Tiểu thuyết Lê Lựu - Thời kỳ đổi mới

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH ------------------------------ NGUYỄN THỊ HIỀN TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI Chuyên ngành: Văn Học Việt Nam Mã số: : 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS: TRẦN HỮU TÁ Thành phố Hồ Chí Minh - 2007 MỤC LỤC LỜI CẢM ƠN Trong suốt quá trình học tập, tôi đã nhận được sự hỗ trợ tích cực và những điều kiện thuận lợi từ Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp.

pdf103 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2198 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Tiểu thuyết Lê Lựu - Thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hồ Chí Minh. Vì vậy, đầu tiên, cho phép tôi được nói lời cảm ơn chân thành nhất gửi đến quý thầy cô giáo, các cán bộ của Phòng Đào Tạo Sau Đại Học - Trường Đại Học Sư Phạm Tp. Hồ Chí Minh. Đặc biệt, cho phép tôi gửi lời cảm ơn sâu sắc và chân thành nhất đến PGS. TS Trần Hữu Tá. Thầy đã không quản thời gian, công sức để tân tâm, tận tình, ân cần chỉ bảo, dẫn dắt cho tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thành đề tài luận án của mình. Bên cạnh đó, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn đến những bạn bè đồng nghiệp. Họ là những người luôn động viên khích lệ tôi vững bước trên con đường mà mình đã lựa chọn. Cuối cùng, tôi xin nói lời cảm ơn Cha - Mẹ, người đã sinh ra tôi, nuôi tôi khôn lớn. Người đã hướng dẫn, chỉ cho tôi con đường đi đến thành công. MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học Việt Nam giai đoạn 1945 đến 1975 mang vẻ đẹp lãng mạn của những con người sống vì lý tưởng mà những mất mát hy sinh chỉ góp phần làm cho ý chí, tinh thần con người càng thêm rạng rỡ. Khi chiến tranh qua đi, con người mới kịp bình tâm nhìn lại hiện thực khắc nghiệt mình đã trải qua với bao nhiêu nỗi niềm. Chiến tranh đã đi qua nhưng vết thương về chiến tranh vẫn còn mãi. Bước sang thời kỳ đổi mới, lịch sử dân tộc chuyển sang trang mới. Đất nước mở cửa giao lưu với bạn bè thế giới và xây dựng cuộc sống hòa bình. Lúc này với tư tưởng nhìn thẳng vào sự thật, đổi mới tư duy đã thúc đẩy nền văn học vốn đã chuyển mình nay nhanh chóng đổi thay diện mạo. Cuộc chiến đấu cho quyền sống của cả dân tộc đạt những thành tựu vĩ đại. Đất nước hoàn toàn được giải phóng. Nhiệm vụ của cuộc chiến tranh giành độc lập đã hoàn thành. Giờ đây, cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người được đặt lên hàng đầu. Do vậy, nền văn học đứng trước nhu cầu mở rộng hơn nữa trong việc phản ánh mọi mặt cuộc sống đa dạng và phức tạp. Tất cả những lý do trên chính là nguyên nhân của khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn nhạt dần, được thay thế bởi cảm hứng đời tư thế sự. Các vấn đề về cuộc sống, giá trị đạo đức, ý thức dân chủ, về cái tôi ……đã trở thành chủ đề nổi bật khiến cho văn học càng đổi mới mạnh mẽ. Người ta hình dung lại con người, thay đổi cách miêu tả, sử dụng ngôn ngữ, giọng điệu mới. Tất cả những điều này chúng ta bắt gặp trên từng trang viết của các nhà văn. Họ trăn trở tìm hướng đi mới cho con thuyền văn chương của mình. Có người lặng lẽ đối chứng lại với những quan niệm sơ lược hoặc phiến diện một thời về thế sự, để từ đó nhằm đấu tranh cho sự hoàn thiện của mỗi con người trong thời đại mới như Nguyễn Minh Châu. Có người suy ngẫm về quá khứ để nắm bắt nhịp thở của hiện tại như Dương Thu Hương...Có người tìm đề tài trong những cái bề bộn phức tạp của hiện thực cuộc sống, đối thoại cùng người đọc để tìm ra biện pháp tháo gỡ như Nguyễn Khải, Nguyễn Mạnh Tuấn...Có người lại nhìn nhận thực tại và đối chứng với quá khứ đau thương của một thời đạn bom khói lửa như Bảo Ninh...Và cùng chung dòng chảy đó chúng ta bắt gặp Lê Lựu – một trong những cây bút đã góp phần không nhỏ vào sự thay đổi nhanh chóng bộ mặt nền văn học Việt Nam lúc bấy giờ. Trước thực tế đầy biến động của lịch sử, những tiểu thuyết Thời xa vắng (1984), Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995) lần lượt ra đời như những bức tranh sinh động, khắc hoạ chân thực chủ yếu những tháng ngày đầu đất nước trong thời kỳ đổi mới. Tìm hiểu những tiểu thuyết kể trên, ta sẽ hiểu thêm về thể loại tiểu thuyết của một thời kỳ văn học sôi động. Đồng thời qua đó, người viết muốn tìm hiểu những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn này. Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép của đề tài, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những đặc điểm tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới để nhằm hiểu một cách thấu đáo hơn phương thức xây dựng tác phẩm, những đặc sắc trong việc miêu tả, nội dung hiện thực được phản ánh và những nét riêng biệt của nhà văn so với các tiểu thuyết gia cùng thời. Từ đó, nhằm khẳng định sự đóng góp của ông cho sự phát triển nền văn xuôi Việt Nam trong những năm đổi mới. 2. Lịch sử vấn đề Nghiên cứu về Lê Lựu đã có không ít ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà phê bình văn học. Họ tìm đến với những tác phẩm và nhận thấy ở đấy những chiều kích khác nhau của cuộc sống. Qua những tác phẩm ấy, người đọc không chỉ hình dung được bộ mặt xã hội Việt Nam lúc bấy giờ mà còn cảm nhận một cách sâu sắc những biến chuyển tinh tế nhất của đời sống tư tưởng con người thời đại. Vì vậy, tác phẩm của nhà văn không rơi vào khoảng không im lặng mà có thể nhận thấy, cùng với các cây bút văn xuôi lúc bấy giờ như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh... Lê Lựu đã làm cho đời sống văn học nước ta thêm phần sôi động. Lịch sử văn học cho thấy, những nhà văn nào càng được giới phê bình nghiên cứu quan tâm, càng được bạn đọc chú ý. Và dù khen hay chê cũng đều khiến tác phẩm nổi tiếng hơn, mọi người tìm đọc nó nhiều hơn mà thôi. Lê Lựu là một trường hợp như vậy. Từ một cây bút truyện ngắn, ông tìm cho mình một lối đi riêng. Với tác phẩm Mở rừng, Lê Lựu bước sang địa hạt tiểu thuyết nhưng thành công của ông không phải ở đấy. Lê Lựu khẳng định vị trí, tạo cho mình một thế đứng vững vàng trên văn đàn nền tiểu thuyết hiện đại chính là nhờ những tác phẩm về sau. Đặc biệt, người ta biết đến ông như một tiểu thuyết gia văn xuôi hiện đại Việt Nam chính bởi Thời xa vắng và sau nữa là Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông. Đã có hàng loạt bài nghiên cứu về tác phẩm Lê Lựu như: "Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn" của Phong Vũ, "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" hay "Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm" trong báo Văn nghệ tháng 12- 1986, " Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Chuyện phiếm với anh Sài" của Hồng Vân, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Đọc " Thời xa vắng" của Lê Lựu" của Hoàng Ngọc Hiến, "Suy tư từ một "Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà, "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay" của Vương Trí Nhàn, "Lê Lựu và Ranh giới" của Lê Tất Cứ, "Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết - Những tìm tòi và thể nghiệm" của Nguyễn Ngọc Thiện, "Một giờ với nhà văn Lê Lựu" của Nguyễn Hữu Sơn, "Văn chương cũng như vợ con - nhiều lúc chán lắm nhưng không bỏ được" của Bùi Việt Sĩ, "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng, "Lê Lựu - Thời xa vắng " của Đinh Quang Tốn, "Lê Lựu - Chân dung văn học" của Trần Đăng Khoa...Và tất cả những bài viết này được chính Lê Lựu tập hợp lại trong cuốn Tạp văn của mình. Thông qua những bài viết dành cho Lê Lựu, ta thấy các nhà nghiên cứu rất trân trọng những thành công và phát hiện những đóng góp không nhỏ của ông trong việc đổi mới nền văn học đương đại. Bên cạnh đó, họ cũng thẳng thắn đưa ra những nhận xét về nghệ thuật viết văn của tác giả. Dư luận khen cũng nhiều nhưng chê cũng có. Nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn từng cho rằng: “Nếu trong tổng số sáu trăm hội viên Hội nhà văn Việt Nam, cứ mười người chọn lấy một người tiêu biểu thì Lê Lựu là một trong tổng số 60 nhà văn ấy. Nếu về văn xuôi hiện đại, chọn lấy ba mươi tác phẩm, thì có mặt Thời xa vắng” [104, tr. 663]. Hay những nhận xét khá sắc sảo của Trần Đăng Khoa dành cho