Lời mở đầu
Năm 2001, năm mở đầu thực hiện các Nghị quyết của đại hội Đảng lần thứ IX. Thực hiện kế hoạch 5 năm,năm 2001 – 20005 và chiến lược 10 năm phát triển kinh tế xã hội 2001-2010- chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng xã hội chủ nghĩa xây dựng nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, năm 2001 cũng là năm bắt đầu thực hiện chiến lược xuất nhập khẩu đã được Chính phủ phê chuẩn năm 2000.
Thành quả đạt được qua những năm đổi mới nhất l
76 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à 10 năm gần đây đã tạo ra thế lực mới, công việc đổi mới kinh tế xã hội đã có những bước tiến cơ bản; các mặt xã hội trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên; tình hình chính trị- xã hội về cơ bản tiếp tục ổn định.
Năm 2000, kinh tế Việt Nam đãphát triển nhanh hơn, tổng sản phẩm quốc nội ước tính tăng 6,7% so với 4,8% năm 1999. Nhu cầu tiêu thụ nhiên liệu, nguyên liệu, vật liệu xây dựng của nhiều ngành sản xuất tăng vững. Trong khi giá xăng dầu, nguyên liệu trên thị trường thế giới năm qua tăng mạnh càng tác động làm giá cả nhiều loại vật tư tăng vững nhưng giá nông sản có xu hướng giảm.
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu trong những năm qua để thấy được sự đóng góp vào thu nhập quốc dân của ngành xuất khẩu và thấy được mặt mạnh, mặt yếu của nền sản xuất trong nước. Trong xuất khẩu muốn thấy được vị trí vai trò của từng mặt hàng thì chúng ta phải nghiên cứu vấn đề: “thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, thực trạng và giải pháp phát triển”.
Đề tài kết cấu theo:
Chương I. những vấn đề cơ bản thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và các hàng hoá chủ lực nói riêng.
Chương II. Thực trạng về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực.
Chương III. Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng chủ lực ở Việt Nam
Chương I: Những vấn đề cơ bản thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và các hàng hoá chủ lực nói riêng.
1. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và vai trò trong hệ thống các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam .
1.1 xuất khẩu và các mặt hàng chủ lực.
1.1.1 Tổng quan về xuất khẩu.
Kinh doanh thương mại quốc tế là hình thức mua bán hàng hoá dịch vụ giữa các cá nhân tập thể, doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau nhằm thu được lợi nhuận mục đích của kinh doanh thương mại quốc tế là nhằm tối đa hoặc ổn định lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua mở rộng thị trường tiêu thụ, bù đắp các chi phí đâu tư, thực hiện giảm chi phí theo quy mô và tìm kiếm nguồn lực, lợi thế từ nước ngoài. Nhờ phát triển kinh doanh ra thị trường quốc tế các doanh nghiệp có thể tận dụng tối đa các năng lực sản xuất đã đầu tư, tăng hiệu quả kinh doanh nhờ tăng số lượng sản phẩm bán ra khắp toàn cầu; tập trung chi phí lao động rẻ, chi phí năng lượng nguyên liệu thấp; tránh được hàng rào thuế quan, hàng rào phi thuế quan và các ngăn cản khác; cho phép doanh nghiệp có thêm một số chiến lược cạnh tranh với phạm vi đa quốc gia mà các doanh nghiệp kinh doanh nội địa không thể có được – Hoạt động kinh doanh thương mại quốc tế của doanh nghiệp chủ yếu thông qua xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, mà xuất khẩu chủ yếu là hàng hoá chủ lực.
Hoạt động xuất khẩu hàng hoá bao gồm: nghiên cứu thị trường để nhận biết sản phẩm dịch vụ mà thị trường có nhu cầu; nghiên cứu thị trường nước ngoài và chọn đối tác kinh doanh; tìm hình thức và biện pháp giao dịch, đàm phán để kí kết hợp đồng xuất khẩu; thưc hiện hợp đồng xuất khẩu; đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu và tiếp tục quá trình buôn bán.
Kinh doanh thương mại quốc tế không tránh khỏi rủi ro; rủi ro về chính trị phát sinh từ rối loạn chính trị; rủi ro về kinh tế thường đi liền với những biến động về tiền tệ. Bởi vậy, trong thời đại khu vực hoá và toàn cầu hoá trở thành xu thế phổ biến, tốc độ hội nhập của Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào tốc đô và trình độ đổi mới nền kinh tế.
Sự tăng trưởng và đa dạng hoá hoạt động ngoại thương là một trong những thành tựu nổi bật của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Sự sụp đổ của Liên xô và các nước Đông âu cùng với hệ quả của nó là cắt giảm viện trợ và thương mại đã tác động lớn và ảnh hưởng xuất đến nền kinh tế Việt Nam trong những năm 1990-1991. Trong giai đoạn ngắn, nhờ thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, Việt Nam đã tìm được thị trường xuất khẩu mới trong khu vực, nhờ đó tổng giá trị xuất khẩu tăng lên nhanh chóng trong 5 năm 1991-1995, bình quân tăng lên trên 20% một năm. Năm 1995, kim ngạch xuất khẩu đạt 5 tỷ USD đã hình thành một số mặt hàng xuất khẩu chủ lựcvà tăng trưởng chắc trongkỳ 1991-1995. Xuất khẩu dầu thô năm 1995 đạt 7,6 triệu tấn. Từ một nước phải nhập khẩu gạo năm 1991 đã xuất khẩu hơn 1 triệu tấn gạo, vào năm 1995 đã đem lại cho Việt Nam 550 triệu USD. Xuất khẩu thuỷ sản tăng từ 285 triệu USD vào năm 1991 nên 620 triệu USD vào năm 1995, dệt may năm 1995 đạt 700 triệu USD.
Năm 1995 có sự thay đổi lớn trong chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Dầu thô chiếm 40% giảm xuống 20%, gạo không giữ được vị trí chủ yếu khi cà phê, dệt may, thuỷ sản, đạt kim ngạch xuất khẩu vượt qua mức 550 triệu USD. Từ năm 1994, đặc biệt năm 1995 mặt hàng xuất khẩu đã được đa dạng hoá mở rộng sang các mặt hàng công nghiệp nhẹ và nguyên liệu sơ chế. Năm 1995 đã xuất khẩu trên 200 nghìn tấn cà phê, trị giá 560 triệu USD, xuất khẩu được 120 nghìn tấn cao su.
Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 100 nước và lãnh thổ ở khắc các Châu Lục trên thế giới. Tổng kim ngạch ngoại thương tăng nhanh trong giai đoạn 1991-1995, kim ngạch ngoại thương của Việt Nam trong năm 1995 gần 13 tỷ USD. Cơ cấu xuất khẩu theo thị trường các Châu Lục đã có những thay đổi cơ bản chủ động tăng cường việc tham gia các quan hệ buôn bán với các nước Châu á để bù đắp sự thiếu hụt trong quan hệ buôn bán với các nước Liên Xô va Đông âu, giải quyết được phần lớn nhu cầu về nhập vật tư thiết bị và mở rộng nhiều thị trường để tăng xuất khẩu.
1.1.2. Xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường
Trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Việt Nam đang thực hiện chiến lược công nghiệp hoá, hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu bằng những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả. Vì vậy việc thúc đẩy xuất khẩu là một khâu quan trọng của chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng và chính sách phát triển kinh tế nói chung. Nó có mối quan hệ mật thiết với các hoạt động kinh tế khác, đặc biệt là nhập khẩu và đầu tư nước ngoài.
Trong giai đoạn hiện nay thúc đẩy xuất khẩu cần đặc trong mối quan hệ với việc thay thế nhập khẩu và phát triển sản xuất trong nước. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phải được điểu chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế của đất nước, phù hợp với quá trình toàn cầu hoá khu vực hoá. Việt Nam gia nhập AFTA và APEC, WTO, phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện các chính sách và các quy định pháp lý liên quan đến hoạt động xuất khẩu các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh tròn mười mấy mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có: dệt may, thuỷ sản, cà phê, giầy da. Các công nghệ mới phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng và công nghệ mới nói chung được khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế xuất khẩu. Chính phủ Việt Nam chủ trương xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền kinh tế và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thế giới. Việc xác định các ngành trọng điểm của nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng và cần phải được cân nhắc kỹ càng. Chính phủ đã cấp giấy phép thành lập sau khi chế xuất với các quy chế đầu tư ưu đãi và bước đầu một số khu đã đi vào hoạt động đem lại những kết quả khích lệ. Các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp cao cũng đã được thành lập và được sự quan tâm của Chính phủ. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Quốc hội đã thông qua Luật thương mại tạo nê khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất khẩu nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mối là Bộ thương mại. Bộ thương mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước và phối hợp các Bộ, các cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ.
Hiện nay, tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình, không phân biệt thành phần kinh tế, đều được tự do buôn bán với người nước ngoài trên cơ sở luật định. Đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu chính thức, được xuất khẩu và nhận uy thác xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi ngành hàng ghi trong giấy phép kinh doanh. Trừ một số mặt hàng có quy định rộng như gạo, dệt may xuất khẩu vào EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ, cà phê, sản phẩm gỗ, lâm sản chế biến hàng xuất khẩu theo quy chế quản lý chuyên ngành. Từ cuối năm 1995, thủ tục cấp giấy phép xuất nhập khẩu từng chuyến hàng đã được bãi bỏ, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như các doanh nghiệp sản xuất và đông đảo các doanh nghiệp đánh giá cao. Nhà nước Việt Nam sử dụng chính sách thuế như là một công cụ quan trọng để khuyến khích xuất khẩu đối với các ngành, các khu vực cần ưu tiên trên có những quy định về miễn giảm thuế. Luật thuế doanh nghiệp và thuế giá trị gia tăng đã được đưa vào sử dụng. Trong luật thuế thu nhập doanh nghiệp có quy định các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức hợp tác sản xuất nông nghiệp có thu nhập từ sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản không phải nộp thuế này. Luật thuế giá trị gia tăng đã được áp dụng từ ngày 1/1/1999, trong đó có quy định mức thuế xuất 0% đối với tất cả các mặt hàng xuất khẩu và các hàng hoá này còn được thoái trả thuế giá trị gia tăng ở các khâu trước. Đây thực sự là một biện pháp tài chính khuyến khích xuất khẩu tích cực của Việt Nam.
Nhìn tổng quát, từ khi thực hiện chính sách “mở cửa”, nhà nước ta đã áp dụng nhiều chính sách và biện pháp khác nhau để xây dựng một cơ cấu kinh tế năng động của nền kinh tế quốc tế, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của hàng năm khoảng trên 20%. Đây là một tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của nền kinh tế ngoại thương thế giới. Thủy sản là một trong những ngành sản xuất có khả năng hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời lại sử dụng nhiều lao động và các điều kiện tự nhiên thuận lợi, đó là những lợi thế so sánh vào loại lớn nhất của nước ta.
1.2. Vai trò các mặt hàng này trong thị trường xuất khẩu tại Việt Nam.
Trong thời đại ngày nay, việc duy trì và mở rộng quan hệ thương mại đã trở thành một vấn đề sống còn đối với các quốc gia. Để tăng các mặt hàng xuất khẩu sửa đổi lại Luật thuế, chính sách cho phù hợp với kinh tế thị trường. Hiện nay chúng ta đã xuất được rất nhiều mặt hàng sang nhiều nước trên thế giới tỷ trọng và kim ngạch rất khác nhau. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của ta hiện nay gồm có: Dầu thô, may mặc, dầy dép, hải sản, gạo, cà phê, hạt tiêu.....
Dầu thô
2617
3917
5446
6153
6949
7652
8705
9638
12145
14882
15500
May mặc (triệu USD )
215
117
190
239
476
850
1150
1503
1450
1747
1815
Giầy dép (triệu USD )
5
68
122
296
530
987
1031
1392
1402
Hải sản (triệu USD )
239
285
308
427
551
621
697
782
858
971
1475
Gạo (1000 tấn)
1624
1033
1946
1722
1983
1988
3003
3575
3730
4508
3500
Cà phê (1000 tấn)
90
94
116
123
176
248
284
392
382
482
694
Điện tử –-máy tính
(triệu USD )
585
790
Thủ công -mỹ nghệ (triệu USD )
120
124
160
158
168
235
Hạt tiêu (1000 tấn)
9,0
16,3
22,3
14,9
16,0
17,9
25,3
24,7
15,1
34,8
36,2
Hạt điều (1000 tấn)
19,8
16,5
33,3
25,7
18,4
26,4
Cao su (1000 tấn)
75,9
62,9
81,9
96,7
135,5
138,1
194,5
194,2
191
265
280
Rau quả (triệu USD )
52
33
32
24
21
56
90
71
53
105
205
Than đá (1000 tấn)
789
1173
1623
1423
2068
2821
3642
3454
3162
3260
3035
Chè (1000 tấn)
16,1
8,0
13,0
21,2
23,5
18,8
20,8
32,9
33
36,0
44,7
Lạc (1000 tấn)
71
79
63
105
119
111
127
86
87
56
78,2
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch xuất khẩu quý I/2001 là 3.544 triệu USD, đạt 21,2% mục tiêu cả năm, tăng 14,2% so với cùng kỳ. Xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ trọng 53%, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước.
