Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta

Lời nói đầu Trong quá trình đổi mới hiện nay, Đảng ta đã xác định: Chủ nghĩa Mác - Lênin - phép biện chứng duy vật là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người. Không một ai có thể phủ nhận rằng khi lý luận khoa học đó được quán triệt và vận dung đúng đắn thì nhân dân lao động thế giới đã làm nên những biến cố lịch sử vĩ đại chủ nghĩa xã hội từ chỗ còn là “bóng ma” đã biến thành hiện thực và tồn tại với tư thế một hệ thống hùng hậu trong hơn nửa thế kỉ. Ngày nay, cho dù ch

doc29 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1838 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủ nghĩa xã hội có bị tổn thương, sụp đổ một mảng lớn, song nó vẫn chứa đựng những khả năng hồi phục, phát triển và chiến thắng chủ nghĩa tư bản cùng tất cả các chế độ có áp bức, bất công trong tương lai. Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay, Đảng ta một lần nữa khẳng định những giá trị khoa học bền vững của phép biện chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng. Sự vận dụng sáng tạo phép biện chứng duy vật vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta cũng là nội dung nghiên cứu của tiểu luận này. Để hoàn thành bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo. Do trình độ có hạn, em mong rằng tiếp tục được thầy giúp đỡ và uốn nắn và em hy vọng bài viết sẽ tiến bộ hơn ở các đề tài sau. Xin kính cảm ơn thầy ! A-/ Giới thiệu đề tài Ngày nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang tác động lên tất cả các quốc gia. Có thể nói tất cả mọi quốc gia hoặc là đang ở trạng thái này, trình độ này hoặc là ở trạng thái khác, trình độ khác của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đối với những nước phát triển, công nghiệp hoá tiếp tục đào tạo ra và nâng cao hơn nữa năng suất lao động, đẩy nhanh quá trình tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Đối với những nước chậm và đang phát triển, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là con đường tất yếu để đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển chung của nhân loại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đang là xu thế tất yếu mang tính toàn cầu hiện nay. Xuất phát từ kết quả của mười năm đổi mới, từ những tiền đề kinh tế - xã hội đã tạo ra, Đảng ta nhận định rằng đất nước đã chuyển sang thời kì phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta có mục tiêu: “Biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Để đạt được mục tiêu đó “điều quyết định là ở con người, với trí tuệ và năng lực cao”, và đặc biệt quan trọng là phải có một cơ sở khoa học, một cơ sở lí luận vững chắc, lấy đó làm cơ sở phương pháp luận để xây dựng và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị của chúng ta. Điều này có vai trò quyết định cho thắng lợi cuối cùng của công cuộc đổi mới ở nước ta. Trong tình hình đó, Đảng ta đã khẳng định giá trị khoa học của phép biện chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời, lấy nó làm kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng bởi: Chủ nghĩa duy vật biện chứng là khoa học và là một trong những đỉnh cao của trí tuệ loài người, không một ai có thể phủ nhận rằng khi lí luận khoa học đó được quán triệt và vận dụng đúng đắn thì nhân dân lao động thế giới đã làm nên những biến cố lịch sử vĩ đại, chủ nghĩa xã hội từ chỗ còn là “bóng ma” đã biến thành hiện thực và tồn tại với tư thế một hệ thống hùng hậu trong hơn nửa thế kỷ, ngày nay, cho dù chủ nghĩa xã hội có bị tổn thương, sụp đổ một mảng lớn, song nó vẫn chứa đựng những khả năng hồi phục, phát triển và chiến thắng chủ nghĩa tư bản cùng tất cả các chế độ xã hội có áp bức, bất công trong tương lai. Bởi vậy, chúng ta có nắm vững chủ nghĩa duy vật biện chứng, có vận dụng một cách sáng tạo vào công cuộc đổi mới hiện nay thì thành công mới có thể nắm trong tầm tay. B-/ Nội dung nghiên cứu I-/ Những khái niệm cơ bản: * Chủ nghĩa duy vật: Là chủ nghĩa thừa nhận vật chất là cái có trước so với ý thức, nó quyết định và sinh ra ý thức, còn ý thức là cái phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật căn cứ vào hai yếu tố cơ bản: - Bản thể của thế giới. - Thành tựu của khoa học. * Phép biện chứng: ta phải có khái niệm biện chứng là gì? Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính chất gắn liền với sự tồn tại, vận động của thế giới. Phép biện chứng: là học thuyết hay lí luận nghiên cứu về tính biện chứng về thế giới. * Phép biện chứng duy vật: Mác - Ănghen: Đứng trên lập trường duy vật, căn cứ vào các thành tựu khoa học và kỹ thuật nên nó là đỉnh cao trong sự phát triển của phép biện chứng. * Lực lượng sản xuất xã hội: Lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên của con người nó thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình tạo ra của cải vật chất. Lực lượng sản xuất bao gồm những tư liệu sản xuất và người lao động với những kinh nghiệm sản xuất, kĩ năng, kĩ xảo và những thói quen lao động của họ. Các yếu tố hợp thành lực lượng lao động có quan hệ mật thiết với nhau. Sự phát triển của lực lượng sản xuất phụ thuộc vào sự phát triển của các yếu tố hợp thành nó. * Quan hệ sản xuất xã hội: Là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Nó bao gồm: quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế - tổ chức. * Nhân tố khách quan: Là tổng hợp những điều kiện, những quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội và tinh thần của đời sống xã hội. Tất cả những điều kiện và quan hệ ấy tồn tại không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và được bộc lộ ra trong hoạt động của chủ thể. * Nhân tố chủ quan: Đó là những phẩm chất khoa học, lý luận, tư tưởng, chính trị, đạo đức, tâm lý, tổ chức của chủ thể được bộc lộ ra trong quá trình hoạt động. Những phẩm chất này bao giờ cũng có tính hai mặt tính cực và tiêu cực. * Nội dung của quy luật mâu thuẫn: Mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn. Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập thống nhất và đấu tranh với nhau, tạo ra nguồn gốc, động lực cho sự vận động và phát triển. II-/ Phép biện chứng duy vật với công cuộc CNH-HĐH ở nước ta hiện nay: 1-/ Vận dụng triệt để những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng là nhân tố đảm bảo tiếp tục hoàn thiện chủ trương CNH-HĐH và tổ chức thực hiện có hiệu quả chủ trương đó trong thực tế cuộc sống. Đồng thời Mác và Ănghen đã nhiều lần soạn thảo ra những quyết sách đúng đắn cho giai cấp vô sản để đưa phong trào công nhân từ tự phát sang tự giác, từ thắng lợi trong đấu tranh kinh tế đến thắng lợi trong đấu tranh chính trị, tạo tiền đề cho cuộc chiến đấu có ý nghĩa quyết định nhằm giải phóng triệt để giai cấp công nhân và xã hội nói chung. Đạt được kết quả như vậy là nhờ các ông luôn quán triệt phương pháp luận duy vật biện chứng vào việc xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách của giai cấp vô sản. Phép biện chứng duy vật đóng vai trò là cơ sở phương pháp luật để xây dựng và tổ chức thực hiện các quyết sách chính trị của chúng ta vì: a-/ Nó giúp ta hiểu được nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng và quá trình xã hội, giúp chúng ta phát hiện ra những mâu thuẫn, những động lực của sự phát triển xã hội. Nhờ đó có thể xác định được chiều hướng chung của sự phát triển lịch sử, xác định được vai trò và thái độ của lực lượng xã hội chủ yếu. Tất cả những cái đó tạo thành cơ sở xuất phát để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị. Hoạt động của con người nói chung, của nhân dân ta nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói riêng - như triết học Macxit đã chỉ ra - đều nhằm theo đuổi những nhu cầu và lợi ích nhất định. Trong đó những nhu cầu của con người là không có giới