tác phẩm Thời xa vắng chẳng hạn. Tác giả vừa khẳng định những thành tựu về nội dung, nghệ thuật đồng thời chỉ ra những hạn chế. Ông cho rằng “Với ba trăm trang sách, tiểu thuyết "Thời xa vắng" đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đấy là một chặng đường lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi năm, từ buổi lập nước đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước” [104, tr. 674]. Hay : “Thời xa vắng" ra đời có tiếng vang lớn, vượt quá sức hình dung của người đẻ ra nó. Xét về mặt nghệ thuật, cuốn sách không có gì cách tân, tìm tòi, lối viết rất cũ, tốc độ truyện chậm, hơi văn ở phần một và phần hai hình như lạc nhau, không liền mạch. Có cảm giác như đấy là hai cuốn tiểu thuyết cùng một nội dung gộp lại.” [104, tr. 678]. Bên cạnh những ý kiến ấy, trên báo Văn nghệ tháng 12.1986 trong bài "Vài cảm nghĩ sau khi đọc Thời xa vắng", có nhà nghiên cứu đã mạnh dạn khẳng định: "Thời xa vắng với độ dày hơn ba trăm trang chia làm ba phần. Bố cục của cuốn sách tương đối hợp lý, đặc biệt là phần một và phần hai viết khá thành công. Điều đáng bàn và cần bàn là ở phần kết của tác phẩm" [104, tr. 541]. Dù khen hay chê thì hầu hết các nhà nghiên cứu đều phải công nhận "Tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê lựu phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách nhìn nhận đánh giá lại hiện thực...Sự phản ánh chân thực, sinh động cái hoàn cảnh nhào nặn nên con người đó, sự nín chịu nhẫn nhục và vùng vẫy cuống cuồng, những thay đổi trong tâm lý và hành động của anh ta đã được Lê Lựu dựng lại rất sinh động, đã lôi cuốn mạnh người đọc, gợi ra những liên tưởng có ý nghĩa xã hội mà hiện nay mọi người đang rất quan tâm...Thời xa vắng phản ánh khá sâu sắc một giai đoạn của tâm lý nông dân, giai đoạn vùng lên, hoà theo, nhập thân hoàn toàn vào đời sống của một xã hội mới" [104, tr. 588- 589]. Đến với những trang viết của Lê Lựu, mỗi người đọc đều cảm thấy sự cuốn hút đặc biệt. Những nhân vật trong truyện vừa đáng thương vừa đáng giận. Những con người ấy hiện lên trên trang viết đầy bi kịch. Những bi kịch do xã hội mang lại và những bi kịch do chính họ tạo ra. Chúng ta vừa thương vừa giận Giang Minh Sài trong Thời xa vắng, Núi trong Sóng ở đáy sông và ngay cả sự tha hoá trong con người của Lưu Minh Hiếu trong Chuyện làng Cuội. Mỗi người đọc tuỳ thuộc vào những tiêu chuẩn thẩm mỹ riêng mà có cách tiếp nhận tác phẩm ở những chiều kích khác nhau. Tác phẩm Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời sống văn học Việt Nam thêm sôi động. Điều này được Lê Hồng Lâm nhận định: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là gây dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng bởi bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào mạch ngầm trong tâm tư tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi tiếng bởi … tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên phim mới nổi đình nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông.” [104, tr. 708]. Nhìn chung, qua các bài viết trên các báo và tạp chí, có thể nhận thấy tiểu thuyết Lê Lựu cả về nội dung và hình thức nghệ thuật thời kỳ đổi mới đã được giới nghiên cứu quan tâm, xem xét khá sâu sắc. Họ đã chỉ ra những cái hay, cái đẹp cũng như những sai sót, hạn chế của nhà văn thể hiện trên trang viết. Tuy nhiên các bài nghiên cứu hầu như tập trung xoay quanh tác phẩm Thời xa vắng hoặc là viết về từng tác phẩm cụ thể chứ chưa có một bài nào hay một công trình nghiên cứu nào tìm hiểu một cách toàn diện về tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông. Với bài "Mỗi người phải chịu trách nhiệm về nhân cách của mình" (Văn nghệ tháng 12- 1986), người viết đã chỉ ra những bi kịch mà Sài phải gánh lấy không những do hoàn cảnh mang lại mà "mỗi người phải tự chịu trách nhiệm về chính nhân cách của mình, cuộc đời mình". Qua một số bài nghiên cứu như: "Thời xa vắng - Một tâm sự nóng bỏng " của Lê Thành Nghị, "Nghĩ về một Thời xa vắng" của Thiếu Mai, "Nhu cầu nhận thức lại thực tại qua một Thời xa vắng" của Nguyễn Văn Lưu, "Suy tư từ một " Thời xa vắng" của Nguyễn Hoà..., các tác giả lại chỉ ra một cách sâu sắc về sự mới mẻ của Lê Lựu. Đó chính là đặt ra vấn đề nhận thức lại một "thời xa vắng" - một thời "sống hộ", "yêu hộ". Đồng thời họ đều cùng không đồng tình với cách kết thúc truyện của nhà văn. Thiếu Mai cho rằng "Cuối cùng là phần kết. Đọc đến đây tôi cảm thấy tác giả mệt rồi, hụt hơi rồi. Thế nhưng dường như anh quá thương cảm cho số phận nhân vật của mình nên không nỡ để cho nó lơ lửng, mà phải tìm cho nó một hướng đi ổn định. Nhưng chính cái hướng đi này, theo sự suy nghĩ của đa số người đọc thì lại không ổn, không phù hợp với nhân vật Sài của anh" [104, tr. 584]. Trong bài "Đọc "Thời xa vắng" của Lê Lựu", Hoàng Ngọc Hiến lại nhìn thấy đề tài "người nhà quê và đô thị", thấy được "người nhà quê vĩ đại" qua anh cu Sài. Cùng chung cách đánh giá này có bài viết "Hình tượng người nông dân và nhà văn đô thị" của Nguyễn Thu Hằng. Ở bài "Một đóng góp vào việc nhận diện con người hôm nay", Vương Trí Nhàn đã chỉ ra những đóng góp cũng như hạn chế về mặt nội dung và nghệ thuật của nhà văn. Qua "Lê Lựu - Thời xa vắng", Đinh Quang Tốn lại đi khá sâu về sự nghiệp và hoàn cảnh sáng tác. Còn trong bài "Lê Lựu - Chân dung văn học", Trần Đăng Khoa đi sâu hơn về nghệ thuật của Thời xa vắng. Bài viết "Tiểu Thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới" của Đỗ Hải Ninh cũng đã nêu ra được những nét khái quát nhất về tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới, tuy nhiên tác giả lại không đi vào phân tích cụ thể. Chính vì vậy, qua công trình nghiên cứu "Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới", cụ thể là bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông, chúng tôi mong sẽ có một cái nhìn khái quát, toàn diện hơn để từ đó không chỉ làm rõ những đặc điểm về tiểu thuyết Lê Lựu mà đồng thời còn chỉ ra những đóng góp của nhà văn cho nền tiểu thuyết hiện đại Việt Nam. 3. Giới hạn phạm vi nghiên cứu Trong luận văn này, từ việc lấy những đặc điểm tiểu thuyết làm cơ sở, chúng tôi tiến đến tìm hiểu những đặc điểm nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Và từ đó, chúng tôi hướng đến tìm hiểu những đặc điểm tiểu thuyết của Lê Lựu ở giai đoạn này. Dựa vào đặc điểm thể loại, dựa vào tác phẩm chúng tôi cố gắng chỉ ra những đặc điểm, những ưu thế riêng biệt, những chuyển biến về quan niệm con người, những trăn trở tìm tòi…trên những trang viết của tác giả. Do đó, luận văn sẽ không đi vào toàn bộ tác phẩm của ông mà chỉ dừng lại ở bộ ba tác phẩm thời kỳ đổi mới, đó là: Thời xa vắng (1984) Chuyện làng Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1995). 4. Phương pháp nghiên cứu. 4.1. Phương pháp lịch sử – xã hội Văn học là bức tranh sinh động nhất về đời sống hiện thực. Văn học nói chung và tiểu thuyết của Lê Lựu nói riêng mang hơi thở chung của thời đại. Chính vì vậy, không xem xét đến yếu tố hiện thực, đặc biệt đấy lại là nhiệm vụ do đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đề ra thì không thể nào thấy được sự tất yếu phải thay đổi, phải chuyển hướng của văn học nghệ thuật trong giai đoạn này. Sử dụng phương pháp lịch sử xã hội sẽ giúp cho việc lý giải những cơ sở thực tiễn và nguyên nhân sự chuyển hướng của nghệ thuật trong tác phẩm của Lê Lựu. 4.2. Phương pháp so sánh Văn học chịu sự chi phối trực tiếp và hết sức mạnh mẽ của hoàn cảnh xã hội. Sự chuyển biến đổi mới của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra trên toàn xã hội. Việc sử dụng phương pháp so sánh (lịch đại, đồng đại) giúp chúng tôi có điều kiện so sánh sự chuyển hướng nghệ thuật của Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới cũng như những điểm nổi trội đặc sắc của tiểu thuyết Lê Lựu so với tiểu thuyết của các tác giả cùng thời. 4.3. Phương pháp phân tích Muốn làm rõ những đặc điểm tiêu biểu về nội dung - nghệ thuật của tiểu thuyết Lê Lựu thì không thể không tìm hiểu, đào sâu tác phẩm. Sử dụng phương pháp này sẽ giúp chúng tôi đi sâu khám phá mọi cung bậc tình cảm, diễn biến tâm lý của nhân vật cũng như những tìm tòi trăn trở của nhà văn