Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam

Tài liệu Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam: Lời mở đầu. Vốn là một điều kiện không thể thiếu được để một doanh nghiệp thành lập và tiến hành các hoạt động sản xuất và kinh doanh. Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các hình thức huy động vốn khác nhau. Trong mọi doanh nghiệp vốn đều bao gồm 2 bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ. Mỗi bộ phận này được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau tuỳ theo tinh chất của chúng. Mỗi doanh nghiệp sẽ tuỳ vào khả năng, điều kiện khách quan và chiến lược của m... Ebook Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam

doc19 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1506 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng huy động vốn trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình mà chọn một cơ cấu vốn cho thích hợp. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn của doanh nghiệp được đa dạng hoá nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, do thị trường tài chính chưa phát triển hoàn chỉnh nên việc khai thác vốn có những đặc trưng nhất định, hơi khác so với thị trường thế giới. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu các hình thức huy động vốn, và thực trạng huy động vốn hiện nay ở Việt Nam. Các hình thức huy động vốn. Trước hết chúng ta hãy cùng tìm hiểu về các hình thức huy động vốn. Có 6 hình thức huy động vốn, chia làm 2 nguồn là vốn chủ sở hữu và nợ. Trong vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban đầu, lợi nhuận không chia, và phát hành cổ phiếu. Trong nợ bao gồm vốn vay ngân hàng, tín dụng thương mại, và phát hành trái phiếu. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt đi tìm hiểu từng phương thức huy động vốn theo thứ tự từ nguồn được ưu tiên hơn trước. I/Vốn chủ sở hữu: Với mọi loại hình doanh nghiệp, vốn chủ sở hữu đều bao gồm 3 bộ phận chủ yếu: 1/Vốn góp ban đầu Đầu tiên chúng ta sẽ tìm hiểu về vốn góp ban đầu. Khi một doanh nghiệp thành lập, bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn nhất định do các cổ đông- chủ doanh nghiệp góp. Đối với doanh nghiệp nhà nước, vốn góp ban đầu chính là vốn đầu tư của nhà nước. Với các công ty cổ phần, thì vốn góp ban đầu do các cổ đông đóng góp. Ưu điểm của nguồn này là rất thuận tiện và dễ dàng trong việc huy động. Thêm vào đó là chi phí của nguồn này thấp, nên đây là nguồn được ưu tiên hàng đầu. Nhược điểm của nguồn này là quy mô vốn thường không lớn do bị giới hạn bởi tài sản của các chủ doanh nghiệp. Do đó thường trong doanh nghiệp, tỉ lệ vốn chủ sở hữu thường không chiếm tỉ trọng cao trong cơ cấu vốn. 2/Lợi nhuận không chia Nguồn vốn thứ hai là lợi nhuận không chia. Đây là nguồn vốn doanh nghiệp tích luỹ từ hiệu quả sản xuất kinh doanh, bằng cách lấy lợi nhuận thu được (một phần hay tất cả) đem đầu tư để tái sản xuất mở rộng. Tự tài trợ bằng lợi nhuận không chia-nguồn vốn nội bộ là một phương thức tạo nguồn tài chính quan trọng và khá hấp dẫn của doanh nghiệp, vì nó giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí cũng như sự phụ thuộc vào bên ngoài. Nó có ưu thế hơn vốn chủ sở hữu là quy mô vốn có thể tăng lên nhờ tăng doanh thu, lợi nhuận, nhờ đó giải quyết vấn đề nhu cầu vốn ngày càng tăng của doanh nghiệp. Tuy nhiên thì nguồn vốn từ lợi nhuận không chia chỉ có thể có khi doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, nghĩa là nếu trong giai đoạn doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì nguồn vốn này cũng sẽ không còn. Và suy