Xuất khẩu bước vào niên kỷ mới với định giá cao vì thế thách thức mới. Với kim ngạch 14,3 tỷ USD. Xuất khẩu của Việt Nam năm 2000 tiếp tục vươn nên một định mốc mới và được quốc tế thừa nhận là nước có nền ngoại thương tương đối phát triển. Thành tựu này cũng khảng định con đường phát triển mà Đảng ,Nhà nước và nhân dân ta đã chọn là đúng đắn, hợp tác xu thế phát triển của khu vực và thế giới. Năm 1999, xuất khẩu của cả nước đạt kim ngạch hơn 11,5 tỷ, tăng 23,1% so với năm 1998 và là năm đầu trên xuất khẩu của nước ta vượt qua cột mốc 10 tỷ, rồi 11 tỷ USD. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, cùng với mức tăng của tổng kim ngạch, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đều tăng kim ngạch, trong đó nổi bật là dầu thô tăng 71,2%, đạt kim ngạch 3,582 tỷ USD; thuỷ sản tăng 51,9% đạt 235 triệu USD; hàng điện tử tăng 35% đạt kim ngạch 790 triệu USD ... Đặc biệt là sau qủa có tốc độ tăng đến 95,2% với kim ngạch đạt 250 triệu USD. Các mặt hàng truyền thống có kim ngạch không cao song cũng chứng tỏ rằng nỗ lực mở rộng thị trường, tăng cường chất lượng và chủng loại hàng hoá xuất khẩu trong một bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Có 3 mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm sút so với năm 1999 là than đá, gạo và cà phê. Trong đó gạo xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn với kim ngạch 627 triệu USD, giảm 22,4% về lượng và 34,4% về kim ngạch so với 1999, cà phê xuất tăng mạnh về lượng (680.000 tấn, tăng 40,9%) nhưng do giá giảm nên kim ngạch giảm đến 17% (đạt 585,3 triệu USD ).
Về chủng loại hàng hoá xuất khẩu năm qua các doanh nghiệp đã có nhiều cố gắng đưa ra nhiều mặt hàng mới góp phần đáng kể vào mức tăng trưởng xuất khẩu vượt bậc. Các mặt hàng mới phải kể đến là cơ khí, sữa, đồ gỗ... Song song đó, thị trường xuất khẩu cũng mở rộng nhờ làm tốt công tác xúc tiến thương mại. Ngoài các t truyền thống như :Nhật, ASEAN, EU, thị trường Mỹ đã được nhiều doanh nghiệp hướng tới.
Tóm lại xuất khẩu có rất nhiều vai trò quan trọng.
Một là, xuất khẩu tạo nguồn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo những bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn và chậm phát triển của nước ta. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn ra trong một thời gian ngắn, đòi hỏi phải có một số rất lớn để nhập khẩu máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến.
Hai là, xuất khẩu đóng vai trò vào việc mở rộng cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới đã và đang thay đổi mạnh mẽ, đó là thành quả của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. xuất khẩu tạo điều kiện cho các ngành khai thác có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ góp phần cho sản xuất phát triển, tạo điều kiện mở rộng khả năng cung ứng đầu vào cho sản xuất. Xuất khẩu còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công việcquản trị sản xuất kinh doanh với hiệu quả ngày càng cao.
Ba là, xuất khẩu có tác dụng tích cực đối với giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Xuất khẩu góp phần quan trọng vào việc giải quyết các vấn đề sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên. việc đưa các nguồn tài nguyên này tham gia vào phân công lao động quốc tế thông qua việc chế biến các ngành chế biến xuất khẩu đã góp phần nâng cao giá trị hàng hoá.
Bốn là, xuất khẩu mở rộng và thúc đẩy mở rộng và thúc đẩy quan hệ kinh tế trong nước và các nước trên thế giới. Xuất khẩu là một nội dung của kinh tế đối ngoại và tạo điều kiện thúc đẩy các quan hệ này phát triển, chẳng hạn xuất khẩu thúc đẩy quan hệ tín dụng, đầu tư mở rộng vận tải quốc tế. Mặt khác chính các quan hệ kinh tế đối ngoại lại tạo tiền đề mở rộng xuất khẩu.
Cũng như tất cả các hoạt dộng khác, xuất khẩu góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Phát triển kinh tế xã hội như y tế, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật... mang lại hiệ quả kinh tế xã hội. Đó chính là mục tiêu của sự phát triển.
2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu và thị trường nhập khẩu thế giới hàng hoá chủ lực.
2.1. Nội dung xuất khẩu.
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống quan hệ mua bán trong nền thương mại có tổ chức.
2.1.1. Nghiên cứu thị trường nước ngoài và chọn đối tác kinh doanh.
Doanh nghiệp phải hiểu rõ điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp vận tải, tiền tệ, tập quán thị hiếu, ước tính được dung lượng thị trường và sự biến động giá cả của mặt hàng xuất khẩu ở thị trường nướn ngoài. kết quả xuất khẩu phụ thuộc vào thương nhân cụ thể mà doanh nghiệp lựa chọn, vì vậy phải làm rõ thái độ chính trị, triết lý kinh doanh, khả năng tài chính và uy tín của họ trên thị trường.
2.1.2. Tìm hình thức và biện pháp giao địch, đàm phán để ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Trong nội dung cơ bản của hợp đồng xuất khẩu hai bên phải thoả thuận nhiều vấn đề: Nội dung công việc xuất khẩu; Bao bì đóng gói; thời gian; phương tiện; giám định hàng hoá; sát trùng hàng hoá; điều kiện xếp dỡ hàng hoá ...
2.1.3. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Kiểm tra, xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu, uỷ thác thuê tàu, kiểm nghiệm hàng hoá, thủ tục hải quan, giao hàng lên tàu, bảo hiểm hàng hoá, thủ tục thanh toán, giải quyết khiếu lại (nếu có).
2.1.4. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu và tiếp tục quá trình buôn bán các chỉ tiêu thường dùng so sánh, đánh giá hoạt động: Số lượng thực hiện xuất khẩu só với đơn hàng, chủng loại mặt hàng so với kế hoạch, tiến độ xuất hàng, doanh số, chi phí kinh doanh, lợi nhuận đạt được.
2.2. Triển vọng các thị trường xuất khẩu của Việt Nam đến năm 2010.
2.2.1. Thị trường ASAN:
Trong giai đoạn chuyển đổi thị trường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam, thị trường các nước ASAN đóng vai trò quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong khối lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên tình hình từ năm 1996 đến nay đã có thay đổi, có xu hướng giảm tỷ lệ xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam sang các thị trường. Trong giai đoạn từ nay đến 2010, thị trường các nước ASEAN cũng bị hạn chế đối với các sản phẩm xuất khẩu nông nghiệp của Việt Nam. Các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam sang các nước này phần lớn là dưới hình thức tạm nhập tái xuất, đặc biệt là đối với thị trường Singapo, nên không phù hợp với nhu cầu nâng cao giá trị xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam trên thế giới. Thêm nữa, các sản phẩm xuất khẩu thường là sản phẩm thô, ít qua chế biến nên việc cắt giảm thuế xuất khẩu theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CFPT) của các nước ASEAN không có tác động lớn đến khối lượng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam. Tuy nhiên, thị trường các nước ASEAN vẫn là thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010.
2.2.2. Thị trường các nước Châu á khác.
Nhìn chung triển vọng mậu dịch nông sản của các thị trường Châu á khác trong giai đoạn từ nay đến 20010 là rất lớn. Nhu cầu nhập khẩu cao về các sản phẩm nông nghiệp của các nước cận Trung Đông sẽ làm tăng khoảng cách giữa nhập khẩu và xuất khẩu các sản phẩm của khu vực này. Trong đó các sản phẩm có khả năng nhập khẩu lớn của khu vực là lương thực, chè. Đối với Việt Nam, mặc dù trong những năm gần đây xuất khẩu nông sản sang các khu vực này đã có những dấu hiệu tích cực như xuất khẩu chè sang Irắc, ký hợp đồng xuất khẩu gạo dài hạn sang IRAN. Nhưng khu vực Trung Cận Đông vẫn là thị trường mới chưa khai thác và được xem là khu vực thị trường tiềm tàng cho các sản phẩm nông nghiệp, nhất là chè và gạo. Trong khi đó, các nước Châu á khác như : Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Nhật..... sẽ tăng nhập khẩu các loại hàng nông nghiệp ít qua chế biến để phục vụ cho công nghiệp chế biến.
Đồng thời các nước nqày cũng tăng cường xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp đã qua chế biến sang các nước khác.
Có thể khẳng định rằng đây là khu vực thị trường hàng nông sản sôi động nhất trên thế giới trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn vừa qua, xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp sang thị trường các nước ngày càng lớn về khối lượng và đa dạng về chủng loại. Triển vọng xuất khẩu nông sản sang các khu vực thị trường này được mở rộng cả về kf và giá trị, đặc biệt là thị trường Trung Quốc.
2.2.3. Thị trường các nước SNG và Đông âu.
Mặc dù sự giám sút về mậu dịch nông sản giữa khu vực thị trường này với Việt Nam trong giai đoạn vừa qua không chỉ do sự bất ổn định của tình hình kinh tế - chính trị – xuất khẩu của khu vực này, mà còn do những khó khăn về phương pháp và xử lý nợ của Việt Nam, nhưng đây vẫn sẽ là khu vực thị trường truyền thống đôi với hàng nông sản của Việt Nam và có thể được xem là khu vực thị trường dễ tính nhất đối với các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam. Đó là những yếu tố thuận lợi cho sự phục hồi xuất khẩu trong tương lai. Hiện nay tình hình của khu vực này đang dần đi vào ổn định và phát triển do đó kéo theo sự phục hồi của quan hệ mậu dịch trong và ngoài khu vực.
2.2.4. Thị trường EU.
So với thị trường các nước SNG và Đông Âu, thị trường EU là thị trường “khó tính ” với chế độ bảo hộ nông nhiệp chặt chẽ và với mức độ bảo hộ cao. Mặc đù việc thực hiện các cắt giảm bắt buộc theo hiệp định nông nghiêp khiến các rào chắn đã được dở bỏ một phần, nhưng chưa đáng kể, ngay cả trong trường hợp thực hiện đầy đủ các cắt giảm theo hiệp định thì các cản trở về mậu dịch hàng nông sang EU đối với các nước đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng vẫn ở mức cao. Hơn nữa phần lớn các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam hiện nay và trong thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI vẫn chưa thực sự thích ứng với điều kiện mậu dịch của khu vực này. Tuy nhiên, đây là khu vực thị trường mà Việt Nam có thể thu được hiệu quả xuất khẩu cao, rât cần thiết cho sự nghiệp phát triển nền nông nghiệp hàng hoá Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2010. Triển vọng xuất khẩu các sản phẩm nông sản sang khu vực này chủ yếu là đối với nhóm hàng các sản phẩm nhiệt đới (cà phê, chè,....) và cau su tự nhiên. Riêng về gạo và các sản phẩm ngũ cốc khác, các nước EU đóng vai trò trung gian trong xuất khẩu của Việt Nam sang các nước nghèo Châu Phi.
3. Các nhân tố ảnh hưởng xuất khẩu ở Việt Nam.
3.1. Lợi thế của Việt Nam và các yếu tố ảnh hưởng.
3.1.1. Yếu tố ảnh hưởng.
Cho đến nay nước ta vẫn chủ yếu xuất khẩu nông sản, hàng tiểu thủ công nghiệp và sản phẩm công nghiệp có hàm lượng công nghệ thấp. Với khoảng thời gian từ nay đến năm 2020, khả năng xuất khẩu nông sản của Việt Nam, theo đúng nghĩa của nó, vẫn chỉ là khả năng (dù cho tính hiện thực rất cao)và chưa chứa đựng trong đó những điều kiện bất khả kháng, rủi ro có thể hoặc không thể đoán trước được. Dù vậy, việc đưa ra những dự báo có thể là rất cần thiết cho các doanh nghiệp hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh.