trên từng trang viết. 5. Những đóng góp của luận văn Qua những bài viết về Lê Lựu, chúng tôi thấy hầu hết các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được những đặc trưng nghệ thuật, những đóng góp cũng như một vài điểm yếu trên từng trang viết của ông. Tuy nhiên chưa có một công trình nào mang tính tổng hợp về những đóng góp của Lê Lựu cho nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Do vậy, với công trình nghiên cứu này, chúng tôi cố gắng nhìn nhận, xem xét, để khái quát những đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới mà cụ thể là bộ ba tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông để từ đó khẳng định vị trí, vai trò của nhà văn trong sự vận động của nền tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 6. Cấu trúc luận văn MỞ ĐẦU: 1. Lý do chọn đề tài. 2. Lịch sử vấn đề. 3. Phạm vi nghiên cứu. 4. Phương pháp nghiên cứu. 5. Những đóng góp của luận văn. 6. Cấu trúc luận văn. Chương 1: Lê Lựu và nền tiểu thuyết Việt Nam đương đại. 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 1.2.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật. 1.2.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. 1.3. Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu. 1.3.1. Quan điểm nghệ thuật. 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác. Chương 2: Sự đổi mới cảm hứng nghệ thuật của Lê Lựu trong bộ ba tác phẩm Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội , Sóng ở đáy sông 2.1. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca. 2.1.1. Khái niệm cảm hứng - Cảm hứng bi kịch. 2.1.2. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới. 2.1.3. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca - những biểu hiện cụ thể trong bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng - Chuyện làng Cuội - Sóng ở đáy sông. 2.1.3.1. Bi kịch do hoàn cảnh. 2.1.3.2. Bi kịch trong bản thân mỗi cá nhân. 2.2. Sự nhận thức lại hiện thực trong "Thời xa vắng; Chuyện làng Cuội; Sóng ở đáy sông". 2.2.1. Nhận thức quan niệm duy ý chí. 2.2.2. Nhận thức chân thực những khía cạnh khác nhau của hiện thực trong xã hội lúc bấy giờ. 2.2.2.1. Nhận thức chân thực những hạn chế của đường lối chính sách. 2.2.2.2. Nhận thức thực trạng của sự bao che, cho qua. 2.2.2.3. Nhận thức chân thực về lối sống thực dụng, ích kỷ, sự biến chất tha hóa của con người trong xã hội hiện đại. 2.2.2.4. Nhận thức hiện thực ở nông thôn. Chương 3: Những nỗ lực hiện đại hoá thể loại tiểu thuyết của Lê Lựu 3.1. Kết cấu truyện. 3.1.1. Thủ pháp đồng hiện. 3.1.2. Hiện tượng phân rã cốt truyện. 3.1.3. Tình huống truyện. 3.1.4. Kết thúc truyện. 3.2. Giọng điệu trần thuật. 3.2.1. Giọng điệu hài hước, trào tiếu. 3.2.2. Giọng triết lý, ngậm ngùi xót thương. 3.2.3. Giọng phê phán, lên án tố cáo. KẾT LUẬN. TÀI LIỆU THAM KHẢO. PHỤ LỤC. 1. Tóm tắt tiểu thuyết Thời xa vắng 2. Tóm tắt tiểu thuyết Sóng ở đáy sông 3. Tóm tắt tiểu thuyết Chuyện làng Cuội. Chương 1: LÊ LỰU VÀ NỀN TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 1.1. Tiểu thuyết Việt Nam trước thời kỳ đổi mới Dân tộc ta có truyền thống thơ ca, thành tựu chủ yếu của văn học Việt Nam trước đây chính là thơ ca. Đầu thế kỷ XX, nhất là giai đoạn 1930 –1945 với sáng tác của nhóm “Tự lực văn đoàn” và các nhà văn hiện thực chủ nghĩa, nền tiểu thuyết mới thực sự hình thành và phát triển theo hướng hiện đại. Sau cách mạng tháng Tám 1945, phải đến những năm 50 tiểu thuyết mới tiếp tục phát triển. Chúng ta nhận thấy, nền văn học sau Cách mạng tháng Tám, dưới sự lãnh đạo của Đảng được viết với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn theo yêu cầu của lịch sử. Cùng với các thể loại văn học khác, tiểu thuyết giai đoạn này mang tính cổ vũ, động viên, tuyên truyền hướng tới mục tiêu cao cả nhất: tất cả cho chiến thắng. Và nó đã theo kịp bước tiến của cuộc kháng chiến, phản ánh được những tình cảm lớn của thời đại, những cái đẹp, cái mới, cái anh hùng cao cả. Do vậy, khám phá và khẳng định chủ nghĩa anh hùng cách mạng là một trong những yêu cầu của nền văn học Việt Nam. Cho nên, hình tượng nổi bật là hình tượng cả dân tộc ra trận. Bên cạnh đó, những bức tranh rộng lớn của cuộc kháng chiến được tái hiện hào hùng. Những nhân vật tích cực tiêu biểu cho cái đẹp, cao cả, anh hùng.....