cho cùng thì nguồn này cũng bị giới hạn bởi lợi nhuận kinh doanh. Mặt khác, nguồn vốn này cần có sự cho phép của các chủ doanh ngiệp mới có thể sử dụng, do nó làm giảm độ hấp dẫn của cổ phiếu trong ngắn hạn, vì lợi nhuận đem chia-cổ tức sẽ rất thấp do phần lớn sẽ được đem tái sản xuất mở rộng. Đổi lại, các cổ đông sẽ được sở hữu một số cổ phần lớn hơn với giá trị cao hơn. Khi giải quyết vấn đề cổ tức và tái đầu tư, chính sách phân phối cổ tức cần lưu ý đến một số yếu tố như: -Tổng số lợi nhuận trong kì. -Mức chia lãi trên một cổ phiếu các năm trước. -Sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và tính ổn định của thị giá cổ phiếu của công ty, tâm lý và đánh giá của công chúng về cổ phiếu đó. -Hiệu quả của việc tái đầu tư. 3/Phát hành cổ phiếu Phát hành cổ phiếu là nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu được phát hành phân ra làm hai loại là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu tiên. -Cổ phiếu thường là loại cổ phiếu thông dụng nhất, và là chứng khoán quan trọng nhất được trao đổi, mua bán trên thị trường chứng khoán. -Cổ phiếu ưu tiên là cổ phiếu có đặc điểm là thường có cổ tức cố định. Người sở hữu cổ phiếu ưu tiên có quyền được thanh toán lãi trước các cổ đông khác. Và trong trường hợp doanh nghiệp không đủ tiền trả cổ tức cho các cổ đông, thì những người nắm cổ phiếu ưu tiên sẽ có quyền được nhận cổ tức trước, còn lại bao nhiêu mới chia cho các cổ đông khác. Cổ phiếu ưu tiên thường chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong số cổ phiếu đựoc phát hành. Khi phát hành cổ phiếu, doanh nghiệp phải chú ý đến các yếu tố sau: -Giới hạn phát hành: là quy định ràng buộc có tính pháp lý, quy định số cổ phiếu mà doanh nghiệp được phat hành ra thị trường. -Tình hình cân đối vốn và khả năng đầu tư. -Tình hình biến động thị giá chứng khoán trên thị trường. -Chính sách đối với việc sáp nhập hoặc thôn tính công ty. -Tình hình trên thị trường chứng khoán và quy định của uỷ ban chứng khoán nhà nước. -Quyền hạn của cổ đông nắm giữ cổ phiếu Ưu điểm của nguồn này là có thể huy động được một khối lượng vốn rất lớn, gần như là không giớí hạn nếu doanh nghiệp đáp ứng tốt các điều kiện đòi hỏi của cổ đông. Nhược điểm của nó là phải mất một khoản chi phí phát hành, bao gồm cả tiền bạc lẫn thời gian. II/Nợ: Để bổ sung cho nguồn vốn kinh doanh, ngoài vốn chủ sở hữu, doanh nghiệp có thể sử dụng nợ từ 3 nguồn: 1/Vốn vay ngân hàng: Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ với sự phát triển của bản thân doanh nghiệp mà còn cả với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong đó có việc cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn ngân hàng. Về mặt thời gian, vốn vay ngân hàng phân làm 3 loại: vay dài hạn (từ 3 đến 5 năm trở lên), vay trung hạn (từ 1năm đến 3 năm), và vay ngắn hạn (dưới 1 năm). Các tiêu chuẩn này có thể thay đổi tuỳ theo quốc gia, và cũng có thể khác nhau giữa các ngân hàng thương mại. Tuỳ theo mục đích sử dụng tài sản, cũng có thể phân ra làm các loại như sau: cho vay đầu tư tài sản cố định, cho vay để đầu tư tài sản lưu động, cho vay để thực hiện dự án. Cũng có những cách phân chia khác như: cho vay theo ngành kinh tế, theo lĩnh vực phục vụ hoặc theo hình thức bảo đảm tiền vay. Ưu điểm của nguồn này là có khối lượng huy động khá lớn, đảm bảo có đủ vốn cho các dự án mở rộng sản xuất, hay đầu tư sản xuất vào chiều sâu của doanh nghiệp. Tuy vậy nguồn vốn này cũng có những hạn chế nhất định. Đó là các hạn chế về điều kiện tín dụng, kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn (lãi