Thực trạng quản lý dự án tại Ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN KHOA ĐẦU TƯ --@&?--- CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP (Bản thảo lần 1) Đề tài: Thực trạng QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Họ và tên sinh viên: Nguyễn Khánh Nam Giảng viên hướng dẫn: Th.s Phan Thu Hiền Mục lục Các từ viết tắt BQLDA Ban quản lý dự án BQL Ban quản lý NN&PTNT Nông Nghiệp và phát triển nông thôn GTZ cơ quan hợp tác kỹ thuật Đức (Deutsche Gesellschaft fỹr Technische Zusammenarbeit) CPMU Ban quản lý dự án trung ương PPMU

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1402 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Thực trạng quản lý dự án tại Ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ban quản lý dự án tỉnh BQLDA chè-quả Ban quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả CPO Ban quản lý các dự án Ngoài ra, trong bài viết này, các cụm từ “BQLDA phát triển chè và cây ăn quả, “BQLDA chè-quả”, “BQLDA trung ương”, “Văn phòng dự án” đều có nghĩa tương đương fjf Chương 1: Thực trạng QLDA tại BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Giới thiệu chung về BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Sơ lược về cơ quan chủ quản Hiện nay, hầu hết các dự án nông nghiệp có quy mô nhỏ, lượng vốn thấp được Bộ NN&PTNT giao về cho các đơn vị nghiên cứu và quản lý nhà nước thực hiện như các Viện thuộc Bộ và các Vụ Cục chức năng... Các dự án ODA có quy mô lớn và lượng vốn nhiều thường được giao về BQL các dự án (CPO). Chức năng nhiệm vụ của các CPO có thể được tóm tắt như sau: (i)Chuẩn bị và tiếp nhận các dự án ODA (ii)Tổ chức nhân sự để thực hiện các dự án ODA được giao (iii)Quản lý và giám sát các Ban quản lý dự án Trung ương (CPMU – Central Project Management Unit, nhưng gần đây đã đổi tên thành CMU – Component Management Unit) thực hiện tốt dự án (iv)Tham gia tháo gỡ các khó khăn vướng mắc của các dự án. Hiện nay, Bộ NN&PTNT có 3 CPO trực thuộc Bộ là CPO Nông nghiệp, CPO Thuỷ lợi và CPO Lâm nghiệp. Ứng với mỗi dự án thì CPO sẽ thành lập 1 ban chỉ đạo dự án (SC – Steering Comittee), 1 BQLDA trung ương chuyên trách và các BQLDA tỉnh. CPO Thuỷ lợi và CPO Lâm nghiệp được thành lập từ trước khi Bộ Nông nghiệp-Bộ Thuỷ lợi-Bộ Lâm nghiệp hợp nhất thành Bộ NN&PTNT. Sau khi hợp nhất 3 Bộ, 2 ban CPO này vẫn giữ nguyên chức năng như hồi ở các Bộ cũ và được Bộ NN&PTNT giao thêm các dự án ODA trong phạm vi ngành mình để thực hiện còn CPO Nông nghiệp được thành lập theo Quyết định 100/BNN/TCCB/QĐ ngày 3/7/1999 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Chức năng và nhiệm vụ của CPO Nông nghiệp được quy định trong Quyết định số 132/1999/QĐ/BNN-HTQT ngày 22/9/1999 và Quyết định Số: 3241/QĐ-BNN-TCCB ngày 22 tháng 10 năm 2008 theo đó “Ban quản lý các dự án Nông nghiệp trực thuộc Bộ NN&PTNT, được Bộ trưởng giao làm chủ các chương trình, dự án ODA (chủ đầu tư đối với chương trình, dự án đầu tư; chủ dự án đối với chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật – sau đây gọi chung là chủ dự án) trực tiếp quản lý, sử dụng nguồn vốn ODA, nguồn vốn đối ứng và nguồn vốn khác (nếu có) để quản lý, điều hành thực hiện chương trình, dự án hỗ trợ kỹ thuật và chương trình, dự án đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản và phát triển nông thôn.” BQLDA phát triển chè và cây ăn quả là đơn vị trực thuộc của CPO nông nghiệp. Cơ cấu cụ thể được thể hiện trong sơ đồ dưới đây: Sơ đồ 1: Vị trí của BQLDA chè-quả trong Bộ NN&PTNT Bộ NN&PTNT CPO lâm nghiệp CPO nông nghiệp CPO thủy lợi BQLDA chè-quả BQLDA X BQLDA Y BQLDA Z Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Quá trình hình thành và phát triển của BQLDA chè-quả Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc phát triển chè và cây ăn quả, nhất là vùng trung du và miền núi. Do đó Bộ NN&PTNT đã xác định ưu tiên cho 2 ngành này trong kế hoạch phát triển nông nghiệp 2000-2010. Ngày 23/7/2001, thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt dự án “phát triển sản xuất chè và cây ăn quả” tại quyết định số 873 QĐ/TTg. Ngày 1/10/2001, Hiệp định dự án được ký kết giữa Việt Nam và Ngân Hàng Phát Triển Châu Á (ADB), theo đó Việt Nam sẽ nhận được khoản vay VIE 1781 (SF) trị giá 31,157 triệu SDR, có hiệu lực từ ngày 14/11/2001. Để quản lý tốt việc thực hiện dự án, tại quyết định số 2895/QĐ/BNN/TCCB ngày 28/6/2001 của Bộ trưởng Bộ NNPTNT đã thành lập BQLDA chè-quả (tên chính thức là “Ban Quản lý dự án Trung ương Dự án Phát triển chè và cây ăn quả” hay còn gọi là Ban Quản lý Dự án Trung ương hay Văn phòng dự án, tên giao dịch tiếng Anh là Central Project Office-CPO) trực thuộc Ban Quản lý các Dự án nông nghiệp. BQLDA chè-quả được thành lập và chuyên trách quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả từ khi bắt đầu dự án đến khi kết thúc phần kỹ thuật (tháng 12 – 2007) sau đó BQL tiếp tục thực hiện một số phần việc như đánh giá dự án, thanh quyết toán vốn của dự án chè-quả. Công việc đánh giá dự án kết thúc vào tháng 12/2008. Trong thời gian đó, BQL đồng thời đảm nhận nhiệm vụ quản lý dự án “thúc đẩy sản xuất khoai tây” (tháng 2 – 2008). Dự án này được bắt đầu từ tháng 2 – 2008 và dự kiến sẽ kéo dài trong 2 năm với nguồn vốn ODA viện trợ không hoàn lại của chính phủ Cộng Hòa Liên Bang Đức. Đại diện của chính phủ Đức là cơ quan hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ – Deutsche Gesellschaft fỹr Technische Zusammenarbeit). Do đó, trong bài viết này, các cụm từ “BQLDA chè-quả”, “BQLDA trung ương”, CPMU, văn phòng dự án đều có nghĩa tương đương. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của BQLDA chè-quả Cơ cấu tổ chức Ban Quản lý dự án Trung ương (hoặc Văn phòng Dự án) có 1 Giám đốc, Phó Giám đốc, kế toán dự án và các cán bộ nhân viên dự án. Hiện nay, đội ngũ nhân sự gồm 16 người làm việc thường xuyên cùng với các chuyên gia, tư vấn, kỹ thuật viên, chuyên viên đánh giá được thuê theo từng dự án. Các nhân viên làm việc tạm thời sẽ được tuyển dụng theo từng công việc cụ thể khi có nhu cầu. Ngoài ra còn có các chuyên gia hỗ trợ đến từ tổ chức tài trợ vốn. BQL gồm có 3 phòng chức năng: Phòng kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá; Phòng kế hoạch tổng hợp; Phòng tài vụ-hành chính tổng hợp. BQLDA phát triển chè và cây ăn quả Bộ phận kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá Bộ phận kế hoạch tổng hợp Bộ phận tài vụ, hành chính Giám đốc, phó giám đốc Sơ đồ 1:Cơ cấu tổ chức của BQLDA chè-quả Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án chè-quả Chức năng, nhiệm vụ Chức năng, nhiệm vụ chung của BQL BQLDA chè-quả có chức năng quản lý chung và chịu trách nhiệm chung cho toàn dự án, hướng dẫn cho các BQLDA tỉnh, trực tiếp điều phối và liên hệ công tác với các nhà tài trợ, Bộ chủ quản và các Bộ, Ngành liên quan về phạm vi thực hiện và triển khai dự án. BQL chịu trách nhiệm và thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, đào tạo và đôn đốc các BQLDA tỉnh triển khai dự án, đảm bảo đúng quy định của hiệp định vay vốn và các quy định của nhà tài trợ và của Việt Nam,triển khai dự án đảm bảo tiến độ và kế hoạch đề ra; điều phối chung và giám sát thực hiện dự án; quản lý tài chính và điều chuyển vốn phi tín dụng cho các đơn vị liên quan; xem xét và phê duyệt kế hoạch đấu thầu; chuẩn bị các tiểu dự án. Định kỳ, BQL lập các báo cáo về tiến độ, chi phí, chất lượng từ đó làm cơ sở giải ngân vốn từ Bộ tài chính và tổ chức tài trợ. Đối với dự án chè-quả, BQL có nhiệm vụ quản lý hợp phần phi tín dụng và tổng hợp các kế hoạch của các đơn vị tài chính tham gia dự án (PFIs); tổng hợp báo cáo tiến độ của các tỉnh và PFIs để trình cho đơn vị tài trợ; xúc tiến và điều phối các hoạt động dự án có sự tham vấn với Viện nghiên cứu chè, Viện Nghiên cứu rau quả Miền Bắc, Viện nghiên cứu rau quả Miền nam và Phân Viện Cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch; ký hợp đồng với các Viện nghiên cứu để chuẩn bị các gói kỹ thuật; và tuyển chọn tư vấn. Nhiệm vụ cụ thể được quy định trong Quyết định số: 103/2001/QĐ-BNN: Ban Quản lý dự án Trung ương là cơ quan thường trực của Dự án Phát triển chè và cây ăn quả, là đầu mối giao dịch với các tổ chức trong và ngoài nước. Nhiệm vụ của BQLDA chè-quả là: “a/ Giúp Ban chỉ đạo dự án tổ chức, triển khai thực hiện các mục tiêu và các hoạt động của dự án và các cơ quan tham gia thực hiện. b/ Xây dựng, qui chế tổ chức thực hiện dự án, định mức kinh tế kỹ thuật và định mức chi tiêu cho dự án, đề nghị Trưởng ban chỉ đạo xem xét và trình Bộ ban hành. c/ Căn cứ vào nội dung ghi trong Hiệp định, lập kế hoạch hoạt động, tổng dự toán hàng năm của dự án bao gồm cả vốn ADB và vốn đối ứng gửi Trưởng ban chỉ đạo xem xét và trình Bộ duyệt, tổ chức triển khai các hoạt động của dự án sau khi kế hoạch đã được phê duyệt. d/ Tiếp nhận tiền vốn của dự án và phân bổ sử dụng theo kế hoạch được duyệt. đ/ Tuyển chọn cán bộ nhân viên của dự án theo phân cấp và trình Bộ ra quyết định. e/Tổ chức các lớp đào tạo, tập huấn đội ngũ cán bộ, kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp vụ tham gia dự án. g/ Chuẩn bị hồ sơ mời thầu, thực hiện đấu thầu tuyển chọn chuyên gia quốc tế và trong nước, tổ chức đấu thầu xây dựng và mua sắm vật tư, thiết bị thuộc dự án theo qui chế hiện hành của Nhà nước và Quy định của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB). h/ Thực hiện các hoạt động theo kế hoạch đã được phê duyệt và tổng hợp báo cáo định kỳ về tiến độ và kết quả thực hiện dự án gửi Trưởng ban chỉ đạo xem xét, trình Bộ và đối tác nước ngoài theo qui định. i/ Tổ chức việc kiểm toán, quyết toán hàng năm và quyết toán khi kết thúc dự án” Đối với dự án phát triển sản xuất khoai tây, BQL có trách nhiệm phối hợp với các chuyên gia giám sát, đánh giá của tổ chức tài trợ, giám sát dự án, trực tiếp quản lý và điều hành dự án theo đúng mục tiêu và cam kết với phía Đức. Chức năng, nhiệm vụ của các phòng ban (*) Giám đốc BQL có nhiệm vụ theo dõi chung về hoạt động của dự án; các báo cáo của các bộ phận chức năng; phê duyệt công văn... Giám đốc dự án là người chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban chỉ đạo dự án về mọi hoạt động của dự án. Ngoài ra, hàng quý và hàng năm, Giám đốc dự án phải thực hiện báo cáo quyết toán tài chính với Ban Chỉ đạo dự án, các Vụ chức năng và các Bộ hữu quan theo biểu mẫu quy định (*) Bộ phận hành chính có chức năng: - Thực hiện công tác tổ chức cán bộ (đánh giá,đề bạt,bổ,miễn nhiệm,nâng lương...) - Xây dựng đơn giá tiền lương,các nội quy,quy định,quy chế... - Giải quyết các chế độ chính sách cho người lao động. - Quản lý nhân sự(tuyển dụng,điều động,luân chuyển...) - Các công tác khác theo sự phân công của lãnh đạo. (*) Bộ phận tài vụ có chức năng: - Quản lý,điều hành toàn bộ hoạt động tài chính kế toán. - Lập báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán của nhà nước. - Lập dự toán nguồn vốn, phân bổ,kiểm soát vốn cho toàn bộ hoạt động của dự án - Dự báo các số liệu tài chính, phân tích thông tin, số liệu tài chính kế toán. - Các công tác khác theo sự phân công của lãnh đạo Công ty (*) Bộ phận kế hoạch tổng hợp có chức năng: - Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch dài hạn và kế hoạch hàng năm - Tổng hợp và thống kê: Thu thập và lưu giữ các báo cáo, số liệu, văn bản về hoạt động cảu dự án từ đó lập báo cáo hàng tháng-quý-năm; tham mưu cho giám đốc về tiến độ, mức độ thực hiện dự án đồng thời cũng là cơ sở để thanh quyết toán vốn với bộ tài chính và tổ chức tài trợ. - Tổ chức điều tra, thống kê theo