được trình bày với cảm hứng lãng mạn của thời đại được đặc tả hầu hết trên các trang viết. Hình ảnh con người được thể hiện chủ yếu là con người trong ý thức trách nhiệm với công dân, cộng đồng, lịch sử. Có thể thấy những thành tựu của nền văn học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết nói riêng rất đáng để cho chúng ta tự hào. Nền văn học ấy sinh ra và lớn lên trong khói lửa chiến tranh nhưng lại không kém phần rực rỡ. Nó là sự kết tinh và phát huy cao độ của lòng yêu nước, của ý chí dũng cảm và tâm huyết. Tất cả những đặc điểm ấy chúng ta bắt gặp trên những trang tiểu thuyết Hòn Đất của Anh Đức, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Gia đình má Bảy của Phan Tứ, Cửa biển của Nguyên Hồng, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu.... Nhìn vào nền văn học lúc bấy giờ, chúng ta thấy: "Về cơ bản chúng ta đã xây dựng được một nền văn học nghệ thuật xã hội chủ nghĩa..."[17]. Mặc dù vậy, bên cạnh những thành công, tiểu thuyết giai đoạn này vẫn còn những hạn chế. Tuy nhiên, nhược điểm đồng thời là đặc điểm ấy được quy định bởi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Bởi vì văn học dù ở giai đoạn nào cũng phải phản ánh hiện thực cuộc sống, mà hiện thực xã hội chủ yếu lúc bấy giờ chính là chiến tranh. Do yêu cầu của thời đại cách mạng, văn học phải phản ánh kịp thời, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng toàn dân, hướng tới miêu tả cái đẹp, cái cao cả...Lúc bấy giờ, cả nước lên đường đánh giặc, cả nước làm văn nghệ theo đường lối "kháng chiến hoá văn hoá, văn hoá hoá kháng chiến" .Với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, văn học giai đoạn ấy đã xây dựng những hình tượng sáng ngời chưa từng có trong lịch sử dân tộc "chẳng những để làm gương mẫu cho chúng ta ngày nay mà còn để giáo dục con cháu ta đời sau" như lời chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Gạt ra ngoài những gì thuộc về riêng tư không có lợi cho cộng đồng, tiểu thuyết giai đoạn này qủa đã làm tròn sứ mệnh thiêng liêng của "một nền văn học chống đế quốc". Những sáng tác của Nguyên Ngọc, Nguyên Hồng, Nguyễn Văn Bổng, Anh Đức, Nguyễn Khải, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Minh Châu... đã tạo nên những hình tượng đẹp, có chiều sâu về: bộ đội, thanh niên xung phong, phụ nữ, phụ lão... Văn học phản ánh đủ mọi tầng lớp nhân dân và miêu tả phẩm chất cơ bản của con người lúc bấy giờ là lòng yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Phong cách phản ánh hiện thực ấy đã ghi nhận những nét đẹp rực rỡ của đất nước và con người Việt Nam trong khói lửa. Theo Trần Đình Sử trong "Mấy vấn đề quan niệm của văn học Việt Nam thế kỷ XX" thì "Đấy không phải là vẻ đẹp cổ xưa hay ước lệ của thơ văn cổ, không phải cái đẹp đìu hiu, vắng vẻ lạnh lùng cô đơn như Thơ mới, hay dáng vẻ khổ sở, tủi nhục trong văn học hiện thực phê phán trước năm 1945, mà là vẻ đẹp hào sảng, khoẻ khoắn, thô ráp của con người "rũ bùn đứng dậy sáng loà". Do đó, sự hy sinh và cái chết càng làm cho họ hoá thân vào cộng đồng bất tử, khiến nỗi đau vút lên hoá thành sự hy sinh cao cả. Như vậy, cảm hứng chủ đạo của tiểu thuyết thời kỳ này là cảm hứng lãng mạn cách mạng. Gạt ra ngoài những vướng bận đời thường, những nỗi buồn cá nhân, vượt lên trên những hy sinh mất mát, văn xuôi giai đoạn này phản ánh khí thế hào hùng, niềm hân hoan sảng khoái, những chiến công hiển hách vang dội...hướng con người về phía ánh sáng và tương lai. Có thể nhận thấy, do hoàn cảnh chiến tranh chi phối nên hiện thực và con người phản ánh trong tác phẩm chưa được đặt trong mối quan hệ nhiều mặt, nhiều chiều. Con người chưa được đặt trong tổng hoà các mối quan hệ xã hội mà chỉ được thể hiện trong ý thức trách nhiệm công dân, cộng đồng, lịch sử. Đó không phải là con người đời thường cá nhân. Bởi tình cảm riêng tư của họ đã hoà vào tình cảm chung. Ngay cả ý thức cá nhân của chủ thể sáng tạo cũng thường "bị tan biến vào ý thức cộng đồng". Đồng thời, với nhu cầu tuyên truyền cổ động chính trị, văn học không thể đề cập đến những tổn thất mất mát, những tiêu cực của xã hội và con người. Bức tranh đời sống tinh thần của con người do vậy có phần phiến diện. Hơn thế nữa, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn hoàn toàn chi phối về mặt đề tài và chủ đề của tác phẩm nên hạn chế sự sáng tạo của người cầm bút. Hạn chế về tính nhân văn là điều không thể tránh khỏi. Đó là những cái "chưa được làm" mà văn học giai đoạn sau sẽ bổ khuyết. 