Một trong những yếu tố có ảnh hưởng khá toàn diện và trực tiếp xu hướng phát triển thị trường hàng nông sản thế giới cũng như với Việt Nam là xu thế toàn cầu hóa và khu vực hoá. Không một nước nào cưỡng lại xu thế này mà không phải trả giá đắt. Yếu tố này được thể hiện thông qua hiệp định nông nghiệp được các nước thành viên, tổ chức thương mại Quốc tế (WTO) ký kết tại vòng đàm phán Uruguay năm 1994, và hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước tham gia khu vực mậu dịch tự do (AFTA). Ngoài ra, khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố cơ bản khác đã được nhận biết, như hiện tượng EL. NINO và cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam á. Về ảnh hưởng của hiện tượng EL.NINO, đây là hiện tượng đang chịu ảnh hưởng mạnh đến sản xuất nông nghiệp toàn cầu, do đó cũng sẽ ảnh hưởng đến thị trường nông sản thế giới. Tuy nhiên, khó có thể ước lượng sự liên quan giữa EL.NINO và những thay đổi trong sản xuất nông nghiệp. Năm 1997 hiện tượng EL. NONO được xem là nghiêm trọng nhất trong thế kỷ, những sản lượng toàn thế giới của nhiều sản phẩm nông nghiệp, có tính đến ảnh hưởng của E.L NINO, cho thấy không có sự giảm sút lớn về khối lượng, mà chỉ có ảnh hưởng nhẹ đến mức dự trữ các sản phẩm nông nghiệp trong năm 1998. Và sự tăng giá chút ít đối với thị trường cà phê.
Đối với khả năng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, ảnh hưởng của hiện tượng E.L NINO có thể được xem như những yếu tố ngắn hạn và mức độ không lớn.
Dưới góc độ nghiên cứu về khả năng xuất khẩu các sản phẩm nhà nước Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến năm 2010 có thể thâý ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng ở những phương diện sau:
Tác động đến xuất khẩu các sản phẩm nhà nước Việt Nam trong những năm trước mắt. Một là, làm tăng một cách tương đối giá xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của n so với khu vực, ít nhất là trong thời gian các đồng nội tệ còn mất giá trị so với đồng USD. Sự tăng giá tương đối, tức là giảm lợi thế về giá - một sản phẩm nhà nước Việt Nam sang các nước trong khu vực và kể cả ngoài khu vực. Trong điều kiện đồng nội tệ mất giá, các nước này sẽ tăng cường xuất khẩu hàng hoá ra các khu vực khác, làm hạn chế cơ hội xuất khẩu của các nước có đồng tiền ổn định hơn, trong đó có Việt Nam. Hai là, làm thay đổi các quan hệ của các hàng hoá trong nước, giữa giá bán hàng công nghiệp tiêu dùng, giá bán nông sản và giá bán vật tư, giữa chỉ số mua nông sản và chỉ số giá xuất khẩu.
Về nguyên tắc, để tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu Việt Nam cũng phải tự điều chỉnh giá trị của đồng Việt Nam. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh giá trị đồng tiền Việt Nam phụ thuộc vào tiềm lực và sức mạnh kinh tế trong nước.
Tác động đến việc phát triển của công nghiệp chế biến nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam trong các năm tới. Đối với Việt Nam để phát triển nhanh ngành chế biến, phải thu hút vốn đầu tư nước ngoài dưới các hình thức vay vốn, liên doanh góp vốn, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á mấy năm trước đã dẫn đến giảm giá đầu tư nói chung và đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến nói riêng. Bởi một là các nước đang hoặc sẽ đầu tư vào Việt Nam bị rơi vào cuộc khủng hoảng như: Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapere.... sẽ buộc phải điều chỉnhlại vốn đầu tư và thời điểm đầu tư hoặc các nước như Mỹ, Châu Âu sẽ rút vốn đầu tư ra khỏi khu vực để đầu tư sang khu vực khác ngoài Châu á, chẳng hạn như Châu Âu, Mỹ La Tinh; Hai là, do điều chỉnh giảm giá trị của tiền Việt Nam so với đồng USD cũng dẫn đến tình trạng khan hiếm, thiếu hụt vốn của các dự án đầu tư trong nước vào ngành công nghiệp chế biến các sản phẩm nông nghiệp.
3.1.2. Lợi thế của Việt Nam trong sản xuất và xuất khẩu hàng hoá chủ lực
* Điều kiện về đất đai.
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng hàng đầu của việc canh tác lúa gạo, cà phê, tiêu điều vì tất cả sản lượng thu được trong quá trình sản xuất đều phải thông qua đất. Đồ phì nhiêu của đất chi phối sâu sắc khả năng thâm canh và giá thành sản phẩm. Tổng diện tích tự nhiên cả nước có trên 33,1 triệu ha, bình quân đất theo đầu người thấp nhưng quỹ đất có khả năng sản xuất nhà nước lại chiếm tỷ lệ cao trong đất. Theo khảo sát của Viện quy hoạch và thiết kế lại chiếm tỷ lệ cao trong đất. Theo khảo sát của viện Quy hoạch thiết kế nông nghiệp thuộc sở Nông nghiệp thuộc bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, đất có khả năng nhà nước nước ta co trên 10 triệu ha. Như vậy tài nguyên đất đai của nước ta có lợi thế đồng thời cho tất cả hướng thâm canh và quảng canh nhằm tăng nhanh sản lượng.
* Khí hậu.
Tài nguuyên khí hậu đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, cung cấp nguồn năng lượng và các yếu tố khác như : độ ẩm và gió mưa. Khí hậu nước ta có điều kiện đặc biệt sinh thái lý tưởng đòi hỏi với cây lúa do có sự kết hợp chặt chẽ giữa các yếu tố trên. Nghiên cứu các yếu tố thuộc điều kiện sinh thái cho thấy rõ thêm, không phải vô cớ mà cây lúa là cây bản địa của Việt Nam với lịch sử nhiều năm của nghề trồng lúa. Đặc biệt ở hai châu thổ, cần có chế độ thâm canh và luôn canh tối ưu để khai thác triệt để những lợi thế lý tưởng này.
* Nước tưới tiêu.
Tài nguyên nước rất đồi dào là một trong những lợi thế nổi bật của ngành trồng trọt nói chung và lúa gạo , cà phê.... nói riêng. Số ngày mua lý tưởng 124-140 ngày trong một năm ở hai đồng bằng lớnkhông chỉ cung cấp nguồn nước tưới tiêu mà còn mang lại một nguồn đạm tự nhiên rất quý giá mà đạm nhân tạo không thể sánh được. Cùng với nước mưa trời, dòng chảy mặt còn sản sinh trên lãnh thổ nước ta khoảng 300 tỷ m3 nước. Ngoài ra hệ thống thuỷ lợi nước ta với 10% ngân sách nhà nước đầu tư hàng năm đã đạt được thành quả bước đầu đáng mừng. Có thể nói, nước là nguồn tài nguyên vốn quý giá cộng thêm sự chú trọng thuỷ lợi hơn nữa của nhà nước trong thời gian qua, là yếu tố rất cơ bản thúc đẩy sản xuất và xuất khẩu tăng mạnh trong nhữn năm gần đây.
* Nguồn nhân lực.
Yếu tố nhân lực không chỉ có ưu thế lớn về số lượng nhân lực mà còn có ưu thế lớn về chất lượng, về sự tinh thông, am hiểu ngành nghề. Đặc biệt nghề lúa nước là nghề cổ xưa nhất và phổ cập nhất từ thủa cộng đồng nguyên thuỷ người Việt Nam cho đến khi ra đời nước Văn Lang và tới nay, lịch sử sản xuất lúa Việt Nam đã trải qua hơn 6 nghìn năm, đã đượccác thế hệ đúc rút và để lại nhiều tri thức và kinh nghiệm. Kho tàng kinh nghiệm đó thực sự là một lợi thế đặc biệt, nó cho phép khai thác triệt để những lợi thế thông thường của các tài sản thiên nhiên như tài sản đất, tài sản nước, khí hậu.
Nguồn nhân lực đông cung cấp nguồn nhân công dồi dào cho ngành dệt may và da giầy. Trong ngành này đòi hỏi sự cần cù khéo léo vì người lao động Việt Nam đã sẵn có những tố chất đó. Nguồn nhân lực dồi dào giúp các doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn, phân cấp và tuyển chọn một cách chính xác và chất lượng .
* Biển
Biển là cơ sở tốt cho ngành khai thác và chế biến hải sản. Bờ biển Việt Nam dài bằng 6/7 biên giới lục địa, biển nhiệt đới. Theo sự phân bố các vật thể hữu cơ trong biển thì biển Việt Nam có mật cá vào loại trung bình trên thế giới và có đủ các loại hải sản chủ yếu của các biển nhiệt đới khác. Biển Việt Nam còn có dòng hải lưu ven biển là những dòng sông lớn từ các vùng sâu từ trong nội địa chảy ra đem theo nhiều sinh vật trôi nổi làm mồi cho cá, khiến cho mật độ các loại hải sản có thể cao hơn so với các vùng khác. Đó là điều kiện tốt giúp cho ngành công nghiệp khai thác chế biến hải sản phát triển tốt.
*Địa lý và cảng khẩu.
Hầu hết, khối lượng xuất khẩu bấy lâu thường vận chuyển bằng đường biển. So với các phương thức vận tải quốc tế bằng đường sắt, đườ._.ng hàng không, vận tải biển quốc tế thường đảm bảo tiện lợi hơn, thông dụng vì có cước phí rẻ hơn. Do vậy riêng phương thức này đã chiếm khoảng trên 80% buôn bán quốc tế. Việt Nam có vị trí giao thông biển rất thuận tiện. Hệ thống cảng biển Việt Nam nói chung đều nằm sát đường hàng hải quốc tế và có thể hành trình theo tất cả các tuyến đi Đông Bắcá, Đông Nam á, Thái Bình Dương, Trung Cận Đông, Châu Âu, Châu Mỹ. Từ cảng Sài Gòn đến đường hàng hải quốc tế thường chỉ hết 3 giờ hành trình với 40 hải lý
3.2 Sự cần thiết phải xuất khẩu.
Bên cạnh những lợi thế về đất đai, khí hậu, vị trí địa lý và con người như là một tiềm năng trong sản xuất và phát triển sản xuất lúa gạo, cà phê, may mặc... để xuất khẩu. Thì sự cần thiết phải xuất khẩu đối với Việt Nam có thể quy tụ vào những lẽ cơ bản sau đây:
3.2.1 Tích luỹ vốn cho sự nghiệp đổi mới đất nước.
Mục tiêu chủ yếu của sự nghiệp đổi mới của Đảng và Nhà nước ta hiện nay là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy, đẩy mạnh xuất khẩu nói chung là đòi hỏi cấp bách nhằm tăng ngoại tệ, giải quyết vốn cho công nghiệp hoá. Trong đó, mặt hàng dầu thô chiếm tỷ trọng đóng góp cho GDP là lớn nhất, sau đó đến giầy da, may mặc, gạo, cà phê, cũng đóp góp rất lớn cho GDP. Kim ngạch xuất khẩu gạo trong suốt 12 năm qua đã đạt trên 7 tỷ USD. Năm 2000thuỷ sản có kim ngạch xuất khẩu đạt 1,475 tỷ USD, dầu thô kim ngạch tăng 71,2%, đạt 3,582 tỷ USD... Những con số đó. Đã nói nên sự cần thiết của việc xuất khẩu đối với công cuộc đổi mới kinh tế của đất nước.
3.2.2. Cải thiện đời sống.
Đối với mỗi quốc gia, việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung lớn thuộc chiến lược con người để thực hiện thắng lợi các chiến lược kinh tế – xã hội của đất nước. Dân số nước ta với 80% dân số tập trung ở nông thôn, phần lớn sinh sống bằng sản xuất nông thuỷ sản. Trong khi đó đời sống ở nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của người nông thôn và thành thị có sự chênh lệch đáng kể. Đời sống của nông thôn còn thấp, xét cả về mức thu nhập bình quân đầu người, điều kiện vật chất và cơ sở hạ tầng....... Với tình trạng đó sản xuất và xuất khẩu nông thuỷ sản nói riêng và xuất khẩu các mặt hàng nói chung để nâng cao thu nhập cho nông dân góp phần xây dựng nông thôn ngày một giầu mạnh là điều thật sự cần thiết.