hạn. Mặt khác, trong xã hội nước ta hiện nay, việc đáp ứng nhu cầu một cách đầy đủ cho mọi tầng lớp nhân dân ở mọi vùng, mọi địa phương là rất khác nhau nếu không muốn nói là rất chênh lệch, nếu không muốn so sánh với các nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy chúng ta phải nhận rõ tầm quan trọng và bước thiết yếu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay được để đề ra những chính sách phải thật thận trọng và đúng đắn. Lợi ích chiếm vị trí quan trọng nhất trong hệ thống tổng lực thúc đẩy hoạt động của con người. Trong xã hội ta hiện nay đang tồn tại nhiều giai cấp và tầng lớp khác nhau với những lợi ích không hoàn toàn như nhau. Sự hoà hợp thống nhất ý chí, nỗ lực chung của cả quốc gia, dân tộc, các tầng lớp xã hội là một trong những điều kiện quan trọng. Thiếu nó, tiến trình hiện đại hoá sẽ phải trả giá đắt, thậm chí bị đến thất bại. Nếu trước đây, hiện đại hoá ở các nước Châu Âu đã diễn ra trong sự phân chia xã hội thành những cực đối kháng nhau kịch liệt, thì ngày nay, hiện đại hoá tăng tốc, đòi hỏi sự thống nhất của đa dạng và khác biệt trên tất cả các phương tiện của đời sống xã hội. ý chí phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trở thành ý chí chung của toàn dân và là động lực tinh thần, tư tưởng của toàn xã hội. Thực tế cho thấy ở các quốc gia có tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhanh đều giữ được sự hoà hợp, thống nhất đoàn kết các lực lượng các thành phần sở hữu, các khu vực kinh tế, các đảng phái, các vùng lãnh thổ trong một ý chí và mục tiêu chung, dân giầu, nước mạnh, quốc gia phát triển nhanh để kịp các nước đã phát triển cao. Bằng cách đó, nước ta có thể phát huy tiềm lực, sự sáng tạo, tính năng động của tất cả các thành phần, các khu vực kinh tế, các lực lượng lao động xã hội, tạo thành sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế, hiện đại hoá đất nước. Việc thực hiện và giải quyết có hiệu quả những khác biệt vốn có trong hệ thống động lực ấy là điều kiện tiên quyết để đưa quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước tới thành công. b-/ Phép biện chứng duy vật giúp cho giai cấp vô sản cách mạng giải quyết một cách khoa học mối quan hệ giữa mục tiêu và phương tiện. Trong khi kiên trì mục tiêu mà quyết sách đã chọn lại có thể linh hoạt thay đổi phương pháp, phương tiện hoạt động tuỳ thuộc điều kiện khách quan vốn luôn luôn thay đổi. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện đời sống kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sách sử dụng một cách phổ biến sức lao động trong vùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động cao. Mục tiêu đó có thể đạt được bằng nhiều phương thức, con đường khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ tiến triển của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tuỳ thuộc vào những diễn biến thực tế trong nước cũng như tình hình quốc tế ở giai đoạn tương ứng. Trong khi xem trọng sức mạnh có được từ nguồn lực Nhà nước, từ kinh tế quốc doanh, chúng ta đã, đang và sẽ phải khai thác tối đa nguồn lực của các thành phần kinh tế khác; trong khi hướng trọng tâm vào việc khai thác những nguồn lực trong nước chúng ta cũng tranh thủ mọi cơ hội đi khai thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Sự quốc tế hoá của lực lượng sản xuất do cách mạng khoa học và công nghệ mang lại đã làm tăng cường xu hướng quốc tế hoá đời sống quốc tế nói chung. Từ đó đã hình thành một tính quy luật mới: trong thời đại ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc chỉ tồn tại và phát triển khi tự đặt mình là một nhân tố của cộng đồng thế giới. Một nước nghèo nàn, lạc hậu có thể bỏ qua một vài giai đoạn phát triển để đi đến một xã hội văn minh, nếu ở đó có đường lối đúng để không chỉ tận dụng được thành quả do cách mạng khoa học - công nghệ mang lại mà còn tạo ra mặt bằng về cơ chế, về chính sách, về