yêu cầu của giám đốc hoặc của tổ chức tài trợ. (*) Bộ phận kỹ thuật-kiểm soát-đánh giá có chức năng: - Tư vấn cho các đơn vị thực hiện về các tiêu chuẩn, định mức, yêu cầu kỹ thuật của công việc. - Giám sát chất lượng, chi phí, tiến độ của từng hợp phần. - Tố chức các khóa tập huấn kỹ thuật, đào tạo tại nước ngoài cho các cán bộ kỹ thuật. Thực trạng QLDA tại BQLDA chè-quả Quản lý hoạt động đầu tư theo lĩnh vực chủ yếu Quản lý phạm vi (*) Với dự án chè-quả: Dự án tập trung cao vào việc tạo thu nhập cho nông dân, tạo việc làm, cải thiện môi trường và tăng thu nhập trao đổi ngoại tệ. Điều này đã được đưa vào Chương trình hỗ trợ quốc gia năm 1997 cho Việt Nam và phù hợp chiến lược của ADB về ngành nông nghiệp và nông thôn nhằm cải thiện năng lực kinh tế nông thôn, nâng cao thu nhập nông nghiệp thông qua hỗ trợ cải cách chính sách nhằm hình thành được hệ thống dựa vào thị trường tại Việt Nam. Báo cáo và kiến nghị trình Chính phủ được chuẩn bị dựa vào Báo cáo Hỗ trợ kỹ thuật chuẩn bị dự án, phát hiện của 2 đợt công tác của ADB, và kết quả làm việc tại các vùng và các cơ quan nghiên cứu được chọn lựa; và một báo cáo đánh giá nghiên cứu khả thi và các buổi mạn đàm với các quan chức Trung ương, tỉnh và huyện, các doanh nghiệp nông nghiệp tư nhân, nông dân và các bên liên quan khác. - Xác định phạm vi dự án: Bộ NN&PTNT thực hiện công tác lập dự án và qua đó xác định phạm vi của dự án là “cấp tín dụng dài hạn để phát triển cây ăn quả và chè đồng thời đưa ra các hỗ trợ về công nghệ. Chè và các loại cây ăn quả lâu năm như vải, nhãn, xoài, chôm chôm, hồng, dứa sẽ được cấp tín dụng„. Mục tiêu của dự án là: thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng thu nhập cho người dân, nâng cao giá trị hàng hóa nông sản từ việc phát triển cây chè và cây ăn quả, tăng cường bảo vệ môi trường thông qua việc trồng chè, trồng cây ăn quả trên những vùng đất phù hợp đặc biệt là đất đồi, đất đã bị mất rừng với các biện pháp bảo vệ đất. Dự án có 2 hợp phần là tín dụng và phi tín dụng, trong đó Ngân Hàng NN&PTNT quản lý về hợp phần tín dụng còn nhiệm vụ của BQLDA chè-quả là toàn bộ hợp phần phi tín dụng. Hợp phần phi tín dụng đóng góp vai trò quan trọng nhằm đảm bảo cho hợp phần tín dụng triển khai có hiệu quả, bền vững, đáp ứng với mục tiêu của dự án đề ra. Hợp phần này có các đầu ra sau: (i) Xây dựng và phổ biến gói công nghệ và thông tin thị trường gồm các hoạt động: cung cấp sổ tay kỹ thuật; chứng nhận vườn ươm; phân loại vùng trồng chè và cây ăn quả; dịch vụ thông tin thị trường; đảm bảo về chất lượng. (ii) Tăng cường nghiên cứu gồm các hoạt động: Sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Viện Nghiên cứu chè và Viện Nghiên cứu rau quả để đạt được sự bền vững về tài chính, có khả năng tự quản và hình thành cơ cấu quản lý hiệu quả; hỗ trợ hình thành trang thiết bị chuyên dùng; hỗ trợ hình thành các vườn cây mẹ. (iii) Quản lý dự án gồm: Mua sắm ô tô, trang thiết bị văn phòng dự án; quản lý, giám sát các hoạt động của hợp phần phi tín dụng. (iv) Đào tạo gồm: Tăng cường năng lực cho các cán bộ của CPMU, PPMU; tăng cường năng lực cho các cán bộ khuyến nông, các cán bộ kỹ thuật của các Sở NN&PTNT các tỉnh tham gia dự án, cán bộ của các chế định tài chính, nông dân và những người khác về những vấn đề kỹ thuật bao gồm cả vấn đề quản lý môi trường và dịch hại tổng hợp. (v) Dịch vụ tư vấn gồm: trợ giúp về kỹ thuật và kinh doanh trong việc phát triển chè và cây ăn quả, QLDA, tăng cường năng lực nghiên cứu của các Viện, Trung tâm nghiên cứu... Tác động mong đợi của dự án là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Sản phẩm đầu ra của dự án là tăng thu nhập cho nông dân, giá trị sản xuất nông nghiệp và cải thiện môi trường thông qua việc đa dạng hoá trong sản xuất chè và cây ăn quả. Các chỉ số chính của từng sản phẩm đầu ra của dự án như sau: Tăng năng suất búp chè tươi từ 3 tấn lên 8-12 tấn/ha, đạt từ 5-8.5 tấn quả/ha, nâng cao thu nhập lên 213 USD và 525 USD/năm cho người làm chè và quả tương ứng; tăng sản lượng lên 20.000 tấn/năm đối với chè và 325.000/ tấn/năm đối với quả; tạo ra 26.000 việc làm. Dự án đã nêu cụ thể các mục tiêu mang tính định lượng và định tính trong khung theo dõi và thiết kế (DMF). Địa bàn dự án gồm 13 tỉnh: Đối với cây chè gồm Thái Nguyên, Phú Thọ, Yên Bái, Lâm Đồng, Tuyên Quang, Hà Giang; Đối với cây ăn quả gồm: Bắc Giang, Thanh Hóa, Hòa Bình, Bình Định, Khánh Hòa, Tiền Giang, Bến Tre. - Quản lý thay đổi phạm vi: Để có thể xác định đối tượng tác động một cách có hiệu quả, BQLDA chè-quả đã thực hiện việc phân loại vùng trồng chè và phân loại đối tượng thụ hưởng. Trong đó, BQL đã chỉ đạo xây dựng gần 1.000 bản đồ (29 bản đồ cấp tỉnh, 210 bản đồ cấp huyện và 718 bản đồ cấp xã) tại các địa bàn có tiềm năng cao về trồng chè và cây ăn quả giúp xác định được các vùng mà người vay vốn cư trú. Các bản đồ này được cập nhật hàng năm và hỗ trợ tỉnh xác định được sự phù hợp của các vùng đất canh tác do người vay vốn tiềm năng sở hữu. Đối với cây chè căn cứ vào việc điều tra đất đai, dự án đã đưa ra các khuyến nghị về loại dòng phù hợp nhất cho từng khu vực, đồng thời cũng hỗ trợ cho các nhà lập kế hoạch sử dụng đất đai xác định được khu vực nào cần có các biện pháp xử lý bảo vệ môi trường. Về công tác đào tạo nhân lực: BQLDA đã kiến nghị tăng cường phạm vi đào tạo bằng việc tăng thêm các chuyến tập huấn nước ngoài. Ngoài ra nội dung đào tạo cũng cần bao gồm cả các nội dung về môi trường như sử dụng thuốc trừ sâu, tưới tiêu, chống xói mòn đất trong các vườn quả. Về dịch vụ tư vấn: Trong khuôn khổ thiết kế dự án phát triển chè và cây ăn quả của Bộ NN&PTNT không có dự trù về điều tra cơ bản về kinh tế xã hội mặc dù đây là một nội dung hết sức quan trọng. Vì thế BQLDA chè-quả đã có đề nghị và được ADB chấp thuận bổ sung vào dòng chi để thuê 1 công ty tư vấn trong nước lập báo cáo điều tra kinh tế xã hội. Về địa bàn dự án, theo kiến nghị của các tỉnh được đầu tư phát triển chè muốn được đầu tư thêm để phát triển cây ăn quả tuy nhiên đề xuất này đã không được Bộ NN&PTNT chấp thuận. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Xác định phạm vi dự án trong giai đoạn I: Với dự án này, Bộ NN&PTNT cũng thực hiện công tác lập dự án qua đó xác định địa bàn dự án gồm có 9 tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, trung du và miền núi phía Bắc có diện tích khoai tây lớn là Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Bắc Giang, Hà Tây, Lạng Sơn, Sơn La, Bắc Ninh và Tuyên Quang. Mục tiêu dư án bao gồm mục tiêu tổng thể là “các hộ nông dân nhỏ tăng thu nhập từ sản xuất khoai tây„; các chỉ tiêu cụ thể là: Thu nhập từ sản xuất khoai tây của nông hộ tăng từ 20% tổng thu nhập lên 35% và số hộ tăng số nông hộ từ 7000 hộ lên 10.000 hộ. Các mục tiêu cụ thể gồm có: (i) Sản xuất giống và vật liệu trồng từ những giống thích hợp. Chỉ tiêu cụ thể là sản xuất ít nhất 6000 tấn giống đến trước tháng 6/2008; Giống xác nhận được trồng trên diện tích ít nhất là 3000 ha; (ii) Kỹ thuật nhân giống phù hợp cho việc sản xuất và nhân rộng giống khoai tây bền vững tại địa phương được hoàn thiện và áp dụng. Chỉ tiêu cụ thể là giảm chi phí sản xuất giống từ 10-15% so với phương pháp nhân giống truyền thống; sản lượng khoai tây thương phẩm có kích thước củ lớn hơn 10% ở thế hệ thứ nhất qua phương pháp nhân giống hạt. (iii) Hệ thống chứng nhận - giám sát - sản xuất và nhân rộng giống được củng cố. Nội dung cụ thể bao gồm nâng cấp các phòng thí nghiệm kiểm tra chất lượng giống, ban hành các quy định cho chứng nhận chất lượng giống, cấp chứng nhận giống cho các hộ sản xuất. (iv) Những kế hoạch đệ trình để tăng lợi nhuận cho sản xuất khoai tây giống và thương phẩm đã được xây dựng và áp dụng từng phần. - Quản lý thay đổi mục tiêu: Trong giai đoạn II của dự án, các mục tiêu cần đạt được là: (i) hỗ trợ việc sản xuất giống bền vững; (ii) tăng cường việc tự công bố của các hợp tác xã sản xuất giống cũng như thanh tra và kiểm soát chất lượng giống; (iii) thiêt lập hệ thống sản xuất khoai tây thương phẩm từ việc sử dụng giống đã xác nhận; (iv) thành lập hiệp hội, nhóm những người sản xuất khoai tây Lập kế hoạch tổng quan - Kế hoạch thực hiện hợp phần công nghệ: Quá trình biên soạn, phổ biến sổ tay kỹ thuật sẽ theo quy trình các bước sau: 1/ Các viện thành lập tổ biên soạn sổ tay kỹ thuật, các thành viên của tổ bao gồm các chuyên gia với các chuyên môn khác nhau; 2/ Hội đồngkhoa học-kỹ thuật của viện tổ chức hội thảo lần thứ nhất để thống nhất nội dung; 3/ tổ biên soạn sẽ chỉnh sửa, hoàn chỉnh nội dung theo ý kiến đóng góp của hội đồng khoa học-viện; 4/ hội thảo lần 2 với sự chủ trì của ban lãnh đạo Vụ khoa học và công nghệ; 5/ Tổ biên soạn sẽ chỉnh sửa tiếp; 6/ Sổ tay được chuyển cho các giáo sư đầu ngành hiệu chỉnh; 7/ tổ kỹ thuật kiểm soát và đánh giá của BQLDA trung ương kiểm tra, chỉnh sửa theo góp ý của các giáo sư; 8/ BQDLA trung ương trình Vụ khoa học và công nghệ thẩm định; 9/ Vụ khoa học và công nghệ thẩm định và phê duyệt; 10/ BQLDA trung ương ký hợp đồng với nhà xuất bản để in ấn. 11/ phương thức phổ biến tài liệu bao gồm nhiều hình thức phong phú như tọa đàm, hội thảo, tập huấn đến các khóa đào tạo, trình diễn qua mô hình. - Kế hoạch thực hiện hợp phần chứng nhận chất lượng: Sau khi biên soạn và phổ biến các cuốn sổ tay kỹ thuật và tiêu chuẩn chứng nhận vườn ươm tới các hộ dân, hàng năm tại các tỉnh tham gia dự án dều tổ chức hội đồng hoặc đoàn kiểm tra, đánh giá, xếp loại vườm ươm. Tại các vườn ướm, đoàn sẽ đánh giá về số lượng, chất lượng cây giống, số lượng cây đạt tiêu chuẩn xuất vườn, địa chỉ nguồn giồng gốc, khả năng tiêu thụ của chủ hộ v.v... sau nhiều lần kiểm tra, đoàn sẽ đánh giá, xếp loại các vườn ươm. - Kế hoạch thực hiện hợp phần thông tin thị trường: Sau khi triển khai, dự án sẽ xây dựng trang web riêng nhằm cập nhật kịp thời tình hình biến động về giá cả các sản phẩm chè và cây ăn quả tại từng địa phương, sau đó sẽ tổ chức các cuộc hội thảo và các lớp tập huấn nhằm giúp các PPMU tham gia xây dựng nội dung trang web, các biện pháp và thủ tục thẩm định nội dung trước khi đăng tải. Ngoài hình thức truyền thông này, dự án sẽ tổ chức các lớp tập huấn, cấp phát tạp chí, tuyên truyền trên tivi, báo, đài về thông tin thị trường cho các cán bộ PPMU, các đơn vị tham gia dự án và đặc biệt là trực tiếp với người dân tham gia vay vốn. - Kế hoạch thực hiện hợp phần tăng cường nghiên cứu: Dự án sẽ trang bị thêm cho các viện và trung tâm nghiên cứu, tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo nhằm tạo điều kiện để các tổ chức này đóng góp nhiều hơn. Viện rau quả và viện nghiên cứu chè sẽ được cơ cấu lại: tách khỏi tổng công ty chủ quản và chuyển về trực thuộc Bộ NN&PTNT. - Giảm thiểu tác động tới môi trường: Ảnh hưởng của dự án về quản lý nguồn nước và đa dạng sinh học sẽ phải giảm thiểu bằng cách hạn chế việc mở rộng vườn cây ăn quả đến các vùng đất trống. Để khẳng định rằng việc quy hoạch các vườn quả mới sẽ không gây ra ảnh hưởng xấu tới môi trường, công cuộc kế hoạch môi trường và sử dụng đất cần phải được tổ chức cho những cơ quan quy hoạch đất các tỉnh và các khoản tín dụng sẽ không cấp vốn cho các dự án sử dụng đất rừng để trồng cây ăn quả. Quản lý nhân lực (*) Với dự án chè-quả: BQLDA chè-quả phối hợp với BQLDA tỉnh đã tổ chức các chương trình đào tạo cho cán bộ thuộc BQLDA trung ương và BQLDA tỉnh; cùng với đó là các khóa tập huấn cho các hộ nông dân bao gồm hội thảo tập huấn, toạ đàm và các khoá học đã được thiết kế nhằm phổ biến các thông tin về tài chính và kỹ thuật nhằm hỗ trợ những nông dân được tham gia dự án. Chương trình đào tạo cũng hỗ trợ cho nông dân có đủ điều kiện vay vốn từ Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam và Quỹ tín dụng nhân dân, sử dụng vốn có hiệu quả hơn và nhìn chung đem lại lợi ích cho bà con nông dân. Chương trình đào tạo bao gồm tất các các lĩnh vực về canh tác, chăm sóc, thâm canh đảm bảo chất lượng, hình thành vườn ươm và thông tin thị trường về chè và cây ăn quả đã được triển khai tại tất cả các tỉnh tham gia dự án. Ngoài ra còn bao gồm cả lĩnh vực quản lý dịch hại tổng hợp và môi trường. Các khoá đào tạo đã tận dụng các nguồn của các Viện nghiên cứu có sẵn các cơ sở vật chất giảng dạy và nơi cư trú. Hệ quả của công tác đào tạo tiểu giáo viên là các cán bộ khuyến nông cao cấp đã được sử dụng để tiếp tục chuyển giao kiến thức cho các xã trong đó có các sự tham gia của các cán bộ thuộc quỹ tín dụng nhân dân và bà con nông dân. Đặc biệt, về việc đào tạo, cung cấp thông tin thị trường thì dự án đã hỗ trợ hình thành một hệ thống thông tin sơ bộ và 287 khoá đào tạo về thông tin thị trường đã được tổ chức cho gần 15.000 người nhằm cải thiện kiến thức cho họ về thị trường. Có khoảng 576 bài báo đã được đăng tải trên trang web nhằm phổ biến các biện pháp cách tác tốt và hỗ trợ nông dân trong khâu tiếp thị các sản phẩm chè và cây ăn quả. Trong báo cáo đánh giá giữa kỳ dự án, CPMU đã tổ chức được 7 khóa tham quan học tập nước ngoài, giúp cho 118 cán bộ liên quan nâng cao kiến thức và tầm nhìn về công nghệ phát triển chè và cây ăn quả, học tập kinh nghiệm kỹ thuật, quản lý sản xuất, tiếp thị mở rộng thị trường cũng như kỹ năng QLDA vốn ODA. Bảng 7: Kế hoạch và kết quả thực tế về đào tạo Đơn vị: Người Đào tạo/ tập huấn/ hội thảo Người tham gia Kế hoạch thực tế Chênh lệch Cán bộ của CPMU và PPMU về quản lý dự án, theo dõi giám sát, kế toán và đánh giá môi trường 33 70 37 Đào tạo tiểu giáo viên/cán bộ khuyến nông 2.480 7.787 5.307 Giảng viên 530 - - Số cán bộ khuyến nông được đào tạo 1.950 - - Số nông dân được đào tạo về canh tác chè 1.500 63.224 61.724 Nông dân được đào tạo về canh tác cây ăn quả 7.000 78.534 71.534 Số cán bộ thuộc các đơn vị tài chính tham gia dự án được đào tạo về đánh giá khoản vay 660 680 20 Số nông dân chủ chốt được đào tạo về kỹ thuật 1.020 13.140 12.120 Số nông dân được đào tạo về đảm bảo chất lượng trong chế biến và xử lý sau thu hoạch 1.950 963 - 987 Nguồn: Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả - ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Từ bảng trên ta có thể thấy rằng số cán bộ của BQLDA trung ương và BQLDA tỉnh được đào tạo là cao hơn gấp 2 lần so với mục tiêu (70 cán bộ so với 33 cán bộ theo mục tiêu đã thẩm định). Các cán bộ này được đào tạo về quản lý dự án, kế toán, theo dõi và đánh giá, song không có trường hợp nào được đào tạo về đánh giá môi trường như yêu cầu tại giai đoạn thẩm định. Trừ các khoá đào tạo cho bà con nông dân về đảm bảo chất lượng trong chế biến và xử lý sau thu hoạch, số lượng người tham gia nhiều khoá đạo tạo/hội thảo do dự án tổ chức cao hơn so với mục tiêu. Theo BQLDA chè-quả, thiết kế dự án đã dự toán kinh phí cao và các mục tiêu của dự án lại được dự liệu thấp. Thiết kế của dự án không ăn khớp với mục tiêu về số người hưởng lợi như đã nêu ở trong khung theo dõi, thiết kế và số lượng người tham gia các khoá đào tạo. Hầu hết các cán bộ của BQLDA trung ương và các cán bộ chủ chốt của BQLDA tỉnh đều được tham gia các lớp đào tạo về kỹ năng chuyên môn tuy vậy thời gian của mỗi khóa đào tạo là khá ngắn (2-6 tuần) và chia thành nhiều đợt nên không thực sự hiệu quả với các PPMU (vừa làm tăng chi phí đi lại, ăn ở, vừa khó tiếp thu hết các kiến thức). Số người được tham gia các khóa đào tạo thực tế cao hơn nhiều so với dự kiến một phần là do công tác lập dự án đã không dự tính hết nhu cầu đào tạo, một phần là do có một số thay đổi về kỹ thuật canh tác, các kỹ thuật này khá mới mẻ với người dân do đó số nông dân cần được đào tạo tăng lên rất nhiều. BQLDA chè-quả đã có kiến nghị tăng thêm ngân sách cho hoạt động này đồng thời mở rộng quy mô của các lớp học và đã được Bộ NN&PTNT cùng với ADB chấp thuận. Chỉ duy nhất số nông dân được đào tạo về đảm bảo chất lượng là giảm đi do CPMU quyết định sẽ có các cán bộ chuyên trách đi kiểm tra và hướng dẫn trực tiếp quy trình kỹ thuật cũng như thu thập số liệu; đồng thời nội dung này cũng được lồng ghép trong các buổi tập huấn về kỹ thuật canh tác cho từng nông hộ. Chi phí cho tiểu hợp phần này được thể hiện trong bảng sau: Bảng: Chi phí cho đào tạo Đơn vị: Nghìn USD Nội dung đào tạo Tổng chi dự kiến Tổng chi thực tế QLDA 6 55 Kỹ thuật trồng chè 180 478 Kỹ thuật trồng cây ăn quả 329 839 Tổng cộng 515 1,372 Nguồn: Phụ lục Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả Như vậy chi phí thực tế đã tăng lên nhiều so với dự tính ban đầu ở tất cả các nội dung. Dù sao thì đây cũng là tình trạng chung của các dự án ODA và cũng khó khắc phục vì địa phương thì luôn mong muốn nhận được nhiều hỗ trợ về đào tạo trong khi đó trung ương thì khó biết được năng lực thực tế của của các cán bộ tỉnh và cũng khó đánh giá hiệu quả của các lớp tập huấn. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Vì Việt Nam vẫn phải nhập khẩu giống từ các nước khác, chủ yếu là từ Trung Quốc nên công tác kiểm dịch tại cửa khẩu là một hoạt động hết sức quan trọng nhằm kiểm soát sự phát tán sâu bệnh. Vì thế dự án đã hỗ trợ Cục bảo vệ thực vật tổ chức lớp tập huấn cho 18 cán bộ về đánh giá nhanh nguy cơ dịch hại do chuyên gia Úc giản dạy và sau đó đã áp dụng vào đánh giá dịch bệnh trên khoai tây giống nhập từ Trung Quốc, Hà Lan và Đức. Với kinh nghiệm và kiến thức đã tiếp thu được, các cán bộ của Cục sẽ tiếp tục thực hiện đánh giá với khoai tây nhập khẩu từ các nước khác, đáp ứng được các yêu cầu của hiệp định SPSS khi Việt Nam gia nhập WTO. Nguồn nhân lực cho các đơn vị hợp phần, phục vụ cho công tác nhân giống và xác nhận giống được tăng cường thông qua các khóa đào tạo trong và ngoài nước. Năm 2008, 4 cán bộ phòng nuôi cấy mô của các đơn vị được đào tạo về nhân giống tại Hà Lan, 12 người được đi tham quan hệ thống nhân khoai tây giống tại Trung Quốc, 30 người được tập huấn kỹ thuật trồng củ bi từ củ siêu bi và cây in vitro, 6 cán bộ tham gia hội nghị khoai tây quốc tế tại Côn Minh và 3 cán bộ tham gia hội nghị về bảo quản và chế biến khoai tây tại Canada. Nông dân vùng dự án được hưởng lợi từ 40 lớp tập huấn (1500 người, trung bình 35-40 người/lớp) về kỹ thuật sản xuất khoai tây giống và khoai tây thương phẩm, đáp ứng những yêu cầu của thị trường tiêu thụ và chế biến. Ngoài các lớp học nêu trên còn có các sổ tay về ký thuật sản xuất khoai tây giống được biên soạn và in ấn, phát cho nông dân và cán bộ khuyến nông tại cơ sở. Quản lý chất lượng (*) Với dự án chè-quả: Các hướng dẫn về đảm bảo chất lượng đã được in và phân phát cho các tỉnh sản xuất cây ăn quả tương ứng. Phân Viện cơ điện nông nghiệp và công nghệ sau thu hoạch đã tổ chức hàng loạt các cuộc hội thảo tập huấn về đảm bảo chất lượng. Các hướng dẫn về chè đã được xây dựng cho các vùng khác nhau: Các tỉnh Miền Bắc và Miền trung Cao nguyên Lâm Đồng. Cùng với việc giới thiệu các cuốn cẩm nang hướng dẫn và các khoá hội thảo tập huấn đã giúp cho cả nông dân trồng chè và cây ăn quả có được cơ hội học tập thành công các mô hình canh tác trong nước và nước ngoài . Một chuyến thăm quan học tập tại Thái Lan đã được tổ chức vào đầu năm 2003 giúp các thành viên của Đoàn có cơ hội học hỏi kinh nghiệm về các tập quán canh tác, chế biến và tiếp thị sản phẩm cây ăn quả. Chuyến thăm quan này đã được tỉnh Tiền Giang rất quan tâm và đã tự tổ chức một chuyến tương tự bằng nguồn vốn riêng của tỉnh với 31 thành viên tham gia gồm các Lãnh đạo tỉnh/huyện, cán bộ Sở và nông dân chủ chốt. Chuyến thăm quan học tập về chè gồm 29 người đã được tổ chức cho nhiều nước có kinh nghiệm về chế biến và trồng chè. Có tổng số 74 người đã tham gia các chuyến thăm quan học tập nước ngoài trong đó có 15 phụ nữ. Có tổng số 1.945 người trong đó có 475 phụ nữ và 299 người dân tộc thiểu số đã có cơ hội thăm quan các vùng trồng chè tại các tỉnh khác thuộc Việt Nam. Có tổng số 1.117 người đã được tiếp thu thêm kinh nghiệm về trồng cây ăn quả trong khi có 805 người được tiếp thu thêm kinh nghiệm về trồng và chế biến chè. Tác động của công tác kiểm soát chất lượng và ban hành các tiê._.u chuẩn và các chuyến tham quan học tập là rất tích cực. Thu nhập của các hộ gia đình làm chè và cây ăn quả đã tăng lên đáng kế. Xuất khẩu chè và trái cây khá tốt: Tổng giá trị xuất khẩu trái cây và chè đã tăng lên gấp 5 lần từ 135.668 triệu đồng năm 2002 lên 666.749 triệu đồng năm 2007. Với dự án chè-quả, BQLDA chè-quả đã phối hợp các viện nghiên cứu và cơ quan chuyên môn khác để lập và in ấn các cuốn sổ tay hướng dẫn về đảm bảo chất lượng cho các đơn vị thực hiện dự án. Năm 2003, dự án đã xuất bản 18 cuốn trong số 22 cuốn sổ tay kỹ thuật, năm 2005 dự án đã cập nhật và hoàn chỉnh 22 cuốn cẩm nang kỹ thuật về phát triển chè và cây ăn quả vớí sự hỗ trợ lớn của chuyên gia tư vấn Quốc tế và trong nước, công tác cập nhật đã thực hiện vào năm 2007. Dự án đã xây dựng và phân phát khoảng 224.636 bản copy cuốn sổ tay kỹ thuật (22 nội dung: 10 cho chè, 7 cho quả, và 5 văn bản hướng dẫn thực hiện) cho BQLDA tỉnh, nhiều Viện và người hưởng lợi của dự án. Các cuốn sổ tay này rất có ích cho công tác tuyên truyền thông tin kỹ thuật cho người sử dụng. Nhiều cuộc hội thảo tập huấn và chương trình khuyến nông đã được tổ chức nhằm phổ biến các cuốn sổ tay về kỹ thuật trồng, chăm sóc, thâm canh chè và cây ăn quả, các lĩnh vực kỹ thuật chất lượng, hình thành vườn ươm và hệ thống thông tin thị trường. Để đảm bảo chất lượng sản phẩm của các vườn ươm, hệ thống chứng nhận vườn ươm chè và cây ăn quả đã được hình thành từ năm 2002. Các Viện nghiên cứu đã xây dựng các tiêu chuẩn, các sáng kiến chứng nhận vườn ươm nhằm giúp nâng cao hiệu quả cho các vùng trồng chè và cây ăn quả. Các cuộc hội thảo tập huấn cấp tỉnh đã được tổ chức nhằm đánh giá lại các tiêu chuẩn này và lồng ghép vào quy chế quy định của tỉnh về việc cấp nguyên liệu trồng. Dự án đã hỗ trợ xây dựng được 01 hệ thống xây dựng vườn ươm. Tính đến nay đã có 74% vườm ươm chè và 34% vườn ươm quả đã được cấp chứng nhận cung cấp giống cây trồng cho bà con nông dân. Công tác chứng nhận vườn ươm này là rất quan trọng trong việc đảm bảo rằng nông dân sử dụng các giống cây trồng có năng suất cao và được đảm bảo; từ đó giảm được chi phí sản xuất và cung cấp cho họ lợi thế so sánh giữa các vùng trồng chè và cây ăn quả khác và loại giống cây trồng đó là đúng chủng loại giống sãn có tại các vườn ươm mới và phù hợp với các điều lệ quy định của tỉnh. Tính đến cuối năm 2007, Dự án đã hỗ trợ chứng nhận được 1.707 vườn ươm, trong đó có 1.360 vườn ươm chè được trao chứng chỉ chất lượng. Dự án đã giúp cung cấp tổng cộng 1.476 triệu giống chè/cây ăn quả đạt tiêu chuẩn cho bà con nông dân. BQLDA chè-quả cũng đã kết hợp với Hiệp hội chè Việt Nam tổ chức hội thi chất lượng và văn hóa chè toàn quốc năm 2003, 2004, 2006. Ngoài ra còn có cuộc thi “Bảo về thực vật an toàn trên cây chè” do BQLDA kết hợp với Cục bảo vệ thực vật, Tổng công ty chè Việt Nam, Đài truyền hình Trung ương VTV1, Đài truyền hình Phú Thọ, BQLDA tỉnh Phú Thọ tổ chức. Tuy vậy đứng trên góc độ quản lý nhà nước thì hệ thống kiểm tra và cấp chứng nhận chung vẫn còn thiếu. Cục tiêu chuẩn đo lường Việt Nam đã có quy định các tiêu chuẩn cho một số loại sản phẩm cònViện Công nghệ sau thu hoạch và trung tâm kiểm tra thực phẩm là 2 cơ quan trực thuộc Bộ NN&PTNT chịu trách nhiệm về chất lượng thực phẩm, bao gồm cả cấp giấy chứng nhận để xuất khẩu. Tuy nhiên việc kiểm tra mác và chất lượng nói chung là thấp đối với các loại chè và cây ăn quả, không có sự phân tích thường xuyên về dư lượng thuốc sâu và các tạp chất. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây, các quy định cho luật giống (Chứng nhận chất lượng giống) được phê duyệt trước T12/2008. Hai hệ thống tiêu chuẩn chất lượng đã được hoàn thiện (10TCN 316-2008 và 10TCN528-2008); bên cạnh đó còn có một hệ thống tiêu chuẩn cho quy trình sản xuất khoai tây giống và một hệ thống cho quy trình sản xuất hạt giống siêu nguyên chủng. Quản lý thông tin CPMU, PPMU và các đơn vị tài chính tham gia dự án sẽ duy trì những báo cáo tài chính và sổ sách kế toán riêng rẽ đối với dự án và sẽ được kiểm toán hàng năm. Sổ sách kiểm toán được trình ngân hàng trong vòng 12 tháng, vòa cuối kỳ trong năm tài chính. CPMU sẽ tập hợp báo cáo của các PPMU và chuẩn bị báo cáo từng quý cho toàn bộ hoạt động dự án, các dịch vụ đã cấp cho người hưởng lợi, giải ngân các tiểu vốn vay, quy trả và kiến nghị. Báo cáo hàng quý trình Ban chỉ đạo dự án trước khi trình ngân hàng. Trong 3 tháng sau khi hoàn thành xong dự án, CPMU sẽ trình ngân hàng một báo cáo tác động dự án đối với người hưởng lợi. Ngân hàng NN&PTNT sẽ thành lập đơn vị thực hiện dự án tại văn phòng trung ương để thực hiện hợp phần tín dụng và chuyên trách giám sát việc thực hiện của các chi nhánh trong vùng dự án; thu thập và đối chiếu những số liệu thống kê liên quan đến dự án; chuẩn bị các báo cáo và số liệu thống kê cần thiết và đệ trình lên BQLDA trung ương, Bộ Tài Chính. Bộ Tài chính là đơn vị tiếp nhận các thông tin tổng hợp về tiến độ, chi phí, dự toán... do BQLDA trung ương gửi lên để từ đó lưu giữ, thẩm định và lập đề nghị giải ngân gửi đến ADB. Các chứng từ, báo cáo mà BQLDA trung ương gửi lên sẽ là cơ sở để thanh quyết toán vốn Bộ NN&PTNT giám sát việc thực hiện các chủ trương, định hướng mà Bộ đã đề ra khi lập dự án thông qua các báo cáo định kỳ về tiến độ dự án mà BQLDA trung ương gửi lên. Ngoài ra, với các khoản chi không thuộc thiết kế ban đầu của dự án thì Bộ NN&PTNT sẽ kết hợp với Bộ tài chính để xem xét các khoản này. Ban chỉ đạo dự án được thành lập trong Bộ NN&PTNT để giám sát dự án, điều phối liên ngành, chỉ đạo BQLDA trung ương và quyết định các vấn đề về chính sách; Phê duyệt các kế hoạch vốn, kế hoạch hoạt động và mua sắm của dự án; Phê duyệt các hợp đồng, kết quả đấu thầu mua sắm, xây lắp và tư vấn của dự án; Chỉ đạo dự án xây dựng các văn bản liên Bộ, cấp Bộ và các Quy định, Quy chế liên quan đến dự án trình Bộ và Nhà nước ban hành; Phối hợp cùng với nhà tài trợ đưa ra các điều chỉnh cần thiết cho dự án để đảm bảo dự án hoạt động có hiệu quả. BQLDA tỉnh trực tiếp thực hiện và điều hành dự án tại tỉnh dưới sự điều hành và hướng dẫn của Ban chỉ đạo dự án tỉnh và BQLDA trung ương. Các chứng từ sẽ được chuyển trực tiếp từ BQL tỉnh lên BQL trung ương trong khi các báo cáo tiến độ, các khoản dự chi... sẽ được chuyển qua Ban chỉ đạo xem xét, phê duyệt trước khi chuyển lên BQLDA chè-quả. Quản lý rủi ro Dư án sẽ gặp phải một số rủi ro trong cả hai lĩnh vực tăng cường thể chế và tín dụng. Việc thiết kế dự án có phân tích ảnh hưởng của các nhân tố này và BQLDA trung ương đã có những góp ý để hạn chế các rủi ro có thể có. - Về tăng cường thể chế: Trong thiết kế dự án, việc cổ phần hóa các tổn công ty nhà nước có ảnh hưởng lớn đến thành công của dự án nhưng do thực tế triển khai chậm chạp nên để giảm sự phụ thuộc mức độ thành công của dự án vào các xí nghiệp quốc doanh, BQLDA trung ương đã đề xuất hỗ trợ tín dụng cho các xưởng chế biến trong khu vực tư nhân hiện đang cạnh tranh với các xí nghiệp quốc doanh trong ngành chè và cây ăn quả. - Về tín dụng: Các nhân tố có thể ảnh hưởng đến tính khả thi của dự án là: (i) giá cả hoặc sản lượng thấp hơn dự tính; (ii) việc giải ngân vốn vay thấp; (iii) việc thực hiện dự án chậm. Trong thiết kế dự án đã có bảng phân tích độ nhạy của tỷ lệ thu hồi kinh tế đối với các nhân tố này. Bảng: Phân tích độ nhạy đối với tỷ lệ thu hồi kinh tế Đơn vị: % Giả thiết 1 Giả thiết 2 Giả thiết 3 Giả thiết 4 Giá cả - sản lượng 100 80 70 60 Giải ngân vốn vay 100 50 20 10 Tỷ lệ thu hồi kinh tế 25 19 15 10 Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTN Như vậy việc phân tích ảnh hưởng các nhân tố về hiệu quả đã cho thấy dự án vẫn khả thi ngay cả khi giá cả và sản lượng thấp hơn 30% so với dự kiến. Về khả năng chậm trễ trong việc thực hiện dự án thì theo dự tính, dự án có thể sau vài năm mới bắt đầu nhưng sẽ không thực sự bị ảnh hưởng nhiều đối với việc chậm trễ như vậy. Thậm chí có thể kéo dài 2-3 năm nhưng tỷ lệ thu hồi kinh tế không bị giảm đi đáng kể. Quản lý theo chu kỳ dự án Giai đoạn chuẩn bị đầu tư Mặc dù BQLDA chè-quả không tham gia vào quá trình nghiên cứu cơ bản cũng như việc lập-thẩm định dự án (các phần việc này do Bộ NN&PTNT đảm nhiệm) nhưng trong giai đoạn chuẩn bị đầu tư, BQL đã tích cực xây dựng cơ chế quản lý, khuôn khổ pháp lý cho dự án, lập kế hoạch chi phí và huy động, phân bổ vốn. Ước tính chi phí và kế hoạch cấp tài chính Trong quá trình Bộ NN&PTNT lập báo cáo khả thi đã dự tính suất đầu tư cho 1 hecta canh tác theo giá bình quân năm 2000, theo đó chi phí chăm sóc 1ha chè là 4,3 triệu/năm nhưng do thời điểm khảo sát là năm 1999 và dự án bị chậm trễ hơn 1 năm nên BQLDA chè-quả đã đề nghị có điều chỉnh về đơn giá. Định mức chi tiêu cũng cần thay đổi, theo thiết kế ban đầu, tạm ứng cho BQLDA cấp tỉnh là 100.000$ cho mỗi lần giải ngân nhưng do biến động về giá nên đã được nâng lên là $150.000 để có thể thanh toán cho các nhà thầu, đảm bảo tiến độ thi công. Dựa trên các định mức đó cùng với kế hoạch dự án, BQLDA trung ương đã xác định kế hoạch cấp vốn 5 năm 2001-2005 cho ngành chè. Tổng chi phí ước tính để thực hiện dự án được thể hiện trong bảng sau: Bảng: Ước tính chi phí dự án Đơn vị: triệu USD Hạng mục Chi phí A. Chi phí cơ bản 54,8 A1: Tín dụng 48,9 A2: Công nghệ và thông tin thị trường 2,4 A3. Tăng cường nghiên cứu 1,6 A4. QLDA 1,4 A5. Đào tạo 0,5 B. Dự phòng 2,1 B1. Dự phòng vật chất 0,8 B2. Dự phòng giá 1,3 C. Dịch vụ 0,7 Tổng cộng 57,6 Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Trong đó đã bao gồm 5,2 triệu USD tiền thuế và các khoản phải nộp; chi phí dự phòng về giá tính bằng 2,6% với vốn nước ngoài, 7% với vốn nội tệ, 6% cho thời kỳ 2002-2003 và 5% cho các năm sau. BQLDA trung ương đã lập dự toán chi phí QLDA dành cho CPMU và PPMU như trong bảng sau: Bảng: Dự tính chi phí QLDA Đơn vị: triệu đồng Hạng mục 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Tổng số A. BQLDA trung ương A1 Lương + phụ cấp 334 334 334 334 334 334 2066 A2 Thiết bị 359 0 0 0 0 0 359 A3 Ô tô 1320 660 660 660 660 660 4620 A4 Hội thảo 68 68 68 68 68 68 406 A5 Đào tạo 66 17 17 17 17 17 149 A6 Chi phí hành chính 504 42 42 42 42 42 714 B. BQLDA tỉnh B1 Lương 325 325 325 325 325 325 1950 B2 Xe và thiết bị 3660,8 0 0 0 0 0 3661 B3 Chi phí hành chính 871 871 871 871 871 871 5226 Nguồn: Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Quản lý huy động vốn (+) Kế hoạch huy động vốn (*) Đối với dự án chè-quả, khoản vay của dự án từ nguồn Quỹ đặc biệt của ADB với trị giá (SDR) 31,157 triệu đã được Chính phủ (Bên vay) vay theo các điều khoản tiêu chuẩn chủ yếu là đồng SDR. Khoản vay có thời hạn thanh toán 32 năm gồm 8 năm ân hạn. Lãi suất sẽ là 1%/năm trong thời gian ân hạn và 1,5% trong thời hạn thanh toán với mức thanh toán hàng kỳ như nhau. Bảng 1: Nguồn vốn huy động cho dự án chè-quả Đơn vị: Triệu đô la Hạng mục Tổng chi theo kế hoạch Tổng chi thực tế ADB 40,2 43,3 Ngân hàng NN&PTNT 4,9 5,4 Người hưởng lợi 9,8 10,8 Chính phủ 2,7 1,8 Tổng 57,6 61,4 Nguồn: Báo cáo hoàn thành dự án chè-quả, ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Bảng 1 trình bày các ước tính ngân sách tại thời điểm thẩm định so với ngân sách thực tế của dự án. Qua bảng này cho thấy, phần đóng góp cuả ADB đã tăng lên từ 40,2 triệu đô la lên 43,3 triệu đô la. Phần đóng góp của Chính phủ Việt Nam đã giảm xuống từ 2,7 triệu đô la xuống còn 1,8 triệu đô la do các hiện vật và các chi phí khác phục vụ cho hoạt động và duy trì dự án không được tài liệu hoá đầy đủ. Phần đóng góp của Ngân hàng nông nghiệp và Quĩ tín dụng nhân dân tăng từ 4,9 triệu đô la khoảng 5,4 triệu đô la; và phần đóng góp cuả người hưởng lợi cũng tăng từ 9,8 triệu đô la lên 10,8 triệu đô la. Ngoài ra ngân sách thực tế của dự án cả bằng tiền đô la và tiền Việt Nam đều cao hơn so với dự toán tại thời điểm thẩm định một phần là do sự mất giá của đồng SDR so với đồng USD. (*) Đối với dự án phát triển sản xuất khoai tây: Dự án được thực hiện với nguồn vốn viện trợ ODA không hoàn lại của Chính phủ Đức, dự kiến là 1,5 triệu Euro, phân bổ cho năm 2008 là 650.000 Euro, 6 tháng đầu năm 2009 là 350.000, cả năm 2009 là 500.000 Euro. Vốn đối ứng của chính phủ Việt Nam là 150.000 Euro gồm: kinh phí trực tiếp từ Bộ NN&PTNT 800 triệu VND; Từ các đơn vị tham gia dự án: 2,2 tỷ VND. Như vậy dự án này có tỷ lệ vốn đối ứng là 10%, thấp hơn so với dự án chè-quả và tổng vốn đầu tư nhỏ hơn nhưng đó là do phần đóng góp của nông hộ chưa được tính vào tổng mức đầu tư. Theo tài liệu dự án, phần vốn này chỉ tính đến các hỗ trợ cho nông dân như các chi phí về nhân sự, thiết bị, QLDA. Chi tiết các khoản mục như trong bảng dưới đây: Bảng 2: Phân bổ vốn theo hạng mục Đơn vị: Euro Hạng mục Tổng chi dự kiến Chi phí nhân sự 600.000 Đào tạo kỹ thuật 175.000 Trang thiết bị và nguyên vật liệu 225.000 Chi phí cho hoạt động dự án 450.000 Chi phí cho văn phòng dự án 50.000 Tổng 1.500.000 Nguồn: Tài liệu thẩm định dự án – Bộ NN&PTNT Về nhân sự, phía Việt Nam cung cấp BQLDA, ban điều hành dự án, các chuyên viên cho các lĩnh vực, nhân viên hành chính-hỗ trợ-phiên dịch; phòng thí nghiệm và văn phòng làm việc... Phía Đức cung cấp 1 chuyên gia quốc tế dài hạn làm cố vấn trưởng, các nhân viên tư vấn ngắn hạn khi cần thiết, giống và cây trồng, trang thiết bị công nghệ cao như phòng thí nghiệm in-vitro, phòng thí nghiệm ELISA... Như vậy, ngoài kinh phí đối ứng được huy động từ sự đóng góp của các đơn vị hợp phần (các đơn vị thực hiện), dự án này còn có thêm kinh phí sự nghiệp từ Bộ NN&PTNT. Mặc dù phần vốn này là không lớn nhưng đây là một sự thay đổi so với các dự án ODA khác. Bên cạnh việc huy động thêm được nguồn vốn cho việc thực hiện các hoạt động của dự án, việc đóng góp kinh phí của các đơn vị hợp phần và đặc biệt là của Bộ NN&PTNT đã thể hiện tính trách nhiệm và sự quan tâm của Bộ, góp phần đem lại hiệu quả và tính bền vững trong việc thực hiện các hoạt động dự án. Kinh phí đóng góp của các đơn vị hợp phần năm 2008 gồm: Tiền lương và công tác phí của các cán bộ tham gia thực hiện các hoạt động của các đơn vị hợp phần; tiền xây dựng và tiền làm bảo ôn kho lạnh trung bình là 200 triệu/kho*8kho=1,6 tỷ đồng; chi phí văn phòng 120 triệu. Kinh phí đóng góp của Bộ NN&PTNT năm 2008: Bảng 3: Đóng góp của Bộ NN&PTNT năm 2008 cho dự án khoai tây Khoản mục Kinh phí (triệu đồng) Tỷ lệ (%) Cung ứng văn phòng 60 11,53 Khảo nghiệm và xác nhận giống 70 13,46 Hỗ trợ nhân giống 225 43,26 Xây dựng mô hình kiểm nghiệm 50 9,61 Hội nghị, hội thảo 30 5,76 Chi phí quản lý 85 16,34 Tổng 520 100 Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động dự án phát triển sản xuất khoai tây giai đoạn 1 (+) Cơ chế huy