suất): -Điều kiện tín dụng: muốn vay vốn của ngân hàng, đầu tiên, doanh nghiêpj cần đáp ứng các yêu cầu về đảm bảo an toàn tín dụng của ngân hàng. Doanh nghiệp cần xuất trình hồ sơ vay vốn, đánh giá các thông tin liên quan đến dự án, hoặc kế hoạch đầu tư sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các bảo đảm tiền vay. Trong thực tế, một doanh nghiệp có thể phải hoàn tất nhiều thủ tục rườm rà mới có thể vay vốn của ngân hàng. Và thường thì giới hạn vốn vay không vượt quá khả năng tài chính của doanh nghiệp -Sự kiểm soát của ngân hàng: một khi doanh nghiệp vay vốn của ngân hàng, doanh nghiệp phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng về mục đích và tình hình sử dụng vốn vay. Nói chung sự kiểm soát không gây khó khăn cho doanh nghiệp, tuy nhiên trong một số trường hợp , điều đó cũng làm doanh nghiệp có cảm giác bị “kiểm soát”. -Lãi suất vốn vay: phản ánh chi phí mà doanh ngiệp phải chịu khi sử dụng vốn của ngân hàng. Nó phụ thuộc tình hình tín dụng trên thị trường trong từng thời kỳ. Nếu lãi suất quá cao thì doanh nghiệp sẽ phải chịu chi phí vốn lớn, làm giảm thu nhập của doanh nghiệp. 2/Tín dụng thương mại: Các doanh nghiệp cũng thường khai thác nguồn vốn tín dụng thương mại, hay còn gọi là vốn tín dụng của người cung cấp. Nguồn vốn này hình thành tự nhiên thông qua hoạt động mua bán chịu hàng hoá dịch vụ của doanh nghiệp. Khi mua bán chịu, doanh nghiệp sẽ có cơ hội sử dụng nguồn tiền mua chiu chưa trả ngay để đem đi đầu tư vào việc khác, có thể sinh ra nột khoản lãi khác. Các điều kiện ràng buộc cụ thể sẽ được các bên ấn định khi ký kết hợp đồng. Đối với doanh nghiệp, tài trợ bằng tín dụng thương mại là một nguồn rẻ tiền, dễ dàng, tiện dụng và linh hoạt, vì thông thường tín dụng thương mại không mất chi phí sử dụng vốn. Và trong một số trường hợp, bên mua còn được hưởng lãi chiết khấu tra sớm. Nó còn tạo khả năng mở rộng các quan hệ làm ăn lâu dài cho các bên. Tuy nhiên, tài trợ bằng tín dụng thương mại cũng có những hạn chế nhất định: quy mô thường hạn chế và thông thường là tín dụng ngắn hạn. Ở các nước ngoài như Mỹ, khi xuất hiện quan hệ tín dụng thương mại, người ta sẽ phát hành một loại hối phiếu, có thể tiêu dùng được như tiền. Trên đó có ghi giá trị của hợp đồng tín dụng thương mại, và thời gian bên mua phải thanh toán cho người chủ sở hữu của tờ hối phiếu đó. Ở Việt Nam thì hình thức này chưa có, mà quan hệ tín dụng thương mại vẫn chỉ tồn tại dưới dạng các hợp đồng vay nợ. 3/Phát hành trái phiếu công ty: Trái phiếu (còn được gọi là trái khoán) là tên chung của các giấy vay nợ dài hạn và trung hạn. Trái phiếu bao gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty. Trên các nước hiện nay thường lưu hành các loại trái phiếu công ty như sau: -Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại thường được sử dụng nhiều nhất, phổ biến nhất trong các loại trái phiếu doanh nghiệp. Đặc điểm của loại trái phiếu này là có lãi suất ghi trên mặt phiếu và không thay đổi trong suốt kỳ hạn của trái phiếu. Đồng thời việc thanh toán lãi phiếu cũng được ghi rõ trên trái phiếu, ví dụ trả 2 lần trong một năm. -Trái phiếu có lãi suất thay đổi: là loại trái phiếu có lãi suất phụ thuộc vào một số nguồn lãi suất quan trọng khác, ví dụ lãi suất LIBOR (London Interbank Offered Rate), hay lãi suất cơ bản Pr (Prime Rate). Loại trái phiếu này phát huy tính ưu việt của nó trong điều kiện thị trường có mức lạm phát cao, và lãi suất không ổn định. Tuy nhiên thì nó cũng có một vài nhược điểm: doanh nghiệp không thể biết chắc chắn về chi phí lãi vay, gây khó khăn một phần