3.2.3. Phát huy lợi thế trong nước.
Sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam có những lợi thế cơ bản như lợi thế về đất đai, khí hậu, nước, nguồn nhân lực, vị trí địa lý, cảng khẩu. Một chiến lược đúng đắn nhất phải là chiến lược khai thác được nhiều lợi thế nhất. Chính lợi thế đó, từ điều kiện nhân lực đến điều kiện thiên nhiên làm cho sản lượng nông thuỷ sản tăng đều đặn trong những năm qua, hàng may mặc và khai thác dầu cũng tăng. Do đó chúng ta thấy rõ hơn sự cần thiết phải xuất khẩu, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực vì nó đem lại thu nhập có cho người nông dân.
Chương II
Thực trạng thị trường xuất khẩu hàng chủ lực
1. Đặc điểm các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam.
1.1. Kim ngạch xuất khẩu.
Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh, năm 1986 đạt 789,1 triệu USD, đến năm 1999 đạt khoảng 11.540 triệu USD. Tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh, từ năm 1997 đến nay có xu hướng tăng chậm lại.
Bảng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1986-2000
Năm
Xuất khẩu (triệu USD )
Tốc độ tăng (+), giảm (-)
1986
789,1
+ 13,0
1987
854,2
+ 8,2
1988
1038,4
+21,6
1989
1946,0
+87,4
1990
2404,0
+23,5
1991
2.087,1
- 13,2
1992
2.588,7
+ 23,7
1993
2.985,2
+ 15,7
1994
4.054,3
+ 35,8
1995
5.448,9
+ 34,4
1996
7.255,9
+ 33,2
1997
9.185,0
+26,6
1998
9.361,0
+1,9
1999
11.540,0
+ 23,1
2000
14.308,0
+ 23,9
Nguồn: tổng cục thống kê
Giai đoạn 1986- 1999, kim gạch xuất khẩu đạt 7,0317 tỷ Rúp – USD. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung bình hàng năm là 30,74%, giữa các năm tốc độ tăng trưởng không đều, xuất khẩu dư là bù đắp được một phần cho nhập khẩu. Giai đoạn 1991-1996 giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 24,4 tỷ USD, tốc độ tăng trung bình là 21,6%. Giúp cân đối nguồn ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu vật tư, nguyên liệu, thiết bị hàng tiêu dùng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, hạn chế làm bất bình ổn định giá cả. Tuy nhiên, năm 1999, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vượt qua mốc 10 tỷ USD, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 5 lần tốc độ tăng trưởng kinh tế. Kết quả này, một mặt, do xuất khẩu được đầu tư đúng mức, mặt khác, kinh tế ở khu vực Châu á đã có sự phục hồi, tạo ra môi trường thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu và cả nhập khẩu.
Mặc dù mức tăng làm ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 1986 –1999 chưa cao bằng Đài Loan, Hàn Quốc, ở giai đoạn đầu khi họ tiến hành công nghiệp hoá, nhưng cũng khá cao so với một số nước đang phát triển khác. Tốc độ gia tăng bình quân xuất khẩu hàng năm vượt xa tốc độ gia tăng nhập khẩu (23,9%/ 15,7%). Kim ngạch xuất khẩu bình quân trên đầu người đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây. Mức xuất khẩu trên đầu người đã tăng từ 31 USD / người năm 1991 lên 150 USD/ người vào năm 1996.
1.2. Thị trường nhập khẩu có những thay đổi khá lớn.
Giai đoạn 1986- 1990, tỷ trọng xuất khẩu hàng Việt Nam sang các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn chiếm ưu thế lớn như: thị trường Liên Xô, chiếm từ 64 – 78% kim ngạch xuất khẩu, tiếp theo là Đức, Tiệp Khắc. Đối với khu vực tiền tệ chuyển đổi tự đo, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, chiếm 10/15% kim ngạch xuất khẩu, sau đó là Singapo. Tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Châu á đã tăng từ43% năm 1990 lên 77% vào năm 1991 và luôn dao động ở mức 72-73% suốt thời kỳ 1992-1996. Đến năm 1996 thị trường Châu á chiếm 73% tổng kim ngạch xuất khẩu, trong đó Nhật Bản 13%, ASEAN; 34%; NIES Đông á (trừ Singapo) 19%, Trung Quốc 5%. Thị trường xuất khẩu sang Châu Âu từ 17,1% năm 1991 lên 27,7% năm 1996, Châu Mỹ. Từ 0,16% năm 1991 lên 4,4% năm 1996, Châu úc 0,3% năm 1991 lên 1% năm 1996. Từ năm 1997 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu á, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp. Tính đến nay Việt Nam đã có quan hệ với 167nước, thị trường xuất khẩu được mở rộng từ quan hệ ngoại thương với 40 nước vào năm 1990 lên 154 nước và các Công ty của 70 nước và khu vực lãnh thổ trong đó có nhiều thị trường mới có nền công nghệ cao và nguồn vốn lớn.
1.3 Việt Nam đã xuất hiện mặt hàng xuất khẩu “chủ lực” nhưng cơ cấu xuất khẩu vốn vẫn chưa có sự chuyển dịch lớn.
Cơ cấu xuất khẩu đã có những thay đổi quan trọng, bắt đầu hình thành những nhóm hàng và mặt hàng chủ lực. Tỷ trọng của sản phẩm khai khoáng từ 9% năm 1986 xuống xấp xỉ 50% năm 1990. Sở dĩ có sự thay đổi này là do sản phẩm dầu thô tăng nhanh.
Bảng: Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu 2000.
Mặt hàng
Kim ngạch (triệu USD )
% so với năm 1999
1. Dầu thô
3582
171,2
2. Dệt may
1815
103,9
3. Thủy sản
1475
151,7
4. Giầy dép
1402
100,7
5. Điện tử – Máy tính
790
135,0
6. Gạo
668
65,2
7, Cà phê
480
85,7
8. Hàng thủ công mỹ nghệ
235
139,7
9. Rau quả
205
195,4
10. Hạt điều
126
135,9
11. Cao su
178
126,2
Nguồn : Bộ Thương mại
Bảng :Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam
Nhóm hàng
1990
1995
1998
Kim ngạch
%
Kim ngạch
%
Kim ngạch
%
1. Công nghiệp nặng, khoáng sản
616,9
25,66
1377,7
25,28
2609,0
27,87
2.Công nghiệp nhẹ và TTCN
635,8
26,45
1549,8
28,44
3427,6
36,62
3. Nông sản
783,2
32,58
1745,8
32,04
2274,3
24,3
4. Thuỷ sản
239,1
9,94
621,4
11,4
858,0
9,17
Nguồn: Niên giám thống kê 1989, 1994,1999.
Tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản xuất khẩu tăng vọt từ 9,10% năm 1995 lên 25,66% năm 1990, 25,28% năm 1995 va 27,87% năm 1998. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng từ 2.617 nghìn tấn. Đây là mặt hàng luôn giữ vị trí số một trong 15 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam.
Tỷ trọng hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp xuất khẩu từ 33,72% năm 1985 giảm xuống còn 26,45% năm 90, sau đó tăng lên 28,44% năm. Năm 1995 và 36,62% năm 1998. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 1990 chiếm 7,6% tổng giá trị xuất khẩu (18,5 triệu USD ) đến năm 1999 chiếm 15,9% tổng giá trị xuất khẩu (1.450 triệu USD ) và năm 2000 đạt 1850 triệu USD. Cùng với gạo và hải sản, mặt hàng dệt may giữ vị trí thứ 2 đến thứ 4 trong 15 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu. Tiếp đến là mặt hàng giầy da, năm 1993 kim ngạch xuất khẩu chiếm 0,5 tổng giá trị xuất khẩu (296,4 triệu USD ), đến năm 1999 chiếm 11% tổng giá trị xuất khẩu (1.391 triệu USD ), năm 2000 đạt 1402 triệu USD.
Tăng trưởng xuất khẩu chủ yếu do một số ngành công nghiệp nhẹ, phần lớn trong số là hàng dệt may và giầy dép. Chẳng hạn 1998, tổng giá trị xuất khẩu của 2 mặt hàng đã vượt giá trị xuất khẩu của 3 mặt hàng nông nghiệp chủ yếu là gạo, cà phê, cao su; mặt hàng dệt may trở thành mặt hàng xuất khẩu lớn nhất trong khi dầu thô tụt xuống vị trí thứ hai; mặt hàng máy tính điện tử, hình kiện xuất khẩu đã thay cho mặt hàng than đá. Tỷ trọng của sản phẩm chế tạo, chế biến tăng từ khoảng 23% tổng giá trị xuất khẩu năm 1994 lên 38,7% năm 1998. Điều này cho thấy, Việt Nam đã bắt đầu khai thác lợi thế so sánh của mình trong những ngành chế tạo sử dụng nhiều lao động với ưu thế của ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu so với các sản phẩm xuất khẩu thô.
Cơ cấu xuất khẩu đã có một số thay đổi, sản phẩm xuất khẩu ở khu vực nông nghiệp có xu hướng giảm đi rõ rệt trong cơ cấu hàng xuất khẩu và công nghiệp khai khoáng giảm đi nhưng tỷ trọng khu vực này những cấu phấn quan trọng trong khối lượng xuất khẩu.
Như vậy cùng với sự quản lý vĩ môt đúng đắn của nhà nước và những cải cách trong chính sách xuất nhâp khẩu, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu có những thay đổi cơ bản, theo đúng hướng vừa không ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm bằng cách phát huy tối đa các lợi thế so sánh của đất nước về lao động, tài nguyên, vị trí địa lý để giảm chi phí sản xuất kinh doanh, nâng cấp giá trị sử dụng của sản phẩm, tạo ra được sức mạnh cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới, vừa tăng dần tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm công nghệ chế tạo, chế biến và nguyên vật liệu có hàm lượng kỹ thuật cao, từng bước thay thế xuất khẩu các sản phẩm thô. Thị trường xuất khẩu đã được chuyển hướng kịp thời, linh hoạt, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể, phản ánh khả năng hội nhập của kinh tế Việt Nam vào khu vực và thế giớ trong điều kiện thị trường hàng hoá kinh tế quốc tế.
* Cơ cấu hàng xuất khẩu năm 2000.
Trước hết là nói về dầu thô, chủ yếu là do giá dầu thế giới, chứ còn lượng dầu chỉ tăng 1,4% so với năm 1999. Nhờ đó giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã đạt tới 3,582 tỷ USD, tăng 71,5% so với năm 1999. Đây chắc hẳn là điều đáng mừng vì hoàn toàn do yếu tố khách quan mang lại.
Đặc biệt trong những năm 2000 đánh dấu một bước phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu đạt ngoài dự kiến: 1,475 tỷ USD, tăng 51,9% so với năm 1999 vượt mức kế hoạch 34,4% có được thành công trên đây là do thời gian qua đã chuẩn bị tốt nguồn hàng xuất khẩu từ đánh giá bắt nuôi trồng, chế biến bảo quản.
Tuy đứng ở vị trí thứ nhì, với kim ngạch xuất khẩu là 1,815 tỷ USD nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may năm nay cũng chỉ ở mức 3,9% so với năm 1999, mặc dù kế hoạch đặt ra cho năm 2000 là 1,95 tỷ USD, tức là chưa đạt kế hoạch. Có tình hình trên đây là do trong các hợp đồng của khách hàng xuất hiện nhiều chủng loại mới khó may nên ta chưa chuẩn bị hàng để giao nhận mặc dù EU đã tăng thêm hạn ngạch cho Việt Nam.
Cũng ở tình trạng tương tự như hàng dệt may, xuất khẩu giầy dép các loại của Việt Nam năm 2000 gần như đâm chậm tại chỗ chỉ tăng có 0,7% so với năm 1999. Nguyên nhân là do một số lượng hàng giầy dép đang bị tồn kho trên thế giới, do các bạn hàng ra sức ép giá đối với ta, đồng thời giảm số lượng hợp đồng ký kết dẫn đến công nhân không đủ việc làm.
Hàng rau quả tuy chỉ mới đạt kim ngạch xuất khẩu là 205 triệu USD nhưng là ngành hàng có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao nhất trong năm qua các bạn hàng lớn nhất là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Tuy nhiên, xuất khẩu hai sản phẩm nông nghiệp là cà phê và gạo năm 2000 lại giảm sút nghiêm trọng. Cà phê, giảm giá liên tục và đạt mức thấp nhất trong nhiều năm qua. Giá xuất khẩu bình quân là 614 USD/ tấn. Nhất là những ngày cuối năm chỉ còn 380 USD/ tấn. Xuất khẩu gạo cũng giảm mạnh chỉ còn 3,5 triệu tấn do nhu cầu của thế giới không tăng và giá giảm bình quân 10 –18% nên kim ngạch xuất khẩu gạo chỉ đạt 668 triệu USD.