động vốn (*) Đối với nguồn vốn vay: Với cả 2 dự án chè-quả và phát triển sản xuất khoai tây đều có chung cơ chế quản lý nguồn vốn vay từ ADB (với dự án chè-quả) và chính phủ Đức (với dự án khoai tây), sau đây gọi chung là “tổ chức tài trợ vốn”. Sau khi hiệp định tài trợ được ký kết thì tổ chức tài trợ vốn sẽ chuyển tiền vào một tài khoản tín dụng tại một ngân hàng quốc tế uy tín đồng thời phía Việt Nam sẽ mở tài khoản tạm ứng (ở đây là ngân hàng Ngoại Thương). Tiền tạm ứng được chuyển dần vào tài khoản này theo tiến độ dự án. Giám đốc BQLDA chè-quả được chủ đầu tư (là Bộ NN&PTNT) ủy quyền làm chủ tài khoản tạm ứng này và toàn quyền rút vốn từ tài khoản tạm ứng để chi cho các hoạt động của dự án. Khi cần bổ sung vốn, BQL phải trình đơn xin rút vốn bổ sung cùng với các báo cáo về tiến độ hoàn thàn dự án cũng như các chi phí hợp lý đã bỏ ra. Ngoài ra BQL còn mở các tài khoản tạm ứng cấp 2 tại các tỉnh để các chi nhánh của Ban quản lý dự tỉnh rút vốn chi tiêu cho dự án. (*) Đối với nguồn vốn đối ứng: BQLDA trung ương phải lập kế hoạch vốn hàng năm để trình Bộ chủ quản (Bộ NN&PTNT), Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để xin phê duyệt. Trong kế hoạch vốn cần phản ánh rõ phần vốn đối ứng cần thiết cho mỗi hoạt động. Trên cơ sở kế hoạch vốn của dự án, Bộ Kế hoạch đầu tư sẽ bố trí nguồn vốn đối ứng các hạng mục mang tính chất xây dựng cơ bản và Bộ Tài chính sẽ bố trí các nguồn vốn đối ứng mang tính chất hành chính sự nghiệp cho dự án. Bộ NN&PTNT sẽ được thông báo vốn cấp phát hàng năm cho dự án để theo dõi và quản lý thực hiện. Xây dựng cơ chế QLDA - Về cơ chế quản lý hành chính, BQLDA đã xây dựng và được Bộ NN&PTNT phê duyệt thông qua quyết định Số 103/2001/QĐ-BNN Ngày 11 tháng 10 năm 2001 Về việc ban hành quy chế tổ chức và thực hiện Dự án Phát triển chè và cây ăn quả. Quyết định này đã cụ thể hóa chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu nhân sự của từng đơn vị tham gia quản lý dự án như Ban Chỉ đạo dự án Trung ương do Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là Trưởng Ban, Ban Quản lý dự án Trung ương, Ban Chỉ đạo dự án tỉnh, Ban Quản lý dự án tỉnh, Ban thực hiện dự án (PIU) của Ngân hàng NN&PTNT, Viện nghiên cứu rau quả, Viện nghiên cứu chè, Viện công nghệ sau thu hoạch thành phố Hồ Chí Minh, Viện nghiên cứu cây ăn quả miền Nam. Việc mua sắm hàng hóa và triển khai dịch vụ thuộc các tiểu dự án sẽ được thực hiện bởi người vay lại theo hướng dẫn mua sắm của ngân hàng. Tất cả các nhà thầu đã qua sơ tuyển sẽ được lựa chọn theo nguyên tắc đấu thầu cạnh tranh rộng rãi, các hợp đồng cung cấp xe ô tô, vật tư và các trang thiết bị sẽ được thực hiện theo hình thức mua bán quốc tế (trừ những hợp đồng có giá trị thấp hơn 100.000 USD được thực hiện theo cách mua trực tiếp). Hệ thống kiểm tra, giám sát và đánh giá sẽ được hình thành để giám sát tiến trình và lợi ích xuất phát từ dự án. Chuyên gia kiểm tra, giám sát của CPMU sẽ chịu trách nhiệm toàn bộ việc kiểm tra, giám sát tiến độ và các chi tiêu trong dự án với sự giúp đỡ của cán bộ PPMU dựa vào hệ thống thông tin quản lý đơn giản (MIS) và đào tạo để sử dụng một số phương pháp quản lý liên quan trực tiếp cho cán bộ CPMU, PPMU& và các viện nghiên cứu. - Về cơ chế quản lý tài chính chung, quyết định 103 cũng đã nêu ra cơ chế chung (nhưng chưa cụ thể hóa) các yêu cầu về kế hoạch tài chính, các báo cáo tài chính, chế độ kế toán và kiểm toán. Cơ chế quản lý cụ thể sẽ do đơn vị quản lý hợp phần tín dụng (ngân hàng NN&PTNT) lập và trình lên ban chỉ đạo dự án tuy nhiên cần đảm bảo rằng các tiểu dự án tuân thủ theo Nghị định chính phủ số 175/CP về hướng dẫn thi hành luật bảo vệ môi trường, các Nghị định liên quan khác, ngoài ra các đơn vị tài chính tham gia dự án phải sử dụng nguồn tiền huy động từ nông dân, thương nhân với giá trị tối thiểu bằng 10% vốn dành cho tiểu dự án, các khoản vay ngắn hạn sẽ do các đơn vị tài chính ứng nguồn tiền riêng của mình. Khi vốn ADB có hiệu lực, Chính phủ sẽ mở một tài khoản tạm ứng tại một Ngân hàng thương mại đã được chỉ định cho hợp phần phi tín dụng. Các tài khoản tạm ứng sẽ được thiết lập, quản lý, bổ sung và thanh toán phù hợp với nội dung Sổ tay giải ngân vốn vay của ngân hàng. Lượng vốn ban đầu trong các tài khoản tạm ứng sẽ không vượt quá mức dự toán chi tiêu trong vòng 4 tháng. Ngân hàng sẽ kiểm tra báo cáo chi tiêu ít nhất 2 lần trong suốt thời gian thực hiện dự án. Do tình trạng giải ngân và thực thi còn châm do các thủ tục rườm rà nên cần phân cấp quyết định và kiểm tra vốn ở cấp địa phương để xúc tiến việc thực hiện dự án. CPMU sẽ cấp trước một khoản tiền từ tài khoản tạm ứng cho PPMU và các viện nghiên cứu để hoạt động trong 4 tháng. CPMU sẽ soạn thảo hướng dẫn luồng luân chuyển vốn và giải ngân cho PPMU. - Về quản lý tài chính hợp phần tín dụng: Hợp phần tín dụng sẽ chỉ bao gồm cung cấp vốn vay dài hạn với việc trồng mới, thâm canh các vườn cây hiện có, nâng cấp và thiết lập các nhà máy chế biến và bảo quản. Dự án này sẽ không bao gồm các xưởng chế biến loại rất nhỏ, qua phân tích cho thấy rằng các xưởng này có nhu cầu đầu tư tối thiểu nhưng lại có thể hoàn vốn trong 1 vụ do đó không cần vốn hỗ trợ từ chương trình. Do vậy nguồn tín dụng cần phải được cung cấp bởi các quy tín dụng bình thường trực thuộc ngân hàng NN&PTNT. Diện cấp tín dụng sẽ bao gồm 21 tỉnh ban đầu nhưng sau này có thể mở rộng ra một số tỉnh khác. Tương tự như vậy, chính phủ và Ngân hàng NN&PTNT có thể mở nguồn tín dụng cho các cây lâu năm khác ngoài chè và cây ăn quả. Các khoản tín dụng này sẽ được cung cấp với tỷ lệ lãi suất ưu đãi khuyến khích phát triển. Việc giải ngân và điều kiện thanh toán được đánh giá dựa vào cơ sở của chi phí và thu hồi từ các hoạt động khác. Nguồn tín dụng của dự án này sẽ có thể linh động và việc sử dụng sẽ do yêu cầu xác định. Ngoài ra, liên quan đến đơn vị quản lý họp phần này thì vào thời điểm bắt đầu dự án, chỉ có ngân hàng NN&PTNT là có đủ khả năng vì các tổ chức khác như quỹ tín dụng nhân dân, ngân hàng người nghèo, ngân hàng cổ phần nông thôn... chủ yếu là cho vay ngắn hạn. Các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng liên doanh sẽ không có khả năng giải ngân và quản lý vốn vay sản xuất nhỏ một cách có hiệu quả vì chủ yếu do mạng lưới chi nhánh ở thành thị còn ít kinh nghiệm trong cho vay nông nghiệp. Do đó BQLDA trung ương đề nghị trong giai đoạn đầu thì ngân hàng NN&PTNT sẽ là cơ quan chính quản lý hợp phần tín dụng còn trong giai đoạn sau có thể sẽ có thêm quỹ tín dụng nhân dân. Một vấn đề khác là khả năng quản lý của ngân hàng NN&PTNT. Do việc thẩm định và quản lý các khoản vay dài hạn đòi hỏi phải có một năng lực quản lý lớn hơn nhiều so với các khoản vay ngắn hạn, để có thể giảm chi phí hành chính đến một mức chấp nhận được thì Ngân hàng NN&PTNT phải thiết lập một quy mô vay tối thiểu cho một khoản vay (đề nghị là 15 triệu đồng); các khoản trên 150 triệu với chi nhánh cấp huyện và trên 2,5 tỷ với chi nhánh cấp tỉnh cần phải được hội sở chính thẩm định lại. Các khoản vay sẽ có kỳ hạn thanh toán không dưới 5 năm và không quá 15 năm gồm cả thời gian ân hạn 5 năm. Trong 1 năm kể từ khi vốn vay ADB có hiệu lực, Bộ Tài Chính sẽ hình thành quỹ quay vòng để thanh toán tiền gốc và lãi suất của các đơn vị tài chính tham gia dự án - các đơn vị này sẽ sử dụng quỹ quay vòng để trả dần các khoản vay vốn của ngân hàng và tiếp tục cho tiểu dự án vay. Cải cách thể chế - Do phần lớn các viện nghiên cứu nông nghiệp về cây công nghiệp như chè và cao su đều do các Tổng Công ty quốc doanh thành lập nên các hoạt động nghiên cứu chủ yếu được áp dụng cho các nông trường quốc doanh. Sau này, do quá trình tự do hóa, các nông trường bị bãi bỏ nhưng viện nghiên cứu chè vẫn trực thuộc VINATEA và viện nghien cứu rau quả vẫn thuộc VINATEXCO nên đã gây ra sự giảm chi tiêu cho nghiên cứu, mặt khác không một đơn vị nào có trách nhiệm đối với nghiên cứu và chuyển giao, hậu quả là giảm việc chuyển giao và cải tiến công nghệ. Do vậy cần tổ chức lại hệ thống nghiên cứu, đặc biệt là đối với những nhu cầu đang tăng lên của các nhà sản xuất và chế biến quy mô nhỏ chiếm đa số trong ngành nông nghiệp. Ngoài ra để đảm bảo nguồn vốn của dự án được sử dụng có hiệu quả thì việc thay đổi và cải tổ chính sách và thể chế là cần thiết, một số vấn đề cần phải được thỏa thuận trước khi thực hiện dự án để tạo điều kiện cho Viện Chè và Viện Nghiên cứu rau quả độc lập tài chính, có vốn để tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, thành lập tổ chức phát triển cây ăn quả. Dự án sẽ hỗ trợ các nghiên cứu và trợ giúp kỹ thuật trong việc phát triển các kế hoạch hành động hợp lý và BQLDA trung ương sẽ đưa các kiến nghị lên Bộ NN&PTNT để cấp vốn giúp VINATEA và VEGETAXCO trong chương trình cổ phần hóa, cho một số công ty và để nghiên cứu về tự do hóa trong buôn bán với Trung Quốc. Đối với các doanh nghiệp quốc doanh (như VINATEA) cần phải lập danh sách các xí nghiệp sẽ cổ phần, báo cáo tài chính, cử ban kiểm soát và thành lập ban cổ phần hóa của đơn vị. Ban cổ phần hóa sẽ lập kế hoạch bao gồm đánh giá lại tài sản, cổ phiếu, phân chia và bán cổ phần. Các kế hoạch này phải được thảo luận với công nhân và trình Bộ Tài Chính trước khi thực hiện. Mặc dù cả hai tổng công ty chè và rau quả đã khẳng định chắc chắn dự định cổ phần hóa một số đơn vị trực thuộc và dự án đã có trợ giúp kỹ thuật, tài chính nhưng trên thực tế quá trình này diễn ra rất chậm. Do đó, để giảm sự phụ thuộc mức độ thành công của dự án vào các xí nghiệp quốc doanh, BQLDA trung ương đã đề xuất hỗ trợ tín dụng cho các xưởng chế biến trong khu vực tư nhân hiện đang cạnh tranh với các xí nghiệp quốc doanh trong ngành chè và cây ăn quả. - Các viện nghiên cứu trực thuộc các tổng công ty nên chuyển về Bộ NN&PTNT và tập trung vào nghiên cứu các vấn đề mà nông dân và những người chế biến đang quan tâm. Mặc dù việc chuyển giao các viện này chỉ là thủ tục hành chính đơn thuần của Bộ nhưng Bộ NN&PTNT vẫn miễn cưỡng vì vấn đề tài chính. Dự án đã chó chúy ý tới rủi ro này bằng cách tính thêm vào sự hỗ trợ cho các hoạt động vườn ươm thương mại của các viện nghiên cứu để tăng khả năng thu nhập của các viện và giảm bớt sự phụ thuộc vào ngân sách của chính phủ. Mặc dù vật sự đồng ý của chính phủ để chuyển các viện này sẽ là điều kiện để chấp nhận khoản vay. - Về phía chính phủ, các thay đổi về thể chế, chính sách quan trọng đã được thực hiện nhằm tự do hóa nền kinh tế như chia ruộng cho dân, tự do hóa trong tiêu thụ nông sản, tổ chức lại một số tổ chức (giảm bớt quy mô Bộ NN&PTNT và phân chia chức năng cho các tỉnh). Tuy nhiên còn nhiều việc cần phải khuyến khích tư nhân tham gia và giảm vai trò của chính phủ, nhà nước chỉ cần thực hiện các chức năng quan trọng như quy định chính sách, đề ra các tiêu chuẩn về sức khỏe và an toàn, cung cấp dịch vụ công cộng. Ngoài ra, để có thể tăng cường tự do hóa thương mại trong xuất khẩu thì cần phải tăng tỷ lệ của khu vực cá thể, các hạn chế về thương mại và giấy phép cần phải được giảm bớt và hệ thống hóa. Thuy nhiên trên thực tế, các thương nhân, tư nhân vẫn khó tìm được các mối quan hệ quốc tế và không thể cạnh tranh với VINATEA và VEGETEXCO là những đơn vị đã có truyền thống về xuất khẩu. Do đó cần phải đảm bảo các hỗ trợ ban đầu cho các tư thương để xác lập các mối quan hệ như vật. Ngoài ra, vấn đề buôn bán qua biên giới với Trung Quốc cũng phải được giải quyết. Trung Quốc là một thị trường lớn cho cây ăn quả Việt Nam nhưng thông thường thì các tư nhân ngại xuất khẩu các sản phẩm có giá trị cao như