con người,... để cho cuộc cách mạng được triển khai ngay trên quê hương mình. Trong trường hợp ngược lại, nước đó sẽ bị bỏ rơi ở cuối đoàn tầu lịch sử; khoảng cách giữa các nước đó với các nước văn minh ngày càng mở rộng, sự tụt hậu về kinh tế - xã hội là không tránh khỏi. Bởi vậy, trong khi nhấn mạnh việc chống nguy cơ chệch hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đảng ta cũng rất nhấn mạnh việc mở rộng hợp tác liên doanh với nước ngoài. Đó không chỉ là phương thức để thu hút vốn đầu tư, nó “còn là con đường thích hợp để tiếp nhận công nghệ, kỹ năng, kinh nghiệm quản lí tiến bộ, mở đường lối đi vào thị trường khu vực và thị trường thế giới,... để khai thác có hiệu quả những lợi thế so sánh trong từng thời kỳ phát triển”. c-/ Phép biện chứng duy vật cho phép nhận định rõ ràng ranh giới giữa tính nguyên tắc với chủ nghĩa giáo điều, bệnh dập khuôn máy móc, giữa tính linh hoạt mang tính cách mạng với chủ nghĩa cơ hội, xét lại. ở mọi nước, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đều nhằm chuyển lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp sản xuất tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Để đạt được mục tiêu đó, bên cạnh những vấn đề có tính quy luật chung, tuỳ thuộc những thời kì lịch sử khác nhau. Công nghiệp hoá trong thời kì ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản được tiến hành bằng những biện pháp phi nhân tính, thấm đầy máu và nước mắt của quần chúng nhân dân lao động. Hiện đại hoá trong chủ nghĩa tư bản hiện đại đôi khi cũng được thực hiện bằng việc đẩy những ngành sản xuất cần nhiều lao động nặng nhọc hay gây ô nhiễm môi trường nặng nề sang các nước thế giới thứ ba, khai thác tối đa nguồn nhân công rẻ mạt và nguồn tài nguyên phong phú của các nước đó,... Phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện chưa có tiền lệ trong lịch sử, phần lớn các nước tư bản chủ nghĩa phải trải qua quá trình tìm tòi, thử nghiệm lâu dài và trên đường đạt tới đích mới phải trả những giá không rẻ. Chúng ta thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá để nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh”. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xem là một trong những con đường để giải phóng con người. Trước hết là người lao động. Mục tiêu nhân bản đó không thể đạt được bằng những phương tiện phi nhân tính. Chúng ta không phủ nhận rằng có những tính quy luật chung của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng ngay cả với những vấn đề đó, khi vận dụng, chúng ta phải chú ý tới hoàn cảnh đặc thù của thời đại và của đất nước cũng như định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa của việc vận dụng những tính quy luật chung. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng và thông qua cái riêng. Khi đó, cái chung sẽ biểu hiện ra cái đặc thù. Ngoài ra, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay còn bị chi phối bởi những quy luật đặc thù của một nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội mà một trong những nhân tố mang tính thời đại cho phép sự bỏ qua đó - ngoài nhân tố chính trị là tính chất của thời đại (thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội) - là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang triển khai trên quy mô toàn thế giới. Khi xác định phương hướng, con đường để thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chúng ta cần tận dung lợi thế của nước đi sau, không giáo điều lặp lại mọi quá trình (kể cả thành công và thất bại) mà các nước khác đã trải qua là nước đi sau, chúng ta còn có khả năng thực hiện sự phát triển “rút ngắn” ngay trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 2-/ Nắm vững triết học Macxit sẽ cho phép giải quyết mối quan hệ giữa khách quan và chủ quan, giữa khoa học và cách mạng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Cuộc sống đã xác nhận tính đúng