cho việc lập kế hoạch tài chính. Đồng thời việc quản lý trái phiếu đòi hỏi nhiều thời gian hơn do doanh nghiệp phải thông báo các lần điều chỉnh lãi suất. -Trái phiếu có thể thu hồi: một số doanh nghiệp chọn cách phát hành những trái phiếu có thể thu hồi được, tức là doanh nghiệp có thể mua lại vào một thời gian nào đó. Khi phát hành doanh nghiệp phải thông báo rõ thời gian và giá cả khi doanh nghiệp chuộc lại những trái phiếu đó. Ưu điểm của loại trái phiếu này là có thể sử dụng như một cách điều chỉnh lượng vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Khi không cần thiết, doanh nghiệp có thể mua lại trái phiếu, tức giảm số vốn vay. Và doanh nghiệp có thể thay đổi nguồn tài chính do phát hành trái phiếu loại này bằng một nguồn tài chính khác thông qua mua lại các trái phiếu đó. Tuy nhiên nó lại có nhược điểm là nếu không có điều kiện gì hấp dẫn thì nó sẽ không đựoc ưa thích. -Chứng khoán có thể chuyển đổi: bao gồm 2 loại là giấy bảo đảm (warrant) và trái phiếu chuyển đổi (convertible bond). Với giấy bảo đảm người sở hữu có thể mua một số lượng cổ phiếu thường được quy định trước với giá cả va thời gian xác định. Còn trái phiếu chuyển đổi là loại trái phiếu cho phép có thể chuyển đổi thành một số cổ phiếu thường. Nếu thị giá cổ phiếu tăng thì người tiêu dùng có cơ may nhận được lợi nhuận cao. Nói chung là sự chuyển đổi và lựa chọn cho phép các bên có thể lựa chọn cách thức đầu tư có lợi và thích hợp. II .Thực trạng tình hình huy động vốn ở Việt Nam hiện nay Ở Việt Nam hiện nay, tình hình huy động vốn đã có nhiều biến chuyển cả tích cực lẫn tiêu cực. I/Thực trạng: Những năm gần đây, tình hình huy động vốn ở Việt Nam đã có rất nhiều thay đổi tích cực, đặc biệt là từ sau khi Việt Nam chính thức mở cửa thị trường chứng khoán. Việc thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động, đã mở ra một cơ hội lớn cho các doanh nghiệp có thể huy động nguồn tiền tiết kiệm chưa được sử dụng trong các tài khoản tiết kiệm của người dân. Lần lượt các doanh nghiệp lớn ở nước ta đều đã niêm yết cổ phiếu của mình trên sàn chứng khoán. Năm 2007, Việt Nam được đánh giá là con rồng kinh tế mới với bước tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua (8,5%), trở thành một trong những nền kinh tế năng động và hứa hẹn nhất châu Á. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như cơn sốt giá dầu, thiên tai, dịch bệnh nhưng thị trường tài chính Việt Nam tiếp tục có bước phát triển mạnh với tổng giá trị vốn hóa cổ phiếu đạt xấp xỉ 40% GDP, dư nợ thị trường trái phiếu đạt 17% GDP. Năm 2007 cũng là năm đánh dấu sự gia tăng luồng vốn đầu tư nước ngoài với nguồn vốn cam kết FDI trên 20 tỷ USD. Điều đó thể hiện sự tin tưởng của nhà đầu tư với sự phát triển của nền kinh tế cùng với quyết tâm cải cách tổng thể của Việt Nam về kinh tế, xã hội và hành chính khi trở thành thành viên chính thức của WTO. Cũng trong năm 2007, Chính phủ quyết tâm cải cách doanh nghiệp khu vực nhà nước khi công bố lộ trình cổ phần hóa đến năm 2010 của các doanh nghiệp lớn hoạt động trong các lĩnh vực được coi là nhạy cảm như bảo hiểm, ngân hàng, viễn thông và điện lực. Triển vọng tăng trưởng kinh tế cao và nền kinh tế vĩ mô ổn định trong năm 2008 và những năm tiếp theo sẽ là những điều kiện quan trọng giúp cho thị trường vốn phát triển mạnh. Tuy nhiên, sự phát triển quá nóng của thị trường chứng khoán trong nước ko phải dấu hiệu tốt. Các chuyên gia trong ngành chứng khoán cho rằng, khác với 2 năm trước, khi thị trường chứng khoán mới ở giai đoạn đầu của sự bùng nổ, thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, việc