vải vì thời gian lưu lại ở biên giới lâu. Giai đoạn thực hiện đầu tư Quản lý giải ngân vốn (+) Cơ chế, thủ tục giải ngân vốn (*) Đối với nguồn vốn vay: Để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn, các khoản chi thường phải có vốn đối ứng từ phía Việt Nam. Do đó trong mỗi hợp đồng đấu thầu hoặc mua sắm, BQL chịu trách nhiệm tách riêng phần vốn đối ứng và phần vốn vay để có thể làm thủ tục giải ngân. Bên cạnh đó, vốn của dự án không được sử dụng để trả các loại thuế nói chung (thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế tiêu thụ đặc biệt...). Do vậy, BQL phải làm thủ tục xin hoàn thuế cho các hạng mục chi có thuế của dự án để chuyển trả phần tiền đã nộp thuế vào tài khoản dự án. Trên thực tế, việc sử dụng đồng thời cả vốn vay và vốn đối ứng cho cùng một công việc làm nảy sinh nhiều rắc rối trong quản lý vì: Phía Việt Nam coi tất cả các khoản chi từ nguồn vốn vay ODA là những khoản chi ngân sách nên áp dụng chính sách quản lý tài chính vốn ngân sách đối với các dự án vốn vay ODA. Trong khi đó, phía nhà tài trợ thường chia tất cả các khoản chi của dự án ra làm 2 loại: (i) những chi tiêu hợp lệ là những chi tiêu được quy định trong Hiệp định dự án và những chi tiêu phát sinh trong quá trình thực hiện dự án mà nhà tài trợ đã cho ý kiến không phản đối và (ii) những chi tiêu không hợp lệ là những chi tiêu không theo thiết kế dự án và những chi phí mang tính chất thu ngân sách của Chính phủ Việt Nam như các loại thuế và phí do chính phủ của bên vay đặt ra. Các chi phí hợp lệ và không hợp lệ có thể lẫn vào nhau (VD: thuế VAT và giá trị hàng hóa). Vì thế việc tách riêng từng khoản chi tiêu là rất khó khăn, đặc biệt là khi các cán bộ dự án tỉnh không thực sự hiểu rõ yêu cầu của nhà tài trợ vốn. Có thể nói đây là một trong những nhiệm vụ khó khăn của bộ phận kế toán trong BQLDA chè-quả và cũng là một nguyên nhân làm chậm tiến độ giải ngân. Sơ đồ 2: Cơ chế quản lý tài chính với nguồn vốn vay Tổ chức tài trợ vốn Tài khoản tín dụng của dự án tại Ngân hàng thương mại quốc tế Bộ Tài Chính Việt Nam BQLDA trung ương Tài khoản tạm ứng của BQL tại 1Ngân hàng thương mại Nhà thầu cung cấp thiết bị và dịch vụ cho dự án Kiểm toán độc lập hàng năm Dòng chuyển tiền Dòng kế hoạch và lệnh chi tiền Dòng chuyển chứng từ và kiểm soát chi Nguồn: Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án chè-quả Để đảm bảo các khoản chi là đúng mục đích,các hợp đồng đấu thầu đều được trình lên BQL đánh giá, sau đó chuyển cho tổ chức tài trợ vốn xem xét. Nếu không có thư phản đối của tổ chức tài trợ thì BQL sẽ phê duyệt kết quả đấu thầu. Bên cạnh đó, cuối năm, BQL thuê và phối hợp với một công ty kiểm toán độc lập, có uy tín quốc tế để xác minh rằng các khoản chi của dự án là hợp lệ và phù hợp với thiết kế của dự án. (*) Đối với nguồn vốn đối ứng: Hàng năm, căn cứ vào nhu cầu vốn thực hiện dự án tại tỉnh do các BQLDA cấp tỉnh trình lên, BQLDA chè-quả sẽ trình Bộ duyệt phân bổ vốn ADB và vốn đối ứng cho tỉnh để thực hiện dự án. Sau khi nhận được thông báo vốn hàng năm của BQLDA chè-quả chuyển về, BQLDA cấp tỉnh sẽ rút tiền từ tài khoản tạm ứng của tỉnh để chi cho các hoạt động của dự án. Sau đó, BQLDA tỉnh sẽ đem các hồ sơ chứng từ có liên quan đến các khoản chi tiêu của mình đến Chi nhánh Kho bạc Nhà nước tại tỉnh để kiểm soát chi. Sau khi đã được Kho bạc kiểm soát chi, các BQLDA cấp tỉnh sẽ sao kê các khoản chi của mình gửi cho BQLDA chè-quả để làm thủ tục hoàn ứng bổ sung tiền vào tài khoản tạm ứng của BQLDA tỉnh để chi cho các hoạt động tiếp theo. Nguồn vốn vay sẽ được chuyển qua tài khoản tạm ứng trong khi nguồn vốn đối ứng từ phía Việt Nam được chuyển thông qua kho bạc với sự chấp thuận của Bộ Tài Chính. Đối với mỗi một hoạt động của dự án, BQL cần phải trình Bộ chủ quản phê duyệt dự toán chi tiết trước khi thực hiện. Sau khi thanh toán các hợp đồng, BQLDA cần tập hợp chứng từ có liên quan đem qua Kho bạc nhà nước để kiểm soát chi. Kho bạc nhà nước sẽ kiểm soát các hoạt động chi tiêu của dự án và xác nhận khối lượng công vi._.bộ khuyến nông ở các trung tâm tỉnh rất ít quan hệ với các cán bộ khuyến nông của các nông trường quốc doanh. - Trong các báo cáo tiến độ các khoản tiền mặt thuộc quỹ quay vòng do do Ngân hàng NN&PTNT và Quỹ tín dụng nhân dân thành lập theo nội dung được ADB chấp thuận, thanh toán tín dụng cả lãi và gốc của dự án nên được phổ biến cho Bộ NN&PTNT biết. Điều này sẽ giúp Bộ NN&PTNT theo dõi 2 đơn vị này một cách hiệu quả nhằm duy trì sử dụng nguồn vốn cho sự nghiệp phát triển ngành chè quả trong thời gian 15 năm còn lại sau khi dự án kết thúc. - Cả 2 dự án đều gặp phải các khó khăn ban đầu làm chậm tiến độ triển khai các hạng mục xây lắp do quy trình thủ tục phức tạp dẫn đến thời gian thẩm định và phê duyệt bị kéo dài, giá vật tư, nhiên liệu liên tục tăng làm thay đổi dự toán. BQLDA chè-quả đã phải thay đổi thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán đến 4 lần và chỉ đi vào ổn định sau khi Bộ NN&PTNT phê duyệt lần cuối vào năm 2004. - Trong quá trình thực hiện dự án, việc thiếu vốn vay dài hạn cho chế biến và sản suất là trở ngại chủ yếu cho sự phát triển. Do đặc điểm của chè và cây ăn quả là các cây dài ngày trong khi đó ngân hàng NN&PTNT chỉ cung cấp một khoản tín dụng trung hạn hạn chế với điều kiện vay không phù hợp với nhu cầu của ngành này. Ngân hàng không muốn cung cấp các khoản vay dài hạn bởi vì hầu hết các khoản tiền gửi vào ngân hàng là ngắn hạn. Những người sản xuất phải dựa chủ yếu vào các nguồn tài chính không chính thức do không đạt được các điều khoản vay vốn với các tổ chức. Mặc dù dự án đã có hỗ trợ một phần khoản vay dài hạn để giúp đỡ ngân hàng NN&PTNT trong việc phát triển các thủ tục hoạt động phù hợp trong cho vay dài hạn, tăng năng lực của ngân hàng trong việc thẩm định và cấp vốn cũng như xây dựng một cơ cấu cho vay dài hạn tốt nhưng thực tế giải ngân của ngân hàng này vẫn rất khó khăn, gặp nhiều thủ tục cản trở. Quản lý vi mô thực hiện dự án - Dự án chè-quả ban đầu được thiết kế trong vòng 6 năm từ tháng 11/2001 đến tháng 12/2006. Trong 3 năm đầu, tiến độ thực hiện dự án tương đối chậm do khủng hoảng tài chính ở Châu Á và các thay đổi về quản lý hành chính Nhà nước. Ngoài ra còn có các yếu tố khác cũng làm ảnh hưởng đến việc chậm trễ này là: (i) việc thực thi của khu vực tự quản làm ảnh hưởng đến việc phân bổ nguồn ngân sách tài chính. (ii) chậm trễ trong việc mua sắm các trang thiết bị phòng thí nghiệm; và (iii) những thay đổi chính sách của Bộ Tài chính về các thủ tục rút tiền. Sau sự chậm trễ ban đầu này, hầu hết các hoạt động dự án đều đi trước theo kế hoạch. Tuy nhiên, theo kiến nghị của BQLDA chè-quả, thời gian thực hiện cuả dự án đã được gia hạn đến ngày 31/12/2007 chủ yếu là để có thêm thời gian phục vụ cho công tác thanh quyết toán tất cả các tài khoản tạm ứng và các tài khoản tạm ứng cấp 2 cho cả hợp phần tín dụng và phi tín dụng; hoàn thành tất cả các hoạt động mua sắm và trao thầu hợp đồng, thực hiện tuân thủ kiến nghị của kiểm toán nêu trong báo cáo kiểm toán năm 2006 và các năm trước đó; trình đơn xin rút vốn cuối cùng và đảm bảo việc chuẩn bị báo cáo hoàn thành dự án. Dự án phát triển sản xuất khoai tây cũng chịu chung tình trang chậm trễ khiến cho các hạng mục không thể triển khai kịp thời do không thống nhất trong cơ chế quản lý. Ví dụ như việc lựa chọn mô hình quản lý tài chính đã tốn khá nhiều thời gian để quyết định giữa các phương án: (i): để ngân hàng phát triển Việt Nam (VDB) có toàn quyền quản lý phần vốn cho hợp phần tín dụng (thẩm định và quyết định cho vay) (ii): để PPMU và các cơ quan chức năng của tỉnh tham gia phân loại đối tượng thụ hưởng theo các tiêu chí kỹ thuật. (iii): Để CPMU lựa chọn 1 ngân hàng thương mại quản lý tài khoản và thẩm định cho vay với hợp phần phi tín dụng. - Một khó khăn khác là do nhân sự hạn chế về số lượng nhân sự nên BQLDA trung ương khó theo dõi hết được các hoạt động của dự án, đặc biệt là khi hầu như tất cả các khoản chi tiêu dù lớn hay nhỏ đều phải có sự xem xét, phê duyệt của cơ quan này. Trên lý thuyết, BQLDA trung ương chỉ có trách nhiệm theo dõi chung việc thực hiện dự án còn các nhiệm vụ tác nghiệp cụ thể liên quan nhiều đến kỹ thuật thì các cán bộ của BQL khó theo dõi được nên việc “xem xét, duyệt chi” tất cả các khoản chi tiêu là quá sức với BQL. Ngoài ra các cán bộ của các BQLDA từ trung ương đến các tỉnh hầu hết là cán bộ biệt phái và cán bộ hợp đồng, lúc ban đầu còn thiếu kinh nghiệm về kỹ thuật cũng như QLDA. Hơn nữa lại có sự thay đổi một số cán bộ lãnh đạo và cán bộ chuyên trách của các BQLDA tỉnh, số cán bộ mới thuyên chuyển về cần phải được tập huấn và có thời gian để nắm bắt nội dung, tiến độ dự án. - Luong, phụ cấp và các chế độ khác cho cán bộ quản lý và cán bộ của dự án chưa được đáp ứng tương xứng, rất khó khăn trong việc tuyển dụng cán bộ có kinh nghiệm và có năng lực, trong khi đó cũng là cán bộ quản lý dự án sử dụng vốn viện trợ không hoàn lại thì lương cao hơn nhiều. - Trong tiểu hợp phần đào tạo-chuyển giao công nghệ, các khóa khọc được thiết kế thành nhiều đợt với thời gian cho mỗi đợt ngắn – cách tổ chức này tuy phù hợp với các buổi tập huấn kỹ thuật trực tiếp cho nông dân nhưng lại không hiệu quả với các lớp học về kỹ năng quản lý-vận hành-kế toán, đặc biệt là khi các cán bộ tỉnh được tập huấn tại Hà Nội do tốn kém về chi phí đi lại, ăn ở. Ngoài ra, thực tế số người cần được đào tạo cao hơn nhiều so với thiết kế ban đầu một phần do chưa dự tính kỹ, một phần do các PPMU dễ dãi trong việc lựa chon đối tượng đi tập huấn. Hầu hết các tỉnh đều đề xuất số người đi đào tạo cao hơn so với thiết kế. - Lãi suất vay vốn áp dụng lãi suất thương mại, không có chính sách ưu đãi trong khi đó các tỉnh tham gia dự án đều là các tỉnh trung du, miền núi, tỉnh nghèo, phần đông là dân tộc thiểu số, dân trí còn hạn chế, thu nhập thấp nên đã có ảnh hưởng đến tiến trình của dự án. - Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý tài chính của dự án đã có nhiều tiến bộ so với trước đây nhưng vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu thực hiện dự án. Điều này rất hạn chế trong việc xử lý thông tin cũng như không phù hợp với thói quen làm việc của nhà tài trợ và phần nào đã làm giảm tiến độ thực hiện dự án khi thông tin không được xử lý kịp thời. Nguyên nhân là do trình độ tin học rất có hạn của nhiều cán bộ dự án cấp trung ương và cơ sở, đặc biệt là các cán bộ đã tuổi cao rất khó tiếp thu và sử dụng các chương trình phần mềm về quản lý tài chính kế toán. - Dự án phát triển sản xuất khoai tây vẫn còn thiếu tính bền vững. Nguyên nhân thứ nhất là do các hoạt động và kết quả mới chỉ thực hiện được ở các vùng làm điểm trong 8 tỉnh trên phạm vi hẹp, chưa xuống sâu được nông dân và mức độ hỗ trợ của dự án vẫn còn cao. Lý do thứ hai là sản xuất khoai tây chưa đạt quuy mô lớn, đại trà nên giá thành củ giống vẫn còn cao. Mặt khác, các chính sách hỗ trợ khoai giống trong nước còn yếu cần được đẩy mạnh nhằm hạn chế việc nhập khoai tây giống chất lượng thấp từ Trung Quốc... Tóm lại, khả năng cạnh tranh của khoai tây giống sản xuất trong nước của dự án vẫn chưa bền vững và cần có sự trợ giúp thêm một thời gian nữa. Thêm vào đó, trong xu thế hội nhập như hiện nay, việc hài hòa các biện pháp kiểm dịch thực vật nhằm phát triển thương mại Việt Nam chưa làm được nhiều nên rất cần hỗ trợ về kỹ thuật của các nước tiên tiến. Với những lý do nêu trên, dự án phát triển sản xuất khoai tây cần có giai đoạn 2 để tăng tính bền vững của hệ thống. Giám sát, đánh giá dự