Nhìn chung cơ cấu xuất khẩu hàng hoá Việt Nam năm 2000 được đánh giá là đa dạng phong phú hơn trước đây. Việt Nam đã không ngần ngại khai thác nhiều mặt hàng mới để xuất khẩu mặc dù quy mô rất nhỏ bé, mỗi mặt hàng giá trị chỉ vài ngàn USD.
Nhìn vào cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam, ta vẫn thấy chủ yếu là sản phẩm nhà nước và các nguyên liệu thô, các mặt hàng chế toạ còn chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn, trong khi đó mặt hàng chế toạ như dệt may, giày dép lại nhập khẩu rất nhiều nguyên liệu từ bên ngoài, phương thức gia công vẫn chính là,hiệu quả thấp. Tuy nhiên, năm 2000 nhập siêu có tăng nhiều so với năm 1999, nhưng vẫn ở mức thấp so với một số năm trước, chỉ chiếm khoảng trên dưới 6% so với tổng giá trị xuất khẩu, là tỷ lệ có thể chấp nhận được. Bộ thương mại đã xây dựng giải pháp quan trọng là thay đổi dần cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng gia tăng các mặt hàng chế tạo sử dụng nhiều lao động, các mặt hàng thâm dụng kỹ thuật và chất sám.
2. Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực.
2.1. Thực trạng.
2.1.1 Hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam.
Ngành dệt may nước ta phát triển đã lâu nhưng chỉ từ thập niên 90 trở lại đây, nó mới thực sự chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế nói chung và hoạt động ngoại thương nói riêng. Trong suốt 4 năm qua kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may luôn đạt trên 1 tỷ USD/ năm và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may nước ta không ngừng tăng. Năm 1991, tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may chỉ đạt 158 triệu USD, đến năm 1998 đã gấp 9,18 lần, đạt 1450 triệu USD, tương đương với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 43,5%, tức khoảng 160 triệu USD/ năm. Bên cạnh đó, tỷ trọng hàng dệt may xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta luôn tăng từ 7,6% năm 1991 lên 15% năm 1998 đến nay, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam đang đứng vị trí hàng đầu trong số 10 mặt hàng hoá xuất khẩu.
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Hai năm gần đây, tốc độ tăng trưởng hàng dệt may xuất khẩu đã chững lại điều này cần có sự đòi hỏi phân tích và điều chỉnh hợp lý trong suốt thời gian tới để ngành dệt may đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt mặc dù hàng dệt may của Việt Nam là một mặt hàng xuất khẩu trọng yếu nhưng so với các nước trong khu vực và với tiềm năng của nó thì kim ngạch đạt được còn khiêm tốn.
Năm 1999, riêng Trung Quốc cũng đã xuất khẩu được 15 tỷ USD hàng dệt may, ấn Độ và Thái Lan là 4,2 tỷ USD. Về cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may, so với ngành may thì công nghiệp dệt may của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Đây là ngành yêu cầu lượng máy móc thiết bị hiện đại đồng bộ và tốn kém. Do vậy ngành dệt may chưa đủ khả năng phục vụ ngay chính ngành may trong nước. Nguyên liệu cho ngành mau xuất khẩu của ta chủ yếu vẫn là nhập ngoại, như vậy kim ngạch xuất khẩu khá cao nhưng lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu chưa tương ứng. Hiện có tới gần 60% kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may là chỉ để chi trả cho việc mua nguyên liệu, phụ kiện từ nước ngoài.
Một số vấn đề đáng chú ý là giá trị gia công chiếm tới 80% kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc. Hơn nữa, các hợp đồng gia công không ổn định, giá gia công thấp và sự phụ thuộc về nguyên liệu đã khiến không ít các doanh nghiệp may mặc nước ta lúng túng, bị động trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Những mặt hàng xuất khẩu khó làm như quần âu, áo Vecton chiếm tỷ lệ nhỏ vì rất ít doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, để có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của ngành sản xuất. Các mặt hàng xuất khẩu truyền thống của ngành dệt may Việt Nam chủ yếu là áo Jacket, áo váy, Somi đơn giản. Đến nay những mặt hàng cao cấp đòi hỏi công nhân lành nghề, máy móc hiện đại còn nhiều hạn ngạch nhưng chỉ 1 số ít doanh nghiệp có khả năng thực hiện. Như vậy, trong thời gian tới các doanh nghiệp không tự lấp lỗ hổng về mặt kỹ thuật và tay nghề tức là sẽ tự mình làm mất đi một thị trường rất có tiềm năng cho ngành dệt may nước nhà. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, nhiều nước như Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Nhật bản, phá sản tiền tệ làm giá xuất khẩu của hàng Việt Nam đắt tương đối trên thị trường thế giới, khiến sự công ty vốn còn yếu kém của hàng Việt Nam lại giảm xuống. Hơn nữa, cơn lốc khủng hoảng làm cho sức mua của dân chúng giảm xuống. Hơn nữa, cơn lốc khủng hoảng làm cho sức mua của dân chúng giảm đáng kể kết quả là thị trường tiêu thụ của nước ta gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, phần lớn hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang các thị trường có hạn ngạch như EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canađa. Trong đó EU là thị trường trọng điểm. Với 360 triệu dân có mức tiêu thụ vải cao hàng đầu thế giới, là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư khai thác.
Thị trường EU yêu cầu chất lượng mẫu mã sản phẩm hàng dệt may rất cao. Trong tổng số 63 tỷ USD quần áo nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ có khoảng 9,0 tỷ USD quần áo tiêu thụ bình thường, số còn lại (87%) là sử dụng theo mốt. Vì vậy, giá trị hàm lượng chất xám trong sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành nên nó. Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa hai loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh lệch khá cao. Đây là một thiệt thòi không nhỏ cho ngành tạo mốt Việt Nam còn non trẻ. Trong thời gian tới nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU- Việt Nam giai đoạn 1998 – 2000 kỳ ngày 17/11/9, ngành may mặc Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội mở rộng thị trường tiêu thụ sang thị trường EU. Theo hiệp định này từ năm 199, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi quata giữa các mặt hàng một cách rộng rãi hơn (17% so với trước kia là 12%). Hơn nữa Việt Nam còn được hưởng quy chế Tối Huệ Quốc và quy chế ưu đãi phổ cập của EU. Như vậy, một số mặt hàng của Việt Nam sẽ được hưởng thuế quan xuất khẩu 0%, làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nước ta nói chung, trong đó có hàng dệt may. Các nhà xuất khẩu dệt may của Việt Nam đến nay thường vẫn phải thông qua nước thứ ba như: Đài Loan, Đức để vào thị trường nước ngoài.
Bên cạnh thị trường xuất khẩu có hạng ngạch, Việt Nam đã thâm nhập được một số thị trường không hạn ngạch khổng lồ như: Nhật Bản, Mỹ, Singapo và Đông âu để tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu, trong đó thị trường lớn nhất là xuất khẩu không chỉ có sản lượng dân cư đông đúc hơn 125 triệu người mà Nhật Bản còn có mức tiêu thụ sản phẩm may mặc rất cao. Năm 1997 Việt Nam đứng hàng thứ 7 trong số các nước xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất vào Nhật Bản với thì phần hàng dệt may thoi là 3,6% và dệt kimlà 2,3%. Tuy vậy, Việt Nam mới chỉ đáp ứng với nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với mặt hàng chủ yếu là áo gió năm quần áo lao động và một số loại somi quần âu đơn giản. trong năm 1998 vừa qua, do ảnh hưởng trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực, sức mua của thị trường Nhật Bản giảm mạnh khiến cho kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào Nhật Bản giảm 150 triệu USD
Mỹ là thị trường xuất khẩu hàng dệt may không hạng ngạch có tiềm năng lớn thứ hai của Việt Nam. Chỉ bằng 2/3 dân số EU nhưng mức tiêu thụ của người dân Mỹ lại gấp 1,5 lần EU. Đây là thị trường không chỉ hấp dẫn đối với ngành dệt may của Việt Nam mà hầu hết các doanh nghiệp dệt may của thế giới đều có mong muốn trở thành bạn hàng với Mỹ. Hiện nay Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế Tối Huệ Quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của ta sang Mỹ chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. thực tế trong thời gian quan, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Trong những năm tới, Mỹ vẫn là thị trường có tiềm năng lớn của Việt Nam, đặc biệt khi Hiệp định thương mại Việt -Mỹ được ký kết và Mỹ tiến hành bình đẳng hoá thương mại với Việt Nam. Thị trường xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam được khái quát như biểu đồ
Đa số các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ không đủ sức thực hiện hợp đồng giao lớn trong thời gian lớn. Đây cũng là nguyên nhân ảnh hưởng tới khả năng xuất khẩu sang Mỹ và cũng như ngành xuất khẩu khác, các doanh nghiệp ngành may Việt Nam am hiểu vê thị trường Mỹ còn ít thậm chí cách đây không lâu nhóm nghiên cứu đề tài có tiếp xúc với các nhà doanh nghiệp may TP .HCM trong số này có doanh nghiệp đã có sẵn sản phẩm xuất khẩu sang thị trường Mỹ, có đặt các câu hỏi liên quan đến hoạt động xuất khẩu của họ trên thị trường này, nhưng tại cuộc hội thảo không ai trả lời rõ những thắc mắc của họ. Tóm lại, đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Mỹ có nhiều triển vọng nhưng tháchđố và khó khăn không ít.
2.1.2. Thực trạng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam .
Tổng sản lượng thủy sản Việt Nam tăng 2,2 lần giai đoạn 1985- 199, trong đó đánh bắt tăng hơn 2 lần vào thuỷ sản nuôi trồng tăng hơn 2,6 lần .
Bảng: Sản lượng thuỷ sản Việt Nam.
Đơn vị 1000 tấn
1985
1990
1995
1999
2000
Dự tính
2001
Đánh bắt
Nuôi trồng
Tổng sản lượng
580
230
810
710
310
1020
930
415
1345
1200
610
1810
1200
700
1900
1200
750
1950
Trong 5 năm qua, tổng thu nhập ngành thuỷ sản tăng tốc độ trung bình 8%, giải quyết việc làm cho hơn 3,5 triệu lao động trong đó có 650 nghìn ngư dân.
Nếu như năm 1986 Việt Nam mới chỉ có 385 nghìn ha mặt nước nuôi trồng thuỷ sản thì đến năm 1999 đã tăng lên 630 nghìn ha trong đó 340 nghìn ha mặt nước ngọt và 290 nghìn ha mặt nước lợ, mặn với nhiều loài thuỷ sản phong phú: tôm, cá, rong biển và dưới nhiều hình thức nuôi đa dạng: Nuôi ao, hồ, ruộng trũng, lồng cá trên sông, trong đầm nước lợ, rừng ngậm mặn. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng ven biển Nam Bộ (gần 80%). Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam năm 1999 đạt 985 triệu USD (chiếm gần 10% tổng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam hay gần 2% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản thế giới) tăng gần 10 lần so với năm 1986. Trong năm 2000 kim ngạch xuất khẩu thủy sản đã đạt 1200 triệu USD, với tốc độ tăng 21%.
Bảng xuất khẩu thuỷ sản
1986
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Kim ngạch (triệu USD )
102
205
262
305
368
458
550
670
870
858
985
1200
Tốc độ tăng trưởng (%)
101
28
16
20
24
20
21
15
10
14
21
Năm 1999, tổ chức lương thực thế giới đã xếp Việt Nam vào vị trí thứ 29 trên thế giới và thứ tư trong các nước ASAN và xuất khẩu thuỷ sản. Ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đang phát triển rất nhanh chóng và cạnh tranh mạnh mẽ với Thái lan, Indonesia, Malaysia tại hầu hết các thị trường truyền thống của những nước này nhờ những ưu thế về sản phẩm sạch ít bị ô nhiễm và giá cả thấp
Mỹ là thị trường thuỷ sản lớn nhất thế giới nên chúng ta đi sâu xem xét tình hình xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Tốc độ kim ngạch xuất khẩu trên thị trường Mỹ tăng nhanh bình quân giai đoạn 1994-1999 là 90,98%. Việt Nam đứng hạng thứ 17 trong số các nước đưa hàng thuỷ sản vào thị trường Việt Nam. Tiềm năng thuỷ sản Việt Nam còn rất lơn, năm 2000 Việt Nam đã đạt được thành tựu trong hầu hết các lĩnh vực phát triển thuỷ sản: Đánh bắt , nuôi trồng, chế biến tìm kiếm thị trường, trị giá xuất khẩu lần đầu tiên vượt qua con số 1 tỷ USD. Khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, thuế nhập khẩu thuỷ sản vào Mỹ đánh vao hàng xuất xứ từ Việt Nam sẽ giảm, cho phép chúng ta đa dạng hoá các mặt hàng thuỷ sản đưa vào Mỹ, đặc biệt các mặt hàng chế biến cao. thuỷ sản chế biến của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chưa nhiều, chủ yếu mới xuất khẩu sang dạng sơ chế cho nên trị giá xuất khẩu còn thấp. Nguyên nhân là do các nhà thuỷ sản Việt Nam chưa hiểu được hết tình hình thị trường Mỹ chưa có sự hợp tác đầu tư với người Mỹ vào công nghệ chế biến thuỷ sản ở Việt Nam như chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản. Mỹ có những quy định rất khắt khe chẳng những đối với chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm mà còn có các quy định bảo vệ môi trường sinh thái, đây cũng được coi là rào cản kỹ thuật làm hạn chế khả năng xuất khẩu thuỷ sản.