đắn trong lời tiên đoán sau đây của Lênin “Chỉ Đảng nào được một lí luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”. “Lý luận tiêng phong” mà Lênin nói ở đây không có gì khác hơn chính là chủ nghĩa Mác mà chủ nghĩa duy vật biện chứng là cơ sở triết học của nó. Nắm vững triết học của chủ nghĩa Mác, lấy nó làm cơ sở, phương pháp luận xuất phát cho việc xây dựng quyết sách chính trị là cái bảo đảm cho thắng lợi cách mạng. Điều đó giải thích sao trong khi khẳng định tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác trong cách mạng vô sản, Lênin lại khẳng định rằng: những người Macxit chắc chắn là chỉ mượn của học thuyết Mác những phương pháp quý báu mà nếu không có thì không thể thiếu được những quan hệ xã hội. Đương thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cho rằng, chúng ta nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin là nắm cái phương pháp xử lí mọi việc và cách thức đối xử với mọi người. Trong số “những phương pháp quý báu” do triết học duy vật biện chứng đem lại, cái có ý nghĩa bao chùm là phép biện chứng duy vật giữa khách quan và chủ quan; giữa khoa học và cách mạng. Mối quan hệ đó phải trở thành cơ sở phương pháp luận đầu tiên để xây dựng và tổ chức thực hiện chủ trương công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Mối quan hệ biện chứng giữa “nhân tố khách quan” và “nhân tố chủ quan” luôn là cơ sở cho hoạt động của con người. Trong quá trình hoạt động muốn đạt được hiệu quả cao nhất thì tất yếu phải tôn trọng nguyên tắc khách quan trong việc xem xét và giải quyết vấn đề, đồng thời phát huy cao độ tính tích cực của nhân tố chủ quan. Hơn nữa, đối với nước ta, đây là vấn đề vừa có ý nghĩa lí luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn. Trước thời kì đổi mới, do không nhận thức được đầy đủ mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, chúng ta đã mắc phải căn bệnh chủ quan duy ý chí, thiếu tôn trọng quy luật khách quan, thậm chí có lúc còn hành động không theo quy luật khách quan. Điều đó đã gây ảnh hưởng lớn đến tình hình kinh tế, xã hội trong nước và đã để lại những hậu quả nghiêm trọng. Trong những năm tiến hành đổi mới đất nước, căn bệnh đó đã được khắc phục về căn bản. Chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội nhờ nhận rõ và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan và ngay cả trong bối cảnh đó, những thắng lợi đã giành được chỉ trở nên bền vững trên cơ sở tiếp tục nhận thức và vận dụng đúng quy luật khách quan của sự phát triển xã hội (đặc biệt là các quy luật kinh tế) có thể ta mới nắm vững được quy luật để vận dụng quy luật vào công cuộc xây dựng đất nước hiện nay, đồng thời phát huy cao độ của nhân tố chủ quan. Điều đó cho thấy chính thực tiễn của công cuộc đổi mới đang đòi hỏi chúng ta phải nhận rõ mối quan hệ giữa “nhân tố khách quan” và “nhân tố chủ quan”, giữa khoa học và cách mạng, làm rõ tính tích cực của nhân tố chủ quan và tìm ra những biện pháp hữu hiệu để phát huy tính tích cực đó. Chủ trương đó biểu hiện ý chí của Đảng và nhân dân trong việc thay đổi tự nhiên và xã hội. Việc tổ chức thực hiện nó biểu hiện ý chí khả năng của các cấp lãnh đạo hiện thực hoá chủ trương đó trong thực tiễn cuộc sống. Tất cả những cái đó thuộc phạm trù nhân tố chủ quan của quá trình lãnh đạo cách mạng. Song sự phát triển của xã hội nói chung, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng bao giờ cũng là sự thống nhất giữa chủ quan và khách quan, trong đó khách quan luôn là tính thứ nhất so với nhân tố chủ quan. Các quyết sách của bất kì cấp nào có tiến hành thực hiện hay không, mức độ hiệu quả của việc tổ chức thực hiện các quyết sách đó ra sao... tất cả đều tuỳ thuộc một cách quyết định và sự phù hợp của chúng với điều kiện khách quan, quy luật khách quan của sự thay đổi xã hội. Bởi vậy, trong khi không một chút coi nhẹ vai trò của tình cảm trong quá trình