án (*) Với dự án chè-quả: - Việc đánh giá hiệu quả thực hiện ở một số hợp phần như chất lượng đào tạo; chất lương thông tin thị trường cung cấp còn chưa được quan tâm đúng mức dẫn đến tình trạng “lạm phát” tập huấn, hội thảo ở các tỉnh. Nguyên nhân một phần là do các nội dung này không có các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá, mặt khác - Thời gian đánh giá cuối kỳ dự án là khá lâu. Dự án chè-quả kết thúc từ T12/2007 nhưng phải đến T12/2008 mới hoàn thành báo cáo đánh giá cuối kỳ. Một phần nguyên nhân là do công viêc kiểm toán và thanh quyết toán vốn đầu tư triển khai chậm mặc dù BQLDA trung ương đã rất tích cực hợp tác với đoàn đánh giá của ADB nhưng do những khó khăn về quản lý tài chính đã nêu ở trên nên công việc kiểm soát các khoản chi trở nên phức tạp. (*) Với dự án phát triển sản xuất khoai tây: - Với dự án phát triển sản xuất khoai tây thì một vài chỉ tiêu phản ánh mục tiêu của dự án vẫn chưa rõ ràng ví dụ như mục tiêu “sản xuất giống bền vững” vẫn chưa có chỉ tiêu đánh giá cụ thể để có thể lượng hóa được. Các chỉ tiêu trong Kế hoạch thực hiện dự án, đặc biệt trong Ma trận kế hoạch dự án và kế hoạch hoạt động cũng cần được xác định rõ ràng hơn. Công tác quản lý việc cung cấp các dịch vụ dự án được thực hiện một cách thường kỳ, tuy nhiên việc quản lý đánh giá các tác động của dự án cấn phải được mở rộng hơn nữa. Chương 2: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả QLDA Dh Định hướng Nhiệm vụ của BQL trong thời gian tới Mặc dù dự án phát triển chè và cây ăn quả đã kết thúc nhưng BQLDA trung ương vẫn tiếp tục tham mưu cho Bộ NN&PTNT về phương án phát triển ngành này trong thời gian tới. Ngoài ra BQL sẽ tiếp tục quản lý giai đoạn 2 của dự án phát triển sản xuất khoai tây (triển khai từ T2-2009 đến T2-2010). (*) Mục tiêu của dự án phát triển sản xuất khoai tây trong giai đoạn tới: - Trong giai đoạn này cần tiếp tục thực hiện mục tiêu tổng thể của dự án là: “tăng thu nhập cho các nông hộ quy mô nhỏ“ với các chỉ tiêu cụ thể: Thu nhập chủ yếu từ khoai tây tăng từ 30% năm 2008 lên 40% năm 2009; tăng số nông hộ từ 7.000 hộ lên khoảng 10.000 hộ“. Đồng thời giai đoạn 2 cũng có các mục tiêu riêng như: - Các hộ nông dân sản xuất nhỏ cần đưa thâm canh khoai tây vào hệ thống canh tác. Các chỉ tiêu cụ thể là: Giảm thiểu tới mức thấp nhất tỷ lệ nhiễm virus và sâu bệnh; số hộ nông dân tham gia sử dụng vật liệu trồng cải tiến tăng từ 8000 (2008) lên 12000 (2009) với tổng diện tích vùng trồng khoai tây là 250ha (2008) lên 370ha (2009). - Nâng cao tính hiệu quả và tính bền vững các hệ thống nhân giống khoai tây áp dụng công nghệ nuôi cấy mô và nhân nhanh; triển khai thành công phương thức nhân giống khoai tây tại các vùng thí điểm; nâng cao nhận thức về công tác xác nhận giống vầ kiểm soát chất lượng để đảm bảo quyền lợi cho người nông dân của các đơn vị sản xuất và cung ứng giống cũng như của cơ quan quản lý chất lượng; thực hiện quyền tác giả với các giống được bảo hộ. - Tăng cường quy trình xác nhận khoai tây giống, kiểm dịch thực vật và đẩy mạnh quy trình đăng ký giống khoai tây đã được nâng cấp sao cho phù hợp với các quy định của Hiệp định SPS, Hiệp định nông nghiệp và hiệp định GMS. - Truyền bá, củng cố hình ảnh khoai tây giống cá chất lượng với giá thành hợp lý đến đông đảo người dân trồng khoai tây ở đồng bằng sông Hồng. - Ghi chép và tính toán chi phí sản xuất giống một cách rõ ràng ở từng giai đoạn nhân giống cho đến khi sản xuất ra giống xác nhận với sự tham gia của tất cả các đơn vị có liên quan, các trung tâm giống, các hợp tác xã... - Tập trung vào các biện pháp giảm chi phí trong toàn bộ quá trình nhân giống để giảm giá giống khoai xác nhận một cách liên tục và ổn định, thông qua đó sẽ làm lợi cho những hộ nông dân trồng khoai thương phẩm - Tăng cường việc sử dụng giống khoai xác nhận có dán nhãn đối với tất cả các địa phương trồng khoai tây - Nghiên cứu toàn bộ ngành hàng khoai tây giống và khoai tây thương phẩm như một doanh nghiệp thương mại để tối ưu hóa hoạt động kinh tế của nó. (*) Yêu cầu đặt ra với BQL trong thời gian tới - Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong QLDA Do hiện nay, việc QLDA hầu như không áp dụng công nghệ thông tin. Điều này rất hạn chế trong việc xử lý thông tin cũng như không phù hợp với thói quen làm việc của nhà tài trợ do đó đã làm giảm tiến độ thực hiện dự án khi thông tin không được xử lý kịp thời. Như vậy cần thiết phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Hệ thống này sẽ liên kết giữa các cơ quan quản lý của địa phương với mạng máy tính ở các cơ quan điều phối quản lý cấp trung ương như Bộ KH-ĐT, Bộ Tài chính, văn phòng Chính phủ,... với các BQLDA và với nhà tài trợ. - Thống nhất phương pháp điều tra, giám sát, đánh giá dự án - Nâng cao khả năng quản lý tài chính cho các cán bộ dự án Một trong những biện pháp quan trọng để thúc đẩy giải ngân các dự án ODA hiện nay là tăng cường năng lực quản lý tài chính cho các nhân viên phụ trách tài chính của BQLDA trung ương cũng như của các BQLDA tỉnh để vừa có thể đáp ứng các tiêu chuẩn kế toán-tài chính của Bộ Tài Chính vừa tuân thủ các yêu cầu của tổ chức tài trợ. Vì với mỗi dự án có một nhà tài trợ khác nhau nên yêu cầu về quản lý tài chính-giải ngân cũng khác nên BQLDA trung ương cần “đi trước” tìm hiểu các quy định này để có thể quán triệt cho các đơn vị thực hiện. Đây là việc cần làm ngay từ khi dự án bắt đầu triển khai để có thể có một hệ thống báo cáo tài chính thống nhất và đạt tiêu chuẩn. Do đó nên có các chính sách đào tạo tăng cường năng lực cho các cán bộ dự án bên cạnh các chính sách khuyến khích, động viên, tạo công ăn việc làm ổn định cho các cán bộ dự án trước và sau dự án để ngày càng có nhiều cán bộ đủ năng lực tham gia điều hành các dự án. Có như vậy thì tình trạng chậm giải ngân phổ biến hiện nay mới có thể được khắc phục. Thuận lợi và khó khăn (*) Thuận lợi: - Nhà nước luôn tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển nên cơ hội cho các doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh, thúc đẩy thương mại được tăng thêm tạo đầu ra cho sản phẩm. - BQL đã rút được nhiều bài học kinh nghiệm từ quá trình quản lý dự án phát triển chè và cây ăn quả do đó các yêu cầu của nhà tài trợ và nhà nước được tuân thủ thống nhất giữa các đơn vị thực hiện dự án ngay từ đầu. - So với dự án chè-quả, dự án phát triển sản xuất khoai tây có sự hỗ trợ kỹ thuật trực tiếp từ GTZ thông qua các chuyên gia được cử từ bên Đức sang. - Giai đoạn 1 được thực hiện tốt đã tạo ra một bước phát triển vững chắc cho ngành sản xuất khoai tây Việt Nam cả về số lượng và chất lượng. Nhiều hợp tác xã đã đạt năng suất 40-45 tấn/ha nhờ sử dụng giống sạch bệnh sản xuất theo công nghệ nuôi cấy mô, nhân nhanh và các kỹ thuật khác do đó dự án có được sự tin tưởng, đồng thuận với các nông hộ. Ngoài ra, giai đoạn 1 đã xây dựng được cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho hệ thống nhân giống khoai tây sạch bệnh do đó khoai tây giống sản xuất trong nước cũng đã nhiều hơn, giá thành hạ và chất lượng đảm bảo, phần nào đáp ứng được nhu cầu sản xuất trong nước. - Nhu cầu của thị trường trong nước cũng như xuất khẩu tăng lên đáng kể. Khoai tây không chỉ được sử dụng như một loại thực phẩm sạch, giàu dinh dưỡng mà còn là nguyên liệu cho một số nhà máy chế biến, xuất khẩu sang Malaysia, Nhật Bản... - Trong tình trạng ngày càng thiếu nước hoặc nước bị ô nhiễm thì việc sản xuất khoai tây lại đòi hỏi ít nước, ít thuốc trừ sâu hơn so với trồng lúa, thời vụ linh hoạt, có thể xen canh do đó sản xuất khoai tây mang lại nhiều lợi ích cho người dân. (*) Khó khăn: - Khó khăn về kỹ thuật: Khoai tây giống trong nước hiện vẫn không đủ về số lượng do giống sản xuất trong nước phần lớn bị thoái hóa, khoai tây giống nhập khẩu quá đắt đối với nông dân sản xuất nhỏ, việc sử dụng giống nhập khẩu chất lượng thấp dẫn tới tình trạng khoai tây nhiễm bệnh tràn lan do không có cơ chế kiểm dịch, kiểm định chất lượng. Ngoài ra, kỹ thuật nhân giống trong phòng thí nghiệm cũng như bí quyết sản xuất đã cải tiến (cả trong việc chọn giống) chưa được phổ biến rộng rãi.. Bởi vậy đầu ra của giống có chất lượng còn thấp. Chất lượng giống không đồng đều, kỹ thuật và công nghệ canh tác lạc hậu, sản xuất manh mún, thiếu tập trung, chưa thành vùng sản xuất hàng hóa, công nghệ bảo quản và chế biến sau thu hoạch còn yếu và cuối cùng là khả năng tiếp thị sản phẩm còn hạn chế. Trong đó yếu tố nguồn giống, chất lượng giống và kỹ thuật canh tác được coi là những khó khăn và thách thức chính. - Các quy định, hướng dẫn chi tiết của nhà nước về đăng ký và xác nhận giống cũng như yêu cầu cụ thể đối với các cán bộ làm công tác này vẫn chưa có. Các biện pháp kiểm dịch hiện tại còn chưa đáp ứng yêu cầu. - Các mục tiêu của dự án chưa được xác định rõ ràng và có các chỉ tiêu đánh giá cụ thể do đó gây khó khăn cho công tác quản lý chất lượng. (*) Một số bài học rút ra từ việc thực hiện dự án chè-quả và giai đoạn 1 của dự án khoai tây: - Các quy định và thủ tục về thực hiện dự án ở địa phương đã được hình thành ngay từ đầu, điều này đóng góp rất quan trọng cho sự thành công của dự án. Tiến độ về tăng cường xây dựng năng lực được triển khai kết hợp với quá trình thực hiện dự án rất hữu ích trong việc đẩy nhanh tiến độ dự án. Việc phân cấp thực hiện dự án đã giúp địa phương có tính chủ động ở mức nào đó. PPMU đóng vai trò then chốt trong công tác theo dõi và giám sát dự án, giúp tạo điều kiện thúc đẩy công. - Các chương trình đào tạo, chuyến thăm quan học tập nên được thiết kế nhằm hỗ trợ thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này. Dự án nên phân cấp thực hiện cho tỉnh. Tuy nhiên, Ban quản lý dự án Trung ương (CPMU) nên xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá, tiến hành các đoàn công tác theo dõi kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. - Công tác cải cách chính sách và thể chế cũng được triển khai một cách hiệu quả hơn vì có sự thống nhất giữa VBARD, CPMU, các PPMU, các viện nghiên cứu và các cơ quan của Chính phủ ngay từ khi bắt đầu thực hiện dự án. Một kế hoạch hành động có khung thời gian rõ ràng cho công việc thực hiện công tác cải cách này và các điều kiện giải ngân cũng đã được thống nhất ngày từ thời điểm ban đầu của dự án. - Việc áp dụng lãi suất thương mại dựa vào thị trường dành cho các nhóm dân tộc thiểu số ở vùng sâu vùng xa đã được thiết kế với sự kết hợp thêm với chương trình cho vay xoá đói giảm nghèo khác sẵn có trong vùng. Mức lãi suất thị trường được họat động một cách có hiệu quả hơn khi kết hợp với các nỗ lực khác nhau nhằm hỗ trợ cho các chi phí họat động của nhiều bên tham gia trong việc giảm nghèo đói. Mức lãi suất thị trường và sự linh họat trong việc tạo ra năng lực đối với các cá nhân là đối tượng thuộc dự án có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định bền vững của dự án. Một số giải pháp và kiến nghị Về quản lý phạm vi - Cần có kiến nghị giới hạn lĩnh vực can thiệp vào các nội dung: Nhân giống, xác nhận, đăng ký, kiểm dịch, chính sách giống và kinh tế nông nghiệp. Không nên chú trọng vào các hoạt động khuyến nông chung mà cần tập trung đặc biệt vào hoạt động nhân giống. Về việc này cần chú ý tới các quy định của WTO. Để có thể tuân thủ tốt cam kết về Các biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch động thực vật - SPS (Sanitary and Phytosanitary Measures Agreement) cần hoàn thiện các tiêu chuẩn kiểm định giống và chất lượng trong nước cho đạt các tiêu chuẩn quốc tế do đó sẽ tránh được các khó