Thực trạng & Giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam

Lời mở đầu Cũng như nhiều nước phát triển khác, ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, ngành dệt may đã trở thành một ngành công nghiệp có vị trí quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân. Nó không chỉ đảm bảo cho nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của mỗi con người mà còn góp phần tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn lao động, tạo điều kiện mở rộng thương mại quốc tế và vươn lên thành ngành có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ hai cả nước. Đảng và Nhà nước ta đã quyết tâm

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng & Giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển ngành dệt may Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ đạo để thu ngoại tệ, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước vào năm 2020. Trong điều kiện tự do hoá thương mại, nhất là sau thời điểm 1/ 1/ 2005 các nền kinh tế phát triển như Mỹ và EU xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với sản phẩm dệt may nhập từ các nước thành viên của WTO theo hiệp định dệt may (ATC ), áp lực cạnh tranh đối với ngành dệt may Việt Nam ngày càng tăng lên song cũng có nhiều cơ hội hơn cho quá trình phát triển. Mặc dù có lợi thế về lao động, nguyên liệu... nhưng khả năng cạnh tranh của ngành dệt may còn nhiều hạn chế. Vậy làm thế nào để chủ động khai thác có hiệu quả các lợi thế so sánh, khắc phục các mặt yếu kém, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề sống còn đối với ngành dệt may Việt Nam. Đầu tư là một giải pháp quan trọng để ngành dệt may Việt Nam thực hiện mục tiêu đó. Chính vì vậy, em quyết định chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung của luận văn được chia ra làm 3 phần chính: Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư, khả năng cạnh tranh và ngành dệt may Chương 2: Thực trạng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam Chương 3: Giải pháp đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam Trong điều kiện khả năng và thời gian còn nhiều hạn chế, luận văn không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô và những người quan tâm để hoàn thiện đề tài này. Nhân đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới ThS. Nguyễn Thị Thu Hà, các thầy cô trong Bộ môn Kinh tế đầu tư cùng các cô chú trong Vụ Tổng hợp Kinh tế Quốc dân - Bộ Kế hoạch & Đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. chương 1 Một số vấn đề lý luận chung về đầu tư, khả năng cạnh tranh và ngành dệt may I/ Lý luận về đầu tư 1. Khái niệm, đặc điểm của đầu tư, đầu tư phát triển 1.1. Khái niệm đầu tư, đầu tư phát triển Đầu tư được hiểu một cách chung nhất là “sự hy sinh” hay “sự bỏ ra” các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển Hoạt động đầu tư phát triển mang những đặc điểm giống đặc điểm của đầu tư nói chung và có những đặc điểm riêng khác với các loại đầu tư khác: - Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một khối lượng vốn lớn và số vốn này nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. - Thời gian để tiến hành hoạt động đầu tư phát triển thường kéo dài lâu: thời gian từ khi tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả của nó phát huy tác dụng thường đòi hỏi nhiều năm và trong thời gian này sẽ có nhiều biến động xảy ra. - Thời gian vận hành của kết quả đầu tư thường kéo dài, do đó sẽ chịu tác động của các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế… cả về mặt tiêu cực lẫn tích cực. - Các thành quả của hoạt động đầu tư này là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ngay ở nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư. - Hoạt động đầu tư phát triển có tính rủi ro cao, đầu tư càng lớn thì tính rủi ro càng cao nhưng lợi nhuận đem lại cũng rất lớn. 2. Vai trò của đầu tư phát triển Đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng được thể hiện ở các mặt sau đây: 2.1. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế của đất nước a, Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu tư phát triển thường chiếm khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Mặt khác, khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo sản lượng tiềm năng tăng và do đó giá cả sản phẩm giảm. Sản lượng tăng, giá cả giảm cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại tiếp tục kích thích sản xuất. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. b, Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và đối với tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế mọi quốc gia. Khi tăng đầu tư, cầu của các yếu tố của đầu tư làm cho giá của hàng hoá liên quan tăng (giá chi phí vốn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế. Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác dộng hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với các tác động trên đây c, Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát tiển kinh tế Kết quả nghiên cứu của nhiều nhà kinh tế cho thấy: Muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15 - 20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước. ICOR = Vốn đầu tư GDP do vốn tạo ra = Vốn đầu tư DGDP Từ đó suy ra: Mức tăng GDP Mức tăng GDP = Vốn đầu tư ICOR Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào nguồn vốn đầu tư. Nếu không có sự đầu tư thoả đáng sẽ không có tăng trưởng kinh tế. Kinh nghiệm các nước cho thấy, chỉ tiêu ICOR phụ thuộc mạnh vào cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu do tận dụng năng lực. Do đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp. d, Đầu tư với việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất nước Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta. Theo UNIDO, Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. e, Đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh nền kinh tế với tốc độ mong muốn là tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn nên đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị…của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy những cùng khác cùng phát triển 2.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa được tạo ra. Đó chính là hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì sự hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. 3. Nguồn vốn đầu tư phát triển Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ dùng để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và của xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài: 3.1. Nguồn vốn trong nước a, Nguồn vốn Nhà nước Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước . - Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư, là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn này có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử sụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế - xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. - Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước (DNNN): Được xác định là thành phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các DNNN vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Với chủ trương tiếp tục đổi mới DNNN, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích luỹ của các DNNN ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư toàn xã hội. b, Nguồn vốn của khu vực tư nhân Nguồn vốn khu vực tư nhân bao gồm: nguồn tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, một bộ phận không nhỏ trong dân cư có tiềm năng về vốn do có nguồn thu nhập gia tăng hoặc do tích luỹ truyền thống. Nhìn tổng quan, nguồn vốn tiềm năng trong dân cư không phải là nhỏ, tồn tại dưới dạng vàng, ngoại tệ, tiền mặt… Trong những năm gần đây các loại hình doanh nghiệp dân doanh có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoạt động đầu tư từ khu vực này gia tăng mạnh. 3.2. Nguồn vốn nước ngoài Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng là dòng lưu chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu thị quá trình chuyển giao nguồn lực tài chính giữa các quốc gia trên thế giới. Theo tính chất lưu chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài như sau: - Tài trợ phát triển chính thức (ODF) bao gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA) và các hình thức tài trợ phát triển chính thức trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu. - Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại. - Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). - Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế. a, Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển thông qua hình thức viện trợ không hoàn lại, viện trợ hoàn lại hoặc cho vay với lãi suất ưu đãi, thời gian đáo hạn dài. So với các hình thức tài trợ khác, ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại đạt ít nhất 25%. Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và thị trường…) b, Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của các doanh nghiệp, các cá nhân người nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp quản lý hoặc tham gia quản lý quá trình sử dụng và thu hồi các kết quả của quá trình đầu tư. Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư và phát triển không chỉ đối với các nước nghèo mà kể cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm khác với các nguồn vốn nước ngoài khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho các nước tiếp nhận. FDI mang theo toàn bộ tài nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Vì thế, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước nhận đầu tư. Đối với Việt Nam, FDI không những là nguồn bổ sung vốn quan trọng, mà còn đóng góp vào việc bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai và cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Mặt khác, đóng góp cho ngân sách Nhà nước của khu vực đầu tư nước ngoài cũng đáng kể và góp phần tích cực vào việc hoàn chỉnh hệ thống cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, bưu chính viễn thông của đất nước…, góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế II/ Lý luận về khả năng cạnh tranh 1. Khái niệm và các lý luận về cạnh tranh 1.1. Khái niệm Cạnh tranh: cố gắng giành phần hơn, phần thắng về mình giữa những người, những tổ chức hoạt động nhằm những lợi ích như nhau (1) Xét theo quan điểm tổng hợp: “Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt được mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hoá lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi” (2) 1.2. Các lý luận về cạnh tranh Cùng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, cạnh tranh cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được trình bày dưới nhiều góc độ và sản sinh ra nhiều lý luận về cạnh tranh a, Lý luận cạnh tranh cổ điển Một đại diện tiêu biểu cho trường phái kinh tế học cổ điển, người được coi là “nhà tiên tri của chủ nghĩa tự do kinh tế” Adam Smith với học thuyết “Bàn tay vô hình” đã chủ trương tự do cạnh