phát hành tăng vốn của doanh nghiệp khá dễ dàng, năm 2008 này sẽ là năm khó khăn cho doanh nghiệp trong việc huy động vốn. Hiện các nhà đầu tư chứng khoán chọn lựa rất kỹ càng để tìm nơi bỏ vốn hiệu quả, thay vì ồ ạt mua vào như trước. Việc này sẽ đem lại hiệu quả cao cho nhà đầu tư trong mua bán chứng khoán, nhưng nó sẽ làm khó cho doanh nghiệp trong huy động vốn nếu chưa khẳng định được thương hiệu trên thị trường. Một cán bộ cấp cao của Quỹ đầu tư Dragon Capital cho rằng, nếu năm 2007 thuận lợi cho các doanh nghiệp là huy động vốn và khó khăn là làm sao để đầu tư hiệu quả thì năm 2008, tình hình sẽ xoay chuyển ngược lại. Thực tế, trong năm qua, nhất là thời điểm đầu năm và trước đó là cuối của năm 2006, khi một doanh nghiệp phát hành cổ phiếu, kể cả phát hành trên thị trường OTC thì dù doanh nghiệp đó có quy mô nhỏ, hoạt động chưa mấy hiệu quả cũng thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Tại thời điểm đó, cổ phiếu luôn được nhà đầu tư săn lùng và sẵn sàng mua với một mức giá tương đối cao. Trong ngành tài chính, những cái tên không mấy quen thuộc ở thời điểm đó như: KienLong Bank, Navibank, DaiA Bank… cũng được vô số nhà đầu tư săn lùng cổ phiếu. Đặc biệt là giai đoạn hoàng kim (giữa năm 2006 đến hết quý I/2007), cổ phiếu của những nhà băng trên luôn trong tình trạng khan hàng, giá được đẩy lên ở mức khá cao. Không chỉ với ngành ngân hàng, mà hầu hết doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác cũng thuận lợi trong việc huy động vốn trong khoảng thời gian trên. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp chưa kịp xây dựng kế hoạch đầu tư, nhưng vốn huy động về khá dồi dào thông qua phát hành cổ phiếu đành phải nhờ ngân hàng giữ hộ khiến vốn khả dụng của nhiều nhà băng ở giai đoạn trên luôn trong tình trạng dư thừa. Có thể nói, chưa bao giờ các doanh nghiệp huy động vốn qua thị trường chứng khoán lại dễ dàng như giai đoạn giữa năm 2006 đến hết quý I/2007. Thế nhưng, tình trạng trên đã đổi chiều, các cuộc đấu giá ế ẩm và phải liên tục hoãn, vì tình hình thị trường không mấy thuận lợi. Nhà đầu tư không còn mặn mà với các cuộc đấu giá, thay vì chen lấn như trước đây. Đến cả IPO của một ngân hàng lớn như Vietcombank hay doanh nghiệp được xem là hoạt động đầy tiềm năng như Sabeco cũng gặp phải khó khăn. Giá đấu thành công bình quân cổ phiếu Vietcombank không cao hơn là bao so với giá khởi điểm. Thậm chí, sau đó ngân hàng này còn phải đối mặt với nguy cơ bỏ cọc của nhà đầu tư, vì giá cổ phiếu Vietcombank rao bán trên thị trường OTC thấp hơn giá trúng bình quân. Còn với IPO của Sabeco, chỉ hơn một nửa số lượng cổ phần đem ra đấu giá được nhà đầu tư đăng ký mua. Do đó, giá đấu thành công bình quân cổ phiếu Sabeco trong phiên đấu giá ngày 28/1 chỉ đạt 70.003 đồng/cổ phần, cao hơn giá khởi điểm có 3 đồng/cổ phần; trong khi trước đó, quyền mua cổ phần Sabeco của CBCNV được nhiều nhà đầu tư săn lùng. Bước vào năm 2008, tình hình kinh tế - xã hội nước ta tiếp tục có một số mặt thuận lợi. Tình hình chính trị - xã hội ổn định; hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách ngày càng được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển, hội nhập; sau một năm gia nhập WTO, nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta tăng mạnh, kinh tế đang trên đà tăng trưởng với tốc độ cao. Thị trường vốn Việt Nam hiện đang được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao, và coi đây là một trong những thị trường rất có tiềm năng để đầu tư. Còn theo ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại Châu Âu tại Việt Nam, trong thời gian sắp tới các luồng vốn đầu tư vẫn sẽ vào Việt Nam. Sự hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam là do có tới 25% số doanh nghiệp nhà nước, là các doanh nghiệp tập đoàn lớn chưa cổ phần hoá. Bên cạnh đó hàng loạt doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam đang rất cần vốn để mở rộng qui mô phát triển, đồng thời thực hiện các chiến lược sản xuất kinh doanh… Ông Alain Cany, Chủ tịch Phòng Thương mại Châu Âu ở Việt Nam nói: “Việt Nam là một trong 5 thị trường hàng đầu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Không có nhiều nước trên thế giới có sự ổn định chính trị, có tốc độ tăng trưởng cao, có dân số trẻ…như Việt Nam”. Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO cũng là một trong những sự kiện quan trọng đối với thị trường vốn Việt Nam. Một mặt nó sẽ giúp thu hút khối lượng lớn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Chưa bao giờ các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội huy động vốn để thực hiện các chương trình đầu tư và phát triển như lúc này. Trở thành thành viên đầy đủ của WTO vào tháng 1/2007 là một trong những yếu tố khuyến khích Việt Nam nhận được luồng vốn chảy vào lớn từ các nhà đầu tư nước ngoài lên đến hơn 20 tỉ USD. Những công ty niêm yết mới trên thị trường đã thúc đẩy quá trình cổ phần hoá đi nhanh hơn. Một số công ty nhà nước lớn đã được cổ phần hóa xong làm cho thị trường mở rộng không chỉ về lượng mà cả về chất. Thêm vào đó là lượng vốn ODA được nước ngoài tài trợ cho Việt Nam ngày càng lớn, là nguồn vốn ngoại tệ cực kì quan trọng với sự phát triển của Việt Nam. Thị trường vốn đã trở thành kênh quan trọng để huy động vốn cho phát triển kinh tế. Tuy vậy, việc đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thời điểm này không hoàn toàn chỉ có thuận lợi như thế, mà nó bao gồm cả những thách thức. Một số công ty tài chính đã tham gia vào thị trường vốn Việt Nam, thị trường nhỏ nhưng nhiều đối tượng tham gia nên có khả năng dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng. Một số công ty lớn sẽ thống trị thị trường. Điểm tốt là môi trường sẽ cạnh tranh hơn. Nếu công ty nào có thể tồn tại được, phát triển được công ty đó sẽ lớn mạnh lên. Thị trường trái phiếu Việt Nam có quy mô manh mún, nhân lực yếu. Những hạn chế của thị trường Việt Nam hiện nay là: Thứ nhất, quy mô thị trường còn nhỏ bé và tính thanh khoản yếu. Ở các nước khác, trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp có vai trò khác nhau. Nhưng ở Việt Nam, sự khác biệt về vai trò này còn chưa rõ ràng, cả trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp đều mang tính manh mún, tôi hy vọng là vấn đề này sẽ được giải quyết thời gian ngắn. Cũng cần phải chú ý đến sự phân đoạn quá nhiều trong thị trường trái phiếu, dẫn đến sự mạnh mún về quy mô bởi vì dòng chảy luồng vốn sẽ tốt hơn, nếu thị trường Việt Nam có quy mô lớn hơn. Rào cản thứ hai là hệ thống thang chuẩn để đánh giá và định mức tín nhiệm ở Việt Nam còn rất mới mẻ. Vì thế, việc Chính phủ đưa ra những chuẩn mực của thị trường cũng có tác dụng to lớn và việc thực thi luật pháp của Chính phủ cũng rất quan trọng đối với việc phát triển thị trường. Một hạn chế nữa là nguồn nhân lực có kỹ năng cho thị trường cũng rất yếu kém. Vấn đề gặp phải trong quá trình phát triển thị trường vốn và tài chính ở Việt Nam đều được nhìn nhận rõ là khâu nhân lực. Giải quyết vấn đề này đòi hỏi mất rất nhiều thời gian và công sức. Trong năm 2007, mức lạm phát của nước ta đã vọt lên mức 2 con số. Và chỉ trong quý 1 đầu năm 2008 