cách mạng mà định ra một sách lược cách mạng được. Khi định ra sách lược, phải trầm tĩnh, phải hết sức khách quan. Quán triệt tư tưởng đó, trong cương lĩnh của Đảng ta cũng khẳng định “Mọi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Trong tình hình đất nước ta hiện nay, nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta lại là một nước nghèo trên thế giới. Dân số đông, mặt bằng dân trí thấp, diện tích nhỏ hẹp, tư tưởng bảo thủ còn tồn tại là rào cản lớn cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Không những thế, cơ sở vật chất của ta còn nghèo nàn, lạc hậu, khoa học phát triển chậm, không bắt kịp với thế giới tạo ra những khó khăn chồng chất cho nước nhà. Chính những điều kiện khách quan đó đòi hỏi chúng ta phải chấp nhận sự thực, nhận ra thực trạng của đất nước, huy động tiềm lực sẵn có, vận dụng một cách có hiệu quả chủ nghĩa Mác - Lênin vào quá trình đổi mới. Đây là lúc cần nhất sự phát huy tích cực của nhân tố chủ quan. Phải khoa học và mang tính cách mạng. Xứ mạng lịch sử đã đặt trách nhiệm lên giai cấp công nhân và nông dân Việt Nam, hai giai cấp luôn luôn dương cao ngọn cờ cách mạng, có đủ phẩm chất và sự nhiệt tình cách mạng. Điều quan trọng là chúng ta phải từng bước tuyên truyền, phổ cập những kiến thức, sự ham hiểu, tri thức mới vào mọi tầng lớp nhân dân, có những chính sách thích hợp liên kết được các tồng lớp nhân dân trong xã hội, nhận rõ ra vai trò và trách nhiệm của họ với công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay. Hiện tại, nhu cầu bức thiết phát huy tác dụng của nhân tố chủ quan, đó là những phẩm chất khoa học, lí luận tư tưởng, chính trị, đạo đức, tâm lí tổ chức của chủ thể - nhân dân lao động, quần chúng cách mạng là con đường ngắn nhất để đưa đất nước đi lên. Trong số những cơ sở khách quan để đề ra quyết sách chính trị cũng như phương thức tổ chức thực hiện, Lênin làm nổi bật vai trò hàng đầu của mối quan hệ giai cấp. Ông cho rằng, chỉ có nghiên cứu một cách khách quan toàn bộ những mối quan hệ qua lại giữa các giai cấp trong một xã hội nhất định, không trừ một giai cấp nào và do đó, liên kết được trình độ phát triển chung của xã hội ấy và mối liên hệ qua lại giữa xã hội ấy với các xã hội khác thì mới có cơ sở cho một sách lược đúng đắn của giai cấp tiên phong được. Bởi vì đứng trên quan điểm duy vật biện chứng một cuộc cách mạng thực sự Macxit phải là cuộc đấu tranh giữa các lực lượng xã hội sinh động, những lực lượng ấy được đặt trong những điều kiện khách quan nhất định. Chủ trương công nghiệp, hiện đại hoá đất nước ta được đặt trong hoàn cảnh gấp rút trên phạm vi quốc gia, giai cấp cách mạng đứng ở thế áp đảo toàn diện - từ kinh tế đến chính trị, tư tưởng - tinh thần; nhưng trên quy mô quốc té lại chưa hoàn toàn như vậy. Sức mạnh kinh tế, tiềm năng khoa học và công nghệ đang tập trung trong tay giai cấp tư sản động quyền. Hoàn cảnh khách quan đó đòi hỏi chúng ta phải có chính sách mềm dẻo đủ mức cần thiết để chuyển những nhân tố “ngoại sinh” đó thành yếu tố “nội sinh” cho việc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Khi chuyển sang chính sách tô nhượng và khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân, Lênin đã nói rằng giờ đây giai cấp vô sản phải biết sử dụng bàn tay của giai cấp tư sản để bắt nó cày trên miếng đất mà trên đó chủ nghĩa tư bản không thể nảy sinh và tồn tại được. Trong hoàn cảnh cụ thể ở nước ta hiện nay, việc thực hiện có hiệu quả di huấn đó của Lênin đã trở thành một đòi hỏi bức bách để đưa quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thắng lợi hoàn toàn. Muốn vậy, chủ thể của quá trình cách mạng Đảng và nhân dân lao động nước ta - phải có sự trưởng thành vượt bậc về năng lực trí tuệ để luôn ở thế chủ động, làm chủ được quá trình sử dụng sức mạnh của chủ nghĩa tư bản, của thành phần tư bản tư nhân. Vì lợi ích của công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với