nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đến đại hội VIII, mệnh đề đó được tập trung phát triẻn và bổ sung bằng việc khẳng định: " Sản xuất hàng hoá không độc lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng". Tại đại hội này vẫn chưa đề cập đến kháI niệm kinh tế thị trường. Tại đại hội XI, kháI niệm " kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" đã chính thức được đưa vào văn kiện, xem đó là mô hình kinh tế chung tổng quát trong suốt thời kì quá độ đI lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và chỉ rõ: " Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tố, bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lí và phân phối". Đại hội lần thứ IX của Đảng (năm 2001) khẳng định: " thể hiện nhất quán và lâu dàI chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa". [7,tr86] Đại hội Đảng lần thứ X ( năm 2006), Đảng tiếp tục khẳng định: " Để đI lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phảI phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế". Đại hội X tiếp tục làm sáng rõ hơn những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 4 nội dung cơ bản sau là: - Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. - Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước. - Phát triển đồng bộ và quản lí có hiệu quả sự vận hành cảu các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. - Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại tổ chức kinh doanh. Kinh tế thị trường là một phạm trù kinh tế riêng, có tính độc lập tương đối, phát triển theo những quy luật riêng vốn có của nó dù nó tồn tại ở đâu và bất kể thời đIểm nào của lịch sử. Song, trong thực tế, không có một nền kinh tế thị trường trừu tượng, chung chung cho mọi giai đoạn phát triển, mà gắn với mỗi giai đoạn nhất định của xã hội là những nền kinh tế hàng hoá cụ thể. Thực tiễn lịch sử cho thấy, cơ sở khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế thị trường cũng là cơ sở kinh tế khách quan của sự hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá. Đố là sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất hàng hoá quyết định. Có nghĩa là kinh tế thị trường tồn tại cả trong chủ nghĩa xã hội cũng như trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong chủ nghĩa tư bản và trong chủ nghĩa xã hội đều tồn tại kinh tế thị trường, nhưng có những đặc trưng khác nhau. Kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, là nền kinh tế thị trường phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể do Đảng cộng sản lãnh đạo, mục đích cảu nền kinh tế thị trường là phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao dộng, xoá bỏ chế độ bóc lột, giảI phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Nội dung cơ bản định hướng xã hội chủ nghĩa tròn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta được đại hội X của Đảng làm sáng tỏ: Thứ nhất, mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nhằm thực hiện " dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", giảI phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, đẩy mạnh xoá đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn. Như vậy, mục tiêu trên đã thể hiện mục đích của phất triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vì con người. Con người phảI luôn luôn được chú trọng, đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Trên cơ sở giảI phóng mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, làm cho mọi người đều được hưởng thành quả của sự phất triển. Thứ hai, về phương hướng phát triển, phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hứu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tees nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thứ ba, về định hướng xã hội và phân phối: phảI thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước đI và từng chính sách phát triển, tăng trưởng kinh tế phảI gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã hội, văn hoá, giáo dục, đào tạo. GiảI quyết tốt những vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Thứ tư, định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực quản lí : phát triển quyền làm chủ xã hội của nhân daan, đảm bảo vai trò quản lí, đIều tiết kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, người lao động là người chủ xã hội. Người công nhân dù luôn trong xí nghiệp tư nhân vẫn là người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Vai trò quản lí, đIều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là sự thể hiện rõ rệt định hướng xã hội chủ nghĩa. [4,tr52,53,54] Quan điểm của Đảng ta ở đại hội IX và báo cáo chính trị đại hội X, về kinh tế, đã thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta đã kế thừa những yếu tố của nền kinh tế thị trường và phát triển nó theo định hướng xã hội chủ nghĩa. ở đay, cần nhận thức rằng, kinh tế thị trường là kết quả của nền văn minh nhân loại, nó tạo ra những bước tiến dài và là tiến bộ nhất trong lịch sử kinh tế loài người từ buổi bình minh tới nay. Dưới sự điều tiết của nhà nước, chúng ta sẽ gạt bỏ những hạn chế, sử dụng tính năng động của nó trong việc tạo ra cơ sở vật chất với hậu quả cao nhất cho thời kì quá độ. 2.3 Đặc điểm nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình phat triển kinh tế tổng quát của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lí luận và tổng quát thống nhất của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triẻn kinh tế ở nước ta. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là sự lựa chọn hoàn toàn phù hợp với quy luật khách quan và xu thế tất yếu của thời đại. Nói Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là nền kinh tế nước ta không phải là nền kinh tế bao cấp, quản lí theo kiểu tập trung quan liêu, cũng không phảI là kinh tế thị trường tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì Việt Nam đang trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vừa có, vừa chưa có đầy đủ các yếu tố của chủ nghĩa xã hội, còn có sự đan xen và đấu tranh giữa cáI cũ và cáI mới. Cần hiểu rõ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vừa mang tính chất chung của nền kinh tế thị trường, vừa có tính chất đặc thù vì nó hoạt động trong khuôn khổ của những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. 2.3.1 Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay 2.3.1.1 Sáu thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay. Trong thời kì trước đổi mới, ở nước ta tồn tại nền kinh té tạp trung quan liêu, bao cáp, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân và tập thể với hai thành phần kinh tế chủ yếu: Kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Kinh tế cá thể rất không đáng kể và được coi là đối tượng cần cải tạo. Bước vào thời kì đổi mới, chúng ta đã và đang chuyển dần nền kinh tế đó sang nèn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này ở nước ta được dựa trên ba chế độ sở hữu ( toàn dân, tập thể, tư nhân), từ đó, xã hội ba hình thức sở hữu tương ứng là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các hình thức sở hữu đó được vận hành trong nền kinh tế có sáu thành phàn: kinh tế nhà nước, kinh tế tạp thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan rọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được đảm bảo kinh doanh theo pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế quốc doanh (nhà nước) giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tạp thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Vai trò, vị trí các thành phần kinh té được xác định như sau: - Về kinh tế quốc doanh: Đại hội VIII( tháng 6 năm 1996) khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước thay cho vai trò trước đây của kinh tế quốc ân, coi doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận của kinht ế nhà nước, xác định rõ các lĩnh vực trọng yếu mà kinh tế nhà nước cần phải nắm vai trò chủ đạo như: kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hệt thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất và thương mại, dịch vụ quan trọng, nhấn mạnh việc cần phải thiết lập tổng công ty mạnh. - Kinh tế tập thể: Đảng nêu rõ: " mọi tổ chức sản xuát kinh doanh do những ngưòi lao động ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35927.doc
Tài liệu liên quan