này, mức lạm phát cũng đã đạt trên 10%. Việc lạm phát tăng cao đã khiến cho lãi suất tiền vay ở ngân hàng tăng lên trên 10%, gây ra rào cản rất lớn cho các doanh nghiệp khi muốn vay vốn ngân hàng để đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Theo nguyên tắc, ngân hàng chỉ cho vay tối đa 70% tổng vốn đầu tư. Vì vậy, chủ đầu tư phải giải trình và chứng minh được 30% còn lại là vốn tự có. Một dự án quy mô nhỏ có tổng đầu tư khoảng 10 tỷ đồng, chủ đầu tư phải chứng minh là đã có 3 tỷ đồng. Không ít chủ đầu tư đành chào thua! Doanh nghiệp phải nộp trong hồ sơ vay vốn Báo cáo tài chính của ít nhất là hai năm gần nhất. Để tránh thuế thu nhập doanh nghiệp, kết quả kinh doanh trong báo cáo tài chính thường “được để” rất thấp, thậm chí có trường hợp bị lỗ  đến hết cả vốn điều lệ. Căn cứ vào báo cáo tài chính đã lập thì ngân hàng không dám cho vay vì hiệu quả kinh doanh... quá thấp. Quả là “gậy ông lại đập lưng ông”.Hồ sơ của dự án nào may mắn vượt qua được tất cả những vướng mắc trên thì cái khó lớn nhất xuất hiện: tài sản thế chấp cho khoản vay. Để vay được 7 tỷ đồng phải có một lượng giá trị tài sản thế chấp 10 tỷ đồng. “Cửa ải” này mới thực là khó vượt. Sau tài sản thế chấp là lãi suất tiền vay. Ngân hàng thương mại là đơn vị kinh doanh tiền tệ. Vì vậy, lãi suất tiền vay mà ngân hàng thu được phải lớn hơn lãi suất tiền gửi mà ngân hàng phải chi ra. Những điều kiện như vậy, cộng với mức lãi suất quá cao như hiện nay đã khiến không ít doanh nghiệp phải “bỏ cuộc giữa chừng trên hành trình đi vay vốn”. Mặt khác thì điều này cũng khiến cho người dân tăng tỉ lệ tiết kiệm thay vì đầu tư vào các dự án, làm cho lượng vốn đầu tư giảm. Có thể nói đây đang là thời kì khó khăn của thị trường vốn Việt Nam. II/ Đề suất giải pháp tháo gỡ khó khăn: Với một quốc gia đang trên đà phát triển mạnh như Việt Nam thì vấn đề thu hút nguồn vốn đầu tư là vô cùng quan trọng. Thảo luận về các biện pháp để nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế, ông Brad Levitt, Trưởng Ban thị trường vốn toàn cầu của Ngân hàng Standard Chartered, cho rằng, trước hết, Việt Nam cần phải tháo gỡ các vướng mắc liên quan đến quy chế. Bởi hầu hết các lĩnh vực “đầu tư có điều kiện” chưa có văn bản quy định các điều kiện cụ thể làm căn cứ cho công tác thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đầu tư. Điều này đang gây lúng túng cho cơ quan quản lý đầu tư ở các địa phương cũng như nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định đầu tư. Theo quyền Giám đốc Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam Martin Rama, hiện nay, luật pháp, chính sách của Việt Nam liên quan đến một số vấn đề như đầu tư gián tiếp, thủ tục mở chi nhánh... chưa được hướng dẫn đầy đủ, hoặc chưa được sửa đổi phù hợp cũng đang làm giảm tiến độ tiếp nhận, triển khai dự án. Đó là chưa kể những yếu kém “tiềm tàng” đã được cảnh báo nhiều, nhưng kết quả khắc phục còn chậm, như yếu kém về cơ sở hạ tầng, chất lượng nguồn nhân lực... Ông Martin Rama đề xuất, Việt Nam nên có các cơ quan trung gian tài chính, hướng dẫn trình tự thủ tục đầu tư để các doanh nghiệp được thuận lợi hơn khi bỏ vốn vào đầu tư tại Việt Nam. Giám đốc Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định, Việt Nam đang trong quá trình diễn ra sự thay đổi lớn về kinh tế, kèm theo sự chuyển biến về văn hoá - xã hội. Phân tích của ADB cho thấy, tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư bám theo sự tăng trưởng của nền kinh tế. Nếu duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao như các năm qua, tốc độ tăng trưởng đầu