khăn về xuất khẩu sau này. Vì thế BQLDA trung ương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương và các đơn vị thưc hiện dự án để quán triệt các tiêu chuẩn kiểm định vào sản phẩm. - Dự án cần tập trung nguồn lực hạn chế của mình vào quy trình nhân giống được lựa chọn và hứa hẹn nhất chứ không thể và không nên cố gắng cung cấp hoặc thu xếp để cung cấp khoai tây giống cho toàn bộ diện tích trồng khoai theo kế hoạch của Bộ. Phương thức nhân giống hiện tại cũng cần được tiếp tục ví dụ như nhân giống trên cơ sở hợp đồng hợp tác với nông dân (hợp tác xã, nông dân ký hợp đồng, công ty giống cây trồng trung ương I). - Trong giai đoạn tới cần tiếp tục hoạt động dựa trên cơ sở hình mẫu hoặc thí điểm trên tất cả các cấp độ của dòng giống, tập trung vào nhân giống đã được chọn lọc và hứa hẹn có khả năng phát triển. Phương thức tiếp cận nhân giống trên cơ sở hợp đồng với nông dân cần được tiếp tục nhưng các hoạt động cần tập trung vào các hợp tác xã / xã được lựa chọn như trong khung thiết kế ban đầu. Các hoạt động khuyến nông cần tập trung vào nhân giống nhưng cần có đầy đủ các thông tin và tài liệu cụ thể hóa cho các đơn vị khuyến nông nhà nước và tư nhân. 2 kỹ thuật nhân nhanh RMT và nhân bằng hạt TPS cần được tiếp tục thực hiện song song. - BQLDA trung ương nên tập trung vào công tác quản lý chung như quản lý tiến độ, các báo cáo, giải ngân... thay vì can thiệp sâu vào chuyên môn của các đơn vị thực hiện. Khi cần thì có thể thuê các tư vấn kỹ thuật hoặc phối hợp với các đơn vị như trung tâm khảo kiểm nghiệm giống cây trồng trung ương hay cục bảo vệ thực vật để được tư vấn. - Ngoài ra, với dự án phát triển chè và cây ăn quả, ADB nên xem xét tiếp tục hỗ trợ Việt Nam trong thị trường chè quả cũng như sản xuất các nguyên liệu trồng trọt hướng tới khách hàng đối với thị trường trong và ngòai nước. Những nghiên cứu thị trường nên tập trung hỗ trợ cho các dự án tương tự tiếp theo. Những nghiên cứu thị trường sẽ một vai trò quan trọng cho các họat động dự án các khu vực phát triển chè và cây ăn quả, xác định nguyên liệu canh tác phù hợp, các công nghệ chế biến và xử lý sau thu hoạch cũng như các họat động phi tín dụng khác, từ đó tiếp tục phát triển hơn nữa ngành sản xuất này ở Việt Nam. Về huy động và giải ngân vốn - Do mức lương cơ bản đã được điều chỉnh tăng từ năm 2009 nên cần có sự điều chỉnh về chi phí nhân sự của dự án, đặc biệt là cần xin cấp thêm vốn từ GTZ và Bộ NN&PTNT. Hiện nay BQL đã có công văn gửi lên Bộ nhưng vẫn còn đang trong tình trạng chờ phê duyệt. - Cần tập trung hơn nữa vào việc tăng cường năng lực và nâng cao ý thức trách nhiệm của các cán bộ tham gia quản lý tài chính vì đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định tiến độ giải ngân của dự án. Một trong những bộ phận cần có biện pháp tăng cường năng lực và kiện toàn bộ máy là các cán bộ tài chính kế toán của các Ban PPMU tỉnh. Do số lượng cán bộ tài chính kế toán của các Sở NN& PTNT có hạn nên các tỉnh cần phải có chính sách để đào tạo, thành lập một đội ngũ chuyên quản lý tài chính kế toán của các dự án. - Cần thống nhất phương pháp quản lý tài chính cho từng PPMU trước khi triển khai dự án sao cho phù hợp với yêu cầu của nhà tài trợ. Do các dự án thường có các dòng chi có tính chất đặc thù và theo các tỷ lệ rất khác nhau như các cam kết của Chính phủ Việt Nam với nhà tài trợ cho từng dự án. Tính đặc thù của các dòng chi đòi hỏi cán bộ tài chính kế toán phải đầu tư thời gian và công sức để tìm hiểu nội dung của từng dự án. - Do hầu hết các dự án gần đây đều gặp khó khăn do trượt giá, việc thỏa thuận bù giá cho nhà thầu luôn tốn thời gian nên có thể khuyến khích chính quyền địa phương tạm ứng bằng ngân sách tỉnh để nhà thầu có thể tiếp tục thi công trong lúc chờ các cấp trung ương xét duyệt tỷ lệ bù giá. - Theo kế hoạch, dự án phát triển sản xuất khoai tây sẽ kết thúc vào đầu năm 2010 nhưng các báo cáo giữa kỳ đã cho thấy đây là một dự án mang lại hiệu quả rõ rệt, làm tăng thu nhập cho các hộ nông dân trồng khoai tây thương phẩm nên cần tiếp tục kéo dài và mở rộng dự án, nghĩa là nên có thêm giai đoạn 3 vào năm 2010 với mục tiêu là phổ biến công nghệ mới (phương pháp nhân giống nhanh RMT và nhân giống bằng hạt lai TPS) cho các tỉnh khác ở miền Bắc. - Về vấn đề định mức chi tiêu, mặc dù định mức này là do Bộ tài chính và bộ NN&PTNT đề ra, việc kiến nghị và thay đổi sẽ khó khăn và mất thời gian, tuy nhiên BQLDA trung ương có thể đề xuất tăng quỹ lưu động dùng để tạm ứng cho các khoản chi đột xuất vượt quá định mức. Về sự phối hợp với các đơn vị khác - Nên giảm bớt số đơn vị chịu trách nhiệm và tham gia quản lý chung của dự án vì như vậy sẽ không xác định rõ trách nhiệm thuộc về ai và việc quản lý sẽ bị chồng chéo. Khi Bộ NN&PTNT đã ủy quyền cho BQLDA trung ương thì nên giao quyền quyết định cho giám đốc dự án để BQL có thể tự chủ hơn và phản ứng kịp thời với các yêu cầu của dự án. - Tăng cường trách nhiệm cho các đơn vị tham gia thực hiện dự án, đặc biệt là trong khâu lập kế hoạch của các PPMU. Các PPMU là đơn vị giám sát trực tiếp việc thực hiện dự án ở địa phương mình nên nắm rõ được các khó khăn của địa phương tuy vậy khi lập kế hoạch cần có sự phối hợp với các PPMU khác chứ không phải chỉ trình kế hoạch giải ngân của địa phương mình rồi ngồi chờ CPMU điều phối nguồn lực giữa các tỉnh. - Cần tiếp tục quan điểm giúp đỡ cả khối nhà nước (xác nhận, kiểm định chất lượng, đăng ký -cấp phép) và tư nhân (thương mại, nhập khẩu và nhân giống) song cần chú ý hơn tới khối tư nhân. - Từ quan điểm trên cho thấy cần điều chỉnh số đơn vị hợp phần tham gia dự án cho phù hợp ví dụ như cần có thêm sự phối hợp của Viện Kinh tế nông nghiệp, Phòng kiểm dịch-cục bảo vệ thực vật, Cục chế biến và ngành nghề nông thôn và trường Đại Học Nông Nghiệp I tham gia vào cơ cấu thực hiện dự án. - PPMU nên có thể thay đổi các quy định và các thủ tục đối với việc thực hiện dự án tại địa phương mình càng sớm càng tốt. Các chương trình đào tạo và chuyến thăm quan học tập nên được thực hiện để hỗ trợ trợ cho công việc thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, dự án nên phân quyền cho cấp tỉnh. Tuy nhiên, Ban quản lý dự án của tỉnh (PMU) nên thiết lập một hệ thống chỉ đạo và đánh giá, tiến hành các đoàn kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. - Tăng cường hơn nữa tính tự chủ ở địa phương, BQLDA trung ương nên tiến hành thực hiện một bản ghi nhớ giữa các Ban quản lý dự án tỉnh, Viện Nghiên cứu, ngân hàng NN&PTNT và hoặc đơn vị tài chính tham gia dự án và hệ thống hành chính Nhà nước ngay từ khi bắt đầu dự án. Một kế hoạch hành động khung thời gian để thực thi những cải cách này nên được miêu tả một cách rõ ràng và thống nhất giữa các bên, và các hành động cụ thể nên được xác định một cách rõ ràng thêm các điều kiện giải ngân các quỹ vay - Cải cách thủ tục hành chính hiện nay đang theo hướng phi tập trung hóa, tức là phân quyền về cho các cấp quản lý cơ sở và địa phương. Tuy nhiên, hiện nay, Bộ NN&PTNT vẫn còn rất lúng túng trong công tác cải cách hành chính và phân quyền đối với các dự án. Điều này đòi hỏi Bộ phải nỗ lực nhiều hơn nữa trong công tác nghiên cứu về tổ chức, phân rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cá nhân và tổ chức tham gia quản lý và thực hiện dự án để tránh tình trạng rất nhiều cán bộ có quyền lực đối với dự án nhưng lại không có trách nhiệm khi dự án chậm giải ngân. Do các thủ tục hành chính trong quản lý tài chính của nước ta hiện nay còn mang nặng tính hình thức, thủ tục giấy tờ rườm rà, có quá nhiều quy định và khâu trung gian nên nảy sinh nhiều tiêu cực dẫn đến các khâu chạy thủ tục giấy tờ còn quan trọng hơn các công việc kỹ thuật phục vụ thực hiện dự án. - Dự án cần hợp tác chặt chẽ hơn nữa với nhiều dự án khác do GTZ quản lý ở Việt Nam, Trung Quốc và Đức và với trung tâm khoai tây quốc tế ở Peru; các hợp phần giống khác được tài trợ bởi DANIDA. - Ngoài ra, với dự án phát triển chè và cây ăn quả, để có thể phát huy các thành quả mà dự án đã tạo ra, Bộ NN&PTNT nên lập một kế hoạch dài hạn cho dự án phát triển chè quả, đề ra một chiến lược lâu dài đến năm 2020 nhằm hướng dẫn họ trong việc thúc đẩy sản xuất các cây ăn quả khác nhau trong các khu vực khác nhau chủ yếu dựa vào các điều kiện đất, địa hình và khí hậu. Trong kế hoạch này cần bao gồm một khoản bổ sung uớc tính chi phí cần thiết cho cải thiện môi trường, nâng cao chất lượng sản phẩm và thúc đẩy thị trường Về công tác quản lý vi mô thực hiện dự án - Để có thể giảm thiểu sự chậm trễ trong giai đoạn đầu dự án (do sự không thống nhất giữa các cơ quan chức năng trong việc xác định cơ chế quản lý tài chính và cơ chế ra quyết định), cần có sự tham gia và thống nhất của các cơ quan có liên quan như Bộ Tài Chính, Kho Bạc, Bộ Xây Dựng, chính quyền địa phương... ngay từ khi nghiên cứu, lập hồ sơ dự án trong đó có sự chú trọng đúng mức hơn vào việc nghiên cứu cơ cấu quản lý dự án cấp trung ương. - Rút kinh nghiệm từ dự án chè-quả, các chương trình đào tạo, chuyến thăm quan học tập nên được thiết kế nhằm hỗ trợ thực hiện dự án. Dựa vào kinh nghiệm của dự án này, tuy phân cấp thực hiện cho tỉnh nhưng Ban quản lý dự án Trung ương cũng nên xây dựng một hệ thống theo dõi và đánh giá, tiến hành các đoàn công tác theo dõi kiểm tra thường xuyên nhằm hỗ trợ cho các cơ quan địa phương. - Cần thiết phải ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý. Hệ thống này sẽ liên kết giữa các cơ quan quản lý của địa phương với mạng máy tính ở các cơ quan điều phối quản lý cấp trung ương như Bộ KH-ĐT, Bộ Tài chính, văn phòng Chính phủ,... với các Ban QLDA và với nhà tài trợ. Về công tác giám sát, đánh giá dự án - Cần cụ thể nguồn và phương pháp thu thập dữ liệu giám sát với từng mục tiêu cụ thể ví dụ như: (*) Với mục tiêu “đưa thâm canh khoai tây vào hệ thống canh tác“ cần áp dụng các phương pháp: Điều tra mẫu chuẩn hóa, ngẫu nhiên đối với nông dân trồng và không trồng khoai tây trong vùng dự án; Thăm dò ý kiến một cách chuẩn hóa từ những người có vị trí như Chủ nhiệm hợp tác xã, trưởng thôn...; Phỏng vấn theo cơ cấu khuyến nông viên (cả nhà nước và tư nhân). (*) Với mục tiêu “Triển khai phương thức nhân giống“ cần áp dụng các phương pháp: In sẵn các bảng dữ liệu điều tra để các hợp tác xã và các đơn vị có hợp đồng điền vào; kiểm tra chéo. (*) Với mục tiêu “Tăng cường quy trình xác nhận khoai tây giống“ cần áp dụng các phương pháp: Cho các nhân viên liên quan điền vào bảng biểu; Kiểm tra chéo giữa các nhân viên dự án và khách hàng được chọn. - Tiêu chuẩn hóa các tiêu chuẩn, quy trình đăng ký - kiểm tra – giám sát chất lượng ví dụ như với mục tiêu “Đẩy mạnh quy trình đăng ký giống khoai tây“ cần áp dụng các chuẩn quốc tế như DUS, VCU và các quy định của WTO, TRIPS. Tài liệu tham khảo Quyết định số: 103/2001/QĐ-BNN Ngày 11 tháng 10 năm 2001 của bộ trưởng Bộ NN&PTNT về việc ban hành quy chế tổ chức và thực hiện Dự án Phát triển chè và cây ăn quả Tài liệu dự án khả thi của dự án phát triển chè và cây ăn quả – Bộ NN&PTNT Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện giữa kỳ dự án phát triển chè và cây ăn quả - BQLDA trung ương tháng 12/2004 Báo cáo hoàn thành dự án phát triển chè và cây ăn quả - ADB và Chính phủ tháng 12/2008 Các phụ lục và bảng biểu của báo cáo đánh giá giữa kỳ và cuối kỳ Tài liệu thẩm định dự án phát triển sản xuất khoai tây – Bộ NN&PTNT Báo cáo kết quả hoạt động giai đoạn 1 dự án phát triển sản xuất khoai tây – BQLDA trung ương tháng 12/2008 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6283.doc