việc xuất phát từ những quan hệ giai cấp cụ thể, cơ sở khách quan để xây dựng và tổ chức thực hiện quyết sách chính trị còn là những điều kiện khách quan, quy luật khách quan của chính sách các quá trình mà quyết sách sẽ tác động nhằm biến đổi nó. Quyết sách chính trị không chỉ đề ra mục tiêu thay đổi hiện thực, mà còn đề cập tới những phương pháp chủ yếu để thực hiện những sự thay đổi đó. Phương pháp hành động để thực hiện hoá quyết sách thuộc phạm trù nhân tố chủ quan. Nhưng mọi phương pháp, cách thức tổ chức thực hiện quyết sách chính trị chỉ có hiệu quả khi phù hợp với bản chất khách quan của quá trình. Mọi quyết sách và cách tổ chức thực hiện nó, như vậy, phải xuất phát từ khách quan. Để thực hiện được điều đó, phải có tư duy lý luận, phải nắm chắc phép biện chứng duy vật - chủ nghĩa Mác - Lênin khoa học làm cách mạng của giai cấp vô sản. 3-/ Để xây dựng và tổ chức thực hiện một cách có hiệu quả chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần quán triệt luận điểm “Chân lí là cụ thể” - một quan điểm cơ bản của phép biện chứng duy vật - triết học Macxit. Mọi quyết sách chính trị (trong đó có chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước) đều nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể do thực tiễn đề ra. Những vấn đề như vậy khác nhau về cấp độ bao quát, về phạm vi tác động, về mục tiêu, về ý nghĩa của nó đối với sự phát triển xã hội. Hơn nữa, những vấn đề còn khác nhau về điều kiện nảy sinh cũng như thời điểm giải quyết. Tính đa dạng của vấn đề quyết định tính đa dạng, phong phú của các quyết sách và sự khác nhau trong phương thức tổ chức thực hiện chúng. Tính cụ thể của chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và phương thức hiện thực chỉ đạt được, khi chủ thể cách mạng có tinh thần sáng tạo cải tạo thành bản chất của giai cấp công nhân cách mạng của cách mạng vô sản nói chung. Bản chất sáng tạo đó thể hiện tập trung ở chỗ: trên cơ sở phân tích tình hình cụ thể của đất nước trong không gian - thời gian nhất định, biết đề ra những hình thức và bước đi đúng đắn của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong đó, một mặt, bảo đảm sự chi phối của những vấn đề có tính quy luật chung, mặt khác, thể hiện được tính đặc thù của đất nước. Như vậy, bản chất sáng tạo rất xa lạ với chủ nghĩa giáo điều (bao gồm giáo điều lí luận lẫn giáo điều về kinh nghiệm). Sự sáng tạo chân chính không loại trừ, mà còn đòi hỏi phải thận trọng và sử dụng có hiệu quả những luận điểm lí luận chung, những kinh nghiệm quý báu do lịch sử để lại như là một trong những cơ sở quan trọng để xây dựng và tổ chức thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Một quan niệm khá phổ biến trước đây cho rằng để hiện đại hoá đất nước thì công nghiệp nặng phải ưu tiên phát triển và phải đi trước một bước. Nhưng trong tình hình cụ thể của nước ta hiện nay với nền kinh tế non trẻ và đang phát triển thì việc dồn hết lực vào công nghiệp nặng là phương án không tối ưu. Bởi vì công nghiệp nặng đòi hỏi nhiều vốn, đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ khoa học, kĩ thuật bậc cao... mà những cái mà nước ta hiện nay còn rất thiếu. Do vậy, nước ta nên bắt đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá bằng các ngành công nghiệp nhẹ và ngành sản xuất hàng xuất khẩu rồi sau đó mới phát triển công nghiệp nặng. Định hướng đó phù hợp với tiềm lực và khả năng của nền kinh tế, với trình độ khoa học kĩ thuật, trình độ quản lý và kinh doanh của nước ta hiện nay. Nếu như ngày từ đầu tập trung vào công nghiệp nặng thì nền kinh tế sẽ không đủ sức nuôi dưỡng chúng và bản thân chúng cũng không thể phát triển được. Lựa chọn định hướng phát triển ưu tiên công nghiệp nhẹ và sản xuất cho xuất khẩu, nước ta có thể từng bước nâng cao trình độ công nghệ cả “cứng” lẫn “mềm” (Đặc biệt là công nghệ mềm, thứ mà nước ta đang rất