tranh. Ông cho rằng, cạnh tranh có thể phối hợp kinh tế một cách nhịp ngàng, có lợi cho xã hội. Mặt khác, Smith cho rằng cạnh tranh có tác dụng quan trọng trong việc thúc đẩy lao động và điều tiết việc phân phối tư bản một cách hợp lý. Trong tác phẩm “Của cải của các dân tộc”, Adam Smith chỉ ra rằng: “Chỉ có thông qua tự do cạnh tranh một cách phổ biến mới xác lập được một cách phổ biến sự quản lý tốt đẹp”. b, Lý luận cạnh tranh của trường phái cổ điển mới Vào nửa cuối thể kỷ XIX, các nhà kinh tế học thuộc trường phái cổ điển mới cho ra đời tư tưởng về thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo lấy thị trường tự do hoặc chế độ trao đổi làm cốt lõi. (1) Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà nẵng, 1998) (2) Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tê, Nxb Chính trị Quốc gia, 2003 Trong điều kiện cân đối tổng quát của nền kinh tế có cạnh tranh hoàn hảo, việc tăng một cách tối đa lợi nhuận của người sản xuất và thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào việc sử dụng một cách có hiệu quả nhất tài nguyên kinh tế của đất nước. Với thể chế kinh tế cạnh tranh hoàn hảo, thu nhập và của cải được phân phối rộng khắp, nên chính phủ không cần có kế hoạch chuyển thu nhập từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác và dựa vào đó để tác động vào hoạt động phân phối lại. Mô hình kinh tế cạnh tranh hoàn hảo của trường phái cổ điển mới là nền tảng cơ bản cho các học thuyết về cạnh tranh sau này. c, Lý luận cạnh tranh của Các Mác Lý luận cạnh tranh của C.Mác được thể hiện xuyên suốt hoặc trong lý luận giá trị hoặc trong lý luận về tư bản và giá trị thặng dư. Theo Mác, sự tồn tại của lợi ích đa nguyên quyết định mỗi chủ thể có lợi ích kinh tế riêng. Sự theo đuổi lợi ích riêng ấy tạo nên động lực cạnh tranh. Cạnh tranh cũng gây ra sự tác động lẫn nhau, nó điều tiết sự phân phối tư bản và các tài nguyên kinh tế - xã hội giữa các ngành sản xuất khác nhau, làm cho giá cả dao động, thúc đẩy phát triển kỹ thuật sản xuất và thay đổi kết cấu tổ chức kinh tế, thúc đẩy lực lượng sản xuất xã hội phát triển và nền kinh tế - xã hội tăng trưởng. Theo Mác: “cạnh tranh kinh tế là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, là sự đối chọi giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên thực lực kinh tế của họ". Trong điều kiện kinh tế hàng hoá, những người sản xuất hàng hoá tồn tại độc lập, phân tán, có lợi ích riêng, cạnh tranh với nhau trên thị trường nhằm bảo vệ lợi ích kinh tế của mình. d, Lý luận lợi thế cạnh tranh quốc gia của Michael Porter Michael Porter là nhà khoa học về quản lý nổi tiếng ở Mỹ, là một trong những nhân vật có uy tín về sách lược cạnh tranh quốc tế trên thế giới ngày nay. Porter đưa ra quan điểm về “lợi thế cạnh tranh quốc gia”. Porter cho rằng, của cải nhiều hay ít là do năng suất của sản xuất quyết định. Cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải kiên trì nâng cao năng suất sản xuất ngành bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm, làm nổi bật nét đặc sắc của sản phẩm, cải tiến kỹ thuật sản xuất, nâng cao hiệu quả sản xuất. Mặt khác, khi một nước trực tiếp tham gia cạnh tranh quốc tế thì tiêu chuẩn về năng suất đối với mỗi ngành trong nước ấy không còn là tiêu chuẩn trong nước nữa mà là tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước chẳng những phải cạnh tranh với nhau trong nước, mà còn phải cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài. 2. Lý luận về khả năng cạnh tranh 2.1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế a, Khái niệm và các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Khái niệm: “Năng lực cạnh tranh quốc gia là khả năng đạt được tố độ tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế, thể hiện ở năng lực điều chỉnh chính sách của Nhà nước và khả năng thích ứng linh hoạt của doanh nghiệp khi điều kiện cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế thay đổi” (1) (1) Đề án nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia - Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và đầu tư * Các yếu tố cấu thành năng lực canh tranh của nền kinh tế Cho đến năm 1999, Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) đánh giá năng lực cạnh tranh quốc gia trên 8 nhóm tiêu chí với 155 chỉ tiêu, vừa kết hợp điều tra mẫu từng nước, vừa tham dò ý kiến của 1.500 công ty lớn trên thế giới. Tám nhóm tiêu chí bao gồm: (1) Quy mô và độ mở của nền kinh tế: bao gồm các chỉ tiêu như thuế quan và các hàng rào phi thuế quan, chính sách tỷ giá hối đoái (2) Trình độ phát triển của cơ sở hạ tầng, bao gồm: bưu chính viễn thông, giao thông, cơ sở hạ tầng khác (3) Sự phát triển của hệ thống ngân hàng - tài chính: bao gồm khả năng thực hiện ác hoạt động trung gian tài chính, hiệu quả và cạnh tranh, rủi ro tài chính, đầu tư và tiết kiệm (4) Trình độ phát triển của công nghệ: bao gồm chỉ số về năng lực phát triển công nghệ trong nước, khai thác công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài, hoặc phát triển công nghệ thông qua các kênh chuyển giao khác (5) Vai trò và hiệu lực của Chính phủ, bao gồm: mức độ can thiệp của Nhà nước, năng lực của Chính phủ, qui mô của Chính phủ, thuế và mức độ trốn thuế, chính sách tài khoá… (6) Các yếu tố về lao động, bao gồm các chỉ số về trình độ tay nghề và năng suất lao động, độ linh hoạt của thị trường lao động, hiệu quả của các chương trình xã hội (7) Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (8) Trình độ phát triển của thể chể, gồm các chỉ số về chất lượng các thể chế pháp lý, các luật và các văn bản pháp qui khác b, Thực trạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam Trong thời gian qua, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả khả quan như: Tăng trưởng GDP ở nhịp độ cao (năm 2004 đạt tỷ lệ 7,7%); cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp. Tỷ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có xu hướng tăng (năm 2003 chiếm tới 35,6% và năm 2004 chiếm 36,3%), các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh tế tư nhân; đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ; năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên. Hoàn thiện luật pháp thực hiện tính hiệu lực và minh bạch theo yêu cầu của cơ chế thị trường và xu thế hội nhập. Bảng 1: bảng xếp hạng năng lực cạnh tranh một số nước Quốc gia 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 (Số nước đánh giá) 53 59 59 75 80 102 105 Việt Nam 39 48 53 62 65 40 55 Trung Quốc 28 32 41 47 33 38 46 Thái Lan 21 30 31 38 31 30 34 Malaisia 17 16 25 37 27 28 31 Indonesia 31 37 44 55 67 72 69 Nguồn: Kinh tế Việt Nam & Thế giới 2003-2004, Thời báo kinh tế Việt Nam và Tạp chí Công nghiệp số 23/2004 Với những thành tựu kinh tế và sự ổn định chính trị đã đạt được trong những năm gần đây, vị thế cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đã được cải thiện. Năm 1998, Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc tăng 10 bậc so với năm 1997 (thứ hạng 49). Nhưng từ năm 1998 năng lực cạnh tranh của nền kinh tế bị sụt giảm từ 39/53 nước năm 1998 xuống 65/ 80 (năm 2002). Năm 2003, đã có sự thay đổi khi thứ hạng năng lực cạnh tranh là 40/102 nước, đó là dấu hiệu đáng mừng cho nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình phát triển. Nhưng nếu so sánh với một số nước trong khu vực, thứ hạng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn kém: năm 2001, Việt Nam thấp 7 bậc so với Indonesia, 15 bậc so với Trung Quốc, 24 bậc so với Thái Lan và 25 bậc so với Malaysia. Đến năm 2003, khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam đã được nâng cao: tuy chỉ hơn Indonesia (xếp hạng 72) nhưng khoảng cách so với các nước khác được rút ngắn: chỉ kém Trung Quốc 2 bậc, Thái Lan 10 bậc và Malaysia là 12 bậc. Năm 2004 thứ tự xếp hạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam tụt 15 bậc so với năm 2003 do các yếu tố về năng lực thể chế và môi trường đầu tư kinh doanh… Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực là do chất lượng của tăng trưởng kinh tế chưa cao và chưa vững chắc (như hệ số bảo hộ trong những năm gần đây còn cao, tăng trưởng do yếu tố năng suất thấp và giảm); cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh của ngành và sản phẩm: khu vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Bên cạnh đó, mặc dù phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước chiếm trên 70% nhưng chưa huy động hết được tiềm lực trong nước và sự giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong mấy năm qua (năm 2004 tình hình thu hút vốn FDI có dấu hiệu khả quan sau mấy năm có xu hướng sụt giảm của nguồn vốn này). Mặt khác, hệ thống chính sách công chưa đồng bộ, đôi khi chồng chéo và mâu thuẫn, do đó tác dụng và hiệu lực của các chính sách chưa cao. Điều đó đòi hỏi nền kinh tế Việt Nam cần nâng cao khả năng cạnh tranh trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá kinh tế thế giới hiện nay. Đặc biệt là những ngành mà Việt Nam có thế mạnh và lợi thế như ngành dệt may yêu cầu đó là rất cấp thiết. 2.2. Khả năng cạnh tranh của ngành kinh tế Ngành kinh tế là một chủ thể lớn bao gồm các chủ thể nhỏ là các doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực, nếu là ngành sản xuất thì các chủ thê nhỏ này sẽ cùng sản xuất một sản phẩm. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Trên các góc độ khác nhau, các nhà kinh tế có cách hiểu khác nhau về khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp: +> Fafchamps cho rằng: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng của doanh nghiệp đó có thể sản xuất sản phẩm với chi phí biến đổi trung bình thấp hơn giá trị của nó trên thị trường. Điều đó có nghĩa là: doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra loại sản phẩm có chất lượng tương tự như doanh nghiệp khác nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có khả năng cạnh tranh. +> Theo Dunning thì: khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng cung cấp sản phẩm của chính doanh nghiệp trên thị trường khác nhau mà không phân biệt bố trí nơi sản xuất của doanh nghiệp đó. Theo cách hiểu này thì một doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh là một doanh nghiệp có thể sản xuất và bán sản phẩm đó ra trên các thị trường khác nhau vẫn thu được lợi nhuận, không phụ thuộc vào địa điểm sản xuất sản phẩm đó. +> Randall lại lập luận rằng: Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng giành được, duy trì thị phần trên thị trường và lợi nhuận nhất định. Lại có một số quan niệm cho rằng khả năng cạnh tranh là trình độ công nghệ có thể sản xuất sản phẩm theo đúng yêu cầu của thị trường, đồng thời duy trì mức thu nhập thực tế của mình. Các quan điểm này tuy có nhiều điểm khác nhau và cũng chưa định nghĩa khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp một cách đầy đủ nhưng qua đó có thể thấy khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào hai yếu tố là: khả năng chiếm lĩnh thị trường và khả năng thu được lợi nhuận. Hay khi doanh nghiệp thu được lợi nhuận và thị phần của doanh nghiệp trên thị trường sản xuất hàng hoá đó tăng lên đồng nghĩa với việc khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là mạnh. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì thị trường của doanh nghiệp không chỉ gói gọn là thị trường trong nước nữa mà bao hàm cả thị trường quốc tế (cạnh tranh khi xuất khẩu hay cạnh tranh với sản phẩm nhập khẩu ngay tại thị trường nội địa). Dó đó, để nâng cao khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp thường xuyên phải đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức, tác động đến các yếu tố bên trong và bên ngoài. +> Theo Michael Porter, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo của mình để tạo ra sản phẩm có chi phí thấp và tính dị biệt của sản phẩm. Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh, doanh nghiệp cần xác định được lợi thế của mình mới có thể giành thắng lợi. Có hai nhóm lợi thế cạnh tranh, đó là: (1) Lợi thế về chi phí: tạo ra sản phẩm có chi phí thấp hơn đối thủ cạnh tranh. Các yếu tố sản xuất như đất đai, vốn và lao động thường được xem là nguồn lực để tạo lợi thế cạnh tranh (2) Lợi thế về sự khác biệt: Dựa vào sự khác biệt của sản phẩm làm tăng giá trị cho người tiêu dùng hoặc giảm chi phí sử dụng sản phẩm hoặc nâng cao tính hoàn thiện khi sử dụng sản phẩm. Lợi thế này cho phép thị trường chấp nhận mức giá thậm chí cao hơn đối thủ Khả năng cạnh tranh của sản phẩm Khả năng cạnh tranh của một sản phẩm, dịch vụ phụ thuộc vào lợi thế so sánh của nó. Các quan điểm cổ điển về khả năng cạnh tranh đều dựa trên việc so sánh các yếu tố cấu thành nên sản phẩm như: vốn, lao động, nguyên liệu, chi phí,giá thành, giá bán… Một sản phẩm được coi là có sức cạnh tranh và có thể đứng vững khi có mức giá thấp hơn hoặc khi cung cấp các sản phẩm tương tự với chất lượng hay dịch vụ tốt hơn. Các tiêu chí thường sử dụng để xác định khả năng cạnh tranh của sản phẩm: - Tính cạnh tranh về chất lượng và mức độ đa dạng hoá sản phẩm - Tính cạnh tranh về giá cả - Khả năng thâm nhập thị trường mới - Khả năng khuyến mãi, lôi kéo khách hàng và phương thức kinh doanh ngày càng phong phú hơn Khả năng cạnh tranh của sản phẩm có thể được đánh giá bằng các chỉ số định lượng như: Tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu (Effective rates of Protecion - ERP) và lợi thế so sánh biểu hiện (Revealed Comparative Advantage - RCA). Chỉ số RCA càng cao thì sản phẩm càng có lợi thế cạnh tranh: nếu RCA 2,5 thì sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao. Còn chỉ số ERP được sử dụng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, xác định được ngành nào sẽ có lợi thế và bất lợi thế do những thay đổi chính sách liên quan đến tự do hoá thương mại. Khả năng cạnh tranh của ngành kinh tế Sau khi xem xét khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp (chủ thể nhỏ trong ngành kinh tế) và khả năng cạnh tranh của sản phẩm (mục tiêu sản xuất, so sánh của ngành), ta có thể rút ra khái niệm về khả năng cạnh tranh của ngành kinh tế: khả năng cạnh tranh của một ngành kinh tế thực chất là khả năng cạnh tranh của một loại hình sản phẩm, dịch vụ của một đất nước nếu đặt trong mối quan hệ so sánh với khả năng cạnh tranh của loại sản phẩm, dịch vụ đó của nước khác (bao hàm cả thị trường nội địa và thị trường mà sản phẩm xuất khẩu). Do vậy, trong một thị trường tuỳ thuộc vào phạm vi và tính chất của thị trường mà chủ thể cạnh tranh có thể là một ngành kinh tế hay một doanh nghiệp trong ngành đó. Trên thị trường cạnh tranh nội địa, không những có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước thuộc ngành đó để giành thị phần mà còn sự cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hay giữ._.a ngành của nước đó với ngành của nước khác để chiếm lĩnh và bảo vệ thị trường nước mình. Còn trên thị trường cạnh tranh toàn cầu, sự cạnh tranh giữa các quốc gia khác nhau về thực chất là sự cạnh tranh giữa các ngành kinh tế của các nước đó dựa vào lợi thế so sánh của mỗi nước, về mỗi loại mặt hàng. 3. Các thước đo khả năng cạnh tranh (công cụ cạnh tranh) Khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành kinh tế được đánh giá bằng nhiều thước đo và cũng bằng các công cụ này doanh nghiệp, ngành kinh tế nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu: 3.1. Chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm là công cụ hàng đầu để các doanh nghiệp cũng như một ngành kinh tế của một quốc gia cạnh tranh trên thị trường. Đây cũng là công cụ mang lại hiệu quả cao trong quá trình nâng cao khả năng cạnh tranh của chủ thể. Do đặc điểm mỗi sản phẩm sản xuất ra có đặc trưng khác nhau nên khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp hay một ngành được quyết định bằng việc chất lượng sản phẩm sản xuất ra cao hơn so với sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác, của nước khác và chất lượng đó phải luôn được giữ vững hoặc nâng cao hơn nữa. Chất lượng đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá khả năng cạnh tranh của một sản phẩm, của doanh nghiệp; quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Nhờ tăng chất lượng sản phẩm, dịch vụ vị thế của doanh nghiệp ngày càng được củng cố và mở rộng, uy tín, danh tiếng sẽ giúp doanh nghiệp thu hút được nhiều khách hàng, tăng lợi nhuận, mở rộng sản xuất và qua đó tạo điều kiện để đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm ngày càng thích ứng hơn với thị trường. Đối với một ngành kinh tế quốc dân thì nâng cao chất lượng sản phẩm cũng là một yếu tố để ngành kinh tế đó có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của nước khác trên thị trường nội địa, bảo vệ thị trường trong nước và gia tăng thị phần trên thị trường xuất khẩu sản phẩm. Không những vậy, nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp hữu hiệu để kết hợp hài hoà các loại lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích của ngành sản xuất với lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của lao động. Qua đó tạo động lực mạnh mẽ để tăng năng suất lao động và cho sự phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Tăng chất lượng sản phẩm đồng nghĩa với việc tăng năng suất lao động xã hội, tăng chất lượng sẽ dẫn đến tăng giá trị sử dụng và lợi ích kinh tế xã hội trên một đơn vị đầu vào, giảm nguyên vật liệu sử dụng nên tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên cho đất nước, giảm ô nhiễm môi trường, đó là mục tiêu phát triển bền vững của một nền kinh tế trong điều kiện hiện nay. Như vậy, chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh được nhìn nhận trên quan điểm tổng hợp. Và có thể thấy rằng nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp hàng đầu để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành kinh tế một đất nước, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp và ngành hàng đó trên mọi thị trường trong điều kiện tự do hoá thương mại hiện nay. 3.2. Cơ cấu sản phẩm Trong cơ chế thị trường hiện nay, quan hệ cung cầu là quan hệ chủ yếu quyết định sự tồn tại cũng như phát triển của thị trường hàng hoá đó và là yếu tố xác định khả năng sản xuất, tiêu thụ mỗi mặt hàng. Mỗi chủ thể, doanh nghiệp hay một ngành hàng tham gia bất cứ thị trường nào đều phải dựa trên quan hệ cung cầu và trên cơ sở đó để xác định khả năng sản xuất cũng như danh mục và cơ cấu sản phẩm của mình. Một sản phẩm có thể đứng vững trên thị trường thì phải được sự chấp nhận của người tiêu dùng, sản xuất như thế nào cần dựa vào quan hệ cung cầu. Trong quá trình tồn tại và phát triển của thị trường luôn nảy sinh những nhu cầu mới, đặt ra những đòi hỏi cao hơn, khắt khe hơn hay là “cái mới phải tốt hơn, ưu việt hơn cái cũ”, quá trình này là tự nhiên và vận động không ngừng. Đối với mỗi doanh nghiệp khi tham gia thị trường đều chịu ảnh hưởng của yêu cầu này và để tồn tại, phát triển thì đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn hoàn thiện sản phẩm của mình khi chúng đang ở giai đoạn hưng thịnh trong chu kỳ sản phẩm. Hơn nữa cũng cần phải tìm ra những sản phẩm mới thay thế khi sản phẩm cũ đã trở nên lạc hậu, không còn được thị trường chấp nhận nữa; mà thậm chí còn phải nhận biết cơ hội khi sản phẩm đang ở trong giai đoạn suy thoái không chờ đến khi thị trường từ chối sản phẩm của mình. Doanh nghiệp hay ngành hàng thực sự có khả năng cạnh tranh khi có “mức độ đa dạng hoá sản phẩm” là tốt nhất. Mức độ đa dạng hoá sản phẩm hay cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú sẽ giúp doanh nghiệp ổn định doanh thu, tăng thị phần và phát triển một cách tốt nhất. Để đa dạng hoá sản phẩm doanh nghiệp cần dựa vào lợi thế so sánh của mình, cũng như lợi thế so sánh của đất nước mình để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, được thị trường chấp nhận, phát huy được lợi thế tương đối so với các doanh nghiệp khác trong nước, các doanh nghiệp của nước khác. Như vậy, sự đa dạng và vận động của thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải năng động cải tiến, hoàn thiện cơ cấu sản phẩm của mình theo hướng đa dạng hoá nếu không muốn bị đào thải, không muốn bị mất đi khả năng cạnh tranh của mình. 3.3. Giá cả sản phẩm Giá cả sản phẩm được sử dụng làm công cụ cạnh tranh thông qua chính sách giá bán mà doanh nghiệp áp dụng đối với thị trường có sự kết hợp với một số điều kiện khác. Giá là một trong những công cụ quan trọng trong chiến lược cạnh tranh của chủ thể cạnh tranh, cạnh tranh bằng giá đồng nghĩa với việc sản xuất với chi phí thấp để bán với mức giá thấp hơn so với đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Giá của một sản phẩm trên thị trường được xác định thông qua quan hệ cung cầu. Người bán và người mua thoả thuận mặc cả với nhau để đi tới một mức giá cuối cùng mà với mức giá đó thì cả hai bên đều có lợi. Nếu như chênh lệch về giá giữa chủ thể và đối thủ cạnh tranh lớn hơn chênh lệch về giá trị sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh thì chủ thể hay cụ thể hơn là doanh nghiệp đã đem lại lợi ích cho người tiêu dùng lớn hơn so với đối thủ cạnh tranh. Điều đó tạo điều kiện cho sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng có chỗ đứng trên thị trường cũng có nghĩa là sản phẩm của doanh nghiệp có vị trí cạnh tranh cao do vậy yêu cầu đặt ra đối với doanh nghiệp là phải hạ giá thành sản phẩm nhưng vẫn phải đạt chất lượng tiêu chuẩn để sản phẩm có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Các nhân tố ảnh hưởng đến giá mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được là chi phí sản xuất sản phẩm, chi phí bán hàng và chi phí lưu thông. Để hạ giá thành sản phẩm của mình doanh nghiệp cần tác động đến các yếu tố này như: giảm chi phí nhân công, tăng năng suất lao động, đặt nơi sản xuất gần nguồn nguyên liệu và một số biện pháp khác. 3.4. Uy tín doanh nghiệp Uy tín của doanh nghiệp là một yếu tố vô hình nhưng có ảnh hưởng khá lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cạnh tranh bằng uy tín có nghĩa là mang đến cho người tiêu dùng sự tin cậy vào mình, về sản phẩm, về chất lượng, về giá cả mẫu mã, kiểu dáng… của sản phẩm mình sản xuất ra. Quá trình này đòi hỏi phải đầu tư trong một quá trình lâu dài khi doanh nghiệp có uy tín thì sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường sẽ được khách hàng chú ý nhiều hơn và tiêu dùng nhiều hơn. Để tạo lập được uy tín đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiềm lực tài chính vững mạnh, chất lượng sản phẩm sản xuất cao, các loại hình dịch vụ đa dạng phong phú và tiện lợi với khách hàng. 3.5. Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp là tập hợp các kênh phân phối sản phẩm từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Tuỳ theo đặc điểm của doanh nghiệp, của sản phẩm và thị trường tiêu thụ mà doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối một cách hợp lý hoặc sử dụng hỗn hợp các kênh phân phối để phát huy tối đa lợi thế của doanh nghiệp. Doanh nghiệp sử dụng công cụ này để đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ hàng hoá và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Yếu tố này ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh nghiệp trong quá trình thị trường cạnh tranh quốc tế hiện nay. 4. Nội dung đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong doanh nghiệp 4.1. Đầu tư vào cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị Máy móc thiết bị là tài sản cố định của mỗi doanh nghiệp, là tiền đề của hoạt động sản xuất kinh doanh. Máy móc thiết bị và công nghệ quyết định chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm từ đó quyết định khách hàng và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường dẫn tới đánh giá khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Ngược lại, công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất thấp, tiêu hao nguyên vật liệu và năng lượng cao gây ô nhiễm môi trường và sản xuất ra sản phẩm không thoã mãn nhu cầu thị trường về giá cả và chất lượng. Đầu tư vào máy móc thiết bị và cơ sở hạ tầng đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi hai lý cơ bản sau: Thứ nhất, chi phí cho hạng mục này chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư. Thứ hai, đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt động chính của mỗi doanh nghiệp. Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng quyết định đối với phần lợi nhuận thu được cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất hoặc vì họ có thể giảm chi phí sản xuất bằng cách chuyển sang những phương pháp sản xuất dùng nhiều vốn hơn. Nhưng việc đầu tư quá lớn cho tài sản cố định lại đồng nghĩa với việc vốn khê đọng lớn. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định mức vốn hợp lý cho tài sản cố định, phù hợp với khả năng và quy mô hoạt động của doanh nghiệp. 4.2. Đầu tư vào nguồn nhân lực Nếu như máy móc thiết bị là một phần quan trọng hình thành nên năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì có thể coi nguồn nhân lực là bộ phận quyết định đến việc vận hành khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần phân chia nguồn nhân lực ra thành đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học và đội ngũ công nhân trực tiếp lao động. Đầu tư nguồn nhân lực được thực hiện bởi các hình thức đầu tư cho công tác đào tạo tay nghề; đầu tư cho cải thiện môi trường làm việc của người lao động, đầu tư cho công tác thi đua khen thưởng. Các hoạt động đầu tư đó đảm bảo lợi ích của người lao động, làm cho người lao động nhận thấy được lợi ích của mình gắn bó chặt chẽ với lợi ích của doanh nghiệp. - Đầu tư vào công tác đào tạo: Đào tạo quyết định phẩm chất chính trị, năng lực quản lý trình độ tay nghề. Đào tạo của doanh nghiệp có thể lựa chọn đào tạo bên ngoài do các tổ chức chuyên trách đảm nhận hay tổ chức các khoá đào tạo nội bộ. Đối tượng đào tạo: +> Đào tạo lực lượng cán bộ quản lý, cán bộ chuyên môn: Việc đào tạo thông qua chi phí tham gia hội thảo, tham quan thực tế, đào tạo ngắn hạn dài hạn các nghiệp vụ quản lý… +> Đào tạo cán bộ nghiên cứu khoa học là đòi hỏi cấp bách cho các doanh nghiệp vì họ sẽ là đội ngũ đưa tri thức mới và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh, góp phần cho sự phát triển của doanh nghiệp. +> Đào tạo nâng cao tay nghề cho công nhân: đây là lực lượng chịu ảnh hưởng mạnh của công tác đào tạo cả về số lượng và chất lượng. Quá trình đào tạo có thể được thực hiện ở trường đào tạo cũng như đào tạo trong quá trình sản xuất. - Đầu tư cho quỹ lương, công tác khen thưởng và đảm bảo lợi ích cho người lao động: Đầu tư vào quỹ lương bằng cách tăng quỹ lương sẽ làm cho người lao động làm việc tốt hơn, năng suất cao hơn. Việc đầu tư theo tiền lương phải trong điều kiện đầu tư phát triển của doanh nghiệp tăng, tức là cuộc đầu tư phải đem lại lợi nhuận trên cơ sở đó doanh nghiệp sẽ tiếp tục trích lợi nhuận để đầu tư. Như vậy, đầu tư vào nguồn nhân lực là vấn đề cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp. Điều kiện lao động thuận lợi sẽ tạo điều kiện đảm bảo sức khoẻ và nâng cao khả năng làm việc của người lao động. Do đó, đầu tư vào nguồn nhân lực là quá trình đầu tư góp phần nâng cao khả năng cạng tranh của doanh nghiệp. 4.3. Đầu tư vào tài sản vô hình Tài sản vô hình là loại tài sản không có hình thái cụ thể, tuy nhiên nó có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Đầu tư vào tài sản vô hình của các doanh nghiệp đó là quá trình đầu tư vào: uy tín của doanh nghiệp, thương hiệu hàng hoá do doanh nghiệp sản xuất ra; đầu tư vào các loại bằng phát minh sáng chế; đầu tư vào hoạt động quảng cáo, xúc tiến bán hàng Đầu tư vào uy tín của doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm để nâng cao danh tiếng của doanh nghiệp trên thị trường, lòng tin của khách hàng đối với sản phẩm của doanh nghiệp. Loại tài sản vô hình này sẽ làm tăng đáng kể doanh thu của doanh nghiệp và sản xuất luôn được mở rộng. Ngày nay thương hiệu có một tầm quan trọng rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường và lợi nhuận của doanh nghiệp. Chi phí cho hoạt động đầu tư này là khá lớn và đòi hỏi thời gian dài vì uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp không thể ngày một ngày hai là có được. Hiện nay, đầu tư vào hoạt động quảng cáo, công tác tiếp thị, xúc tiến bán hàng, mở rộng thị trường liên quan đến sự sống còn của doanh nghiệp. Bởi vì trong cơ chế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp không biết tiếp thị, quảng cáo tốt sản phẩm của mình trên thị trường thì sẽ bị đào thải bởi tính cạnh tranh khốc liêth của nền kinh tế. Một doanh nghiệp có mặt hàng tốt nhưng không quảng bá mặt hàng của mình cho người tiêu dùng biết thì việc tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn, lợi nhuận thu được thấp và sản xuất của doanh nghiệp sẽ không được mở rộng, doanh nghiệp khó có khả năng phát triển. Đầu tư hợp lý vào tài sản vô hình đồng nghĩa với việc lợi nhuận và vị thế của doanh nghiệp tăng lên. Đầu tư vào tài sản vô hình đã trở thành một phần quan trọng không thể thiếu trong quá trình đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp 4.4. Đầu tư nghiên cứu sản phẩm mới Như đã nghiên cứu ở trên, một công cụ cạnh tranh quan trọng của doanh nghiệp là cơ cấu sản phẩm, doanh nghiệp có khả năng sản xuất ra nhiều sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng thì sẽ nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Một sản phẩm khi đến giai đoạn suy thoái của chu kỳ sản phẩm sẽ bị thị trường đào thải và khi đó doanh nghiệp cần cho ra sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu mới của thị trường. Quá trình đó đòi hỏi công cuộc nghiên cứu sản phẩm mới phải được tiến hành ngay từ khi doanh nghiệp nhận biết được cơ hội thì mới đáp ứng được nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của người tiêu dùng. Hoạt động đầu tư này cũng cần một số lượng vốn khá lớn, nó bao gồm các chi phí cho: công tác nghiên cứu kỹ thuật, nghiên cứu nhu cầu thị trường. Do đó, đầu tư cho quá trình nghiên cứu sản phẩm mới cũng là một nội dung của đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp III/ đặc điểm của ngành dệt may và đặc điểm đầu tư trong ngành dệt may 1. Đặc điểm của ngành Dệt may Công nghiệp dệt may là một phân ngành của công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Nó có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu may mặc - một trong hai nhu cầu thiết yếu của đời sống con người. Công nghiệp dệt may thực chất là tổ hợp của hai ngành chuyên môn hoá hẹp là công nghiệp dệt và công nghiệp may. Mặc dù là hai ngành chuyên môn hoá nhưng giữa chúng có một mối liên hệ khăng khít, không thể tách rời. Công nghiệp dệt nếu thiếu công nghiệp may thì sản phẩm của nó sẽ không đạt được mục tiêu cuối cùng là đáp ứng nhu cầu mặc cho con người. Ngược lại, công nghiệp may đã sử dụng sản phẩm của công nghiệp dệt như một nguồn cung cấp nguyên liệu duy nhất, không thể thay thế cho hoạt động của mình. Công nghiệp dệt phát triển với nhiều chủng loại sản phẩm sẽ là cơ hội tốt cho công nghiệp may lựa chọn các dạng nguyên liệu đầu vào. Cũng như vậy công nghiệp may phát triển, nhiều mẫu mốt ra đời sẽ kích thích tiêu dùng và tạo đầu ra cho công nghiệp dệt. Cũng như các ngành công nghiệp độc lập khác, công nghiệp dệt may có những đặc điểm cơ bản của nó, như: Thứ nhất, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp mà sản phẩm cuối cùng của nó là hàng may mặc, sản phẩm tiêu dùng phục vụ nhu cầu thiết yếu sau nhu cầu về ăn của con người. Nhu cầu này sẽ càng tăng lên theo mức tăng thu nhập của dân cư. Đặc trưng này chi phối toàn bộ hoạt động của ngành dệt may, từ đó xác định nhiệm vụ quan trọng nhất của ngành là phải ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu của đời sống con người. Thứ hai, sản phẩm của ngành công nghiệp dệt may có vòng đời ngắn. Sở dĩ như vậy là do sản phẩm dệt may mang tính thời trang cao và có tính thời vụ. Sản phẩm dệt may còn góp phần làm tôn thêm vẻ đẹp, sự sang trọng, lịch sự của người sử dụng. Do vậy sản phẩm dệt may cũng cần phải luôn thay đổi để đáp ứng nhu cầu của con người. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp khi tham gia sản xuất, kinh doanh mặt hàng này phải thường xuyên thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất liệu để đáp ứng nhu cầu thích đổi mới, sáng tạo thậm chí độc đáo và gây ấn tượng của người tiêu dùng. Đặc biệt đối với Việt Nam là một đất nước có nền văn hoá đa dạng và phong phú nên người Việt Nam khá nhạy cảm và tinh tế trong việc lựa chọn trang phục. Đặc trưng này đặt ra yêu cầu đối với nhà sản xuất là phải nhanh chóng nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu và có khả năng dự báo xu hướng thời trang mới. Thứ ba, ngành công nghiệp dệt may là ngành sử dụng nhiều lao động đặc biệt là lao động giản đơn, hơn nữa công nghệ sản xuất không đòi hỏi quá phức tạp nên có thể tổ chức sản xuất ở cả quy mô hộ gia đình. Do vậy, nó cho phép phát huy được lợi thế só sánh của những nước có nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ (đó cũng là lợi thế của Việt Nam hiện nay). Chính vì vậy, công nghiệp dệt may đã tồn tại và phát triển ở hầu hết các nước đang phát triển, dù có được công nghiệp hoá thì trước mắt và lâu dài, công nghiệp dệt may vẫn tồn tại những công đoạn cần tới lao động thủ công của bàn tay con người. Do vậy cùng với sự lớn mạnh của công nghiệp dệt may thì số lượng lao động được thu hút vào ngành này cũng ngày càng đông cùng với lực lượng lao động trong các ngành có liên quan đến sự phát triển của ngành dệt may như: công nghiệp cơ khí, chế tạo, công nghiệp hoá chất và đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp để tạo ra các nguồn nguyên liệu cho ngành. Thứ tư, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp nhạy cảm, sản phẩm của nó thường được bảo hộ cao ở hầu hết các nước trên thế giới bằng những chính sách, thể chế đặc biệt trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Sự bảo hộ này không phải chỉ xuất hiện ở những quốc gia tham gia xuất khẩu hàng dệt may thường muốn bảo hộ sản xuất trong nước, mà các rào cản còn xuất hiện ngay cả những cường quốc, mà tại đó, công nghiệp dệt may không phát triển hoặc đã từng phát triển, nay đã chuyển dịch ra các khu vực và các khác trên thế giới. Các rào cản đó có thể là áp dụng hạn ngạch nhập khẩu, sử dụng mức thuế đối với hàng dệt may cao hơn các sản phẩm công nghiệp khác hay nguyên tắc về xuất xứ, về nhãn hiệu hàng hoá, quy định về chất lượng sản phẩm… Đây là đặc trưng hết sức quan trọng mà đòi hỏi các doanh nghiệp hay các nước tham gia vào thị trường sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may cần phải quan tâm để có những đối sách phù hợp. Thứ năm, công nghiệp dệt may là ngành công nghiệp đã diễn ra nhiều lần dịch chuyển sản xuất giữa các nước, các khu vực trên thế giới và trong nội bộ từng nước. Nghiên cứu lịch sử ngành dệt may cho thấy công nghiệp dệt may xuất hiện lần đầu ở nước Anh và dịch chuyển lần đầu sang Bắc và Nam Mỹ, một số nước châu Âu vào cuối thể kỷ XIX. Nhật Bản đã tiếp nhận và phát triển mạnh ngành dệt may vào những năm 30 - 40 của thế kỷ XX. Sau đó cùng với sự phát triển kinh tế của Nhật Bản thì chi phí sản xuất của ngành dệt may tăng cao, giá nhân công lớn và nguồn lao động trở lên khan hiếm thì ngành công nghiệp này dịch chuyển sang các nước NICs Châu á như hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan… với việc đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm khai thác được lợi thế về nguyên liệu và nhân công ở những nước này. Quá trình dịch chuyển này tiếp tục diễn ra khi các nước này chuyển dần sang phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao hơn như sản xuất ôtô, đồ điện tử… Và điểm đến của lần dịch chuyển này là các nước đang phát triển ở Châu á: Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Singapore… Đây là đặc trưng quan trọng mà các nhà sản xuất dệt may trong nước cần quan tâm nếu không muốn mất đi những lợi thế vốn có của mình và mất đi vị thế cạnh tranh của mình trên thị trường thế giới Trên đây là những đặc trưng cơ bản nhất của ngành công nghiệp dệt may. Nó chi phối toàn bộ quá trình tổ chức sản xuất và trực tiếp ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của ngành công nghiệp dệt may. Vì vậy, các doanh nghiệp và các nước tham gia sản xuất hàng dệt may cần nghiên cứu và tìm hiểu rõ những đặc điểm này để có những giải pháp phù hợp với thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu trên thế giới. 2. Đặc điểm đầu tư trong ngành Dệt may Do những đặc điểm riêng của sản phẩm dệt may cũng như đặc trưng về nội dung đầu tư ngành dệt may nên đầu tư vào ngành dệt may có một số đặc điểm cơ bản sau: - Vốn đầu tư vào ngành dệt may không lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh: So với các ngành công nghiệp khác, đặc biệt là các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp dệt may có suất đầu tư thấp hơn nhiều lần: chỉ bằng 1/10 so với ngành cơ khí, 1/15 so với ngành điện, 1/20 so với ngành luyện kim. Trong nhóm ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, để tạo ra một chỗ làm mới, công nghiệp dệt (từ khâu sợi, dệt đến khâu nhuộm - hoàn tất) chỉ cần đầu tư khoảng 15.000 USD; công nghiệp may chỉ cần đầu tư khoảng 1.000 USD trong khi suất đầu tư cho ngành giấy là gần 30.000 USD. Mặt khác, thời gian thu hồi vốn của công nghiệp dệt may cũng thấp hơn so với nhiều ngành công nghiệp khác: thời gian thu hồi vốn của ngành dệt là 10 - 12 năm, ngành may còn nhanh hơn chỉ 5 - 7 năm trong khi các ngành công nghiệp nặng khác là 10 -15 năm. Với đặc điểm này tạo điều kiện cho Việt Nam phát triển ngành dệt may trong bước đầu công nghiệp hoá vì trong giai đoạn này nguồn vốn của đất nước quá nhỏ bé không thể đầu tư sâu vào các ngành công nghiệp khác. - Đầu tư trong ngành dệt may không đòi hỏi kỹ thuật hiện đại: máy móc, thiết bị, công nghiệp đầu tư cho ngành dệt may không cần quá hiện đại, có thể sử dụng những máy móc thiết bị đã qua sử dụng (giá trị vẫn còn khoảng 80%) chỉ cần phù hợp với năng lực của doanh nghiệp cũng như của ngành dệt may trong nước hiện tại. Chính vì vậy mà thiết bị, công nghệ mới phù hợp với trình độ lao động ngành dệt may Việt Nam. Qua đó phát triển được lợi thế so sánh về lao động của ngành, tạo việc làm cho người lao động cũng như tiết kiệm được nguồn vốn đầu tư. - Trong quá trình đầu tư thì việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực là nhiệm vụ quan trọng: Do tính chất đặc thù nên ngành dệt may thu hút nhiều lao động hơn các ngành công nghiệp khác mà có cùng số vốn đầu tư. Đặc biệt trong thời kỳ kỹ thuật công nghiệp phát triển như hiện nay nên muốn tăng khả năng cạnh tranh của mình đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú trọng đến quá trình đào tạo nguồn nhân lực từ lao động giản đơn, nhà thiết kế đến cán bộ quản lý của ngành. - Đầu tư vào ngành dệt may cần chú ý đến phát triển nguồn nguyên vật liệu: nguyên vật liệu đóng vai trò rất quan trọng đối với sản xuất dệt may nhưng hiện nay ngành dệt may Việt Nam vẫn phải nhập khẩu quá nhiều nguyên liệu nên tỷ lệ nội địa hoá không cao. Điều đó đòi hỏi cần phải đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng nguyên liệu trồng bông, trồng dâu và các nhà máy sản xuất phụ liệu may - Việc tìm hiểu thị trường trong đầu tư ngành dệt may có vai trò quan trọng: Đặc điểm của sản phẩm ngành dệt may là có nhu cầu phong phú, đa dạng; mang tính thời trang cao, có tính mùa vụ. Vì vậy đòi hỏi khi đầu tư cần chú ý đến việc nghiên cứu thị trường đem lại hiệu quả đầu tư. Mặt khác, người tiêu dùng sản phẩm dệt may rất nhạy cảm với mẫu mã mới nên doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến khâu thiết kế sản phẩm. - Đầu tư vào ngành dệt may đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn bởi nó sẽ tạo ra sự tác động dây chuyền đối với các ngành khác: sự phát triển của ngành công nghiệp dệt may sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế, kỹ thuật khác, đặc biệt là các ngành công nghiệp máy móc và nông nghiệp. Nhờ sự lớn mạnh của công nghiệp dệt may mà thúc đẩy một số ngành như cơ khí - chế tạo, công nghiệp hoá chất, sản xuất bao bì, nông nghiệp (đặc biệt là trồng bông, trồng dâu nuôi tằm)... phát triển không ngừng. Mặt khác, sự phát triển của ngành dệt may sẽ góp phần mở rộng quan hệ buôn bán giao lưu quốc tế vì sản phẩm ngành dệt may được đánh giá là một trong những sản phẩm có mức giao lưu buôn bán quốc tế lớn nhất. Với những đặc điểm đó, đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành công nghiệp này. Quá trình đầu tư sẽ thúc đẩy sự phát triển của ngành, tăng khả năng cạnh tranh của ngành trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chương 2 Thực trạng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam I/ Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam và khả năng cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam 1. Khái quát chung về ngành Dệt may Việt Nam 1.1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành Dệt may Việt Nam Ngành công nghiệp dệt may đã có ở Việt Nam vào khoảng hơn một thế kỷ nay, còn những hoạt động thủ công truyền thống như thêu thùa thì đã tồn tại từ rất lâu hơn nữa. Theo như một số tài liệu ghi chép thì sự phát triển chính thức của ngành dệt may bắt đầu từ khi khu công nghiệp Nam Định được thành lập vào năm 1899 - đây là mốc thời gian đánh dấu sự hình thành của ngành dệt may Việt Nam. Khoảng thời gian sau chiến tranh thế giới thứ hai, ngành công nghiệp này phát triển nhanh hơn, đặc biệt là ở miền Nam, tại đây các hãng dệt với máy móc hiện đại của châu Âu đã được thành lập. Sau khi thống nhất đất nước, cùng với việc tiếp quản toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp dệt may đã có ở miền Nam trước khi giải phóng, Nhà nước cũng đã tiến hành cho xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp dệt may trên phạm vi cả nước. Ngành đã cung cấp cho nhu cầu của nhân dân; đảm bảo cân đối về nguyên liệu, sợi cho sản xuất vải, quần áo, chăn màn cho tiêu dùng và cân đối đầu mối xuất nhập khẩu, trao đổi hàng hoá với các nước xã hội chủ nghĩa đem về 55 - 60 ngàn tấn bông xơ mỗi năm từ Liên Xô. Năm 1986, Đảng và Nhà nước ra chủ trương cải cách mở cửa nền kinh tế từ nền kinh tế tập trung tự cung tự cấp sang nền kinh tế thị trường. Đây là cơ hội cho các ngành công nghiệp trong đó có ngành dệt may phát triển và xuất khẩu sản phẩm ra nước ngoài đem lại nhiều lợi ích kinh tế. Nhưng một thực tế gặp phải là ngành dệt may thời kỳ này với quy mô, công suất thiết bị, trình độ công nghệ tuy đã tăng lên nhưng mới chỉ làm ra được nhưng sản phẩm có chất lượng trung bình và thấp nên chỉ cung cấp một phần cho tiêu thụ trong nước mà còn phải cạnh tranh khốc liệt với hàng hoá nhập khẩu. Bên cạnh đó, thị trường truyền thống của Việt Nam đang gặp phải khó khăn đó là sự sụp đổ và tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam chỉ thực sự phát triển từ năm 1991 trở lại đây với sự thay đổi căn bản cả về thiết bị công nghệ lẫn nhận thức. Từ một ngành sản xuất nhỏ, manh mún, chỉ lo sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và thực hiện một phần nghị định thư với Liên Xô, các nước Đông Âu, đầu vào và đầu ra hoàn toàn do Nhà nước quyết định phát triển thành một ngành công nghiệp chủ đạo không chỉ đáp ứng phần lớn nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Có được như vậy là nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, ngành dệt may Việt Nam đã mạnh dạn đầu tư nâng cấp thiết bị cũ, đầu tư công nghệ và thiết bị mới cũng như chú trọng hơn đến đầu tư vào nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, Luật đầu tư nước ngoài có hiệu lực từ năm 1988 đã thu hút được nhiều nhà đầu tư vào ngành dệt may, điều đó giúp cho ngành dệt may phát triển cả về quy mô, trình độ công nghệ, cơ cấu sản phẩm, kim ngạch xuất khẩu. Bước sang thế kỷ XXI - một thế kỷ của thương mại quốc tế, cạnh tranh gay gắt trên toàn cầu dựa trên sự phát triển của khoa học công nghệ các ngành công nghiệp ngày càng phát triển hơn. Điều đó đòi hỏi ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phải có chiến lược đầu tư đổi mới trang thiết bị, công nghệ; nâng cao chất lượng sản phẩm để từng bước phát triển đáp ứng nhu cầu trong nước và nước ngoài. Thực hiện chủ trương đó, ngày 29/04/1995 Chính phủ ra quyết định thành lập Tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) trên cơ sở hợp nhất hai đơn vị Liên hiệp các xí nghiệp may và Tổng công ty Dệt Việt Nam. Vinatex là thành viên của Hiệp hội dệt may Việt Nam giúp Chính phủ trong việc định hướng và phát triển ngành dệt may cũng như các thành phần kinh tế trong ngành dệt may. 1.2. Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam hiện nay Về quy mô của ngành: Nhờ chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên từ năm 1991 ngành dệt may Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ thể hiện qua sự lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất dệt may. Đến năm 2004, số lượng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dệt may đã tăng gấp 5 - 6 lần so với 10 năm trước. Hiện nay, cả nước có gần 108.500 cơ sở sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt, may trong nước và 362 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, bao gồm: Bảng 2: Quy mô ngành dệt may Việt Nam theo thành phần kinh tế Loại hình sở hữu Số lượng Tỷ trọng (%) Doanh nghiệp Nhà nước 310 0.29 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh 414 0.38 Hộ cá thể, tư nhân 107.770 99 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 362 0.33 Tổng 108.856 100 Nguồn: Hiệp hội dệt may Việt Nam, 2004 Khu vực tập trung nhiều cơ sở sản xuất nhất là miền Bắc với các cụm công nghiệp dệt may tập trung đã hình thành từ lâu tại Hà nội, Nam định và các cụm khác mới hình thành ở khu vực miền Trung; tiếp sau là khu vực TP Hồ Chí Minh và các tỉnh phụ cận, với các cụm công nghiệp dệt may tập trung tại Thủ Đức, Tân Bình, Biên Hoà và các cụm mới đang hình thành tại Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu...; các khu vực khác với các cụm công nghiệp tập trung như Huế, Đà Nẵng, Nha Trang... Bảng 3: Số lư._. khăn, vải thô có thể sử dụng máy móc, thiết bị của Trung Quốc, ấn Độ - Khâu dệt thoi: tập trung đầu tư mạnh để cân đối với năng lực kéo sợi và tạo ra các loại vải cao cấp phục vụ cho xuất khẩu. Muốn vậy cần loại bỏ các máy dệt thoi vì cho vải chất lượng, năng suất thấp và gây ô nhiễm môi trường, trong những năm tới tập trung vào máy dệt không thoi có năng suất cao, chất lượng sản phẩm tốt như dệt kim, dệt thổi khí, dệt phun nước, dệt thoi kẹp. Mặt khác, phải đầu tư có trọng điểm theo hướng chuyên môn hoá cao ở từng doanh nghiệp; đồng thời chuyển dịch các máy cũ, lạc hậu về nông thôn để tận dụng nguồn lực về đất đai, nhà xưởng, lao động…; thực hiện tốt phương châm sản xuất theo nhiều tầng công nghệ. - Khâu dệt kim: cần lựa chọn thiết bị để tạo các sản phẩm dệt kim từ bông hoặc các loại vật liệu mới, sử dụng rộng rãi trong lĩnh vực thể thao và dịch vụ. Bên cạnh việc đầu tư thiết bị sản xuất các sản phẩm quen thuộc như: T-shirt, Polo- shirt, quần áo lót nam nữ ngành cũng cần đầu tư các thiết bị dùng cho sản xuất những sản phẩm mới mà thị trường các nước xuất khẩu đang ưa chuộng, như: quần áo thể thao, trượt tuyết, dệt kim mài lông….Đồng bộ với việc thải loại một số máy dệt, phải đổi mới toàn bộ các thiết bị hộ, mài, đánh ống… nhằm đồng bộ hoá với các loại máy dệt mới được đầu tư. - Khâu nhuộm, hoàn tất: Thay thế khoảng 50% thiết bị đồng bộ làm ra được các mặt hàng cao cấp như: các loại vải dùng để may sơ mi, jacket, quần âu…; khôi phục, nâng cấp, bổ sung thiết bị lẻ để hoàn thiện dây chuyền sản xuất. Đây là khâu có công nghệ phức tạp và đòi hỏi vốn lớn, vì vậy, cần đầu tư tập trung, qui mô lớn theo phương châm hình thành các trung tâm in, nhuộm, xử lý, hoàn tất hiện đại, chất lượng cao ở các vùng hoặc miền. Máy móc, thiết bị nên lựa chọn có xuất xứ từ Tâu Âu và Nhật Bản để đảm bảo chất lượng bền vững và ổn định lâu dài. Các thiết bị mang nhãn mác Châu Âu nhưng chế tạo ở các nước đang phát triển như Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Mêhycô có thể chấp nhận được, song phải thận trọng khi xem xét phân tích từng bộ phận hoặc cấu hình của thiết bị. - Thiết bị may: thay thế những máy may đã sử dụng trên 10 năm và đã lạc hậu về công nghệ (hiện còn khoảng 20%) để đảm bảo hiệu quả sản xuất và đón kịp xu hướng phát triển của thời trang quốc tế. Phát triển mạnh các doanh nghiệp may nhỏ trên phạm vi toàn quốc nhằm đáp ứng xu hướng mở rộng của thị trường xuất khẩu. Bên cạnh việc lựa chọn thiết bị, công nghệ phù hợp, quá trình đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ cần chú ý đến một số diểm sau: + Ngoài việc đầu tư nhỏ lẻ mang tính chất bổ sung, thay thế, các doanh nghiệp dệt may cần phải quan tâm đến đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư một cách đồng bộ hệ thống máy móc, thiết bị + Kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu thiết bị, công nghệ hiện đại với thiết bị, công nghệ đã qua sử dụng cho ngành dệt may. Đặc điểm này xuất phát từ sự thiếu vốn của các doanh nghiệp dệt may. Mặt khác, khi lựa chọn đầu tư các thiết bị đã qua sử dụng đòi hỏi doanh nghiệp phải khảo sát và lựa chọn kỹ càng tránh thiết bị đã quá cũ, lạc hậu và không còn phù hợp nữa + Ngành dệt may cần nghiên cứu áp dụng khoa học về nguyên liệu mới, về công nghệ, thiết bị đang còn bỏ trống, tạn dụng phế liệu để sản xuất trong lĩnh vực vải không dệt, tận dụng phế liệu tơ tằm để kéo sợi Spusilk, sớm có công nghệ kéo sợi pha len/acrylic cho mặt hàng Veston complet; nâng cao tỷ trọng mặt hàng mới trong lĩnh vực nghiên cứu sử dụng nguyên liệu mới Microfibre cho vải Jacket, Tissu giả len. 4. Đầu tư phát triển nguồn nguyên liệu cho ngành Nguyên liệu là đầu vào của quá trình sản xuất. Thiếu nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định, sản xuất không thể phát triển bền vững. Mặt khác đối với ngành dệt may được định hướng là hướng mạnh về xuất khẩu, trong đó xuất khẩu lại bị chi phối về nguyên tắc xuất xứ (sử dụng nguyên liệu trong nước sẽ được ưu đãi nhiều hơn). Hiện nay, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam không chủ động được nguyên liệu cho mình mà phải nhập khẩu rất nhiều, điều đó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất của ngành. Do vậy, về mặt chiến lược dài hạn, việc xây dựng và phát triển cơ sở nguyên liệu trong nước được coi là một trong những vấn đề cấp bách giải quyết. Trong thời gian tới, ngành cần phát triển nguyên liệu cho nhiều loại: bông, xơ, sợi khác nhau, cả vải cho sản xuất hàng may. Cụ thể: Đối với cây bông: trong những năm tới đây nhu cầu bông cho ngành dệt là rất lớn nên cần có các biện pháp phát triển bông: - Khai thác mọi nguồn vốn của trung ương, địa phương, vốn trong dân và cả vốn nước ngoài cho việc phát triển cây bông - Có các biện pháp tăng năng suất cũng như chất lượng bông, như: + Quy hoạch vùng nguyên liệu có chất lượng: Để có bông chất lượng cần quy hoạch các vùng có điều kiện tự nhiên phù hợp với cây bông như: Bình Thuận, Ninh Thuận, Tây Nguyên, Đồng Nai… thành vùng chuyên canh cây bông. Vùng chuyên canh phải được đầu tư đúng mức về cơ sở hạ tầng kỹ thuật như thuỷ lợi, đường xá, điện, kho trạm…Bên cạnh vùng chuyên canh, các địa phương khác như đồng bằng sông Cửu Long, đồng bằng ven biển miền Trung, Trung du và miền núi phía Bắc có thể luân canh cây bông với các loại cây trồng khác nhằm cải tạo môi trường, tăng năng suất cây bông. + Thực hiện kỹ thuật sản xuất tiên tiến: áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật nhằm cải thiện chất lượng bông. Cần thực hiện chế độ canh tác đúng kỹ thuật; thực hiện đẩy mạnh thâm canh, đảm bảo được định lượng các loại phân bón thích hợp cho từng giai đoạn. - Tổ chức sản xuất bao tiêu sản phẩm giữa Công ty Bông Việt Nam và các doanh nghiệp dệt theo hướng ổn định, lâu dài. triển khai công tác mua bông tập trung trong phạm vị cả nước, nghiên cứu để có thể tập trung đầu mối giao dịch cung cấp một số nguyên liệu đầu vào khác để từng bước chuyên môn hoá sản xuất kinh doanh -Vai trò của Nhà nước: Cây bông vải có vị trí đặc biệt trong cơ cấu cây trồng và đối với ngành dệt may nước ta. Vì thế để phát triển cây bông Nhà nước cần hoạch địch chương trình phát triển bông quốc gia và có chính sách thích hợp hỗ trợ cho sản xuất kinh doanh bông, ưu đãi cho vay vốn với lãi suất thấp, cấp giống tốt, đầu tư cơ sở hạ tầng… Đối với tơ tằm: đây là nghề có truyền thống lâu đời ở Việt Nam nhưng hiện nay sản lượng và chất lượng của sản phẩm này còn thấp. Vì vậy, trong tương lai ngành cần tập trung nhiều vốn để phát triển nghề trồng dâu nuôi tằm, khôi phục lại nghề ở một số vùng đã không sản xuất nữa. Mặt khác, để đạt hiệu quả kinh tế cao, cần có thiết bị và công nghệ để chế biến được các sản phẩm có chất lượng cao và cao hơn để phục vụ xuất khẩu. Nên có công nghệ chế biến phế liệu tơ để kéo sợi spunilk, đây là loại nguyên liệu có giá trị xuất khẩu không thua kém gì tơ nõn. Đối với xơ, sợi tổng hợp: hiện nay mới chỉ có 2 dự án 100% vốn đầu tư nước ngoài sản xuất xơ và tơ PE với công suất 5 - 6 vạn tấn/năm/nhà máy đáp ứng một phần nhu cầu trong nước. Nhưng để đáp ứng mục tiêu của ngành dệt may, cần đầu tư xấy dựng một đến hai nhà máy nữa với công suất 5 - 10 vanh tấn.năm Đối với vải: công nghiệp dệt được dùng làm nguyên liệu chính cho công nghiệp may. Hiện nay, sản phẩm dệt trong nước không đảm bảo yêu cầu về chất lượng và số lượng cho công nghiệp may hàng xuất khẩu. Do vậy, để cung cấp đủ nguyên liệu cho ngành máy đòi hỏi ngành công nghiệp dệt phải phát triển hơn nữa đăc biệt là các khâu dệt thoi và dệt kim hiện đang có năng lực sản xuất nhỏ bé. Ngành cần quan tấm đến việc nhanh chóng đổi mới công nghiệp dệt và sản xuất phụ kiện. 5. Đầu tư phát triển công nghiệp phụ trợ cho sản xuất dệt may Sự yếu kém về các ngành công nghiệp phụ trợ cho sản xuất hàng dệt may chính là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam bị hạn chế. Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển đồng nghĩa với việc sản xuất dệt may trong nước vẫn phải nhập máy móc, thiết bị và một số phụ liệu cho sản xuất từ nước ngoài nên giá thành sản xuất sẽ cao, khả năng cạnh tranh bị kém đi. Do vậy, một mục tiêu quan trọng để nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là cần có các biện pháp đầu tư thích hợp để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ. Các biện pháp cụ thể: 5.1. Đầu tư phát triển ngành cơ khí dệt may Phát triển ngành cơ khí dệt may để đạt mục tiêu trước mắt là cung cấp phần lớn các máy móc, thiết bị phụ tùng của ngành mà hiện nay chúng ta còn phải nhập khẩu tốn kém một lượng ngoại tệ lớn (khoảng 20 triệu USD/năm). Đồng thời tạo cơ sở nền tảng để tiến tới lắp ráp và chế tạo được một số dây chuyền sản xuất dệt may đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu thiết bị cho các nước chậm phát triển khác. Cùng với sự phát triển của sản xuất, ngành đã hình thành nên một lực lượng cơ khí chuyên ngành gồm 4 doanh nghiệp độc lập và phân xưởng cơ khí của các doanh nghiệp thành viên. Lực lượng này hoạt động rất tích cực và đã sản xuất được một số phụ tùng thay thế cho máy móc thiết bị ngành dệt và một số thiết bị trong dây chuyền sản xuất đồng bộ cho ngành may với chất lượng đảm bảo. Do vậy, cần tập trung đầu tư hơn nữa cho sản xuất cơ khí để bằng chính khả năng của kinh tế trong nước, thiết bị - công nghệ hiện có sản xuất được cacs loại phụ tùng thay thế các thiết bị đang sử dụng trong ngành. Đầu tư 1 hoặc 2 cơ sở đủ để đảm bảo cung cấp được 60 - 70% số lượng phụ tùng cho sản xuất. Bên cạnh đó, cần tạo môi trường tốt cho đầu tư và chuyển giao công nghệ vì hiện nay khi cần thay thế các thiết bị mới doanh nghiệp Việt Nam hay gặp tình trạng mua đắt 10- 15% so với giá trị thực của máy móc thiết bị mà không mua được công nghệ hiện đại. Trước hết cần xây dựng lộ trình khoa học cho giai đoạn từ nay đến năm 2010, đồng thời hoàn thiện thị trường công nghệ và thúc đẩy thị trường công nghệ hoạt động mạnh mẽ hơn để tăng khả năng chủ động cho các doanh nghiệp 5.2. Đầu tư phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ liệu Để phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ liệu cho ngành dệt may đòi hỏi ngành dệt may cần quan tâm hơn nữa đến các ngành công nghiệp này. Hiện nay, các ngành công nghiệpã phụ liệu dệt may ở Việt Nam là hầu như không có nên các doanh nghiệp khi sản xuất sản phẩm phải nhập rất nhiều phụ liệu nước ngoài với giá khá cao, mà phụ liệu chiếm 10 - 15%, có khi đến 25-30% giá thành sản phẩm may. Do vậy, chủ động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá thành sản phẩm. Muốn vậy, ngành dệt may Việt Nam cần chú ý đến việc đầu tư vào các ngành nay. Đầu tiên, ngành dệt may cần phát triển hệ thống các doanh nghiệp sản xuất phụ liệu may trong nước. Hiện nay trong nước các nhà máy sản xuất phụ liệu cho may là rất ít mà đa số là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nên số lượng phụ liệu sản xuất ra là không đáng kể so với nhu cầu của ngành Trong thời gian tới cần nhanh chóng quy hoạch lại việc sản xuất phụ liệu, không để tình trạng đầu tư tự phát để rồi dẫn đến dư thừa năng lực như trong các lĩnh vực sản xuất dệt may vừa qua. Trước mắt tập trung vào các loại phụ liệu có nhu cầu sử dụng lớn như: khuy, móc, các loại khoá kéo, nhãn mác… Đây không thực sự là một lĩnh vực khó về công nghệ mà chủ yếu là về vốn. Một doanh nghiệp nếu tự đứng ra làm sẽ rất khó khăn nhưng nếu có sự hỗ trợ của ngành, hoặc sự liên kết của nhiều doanh nghiệp thì những bất cập này sẽ dần được giải quyết trong vài năm tới. Một số loại phụ liệu khác phục vụ cho sản xuất ngành dệt như: một số hoá chất, thuốc nhuộm… thì ngành cần đề nghị Chính phủ xây dựng các nhà máy hoá chất phục vụ riêng cho ngành dệt may mới hoặc đẩy mạnh hoạt động của các công ty hoá chất hiện thời, cung cấp thêm sản phẩm phục vụ ngành. 6. Đầu tư phát triển thị trường Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may hiện nay và cả trong những năm tới là tìm kiếm và mở rộng thị trường nội địa và thị trường xuất khẩu nên việc đầu tư phát triển thị trường đối với ngành dệt may là hết sức quan trọng. Để các doanh nghiệp dệt may giữ vững thị trường truyền thống đồng thời tìm kiếm và xâm nhập các thị trường mới, cần chú trọng các biện pháp: 6.1. Đầu tư nghiên cứu và phát triển thị trường Vai trò của công tác nghiên cứu thị trường là hết sức quan trọng đối với sự phát triển của các ngành sản xuất tiêu dùng, mà đặc biệt là ngành dệt may. Thông qua nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp sẽ nắm được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng, những thông tin về giá cả, cung cầu hàng hoá, sản phẩm. Quá trình nghiên cứu thị trường là quá trình thu thập thông tin, số liệu về thị trường kinh doanh, phân tích, so sánh số liệu đó và rút ra kết luận, từ đó đề ra biện pháp thích hợp đối với các doanh nghiệp. Tuỳ đặc thù của từng thị trường mà công tác nghiên cứu thị trường là khác nhau: a, Thị trường trong nước Hiện nay, Việt Nam có dân số khoảng 80 triệu người (năm 2010 có thể lên đến 90 triệu người) là một thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng về tiêu dùng hàng dệt may. Trong tương lai khi đời sống nhân dân được nâng cao, đặc biệt là nông dân, nên sức mua hàng dệt may sẽ rất lớn, nó không ngừng ở nhu cầu thông thường mà còn xuất hiện các nhu cầu mới. Vì vậy việc phát triển thị trường nội địa là hết sức quan trọng và cần thiết. Muốn vậy, ngành dệt may Việt Nam cần quan tâm đến một số vấn đề như: Trong công tác nghiên cứu thị trường, cần làm tốt công tác dự báo thị trường, bao gồm công việc như điều tra nhu cầu tiêu dùng của các tầng lớp dân cư ở cả đô thị lẫn nông thôn, kể cả vùng đồng bào các dân tộc. Nhu cầu tiêu dùng hàng dệt may bao gồm các nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và các nhu cầu phục vụ đi làm, dạ hội, đi chơi… Các nhu cầu về đồng phục học sinh, sinh viên, các ngành kể cả lực lượng vũ trang… cũng là những đoạn thị trường mà các doanh nghiệp cần quan tâm nghiên cứu để đáp ứng kịp thời, khắc phục dần tình trạng hiện nay. Việc phát triển thị trường nội địa cần phải có một chiến lược lâu dài và ổn định với phương châm là đảm bảo chất lượng, số lượng, giá cả hợp lý phù hợp với người tiêu dùng. Để làm được điều đó, ngành dệt may Việt Nam cần đổi mới công nghệ, nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp để đáp ứng những nhu cầu phong phú của người tiêu dùng trong nước. Mặt khác, ngành cần phối hợp với Chính phủ và các cơ quan có liên quan để bảo vệ thị trường nội địa thông qua các biện pháp chống gian lận thương mại, hàng giả, nhập lậu. Đồng thời nghiên cứu áp dụng các công cụ bảo vệ thị trường trong nước mà pháp luật quốc tế cho phép như: hàng rào kỹ thuật, hàng rào thuế quan, bảo vệ môi trường, thuần phong mỹ tục, an ninh quốc gia... b, Thị trường nước ngoài Đây là thị trường quan trọng đối với hàng dệt may Việt Nam nên ngành cần chú ý đến các biện pháp sau: - Tăng cường và nâng cao chất lượng của công tác nghiên cứu thị trường, chú ý cả thị trường hiện có và thị trường tiềm năng. Đối với thị trường xuất khẩu cần chú ý tới thị trường Mỹ - đây là thị trường xuất khẩu nhiều tiềm năng của hàng dệt may Việt Nam trong những năm tới. Chú ý tới việc khôi phục thị trường xuất khẩu truyền thống SNG và Đông Âu cũng như mở rộng thêm các thị trường mới như Châu Phi. Các doanh nghiệp ngành dệt may cần có những giải pháp thích hợp để lựa chọn và tìm ra những ngách thị trường xuất khẩu mà Việt Nam có những lợi thế nhất định trong cạnh tranh ở các khu vực thị trường trên. - Hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi phải nắm bắt được những thông tin thiết yếu về nhu cầu, khả năng tiêu thụ cũng như điều kiện thâm nhập thị trường của hàng dệt may. Trên quan điểm đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế của ngành nói chung và các doanh nghiệp dệt may nói riêng, cần chủ động tìm kiếm thị trường tiêu thụ, tìm hiểu sở thích, tập quán, thị hiếu người tiêu dùng, khả năng tiêu thụ trên thị trường để có những giải pháp kịp thời và thích hợp sao cho phù hợp với yêu cầu của từng thị trường - Cần nhanh chóng có đại diện của ngành dệt may ở các thị trường lớn như EU, Mỹ, Bắc Mỹ, các nước SNG và Đông Âu… công việc này đòi hỏi chi phí cao về tài chính nên cần có sự phối hợp hoạt động của nhiều doanh nghiệp mà đầu mối nên là Tổng công ty dệt may Việt Nam. - Phối hợp tốt trong việc trao đổi thông tin kinh tế, đặc biệt là thông tin về thị trường dệt may, giữa các doanh nghiệp và các tham tán thương mại ở các nước. Các đại sứ và đại diện thương mại của Việt Nam ở nước ngoài có nhiệm vụ giúp các doanh nghiệp tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước ngoài và nâng cao hiệu quả của việc tham gia hội chợ. Để làm tốt điều này, các đại diện thương mại cần tìn hiểu chắc nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng nước sở tại còn doanh nghiệp Việt Nam cần có sẵn danh mục, mẫu mã sản phẩm tạo thuận lợi ccho các đối tác nghiên cứu, lựa chọn mặt hàng và ký hợp đồng được thuận lợi. - Tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế ở trong và ngoài nước. Đặc biệt, đối với các thị trường mới như thị trường Mỹ, cần nhanh chóng tìm hiểu kỹ các nguyên tắc, luật lệ chung của đất nước trong các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu, kể cả tập quán và xu hướng tiêu dùng của từng vùng. 6.2. Tổ chức tiếp thị và phân phối sản phẩm Công tác tiếp thị đặc biệt quan trọng đối với các sản phẩm dệt may, bởi đặc điểm của nhóm hàng hàng này là yêu cầu về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang và sở thích đặc biệt của người tiêu dùng. Mặc dù các doanh nghiệp dệt may Việt Nam đã thấy được tầm quan trọng cảu hoạtđộng tiếp thị nhưng các doanh nghiệp vẫn chưa có sự đầu tư đúng mức cho hoạt động này. Trong thời gian tới, hoạt động tiếp thị và phân phối so cần phải được tiến hành theo các hướng sau: Thứ nhất, hoạt động tiếp thị phải được tiến hành đồng thời ở cả 3 cấp: - Cấp doanh nghiệp: hoạt động tiếp thị phải được coi trọng và trở thành một công tác không thể thiếu trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp cần thành lập phòng hay tổ chuyên trách về thị trường. Các phòng này có trách nhiệm nắm bắt sự thay đổi nhu cầu trên thị trường mà doanh nghiệp đang đảm nhận; xác định cơ cấu sản phẩm hợp lý, theo dõi đối thủ cạnh tranh để có phản ứng linh hoạt trong chiến lược điều chỉnh giá; chuẩn bị kế hoạch cho hoạt động khuyếch trương sản phẩm, tổ chức mạng lưới tiêu thụ, mối liên hệ với khách hàng. Hạn chế lớn nhất của hoạt động tiếp thị ở các doanh nghiệp hiện nay là không ccó kinh phí. Chính vì vậy, dù doanh nghiệp có làm tốt đến mấy cũng chỉ đủ lực quanh quẩn thị trường trong nước mà không thể vươn ra thị trường nước ngoài. Đảm nhận ở thị trường quốc tế phải là cấp ngành. - Cấp ngành: Tổng công ty sẽ làm đầu mối tiếp thị thực hiện: tổ chức các hoạt động xúc tiến mậu dịch ở nước ngoài, tuỳ theo khả năng tham gia của các doanh nghiệp trong nước. Vinatext cần đầu tư cho hoạt động tiếp thị, củng cố thị phần bằng việc khai thác có hiệu quả văn phòng đại diện tại NewYork, liên doanh Vinatext tại Hồng Kông, củng cố lại văn phòng ở SNG và Đông Âu; chuẩn bị ở thêm văn phòng tại Nhật Bản, EU. Mặt khác, Tổng công ty dệt may Việt Nam, trên cơ sở nắm vững nguồn lực sản xuất, cả về thiết bị và nhân lực của các doanh nghiệp trong nước, sẽ giới thiệu các bạn hàng nước ngoài và các đơn hàng phù hợp, đảm bảo uy tín và quyền lợi cho các doanh nghiệp trong nước. Làm tốt việc này, sẽ từng bước xoá bỏ được hiện tượng tranh hợp đồng, phá giá gia công… đang diễn ra giữa các doanh nghiệp - Cấp nhà nước: Nhà nước cần nhanh chóng tổ chức mạng lưới thông tin kinh tế toàn quốc. Nhà nước cần hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, cần có một Trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường; môi