Nhật Bản, thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới và thị trường số 1 của ngành thuỷ sản Việt Nam. Xuất khẩu t thuỷ sản Việt Nam sang Nhật trong 10 tháng đầu năm 2000 đã tăng hơn 40% so với năm 1999, đưa thị phần xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật Bản chiếm 45% tổng kim ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường Châu á khác cũng tăng nhanh và chiếm gần 21% thị phần xuất khẩu. Thị trường Mỹ đứng ở vị trí thứ 3 tiếp tục tăng nhanh chóng trong vài năm qua và đạt kim ngạch xuất khẩu 14%. Năm 2000 xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ đạt gần 1,5 tỷ USD, thị trường EU chỉ chiếm khoảng 6%.
Mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tôm các loại như: tôm hùm, tôm càng xanh, tôm sú, tôm bạc có giá trị xuất khẩu rất cao và chiếm hơn một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1999, Việt Nam xuất khẩu 80 nghìn tấn tôm các loại đạt 520 triệu USD ). Mực và cá chiếm 17% và 15,2% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Sự gia tăng mức sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong những năm qua là nhờ sự năng động của khu vực tư nhân và những chính sách khuyến khích rất có hiệu quả của Chính phủ Việt Nam.
Nghị định số 13/CP ra ngày 2/3/1993 đã khơi dậy tiềm năng của cả nước về phát triển lĩnh vực thuỷ sản đặc biệt là hướng về xuất khẩu.
Quyết định số 400/TTG ra ngày 7/8/1993 cho phép miễn thuế tài nguyên, thuế doanh thu và thuế lợi tức, hoàn thuế xuất khẩu trong 3 năm đối với hoạt động đánh bắt thuỷ sản xa bờ.
Quyết định số 428/TTG ra ngày 7/8/1995 về đầu tư “khôi phục và hoàn thiện cơ sở hạ tầng nghề cá” bao gồm việc xây dựng các cảng cá, cho vay vốn dài hạn với lãi suất ưu đãi, thúc đẩy nghiên cứu và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, phát triển công nghệ chế biến sau thu hoạch.
Quyết định số 25/1/1998/QĐ-TTG về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thủy sản.
Với sự hậu thuẫn to lớn của chi phí, ngành thuỷ sản Việt Nam đã đẩy mạnh phát triển các đội tàu thuyền đánh bắt hải sản: Công suất tàu thuyền tăng lên gấp 3 lần trong vòng 10 năm.
2.1.3. Da giầy.
Bước vào thiên niên kỷ mới, ngoài các vùng phát triển như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản có nhu cầu đáng kể về sản phẩm Da giầy, các nước đang phát triển cùng có sự biến động theo chiều hướng tăng nên của mức sống.Hàng năm các nước này tiêu thụ 10 triệu tấn sản phẩm da và khoảng 1tỷ đôi giày dép, chiếm 60-70% tổng sản lượng tiêu thụ của thế giới. Riêng khu vực Đông Nam á cuộc khủng hoảng kinh tế trong 2 năm 1997 –1998 không những làm giảm lượng cầu của phát triển da giầy mà còn làm chựng lại các nguồn đầu tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực kể cả da giầy. Tuy nhiên chuyển sang năm 1999, nền kinh tế các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật đã hồi phục ở các nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, giá phân công từ cao nay đã trở thành thấp, do đồng tiền mất giá trong khủng hoảng trước đây đã làm thay đổi dòng đầu tư nước ngoài vào khu vực. Việc này ảnh hưởng đến lợi thế giá nhân công rẻ của nước ta và tác động đến nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, làm giảmvốn đầu tư của 2 năm 1998- 1999 chỉ bằng khoảng 50% các năm trước.
Tuy nhiên xuất khẩu giầy da Việt Nam năm 2000 gần như dậm chân tại chỗ, chỉ tăng có 0,7% so với năm 1999. Kim ngạch xuất khẩu cả năm của ngành chỉ đạt 1,402 tỷ USD, mặc dù kế hoạch đặt ra là 1,65 tỷ USD. Nguyên nhân là do một số lượng lớn hàng giầy dép dang bị tồn kho trên thê giới do các bạn hàng ra sức ép giá đối với ta, đồng thời giảm số lượng hợp đồng ký kết dẫn đến công nhân không đủ việc làm. Thời gian nghỉ việc luôn phiên giữa 2 mùa sản xuất giầy năm nay bị kéo dài hơn mọi năm, nhiều công nhân phải tam nghỉ. Khó khăn của ngành dầy da là thiếu nguyền liệu, phụ kiện, kể cả kiểu dáng phải nhập từ nước ngoài. Do đó ta không chủ động tạo ra được những sản phẩm mới đón bắt thị hiếu của người tiêu dùng. Chính vì, chi phí sản xuất và chi phí lưu thông thấp nên hàng giầy dép xuất khẩu của Việt Nam có giá tương đối thấp, đó là điều kiện giúp cho cạnh tranh vớicác nước trên thế giới. Số lượng các sản phẩm giầy dép có chất lượng cao được sản xuất và xuất khẩu tăng lên đã đóng góp trong việc nâng giá xuất khẩu.
Bảng: Giá bán bình quân trên thị trường nội địa
Đơn vị tính
1996
1997
1998
Giày da Vina nam
Đồng/1 đôi
330.000
340.000
350.000
Giầy AIS Miền nam
“
40.000
41.000
42.000
Dép Sandan nam
“
66.000
68.000
70.000
Dép sandan nữ
“
43.000
44.000
45.000
Dép xốp quai nhựa nữ
“
19.000
20.000
20.000
Dép nhựa xốp trắng nam
“
12.000
12.000
12.000
Dép nhựa tiền phong nữ
“
6.000
6.000
6.000
Trước tình hình hiện nay, ta thấy vốn đầu tư phát triển ngành đóng vai trò quan trọng. Huy động vốn đầu tư từ tất cả các nguồn: doanh nghiệp tự đầu tư, tự có, tự vay và tự trả tín dụng, đầu tư Nhà nước, vốn đầu tư từ dân cư, vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Nguồn ngân sách đầu tư có vai trò quan trọng sự phát triển của ngành giầy da. Do không định hướng đúng nên đầu tư không hiệu quả, gần đây có khuynh hướng tạm ngưng lại. Vì cơ cấu chi của ngân sách trong giai đoạn tới tập trung đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giáo dục, nên việc đầu tư cho ngành da giầy có những hạn chế nhất định. Ngân sách có thể tài trợ dưới dạng cho vay tín dụng cho các đơn vị khoảng 15% nguồn vốn đầu tư cho ngành.
Tạo vốn đầu tư thông qua vay, chiếm vai trò quan trọng quá trình thúc đẩy ngành phát triển. Thay vì vay tín dụng đầu tư của ngân hàng, các doanh nghiệp da giầy có thể thực hiện phương thức thuê mua tài sản cố định. Trong điều kiện hiện nay vai trò của cho thuê tài chính ngày càng trở nên phổ biến hơn trên thế giới. Việc cho thuê tài chính giúp cho các đơn vị có thể tiến hành tái đầu tư nhưng không cần bỏ ra một nguồn vốn lớn. Với hoạt động này các đơn vị có thể huy động được 20% nguồn vốn cho đầu tư thông qua việc thuê các thiết bị cần thiế._. thuỷ hải sản (25 triệu USD), hàng dệt may ( 50 triệu USD ), giầy dép ( 45 triệu USD).
1.2 Quan điểm
Xuất khẩu chủ yếu ở nước ta bao gồm nhiều mặt hàng nhưng chỉ đi sâu vào phân tích một số mặt hàng: Gạo, cà phê, thuỷ hải sản, giầy dép, may mặc …
1.2.1 Chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước.
Để thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu và mở rộng thị trường tiêu thụ trong nước chúng ta cần làm tốt những việc quan trọng sau đây:
1. Vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đầy đủ các quan điểm chủ yếu trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở.
Vượt qua khó khăn, thách thức trong quá trình hội nhập và khắc phục ảnh hưởng xuất của khủng hoảng kinh tế châu á để mở rộng thị trường xuất khẩu.
Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá ( CNH – HĐH ) đất nước hội nhập quốc tế, trùng hợp với thời điểm trên thế giới đang diễn ra những thay đổi lớn về chính trị và kinh tế. Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá cao độ. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, tất cả các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam phải phấn đấu nỗ lực hội nhập vào xu thế chung theo nguyên tắc phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực bên ngoài. Thực hiện chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước chúng ta gia nhập vào các tổ chức Thương mại tự do khu vực ( AFTA ), gia nhập ASEAN, chuẩn bị điều kiện để gia nhập tổ chức thương mại thế giới ( WTO ), trước hết là ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ, gia nhập diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương ( APEC ) cố gắng khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế ( IMF ), Ngân hàng thế giới ( WB), Ngân hàng phát triển châu á ( ADB) … để thực hiện được chủ trương hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy nội lực, nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, chúng ta phải vượt qua những thách thức lớn: Giảm và tiến tới tìm biện pháp để bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan làm cho việc trao đổi hàng hoá, luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật giữa nước ta và các nước ngày càng thông thoáng hơn. Yêu cầu đó đòi hỏi chúng ta vừa phải phấn đấu tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng, hạ giá thành hàng hoá, nâng cao hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh vừa có biện pháp chủ động bảo hộ hợp ký hàng hoá trong nước. Như vậy có thể khẳng định rằng quá trình hội nhập khu vực và quốc tế của Việt Nam cũng là quá trình hội làm xuất hiện những thách thức lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
Cần quán triệt và thực hiện đầy đủ những quan điểm chủ yếu sau trong việc xây dựng các luận cứ và giải pháp đồng bộ để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đảm bảo quan điểm toàn diện đồng bộ và có trọng điểm trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng và thành phần kinh tế; Bảo đảm quan điểm phát huy tối đa nội lực và chính sách nhất quán lâu dài về thu hút các nguồn lực bên ngoài, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; Bảo đảm quan điểm phát triển kinh tế – xã hội dựa trên nền tảng của CNH – HĐH thông qua các quá trình cơ khí hoá, tự động hoá, hoá học hoá, sinh học hoá và tin học hoá; Bảo đảm quan điểm mở cửa, hội nhập để hướng mạnh về xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, phát huy nội lực và bảo hộ lợp lý hàng hoá trong nước có kỳ hạn; Bảo đảm quan điểm dân chủ và công bằng xã hội trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là dân chủ trong việc quyết định sản xuất cái gì để có lợi cho quốc tế dân sinh và nhân sinh, có lợi cho sự công bằng xã hội; Đảm bảo quan điểm tổng hợp và cao nhất trong chuyển dịch cơ cấu là nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập trên cơ sở phát huy nội lực.
Xây dựng đồng bộ cấu thành cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế đạt hiệu quả kinh tế – xã hội cao khi đảm bảo đồng bộ về: cơ cấu các ngành kinh tế và cơ cấu kinh tế vùng. Trong đó cơ cấu các ngành kinh tế có vai trò quyết định. Cơ cấu ngành kinh tế phải xác định rõ vị trí của từng ngành và mối quan hệ tỷ lệ giữa các ngành; phải xác định cụ thể phải sản xuất những sản phẩm nào, bao nhiêu, chất lượng như thế nào, do ngành nào thực hiện.
Tổ chức thực hiện đồng bộ các giai đoạn của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế mở có hiệu quả theo yêu cầu hội nhập.