tư của Việt Nam sẽ đạt 30 - 40%, chỉ sau Trung Quốc. Tuy nhiên, để thị trường vốn và tài chính Việt Nam năm 2008 tiếp tục phát triển mạnh mẽ, ông Ayumi Konishi cho rằng, Việt Nam cần phải đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế hơn nữa. Chính phủ Việt Nam cũng ủng hộ mạnh mẽ việc xây dựng thị trường trái phiếu công ty. Nhiều ngân hàng đang được chuẩn bị để hỗ trợ việc xây dựng kênh dẫn vốn như Standard Chartered và BNP Paribas. Thị trường trái phiếu công ty đang rộng đường để phát triển. Thị trường đã đủ chín muồi, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính Việt Nam đã đủ lớn để Chính phủ mở cửa thị trường dịch vụ tài chính sớm hơn lộ trình. Hơn thế nữa, nếu quyết định mở cửa thị trường sớm hơn lộ trình, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn hơn và trở thành “điểm đến” của nhà đầu tư nước ngoài. Chính phủ cần có các biện pháp cải cách để làm thông thoáng hành lang pháp lí cho các doanh nghiệp có cơ hội vay vốn để sản xuất kinh doanh. Đi kèm với đó, cần phải đào tạo chuyên môn nghiệp vụ trong việc quản lý nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý theo luật chứng khoán, phát triển các định chế trung gian, nghiệp vụ thị trường và phát triển thị trường giao dịch theo lộ trình đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt nhằm phát triển nhanh, đồng bộ, vững chắc thị trường vốn, phấn đấu giá trị vốn hóa đến năm 2010 đạt 50% GDP và 70% GDP vào năm 2020. Vấn đề đặt ra trước mắt với nước ta trong năm 2008 này là kiềm chế mức độ lạm phát để bình ổn thị trường vốn trong nước. Nhà nước đã áp dụng nhiều biện pháp để bình ổn giá tiêu dùng. Công tác quản lý hoạt động mua bán xăng dầu phải hiệu quả hơn, Chính phủ có Quỹ dự phòng đủ mạnh để đủ sức kiềm chế giá xăng dầu trong khoảng thời gian nhất định theo yêu cầu tình hình. Không để xảy ra tăng giá đồng loạt và rộng khắp trên tất cả các mặt hàng. Làm tốt hơn công tác dự báo về nguồn vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam, tăng trưởng tín dụng. Thắt chặt tiền tệ, siết chặt các loại hình cho vay, nhất là những lĩnh vực tiềm ẩn các nguy cơ gây ra lạm phát như vay chứng khoán. Các công trình đầu tư xây dựng dàn trải, kém hiệu quả cần được xem xét có phương án xử lý để tiết kiệm tiền của nhà nước. Tiếp tục chống tham nhũng mạnh mẽ và minh bạch hoá nền hành chính công để giảm chi phí đầu tư vì tỷ lệ đầu tư/ lợi nhuận của Việt Nam vẫn đang ở mức cao hàng đầu thế giới. Trong các giải pháp được cân nhắc còn có cả giải pháp hi sinh tăng trưởng để kiềm chế lạm phát. Lời kết Tình hình huy động vốn ở Việt Nam hiện nay đang từng bước có những bước tiến đáng kể. Mặc dù còn nhiều điểm cần sửa đổi, nhưng nói chung, tình hình tài chính ở Việt Nam đã dần đi vào ổn định, tạo môi trường thuận lợi cho nền kinh tế nước ta phát triển. Đặc biệt là viêc Việt Nam tham gia sân chơi quốc tế sẽ giúp chúng ta học tập kinh nghiệm quản lý thị trường vốn mọt cách ngày càng có hiệu quả. Tuy nhiên tất cả sẽ là vô nghĩa nếu chúng ta chỉ trông chờ vào bên ngoài mà không có các biện pháp đúng đắn. Hội nhập là cơ hội nhưng cũng đem đến thách thức. Nếu không chủ động, thậm chi chúng ta còn có thể đánh mất cơ hội và nguy cơ tụt lại phía sau là khó có thể tránh khỏi. Muốn đạt được thành công, thì chúng ta cần thực hiện các chính sách cải cách phù hợp, nhằm nâng cao năng lực quản lí, đặc biệt là tỏng lĩnh vực tài chính, tín dụng, cũng như có các chính sách khuyến khích đầu tư có hiệu quả, giúp nền kinh tế tăng trưởng một cách vững chắc. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11273.doc