giới, giới thiệu sản phẩm dệt may Việt Nam với khách hành quốc tế; thu thập xử lý các thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời; khảo sát thực tế thị trường Hai là, hoạt động tiếp thị phải được tiến hành thường xuyên, liên tục. ở giai đoạn này, hoạt động tiếp thị không chỉ dừng lại ở các hoạt động truyền thống là giới thiệu và bán sản phẩm mà phải tiến xa hơn là dẫn dụ khách hàng, tạo ra các nhu cầu mới, để từ đó có điều kiện đáp ứng các nhu cầu đó. Để làm tốt việc này vai trò của hoạt động tiếp thị là hết sức quan trọng và cần được thực hiện ở cấp doanh nghiệp và ngành. ở cấp cơ sở, các doanh nghiệp dựa vào đội ngũ kỹ sư công nghệ và trên cơ sở các sản phẩm chiến lược của mình, sẽ tự thiết kế các sản phẩm mới phù hợp với phân đoạn thị trường của mình. ở cấp ngành, việc thiết kế sản phẩm mới sẽ tập trung cho việc đáp ứng yêu cầu của khách hàng lớn, thăm dò thị trường mới và đặc biệt là tạo ra khuynh hướng thời trang ở Việt Nam trong việc tiêu dùng hàng dệt may Ba là, cần phải tiến hành đồng bộ các hoạt động yểm trợ. Phân phối sản phẩm của doanh nghiệp có thể qua kênh trực tiếp đến thẳng người tiêu dùng hoặc qua các kênh gián tiếp, thông qua các đại lý, người bán lẻ lớn. Song điều quan trọng là cần tiến hành đồng bộ các hoạt động yểm trợ khác, bao gồm các hoạt động giới thiệu, quảng cáo, khuyến mại, mở hội nghị khách hàng… Trong đó, hoạt động giới thiệu sản phẩm được coi là quan trọng nhất vì qua hình thức này, người tiêu dùng được tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm mà mình lựa chọn. 7. Một số giải pháp khác 7.1. Đầu tư vào công tác thiết kế, cải tiến mẫu mã Công tác thiết kế mốt của các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam còn yếu và chưa được chú trọng. Mẫu mã các sản phẩm dệt may Việt Nam còn đơn điệu, nghèo nàn và thay đổi chậm so với như cầu, thị hiếu của người tiêu dùng trừ các sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng của phía nước ngoài. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân khiến cho sản phẩm dệt may Việt Nam dù có ưu thế nhưng khả năng cạnh tranh còn kém. Trước đây các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu sử dụng thương hiệu, mẫu mã của nước ngoài nhằm tránh rủi ro. Tuy nhiên, tình trạng đó không thể kéo dài vì điều đó sẽ làm mất cơ hội và giảm hiệu quả kinh doanh do các doanh nghiệp Việt Nam phải trả tiền bản quyền về mẫu mã, kiểu dáng rất cao làm giảm khả năng cạnh tranh của bản thân các doanh nghiệp cũng như của ngành dệt may Việt Nam. Do vậy, trong thời gian tới để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp ngành dệt may cần phải đầu tư cho khâu thiết kế kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm dệt may. Quá trình đó sẽ tập trung đầu tư cho cơ sở vật chất, đào tạo nguồn nhân lực các nhà tạo mẫu. - Một giải pháp quan trọng là tăng cường đầu tư cho các trường đào tạo cán bộ thiết kế như: Đại học Mỹ thuật công nghiêp, một số khoa thiết kế của các trường đại học chuyên ngành. Bên cạnh đó, ngành cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy; hay gửi đi đào tạo ở nước ngoài để có các nhà thiết kế chuyên nghiệp có trình độ, đủ năng lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. - Tăng cường hỗ trợ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu, thiết kế mẫu tại Viện Mẫu thời trang (Fadin) và Viện Dệt để đủ sức tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao phù hợp nhu cầu tiêu dùng ở thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó cũng cần có nhiều cuộc thi thiết kế mẫu thời tranh như Việt Nam Granfix để tìm ra nhiều nhà thiết kế hơn nữa, khuyến khích và đào tạo họ để nâng cao chất lượng thiết kế của các sản phẩm dệt may. Đây là nhiệm vụ rất quan trọng và đòi hỏi sự quan tâm, sự đầu tư của ngành cũng như của Nhà nước - Một biện pháp nhằm khắc phục khó khăn về vốn và nhân lực trong khâu thiết kế pt sản phẩm mới bằng cách thông qua trao đổi bản quyền giữa các công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu. Trước mắt cần phải thuê, hợp tác liên doanh với nước ngoài để học tập họ đồng thời cử cán bộ đi các viện mốt hàng đầu thế giới để học tập. Có thể đẩy mạnh hoạt động hợp tác với các Viện mốt, hặc thuê chuyên gia thiết kế mốt nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hoà nhập vào thị trường thế giới. Đây chỉ là những biện pháp mang tính chất tạm thời, trước mắt khi nguồn vốn cho khâu này còn hạn chế; trong tương lai ngành cần có sự đầu tư một cách đồng bộ và chuyên sâu hơn nữa. 7.2. Đầu tư tạo lập và phát triển thương hiệu Hiện nay, ngành Việt Nam chưa chú ý đầu tư vào thương hiệu để tạo ra giá trị gia tăng lớn hơn cho mình. ở thị trường trong nước, các doanh nghiệp vẫn chưa xây dựng được thương hiệu mạnh để tạo được chỗ đứng với người tiêu dùng trong nước. Còn trên thị trường thế giới Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hay gia công cho các đối tác nước ngoài, xuất khẩu sản phẩm trực tiếp còn khá ít. Sản phẩm dệt may của Việt Nam kém cạnh tranh hơn so với Trung Quốc và một số nước khác một phần vì thiếu thương hiệu mạnh. Muốn có thương hiệu mạnh, yếu tố quyết định là năng lực nội tại của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay sản phẩm dệt may của Việt Nam đã có một số thương hiệu nổi tiếng như An Phước, May 10, Dệt Thái Tuấn, May Việt Tiến, May Nhà Bè... Nhưng nhìn chung các dệt may Việt Nam chủ yếu tự bằng lòng với việc gia công sản phẩm cho nước ngoài có thương hiệu mạnh. Ví dụ như việc An Phước thuê lại thương hiệu của Piere Cardin. Điều này chứng tỏ trình độ, năng lực, thiết bị, kỹ thuật của Việt Nam không thua kém, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chưa có ý thức xây dựng thương hiệu cho chính mình. Do vậy, các doanh nghiệp ngành dệt may Việt Nam cần đầu tư xây dựng và phát triển thương hiệu của mình. Sự hỗ trợ của Nhà nước: Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, xây dựng năng lực kinh doanh cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp vươn lên. Nhà nước cần phối hợp với các Bộ, ngành, hiệp hội, các nhà tư vấn để thực hiện chương trình phát triển thương hiệu sản phẩm với 3 nội dung: +> Tăng cường nhận thức của doanh nghiệp về thương hiệu +> Song song với giải quyết vấn đề nhận thức trước hết các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết những vấn đề bức xúc của doanh nghiệp: nới lỏng chính sách quản lý, tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào thương hiệu; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời hạn đăng ký thương hiệu; hỗ trợ doanh nghiệp trong việc đào tạo, huấn luyện, cung cấp thông tin, tư vấn cho doanh nghiệp về xây dựng và quảng bá thương hiệu; tăng cường cơ chế thực thị pháp luật, xử lý nghiêm mọi vi phạm quyền sở hữu trí tuệ +> Xây dựng và quảng bá một “Nhãn sản phẩm quốc gia”: Nhà nước cần quảng bá được hình ảnh các sản phẩm xuất khẩu chất lượng cao của Việt Nam ra thế giới nhằm tôn vinh các thương hiệu Việt Nam đồng thời xây dựng uy tín nhãn hiệu Việt Nam trên thị trường thế giới. Nỗ lực từ phía doanh nghiệp: Với các doanh nghiệp lớn thì có thể đăng ký nhãn hiệu hàng hoá để xây dựng cho mình thương hiệu và có thể xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài. Nhưng chi phí cho việc đăng ký nhãn hiệu là khá lớn có khi lên tới vài ngàn USD. Do vậy, để tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm. Hơn nữa, các doanh nghiệp cũng cần chú trọng đến khâu quảng bá và phát triển thương hiệu của mình ở cả thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp cần nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để tạo lập uy tín đối với người tiêu dùng, qua đó xây dựng được thương hiệu của mình Kết luận Trong thời gian vừa qua, ngành dệt may Việt Nam đã Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngành dệt may Việt Nam đã có những bước phát triển nhảy vọt, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Nhưng những khó khăn trước mắt mà ngành gặp phải là không thể phủ nhận, đó là các lợi thế cạnh tranh về nhân công dần bị hạn chế và đặc biệt là sự biến đổi tình hình dệt may thế giới sau Hiệp định thương mại dệt may ATC từ ngày 1/1/2005, là những thách thức và cơ hội không nhỏ đối với ngành trong quá trình phát triển. Việc phát triển ngành dệt may, nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành suy cho cùng là nhằm tăng hiệu quả kinh tế nên đòi hỏi một chiến lược đầu tư hợp lý và hiệu quả của các doanh nghiệp trong ngành cũng như sự quan tâm hỗ trợ từ phía Nhà nước. Trên cơ sở đánh giá thực trạng đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh ngành dệt may Việt Nam, luận văn đã cho chúng ta thấy được một cái nhìn tổng quan nhất về ngành. Và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành ở thị trường trong nước và thị trường thế giới, góp phần đưa ngành dệt may Việt Nam trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn, cạnh tranh được với các nước sản xuất dệt may trong khu vực và trên thế giới tài liệu tham khảo 1/ GS.TS. Chu Văn Cấp, Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, NXB Chính trị Quốc gia, 2003 2/ Đại học Kinh tế quốc dân, Phát triển công nghiệp dệt - may Việt Nam: sự lựa chọn các chính sách phát triển cho tương lai, Đại học Kinh tế quốc dân và JICA, Hà Nội, 2002 3/ TS. Nguyễn Bạch Nguyệt - TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Thống kê, 2003 4/Lê Trọng Quang, Những giải pháp và kiến nghị để thực hiện chiến lược phát triển ngành dệt may Việt Nam của Chính phủ, Đề tài nghiên cứu cấp bộ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2004 5/ Tạp chí Công nghiệp số 14/2003; Tết Giáp Thân/2004; 4/2004; 23/2004 6/ Tạp chí Kinh tế & Dự báo các số 1/2004, 2/2004, 5/2004, 9/2004 7/ Tạp chí Kinh tế & Phát triển các số 2/2004; 6/200; 8/2004; 11/2004 8/ Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu các số 1/2004; 2/2004; 4/2004; 1/2005 8/ Tạp chí Những vấn đề Kinh tế Thế giới số 10/2003; 1/2004; 7/2004; 8/2004 9/ Tạp chí Phát triển kinh tế các số 2/2002; 10/2003; 2/2004; 5/2004; 1/2005 10/ Tạp chí Thời trang và Dệt may các số từ 1á12 năm 2003, từ 1á12 năm 2004 và 1á3 năm 2005 11/ Thời báo Kinh tế Việt Nam: Kinh tế Việt Nam và Thế giới 2003 - 2004 và 2004 - 2005 12/ Tổng cục thống kê, Niên giám Thống kê 2002 và 2003, NXB Thống kê 13/ Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch & Đầu tư, Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị - Quốc gia, 1999 14/ Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Chương trình phát triển liên hiệp quốc, Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải, 2003 15/ UNIDO và Viện chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Báo cáo về chiến lược công nghiệp trung dài hạn của Việt Nam 16/ Các trang Web: www.mpi.gov.vn www.mof.gov.vn www.vinatex.com 17/ Nguồn số liệu từ: Vụ Tổng hợp kinh tế quốc dân - Bộ Kế hoạch và Đầu tư Tổng công ty Dệt may Việt Nam - Vinatex mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0071.doc
Tài liệu liên quan