2. Hướng mạnh vào thị trường xuất khẩu và mở rộng thị trường trong nước. Đòi hỏi của quá trình gia nhập và hội nhập, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, là đòi hỏi của việc thu hút vốn đầu tư để phát huy nội lực của đất nước; là đòi hỏi của việc phát huy nội lực để đẩy mạnh CNH, HĐH.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng mạnh về xuất khẩu chúng ta phải thực hiện đầy đủ chủ trương và hình thức đa dạng hoá trong việc tổ chức, phát triển thị trường xuất khẩu hàng hoá. Có như vậy mới luôn chủ động trong mọi tình huống, chủ động khắc phục được khó khăn, lúng túng, do thay đổi và khủng hoảng về thị trường gây ra. Tiến tới hiệp định Việt – Mỹ bắt đầu đi vào hoạt động chính thức cần hết sức chú ý khai thác thị trường Mỹ và chủ động khắc phục những điều kiện bất lợi có thể xảy ra.
Chúng ta phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường thế giới, khu vực và thị trường rộng lớn, lâu dài của khoảng 78 triệu dân về hàng hoá và dịch vụ để quyết định sản xuất cái gì, bao nhiêu, chất lượng như thế nào. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng và hạ giá thành hàng tiêu dùng trong nước phù hợp với xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá.
Quan điểm phát triển.
Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến độ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sản phẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và thúc đẩy xuất khẩu trong nước và nước ngoài. Tăng nhanh năng suất lao động xã hội và nâng cao chất lượng tăng trưởng. Triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, tăng tích luỹ cho đầu tư phát triển. Nâng cao năng lực và tạo cơ hội cho mọi người đều có thể phát huy hết tài năng tham gia và quá trình phát triển và thụ hưởng thành quả phát triển, đồng thời nâng cao trách nhiệm của mỗi người góp sức thực hiện dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, giữ gìn và phát triển nền văn hoá dân tộc, đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân về ăn, mặc, ở đi lại, phòng và chữa bệnh, học tập, làm việc, tiếp nhận thông tin, sinh hoạt văn hoá.
Coi trọng phát triển kinh tế và nhiệm vụ trung tâm, xây dựng đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu cầu cần thiết.
Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo động lực giải phóng và phát huy mọi nguồn lực. Tiếp tục đổi mới sâu rộng đồng bộ về kinh tế, xã hội và bộ máy Nhà nước hướng vào hình thành và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy sức mạnh vật chất, trí tuệ và tinh thần của toàn dân tộc, tạo động lực và nguồn lực phát triển nhanh bền vững.
Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Độc lập tự chủ về kinh tế tạo cơ sở cho hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả. Hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả tạo điều kiện cần thiết cần thiết để xây dựng kinh tế độc lập tự chủ. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế – xã hội với quốc phòng – an ninh.
Quan điểm về một số mặt hàng.
Quan điểm định hướng cho sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam cần coi việc sản xuất và xuất khẩu gạo là phát triển sản xuất và xuất khẩu mặt hàng vừa có tính truyền thống của đất nước, vừa có nhiều triển vọng về thị trường tiêu thụ nước ngoài. Nếu so với các nước đã phát triển phần lớn các sản phẩm xuất khẩu của ta đều không có lợi thế tuyệt đối. Trong sự tương quan đó sản phẩm lúa gạo là một trong những sản phẩm ít bất lợi hơn trong hầu hết các sản phẩm bất lợi của Việt Nam. Hơn nữa việc phát triển sản xuất và xuất khẩu lúa gạo là ngành sản xuất mà chỉ số vốn/ lao động tương đối thấp, sử dụng được nhiều lao động sống mà ta đang dư thừa, sử dụng ít vốn tiền tệ và vốn chất xám là yếu tố đầu vào tương đối hiếm ở nước ta. Sản xuất và xã hội gạo phải đảm bảo an ninh lực lượng quốc gia, khác với sản phẩm khác, việc xuất khẩu gạo không chỉ đạt ra mục tiêu số lượng càng nhiều càng tốt. Bởi lẽ gạo là nông sản tối cần thiết trong cuộc sống của người Việt Nam, đó là mặt hàng rất nhạy cảm với tình hình chính trị – xã hội của đất nước. Phải gắn chặt hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp với hiệu quả kinh tế xã hội của đất nước trong sản xuất và xã hội gạo.
Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu gạo phải đảm bảo thoả đáng lợi ích cho người nông dân. Khác với hầu hết các sản phẩm khác, lúa gạo là mặt hàng chiến lược quốc gia, là nhu cầu thiết yếu số một của mọi người dân trong toàn quốc, là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế quốc dân. Người trực tiếp một nắng hai sương trên đồng ruộng làm ra sản phẩm lúa gạo là hàng chục triệu nông dân cả nước.
Quan điểm về nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu ở Việt Nam. Những năm gần đây, cà phê đã khẳng định là một mặt hàng mũi nhọn của Việt Nam. Nếu những năm 1990 – 1991 cà phê Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang khối Đông Âu thì sang năm 1993 – 1994 xuất sang 34 quốc gia và năm 1997 – 1998 xuất sang 52 quốc gia. Những thành tựu vừa qua của ngành cà phê Việt Nam là không thể phủ nhận. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu chất lượng cao và ổn định phải tiếp tục đổi mới công nghệ trong quá trình sản xuất và xuất khẩu theo các hướng: Tiếp tục thâm canh vườn cây; quản lý tốt qui trình công nghệ chế biến và bảo quản sản phẩm; đổi mới thiết bị chế biến để từng bước hiện đại hoá công nghệ chế biến; tổ chức quản lý chất lượng sản phẩm xuất khẩu; tăng cường thông tin đào tạo.
Về thuỷ sản, tiếp tục đa dạng hoá thị trường xã hội. Thực tế thị trường hàng thuỷ sản thế giới, xét trên tổng thể là một thị trường còn có khả năng mở rộng và luôn có xu hướng cung chưa đáp ứng được cầu. Phát triển thêm nhiều mặt hàng thuỷ sảm mới; chuyển dịch cơ cấu sản phẩm có ý nghĩa rất lớn trong việc tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam. Tăng giá thuỷ sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh.
Qua một số quan điểm về sản xuất và xuất khẩu hàng hoá chủ lực ta thấy được Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến các mặt hàng chủ lực như thế nào.
2. Các giải pháp và chính sách xã hội năm 2001.
2.1. Cơ chế xuất nhập khẩu
Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động kinh doanh sẽ được phép xuất khẩu nhập khẩu mọi hàng hoá trừ mặt hàng Nhà nước cấm. Các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp 100% vốn trong nước. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn thực hiện theo qui định của Luật đầu tư nước ngoài, giấy phép đầu tư và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Đối với một số mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được thực hiện từ trước đến nay theo đầu mối chỉ nhằm mục đích quản lý trật tự kinh doanh thì sắp tới sẽ bãi bỏ qui định đó, vừa để phát huy các thế mạnh của các doanh nghiệp, vừa để phù hợp với các cam kết quốc tế mà ta đã sẽ ký kết trong thời gian tới.
Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng trong thời kỳ 5 năm 2001 – 2005, áp dụng những công cụ bảo hộ mới phù hợp với thông lệ quốc tế. Định hướng cơ bảnk của cơ chế quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá trong thời kỳ 2001 – 2005 sẽ làm giảm dần các công cụ phi thuế thuộc nhóm đang áp dụng và tăng dần các công cụ mới. Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ thương mại từ năm 2001 sẽ được nêu rõ ràng, cụ thể theo hướng giảm dần. Trong đó xuất khẩu chỉ có mặt hàng dệt may sang thị trường có hạn ngạch.
2.2 Về thủ tục và chính sách hành chính, hải quan.
Bỏ qua việc phải kiểm dịch, xuất xứ hàng hoá, nếu Việt Nam không có nghĩa vụ thực hiện theo các thoả thuận song phương, đa phương mà Việt Nam ký kết, bỏ qua yêu cầu về chứng minh nguồn gốc hàng hoá xuất khẩu hoặc nguồn gốc nguyên liệu sản xuất ra hàng xuất khẩu, nếu không liên quan đến việc hoàn thuế; cho phép xuất khẩu hàng hoá qua những nơi không phải là cửa khẩu quốc tế, quốc gia; không thu thuế, kể cả tạm tính, đối với hàng hoá xuất khẩu bị trả lại để tái chế rồi lại xã hội. Tiếp tục áp dụng những biện pháp mở mà ngành hải quan đã thực hiện và đem lại kết quả tốt trong thời gian qua.
2.3 Hỗ trợ Chính phủ và chính sách thuế; tín dụng liên quan đến xuất khẩu.
Cần tiếp tục đổi mới chính sách và kiện toàn hệ thống tài chính tiền tệ, thông qua việc tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng góp phần duy trì các cân đối lớn trong nền kinh tế, vận dụng linh hoạt có hiệu quả các công cụ gián tiếp trong chính sách tiền tệ. Xác lập cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng theo xu hướng thả nổi có điều tiết lãi suất theo cung cầu trên thị trường, từng bước bãi bỏ việc khống chế lãi suất trần. Thực hiện chính sách lãi suất thấp trong thời gian ngắn. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại tệ và điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng thị trường, hạ giá trị đồng nội tệ, thực hiện chính sách tỷ giá hợp lý, nhất là khi chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung trong khuôn khổ các nước ASEAN có hiệu lực và những áp lực cạnh tranh từ bên ngoài AFTA. Tiếp tục xây dựng và kiện toàn hệ thống chính sách thuế phù hợp với điều kiện trong nước và với thông lệ quốc tế, đơn giản hoá các sắc thuế, từng bước áp dụng hệ thống thếu thống nhất, không phân biệt sắc thuế áp dụng giữa các thành phần kinh tế, đồng thời đảm bảo tính ổn định, lâu dài của chính sách thuế – trong đó: Đối với thuế xuất khẩu, cần có mức thuế ưu tiên đặc biệt cho các mặt hàng xã hội và không nên áp dụng một mức thuế cho toàn bộ các nhóm sản phẩm giúp cho doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong cạnh tranh trên thị trường thế giới để khuyến khích mạnh việc xuất khẩu, cần xây dựng mức bảo hộ khác nhau cho các nhóm sản phẩm khác nhau.
Sẽ đề nghị Chỉnh phủ hỗ trợ trong việc đầu tư chế biến hàng xuất khẩu; đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng và công tác thị trường ngoài nước, công tác xúc tiến thương mại cho hoạt động xuất khẩu. Đẩy mạnh quá trình cải cách thuế, trong đó có việc hoàn thiện thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Có chính sách thuế ưu đãi cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như hỗ trợ tín dụng, rủi ro, các khó khăn về tài chính thông qua quỹ hỗ trợ xuất khẩu hoặc ngân hàng xuất nhập khẩu. Tiếp tục thực hiện chính sách thưởng để khuyến khích doanh nghiệp. Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan quản lý Nhà nước đối với hoạt động thương mại; tăng cường kỷ luật hành chính và xử lý nghiêm đối với các cơ quan, công chức không thực hiện đúng luật pháp chính sách trong hoạt động xuất nhập khẩu.
2.4 Về công tác thị trường nước ngoài sẽ tập trung thực hiện những việc chủ yếu.
2.4.1 Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường nước ngoài. Song song với việc ký mới và rà soát để đàm phán ký lại Hiệp định thương mại với các nước theo yêu cầu mới, Việt Nam mỡ thoả thuận để thống nhất các tiêu chuẩn vệ sinh, kiểm dịch và chất lượng hàng hoá, nới lỏng các hàng rào phi thuế cho hàng xuất khẩu của Việt Nam, tranh thủ ký cam kết “ G to G “ với các nước mà ở đó sự cam thiệp của Chính phủ có vai trò quyết định đối với việc nhập khẩu những mặt hàng xuất khẩu lớn của ta như gạo, cao su … tổ chức tốt việc phổ biến hướng dẫn và kiểm tra các hợp đồng thương mại và các cam kết về thương mại giữa Việt Nam và nước ngoài.
2.4.2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu.
Tổ chức tốt việc nghiên cứu, khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ thương mại ( các vụ chính sách thị trường ngoài nước, các cơ quan thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Viện nghiên cứu thương mại, Cục xúc tiến thương mại, Trung tâm thông tin thương mại ) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp thông tin và nghiên cứu kết quả cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu.
Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức mua bán linh hoạt như gửi bán, thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp với từng mặt hàng, từng thị trường, cử đại diện tại thị trường nước ngoài hoặc lập công ty pháp nhân nước sở tại để chuyên nhập khẩu hàng Việt Nam; khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập khẩu hàng Việt Nam.
Nhà nước hỗ trợ tạo điều kiện thuận lợi và doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, quảng cáo, tham gia triển lãm hội chợ đối với từng mặt hàng, từng thị trường.