thiếu và rất cần, trong những chừng mực nhất định còn cần hơn cả vốn, vì thiếu nó như thực tế đã chỉ ra, vốn nhiều cũng sẽ bị tiêu phí không hiệu quả), có khả năng thu hút, tiếp nhận và lựa chọn các công nghệ sản xuất phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện của đất nước, có thể tận dụng được nguồn lực nguyên vật liệu,... để sản xuất hàng xuất khẩu, tạo nguồn luỹ vốn. Trong tình hình đất nước ta hiện nay, nền kinh tế trong từng bước phát triển, đa dạng và nhiều thành phần. Đó là một tín hiệu đáng mừng, nhưng ngay trọng nó còn tồn tại nhiều mâu thuẫn, mà muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh chóng thì cần phải giải quyết ngay những mâu thuẫn trước mắt, bằng những hành động cụ thể như phép biện chứng duy vật được chỉ ra. Phải nhận rõ nước ta còn là một nước nghèo, lạc hậu và có dân số đông với 7,8 triệu người. Vì vậy cần phải giải quyết mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng. Nên phát triển các ngành dịch vụ, vừa huy động ít vốn, lưu chuyển nhanh mà giải quyết được nhu cầu của nhân dân trong nước. Các ngành dịch vụ phát triển, kéo theo các ngành công nghiệp nhẹ phát triển theo. Và nhu cầu trước mắt của nước ta là Nhà nước thực hiện điều chỉnh kinh tế vĩ mô bằng việc tạo ra môi trường pháp lí thích ứng với cơ chế thị trường có điều tiết, tạo cơ sở hạ tầng cho sản xuất đảm bảo ổn định xã hội và khả năng quốc phòng,... Mô hình kinh tế mở, hướng ngoại sẽ tạo cho nền kinh tế đang mang nặng những yếu tố của xã hội truyền thống nông nghiệp có cơ hội tiếp xúc với thị trường, tạo nên sức mạnh đẩy mới cho nền kinh tế. Trong hoàn cảnh nước ta, chúng ta chủ trương “từ nay đến cuối thập kỉ, phải quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn,...”. Điều đó xuất phát từ thực tế là, chúng ta thực hiện công nghiệp mới chỉ chiếm 20% tổng sản phẩm trong nước và 11% lực lượng lao động, mà 80% dân số là nông dân. Trong hoàn cảnh đó, không công nghiệp hoá, hiện đại hoá từ nông nghiệp và nông thôn thì không thể có vốn đầu tư cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá, không rút được lao động từ nông nghiệp để phát triển công nghiệp.... Đồng thời với phương hướng đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đi tới thắng lợi, chúng ta cũng chủ trương phải sử dụng sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, trong đó phát huy vai trò các doanh nghiệp Nhà nước là chủ đạo. 4-/ Triết học Macxit còn góp phần chỉ ra những mâu thuẫn mà quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước phải giải quyết để đạt được mục đích của mình. Trong khi khẳng định “ở từng giai đoạn phát triển trong từng lúc, sách lược của giai cấp vô sản phải tính đến biện chứng khách quan” của xã hội Lênin cũng chỉ ra rằng, tính biện chứng của sự phát triển xã hội “diễn ra trong mâu thuẫn và thông qua các mâu thuẫn”. Khi xây dựng quyết sách chính trị phải xuất phát từ biện chứng khách quan, điều đó có nghĩa là phải xuất phát từ mâu thuẫn của nó. Mục tiêu của mọi quyết sách chính trị không gì khác hơn là nhằm thay đổi bản chất của xã hội theo hướng tiến bộ. Điều đó không thể thực hiện được nếu không phát hiện đúng những mâu thuẫn khách quan hiện đang tồn tại, xác định khuynh hướng phát triển, những lực lượng những biện pháp và phương tiện cơ bản để giải quyết đúng. Toàn bộ nghệ thuận lãnh đạo và quản lí như Lênin đã nói, là ở chỗ phải biết kịp thời tính toán và nhìn rõ đâu là nơi cần tập trung những lực lượng chủ yếu và sự chú ý của mình. Để xác định được những khâu trung tâm như thế, cần phát hiện ra những mâu thuẫn chủ yếu trong từng thời kì, ở từng ngành, từng địa phương. Tất cả những quyết sách cụ thể ở từng cấp là nhằm giải quyết những mâu thuẫn như vậy. Để thực hiện có hiệu quả chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu ra, chún._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0226.doc
Tài liệu liên quan