Các doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh về mọi mặt, xây dựng chiến lược phát triển cho từng mặt hàng xuất khẩu, trong đó có chiến lược về thị trường; bảo đảm chữ “tín” trong kinh doanh, kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu đẩy mạnh xuất khẩu trên từng thị trường cụ thể.
2.4.3 Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm công tác thị trường ngoài nước.
Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các vụ chính sách thị trường ngoài nước của Bộ thương maị và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp và sự tăng trưởng xuất khẩu.
Gắn công tác của Viện nghiên cứu thương mại với hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu. Cùng với việc củng cố các cơ quan Thương mại Việt Nam hiện nay có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để Cục xúc tiến thương mại phát huy vai trò hỗ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại.
2.4.4 Hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Sơm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược xuất nhập khẩu.
Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài, kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường, phát triển kinh doanh, xuất khẩu. Phối hợp và hỗ trợ các ngành, địa phương và doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược Marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ, triển lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài. Có cơ chế tiếp xúc và tham vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và cac doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng về các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu. Bước đầu xây dựng cơ sở pháp lý cho thương mại điện tử tổ chức đào tạo nhân lực cho lĩnh vực này.
Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại và các doanh nghiệp đẩy mạnh tuyên truyền đối ngoại phục vụ mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu.
2.4.5 Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin thương mại cho các doanh nghiệp.
Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý các ấn phẩm về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp. Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan thương mại Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại đến các Sở thương mại và các doanh nghiệp. Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hỗ trợ của Nhà nước cho các doanh nghiệp, cần thực hiện thương mại hoá thông tin và áp dụng các phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể, kịp thời của các doanh nghiệp.
2.4.6 Sớm xây dựng và ban hành cơ chế về công tác thị trường nước ngoài, trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước có liên quan ở Trung ương cũng như địa phương và trách nhiệm của doanh nghiệp; qui chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường ngoài nước. Đồng thời, Nhà nước có chính sách cụ thể bảo đảm các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường ngoài nước. Cần sớm xây dựng và hoàn thành cơ chế này mới có thể làm tốt công tác thị trường nước ngoài, một mặt vừa bắt buộc khuyến khích các cơ quan, đơn vị liên quan trong công tác thị trường, mặt khác tạo điều kiện để kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác thị trường ngoài nước.
2.5 Cơ cấu xuất khẩu.
Cơ cấu xuất khẩu cần tính toán đầu tư xây dựng một cách hợp lý các cơ sở, nhà máy chế biến hiện đại để có thể ứng dụng khoa học, công nghệ đối với toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, dịch vụ. Chú trọng đầu tư giữa khẩu sản xuất, chế biến, cung ứng nguyên liệu, hạn chế tới mức tối đa tỷ trọng xuất khẩu các sản phẩm thô và sơ chế nâng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến, nhất là sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao trong kim ngạch xuất khẩu tăng mặt hàng và tỷ trọng sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Từng bước xuất khẩu những sản phẩm hàng hoá và dịch vụ có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, xuất khẩu những mặt hàng thị trường cần chứ không chỉ những sản phẩm ta có. Hoạt động hỗ trợ xuất khẩu cần được đầu tư một cách đúng mức, sớm có cơ chế bảo hiểm các mặt hàng xuất khẩu, ở một số trường hợp đặc biệt cần được bảo hộ trong những thời gian nhất định, để các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu có thể yên tâm đầu tư sản xuất và khai thác thị trường xuất khẩu.
2.6 Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Chủ động hội nhập quốc tế, thực hiện các cam kết hoặc đang đàm phán với các nước và tổ chức quốc tế. Triển khai có hiệu quả luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trên cơ sở xây dựng chiến lược thu hút FDI, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh nhằm thu hút nhiều hơn nguồn FDI, tranh thủ công nghệ nguồn, kỹ thuật hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá xuất khẩu và sản phẩm công nghệ cao. Sử dụng hiệu quả nguồn vốn ODA cho các mục tiêu kinh tế – xã hội. Từng bước xoá bỏ sự phân biệt về chính sách và Pháp luật đối với đầu tư trong nước và nước ngoài, tạo điều kiện thông thoáng hơn cho các doanh nghiệp và tư nhân muốn đầu tư phát triển sản xuất. Tập trung tạo ra sự chuyển dịch có tính chất đột phá trong quá trình đổi mới và phát triển doanh nghiệp Nhà nước. Nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội và sức cạnh tranh của doanh nghiệp để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Mở rộng quyền lực tự chủ cho doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho các cơ quan Nhà nước thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý được giao.
Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong tiến trình hội nhập:
Thứ nhất, các biện pháp khuyến khích xuất khẩu cần tập trung vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Trong những năm qua, mặc dù chất lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam không ngừng được cải thiện, song sức cạnh tranh trên thị trường vẫn còn yếu kém. Điều này là do các nguyên nhân : Công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu chủ yếu hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung nay không thích hợp với nền sản xuất trong cơ chế thị trường. Các xí nghiệp kho tàng bến bãi, máy móc thiết bị lạc hậu, hiệu quả kém bởi chịu khấu hao lớn, định mức tiêu hao nguyên vật liệu cao, sản phẩm làm ra chất lượng thấp và sức cạnh tranh yếu. Hơn nữa, hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu dưới dạng thô, sơ chế, đồng thời được thu gom ở nhiều nơi có vị trí địa lý khác nhau nên chất lượng không đều, chưa chú trọng việc qui hoạch vùng sản xuất hàng xuất khẩu lớn và đồng bộ, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực có giá trị kinh tế cao.
Từ thực tế ấy, trong thời gian tới, để nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp Việt Nam cần tập trung vốn vào đầu tư, đổi mới công nghệ sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu. Mấy năm gần đây, một số doanh nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng việc đầu tư không đồng bộ và còn chắp vá do không đủ vốn đầu tư, tổ chức bộ máy quản lý cồng kềnh, có nhiều bất cập. Do vậy, trong điều kiện hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam cần liên doanh, liên kết với các nhà đầu tư nước ngoài để tranh thủ công nghệ hiện đại tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh cao, đồng thời chú trọng hợp lý hoá qui trình sản xuất, kinh doanh, nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, coi trọng việc áp dụng các phương pháp quản lý tiên tiến để được cấp chứng chỉ chất lượng ISO – 9000 đối với hàng xuất khẩu lớn như nông sản, dệt may, đồ điện, đồ điện tử … để vừa thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến vấn đề công nghệ ( đặc biệt là công nghệ sạch ), vừa nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Việt Nam trên thị trường thế giới.
Thứ hai, trong tiến trình hội nhập, môi trường cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, nếu chỉ có sự chủ động từ phía các doanh nghiệp thì chưa đủ đòi hỏi phải tăng cường vai trò Nhà nước trong điều hành hoạt động xuất khẩu trên cơ sở phối hợp đồng bộ các biện pháp, chính sách vĩ mô. Để hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất và xuất khẩu, tạo ra thị trường và mặt hàng mới, giúp họ đứng vững và vượt qua những thách thức trong quá trình hội nhập, Nhà nước cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại tập trung vào các lĩnh vực chủ yếu là đàm phán và ký kết các hiệp định, thoả thuận song phương và đa phương với Chỉnh phủ các nước và các tổ chức quốc tế tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xuất khẩu và xúc tiến xuất khẩu hàng Việt Nam ra thị trường quốc tế. Bộ thương mại cần phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan khác thúc đẩy việc trao đổi các đoàn doanh nghiệp với các nước, trao đổi thông tin thương mại và quảng cáo mặt hàng thông qua các hoạt động hội chợ, triểm lãm trong nước cũng như quốc tế. Song song với hoạt động đó, Nhà nước cần xây dựng chính sách và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu: Qui hoạch và đầu tư cho công nghiệp chế biến hàng xuất khẩu, thành lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo hiểm xuất khẩu, quỹ khen thưởng xuất khẩu. Triệt để và nhất quán thi hành các hình thức ưu đãi dành cho sản phẩm hàng xuất khẩu đã được đề cập trong luâtj khuyến khích đầu tư trong nước. Tiếp tuc làm tốt chính sách thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Giảm thiểu tối đa các thủ tục hành chính hải quan gây khó dễ; đơn giản hoá đến mức tối đa thủ tục thành lập doanh nghiệp, bỏ qua khâu kiểm dịch xuất xứ hàng hoá nếu không có yêu cầu của đối tác, bỏ qua chứng minh nguồn gốc nguyên liệu sản xuất hàng hoá nếu không liên quan tới hoàn thuế, cho phép xuất khẩu hàng qua nơi không phải là cửa khẩu quốc tế.
Thứ ba, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu, nới lỏng các điều kiện để các doanh nghiệp được quyền xuất khẩu trực tiếp tạo sự thống nhất và bình đẳng về pháp lý, nghĩa vụ và quyền lợi đối với các thành phần kinh tế.
Kết luận
Xuất khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế. Nó không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ thống quan hệ mua bán trong nền thương mại có tổ chức, nó ảnh hưởng rất lớn đến sự tăng trưởng của một quốc gia,
Với điều kiện đất đai, khí hậu, tài nguyên con người như hiện nay, Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng để sản xuất trên mức đề ra và từ đó tăng lượng xuất khẩu hàng năm. Kể từ năm 2005 với những giải pháp ở trên, cùng với sự nỗ lực của Chỉnh phủ, nước ta có cơ sở thực tế để đảm bảo vượt xa sản lượng năm 2000.
Hơn nữa, nhu cầu về các mặt hàng (gạo, thuỷ sản, dệt may, dầu thô …) trên thế giới trong thời gian tới vẫn tiếp tục mở rộng mà khả năng của các nước xuất khẩu khó mà đáp ứng kịp. Điều đó khẳng định rằng: xuất khẩu các mặt hàng trên vẫn mang lại những lợi thế cơ bản cho những nước xuất khẩu trên thương trường quốc tế.
Với nhu cầu toàn cầu hoá hiện nay sản phẩm muốn đạt được uy tín trên thị trường thế giới thì trước hết phải được thị trường trong nước chấp nhận với một chất lượng và mẫu mã cho phép. Và theo xu hướng ngày càng nâng cao mẫu mã và chất lượng sản phẩm. Việt nam đã và sẽ tiếp tục duy trì vị trí là một quốc gia xuất khẩu lớn trên thế giới và còn có thể vươn cao hơn nữa trong tương lai.
Tài liệu tham khảo
Văn kiện Đại hội Đảng IX.
Kinh tế thương mại (hướng dẫn ôn tập và viết luận văn ) – PGS.PTS Đặng Đình Đào – nhà xuất bản ( NXB) Thống kê - 166 trang.
Chính sách biện pháp phát triển sản xuất hàng xuất khẩu và quản lý hàng xuất nhập khẩu Việt Nam. NXB Sự thật – 1984.
Công nghiệp hoá và chiến lược tăng trưởng dựa trên xuất khẩu. NXB Chính trị quốc gia – 1997.
Chiến lược thâm nhập thị trường Mỹ – PGS. TS Võ Thanh Thu – 2001.
Quản trị doanh nghiệp thương mại – PGS.TS Hoàng Minh Đường, PTS Nguyễn Thừa Lộc – NXB giáo dục 257 trang.
Các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam – NXB Thống kê 1998.
Thương mại dịch vụ trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, PGS.TS Nguyễn Duy Bột – NXB Thống kê 1996, 310 trang.
Tạp chí thương mại 13/01; 10/01; 01/01
Tạp chí kinh tế phát triển.
Thời báo kinh tế
Tạp chí kinh tế phát triển 46/01; 44/01; 42/01
Nghiên cứu kinh tế số 278 – tháng 7/201
Tạp chí thị trường – GC.
Mục lục
Trang
Chương I: Những vấn đề cơ bản thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và các hàng hoá chủ lực nói riêng.
1
1. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và vai trò hệ thống các mặt hàng xuất khẩu Việt Nam.
1
2. Nội dung của hoạt động xuất khẩu và thị trường nhập khẩu thế giới hàng hoá chủ lực
8
3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu ở Việt Nam
11
Chương II: Thực trạng về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực
18
1. Đặc điểm các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
18
2. Thực trạng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
34
3. Đánh giá chung về thị trường xuất khẩu hàng chủ lực
49
Chương III: Các giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu mặt hàng chủ lực ở Việt Nam.
54
1. Mục tiêu quan điểm về xuất khẩu
54
Các giải pháp và chính sách xuất khẩu năm 2001 – 2010.
63
Kết luận
73
Tài liệu tham khảo
74
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29597.doc