1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới 1.2.1. Cơ sở thực tiễn của công cuộc đổi mới văn học nghệ thuật Sau chiến thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước ta bước vào một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên thống nhất, độc lập, tự do. Thắng lợi to lớn nhưng thách thức cũng hết sức nặng nề. Sức người, sức của phải dồn vào việc khôi phục cuộc sống sau chiến tranh. Cả đất nước đứng trước một yêu cầu sống còn: phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường. Trước thực tế ấy, Đảng đã khởi xướng đổi mới từ năm 1985 và xác định công cuộc đổi mới một cách toàn diện trong đại hội lần thứ VI (1986). Về văn học nghệ thuật, nghị quyết 05 của Bộ chính trị nhấn mạnh: “…Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước và các nền văn hoá ngày càng mở rộng……..văn nghệ nước ta cũng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ cách làm” . "Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ thuật phát triển lên một bước mới" [19]. Như vậy, đổi mới trở thành một quy luật tất yếu. Từ việc đổi mới kinh tế sẽ kéo theo đổi mới cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới toàn diện trước hết là đổi mới tư duy, trong đó văn học nghệ thuật là một hoạt động tư duy sắc bén nhất. Vì vậy, văn học đã được đặt lên hàng đầu ở công cuộc đổi mới này. Từ yêu cầu thực tiễn, Đảng xác định sứ mệnh của văn học nghệ thuật giờ đây không phải là cổ vũ, động viên, ca ngợi mà xây dựng tình cảm lành mạnh, tác động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống con người. Cho nên "Tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính" [123, tr.88] được thể hiện đậm nét trên nhiều trang viết. Đảng yêu cầu tác phẩm văn học phải: "Phản ánh các nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ "[150, tr.112]. Với chủ trương mới ấy, văn học nghệ thuật đã được trả lại bản chất vốn có trong việc khám phá và thể hiện cuộc sống. Để có sự đổi mới thực sự, Đảng hết sức khuyến khích giới văn nghệ sỹ hãy tìm tòi sáng tạo và có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, trong việc phát triển các loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện. Bởi vì tìm tòi, sáng tạo của người nghệ sỹ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự đổi mới diện mạo văn học giai đoạn này. Hơn nữa, tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá, nghệ thuật. Như vậy, các nghị quyết và chỉ thị trong Đại hội lần thứ VI (1986) đã chứng tỏ sự quan tâm rất lớn của Đảng dành cho đời sống tinh thần của con người, mà cụ thể ở đây là văn học nghệ thuật. 1.2.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới Nền văn học 30 năm chiến tranh đáp ứng yêu cầu "phản ánh chân thực và hùng hồn cuộc sống mới, con người mới" hay "phản ánh hiện thực trong xu thế phát triển cách mạng của nó". Thực tiễn cuộc sống mới đòi hỏi văn học nghệ thuật phải thay đổi. Giờ đây văn học nghệ thuật không còn được hiểu đơn giản là công cụ chính trị hay vũ khí công tác tư tưởng, hoặc phương tiện tuyên truyền, giáo dục quần chúng mà là "một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng văn hoá". Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị dành riêng cho văn nghệ trong giai đoạn ấy đã mở ra một hướng đi mới cho văn học. Nhà văn hiểu rõ đặc trưng của văn chương và sứ mệnh của mình đối với cuộc sống. Những sáng tác của họ không nhằm minh hoạ các khẩu hiệu hay cổ vũ cho các phong trào, giúp thực hiện các chủ trương, chính sách của nhà nước mà "tập trung miêu tả số phận con người, mang đến cho con người cái đẹp, tình yêu cuộc sống cũng như sự từng trải, làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mỗi cá nhân, đồng thời phải nghiên cứu những vấn đề của xã hội đang diễn ra hay đi lùi vào quá khứ, từ đó rút ra bài học, những tư tưởng mang tính khái quát, không chỉ quan trọng về triết học, đạo đức, nhân sinh mà còn có thể mang ý nghĩa chính trị lớn lao" [150, tr.18]. Nhìn nhận về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực lúc bấy giờ, các nhà nghiên cứu đã đánh giá sâu sắc "yêu cầu văn học trong điều kiện lịch sử mới phải giúp vào sự hoàn thiện bức tranh hiện thực còn trong dạng phác thảo của một thời đã qua, sao cho chân thực hơn, được soi tỏ dưới nhiều góc cạnh hơn [96, tr.106]. Giờ đây, với yêu cầu mới khiến cho nhiệm vụ của văn học thay đổi, nó không chỉ phản ánh thế giới khách quan mà còn thể hiện thế giới chủ quan. Nhận định về văn xuôi trong khoảng mười năm, Hoàng Ngọc Hiến trong bài "Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo" cho rằng "Trong sáng tác văn học, cái nhìn mâu thuẫn trong hiện thực đời sống hết sức quan trọng. Những biến đổi sâu sắc trong văn xuôi của ta khoảng mười lăm năm nay bắt nguồn từ sự thay đổi trong cách nhìn những mâu thuẫn trong đời sống xã hội"[96, tr.239]. Vấn đề bản chất văn học cũng được Lê Ngọc Trà đặt ra trong một loạt bài nghiên cứu của mình. Ông nhận định: "Tác phẩm văn học là tiếng nói của những ấn tượng, những suy nghĩ vừa như xác định vừa như chưa xác định, vừa như trọn vẹn lại vừa như chưa trọn vẹn, vừa như có ý giới hạn lại vừa như miên man, vô bờ bến. Đó là những cảm giác mang tính hình tượng..... Văn học chính là nỗi buồn về cái đẹp, về lý tưởng, là nỗi đau giằng xé về số phận con người, là sự cắn rứt lương tri không yên, là cuộc đấu tranh nội tâm..." [154]. Nhận thức hiện thực trong trạng thái đời thường, cảm nhận và phản ánh sự thật về hiện thực, đó là biểu hiện của đổi mới văn học. Trong "Văn học trên con đường đổi mới" Nguyễn Văn Hạnh đã khẳng định "Tư tưởng quan trọng bậc nhất mà Đại hội Đảng lần thứ VI đã trang bị cho nhận thức xã hội trong thời kỳ đổi mới, cũng là tư tưởng đã tạo nên bước ngoặt thật sự trong tư duy nghệ thuật mấy năm qua, chính là tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn th._.ẳng vào sự thật. Bởi sự thật luôn luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính, nghệ thuật tiến bộ" [59]. Có thể nói, tất cả những điều này được nhìn nhận khá chính xác và chúng tôi tâm đắc với ý kiến "Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết tha với công cuộc đổi mới do Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình đổi mới văn học đúng ngay từ chỗ phải bắt đầu nói sự thật. Mà người đọc từng trải, thông minh chân tình của chúng ta cũng hiểu như vậy. Họ chú ý đến tác phẩm mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở sự trung thực, ở lời nói thật. Cái nhìn mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung thực và tinh thần trách nhiệm đối với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức mạnh của cách mạng, do đó mà có đủ ý thức và dũng cảm để nói lên sự thật, dù đó là một sự thật không đơn giản, thậm chí phũ phàng” [153, tr.88-89]. Nhận định về tiểu thuyết trong thời đại mới, Cao Tiến Lê đã khái quát "Tiểu thuyết của ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988, 1989, 1990, có đổi mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề...Văn học đã đi vào đời thường. Mỗi một con người đều bình đẳng trước cái nhìn của nhà văn. Tất cả mọi người trước nhà văn đều là nhân vật, nhà văn coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì cho văn học."[98]. Cùng chung mối quan tâm về văn học, năm 1989 trong bài Vấn đề định hướng của văn học trong tình hình hiện nay, Trần Hữu Tá tinh tế khi chỉ ra những hạn chế, những sai lầm, non yếu trong sáng tác nhưng cũng rất khách quan. Tác giả khảng định " ít thấy lúc nào tiểu thuyết phát triển mạnh như mấy năm gần đây" (cuối những năm 80, đầu những năm 90), "sự lao động nghệ thuật nghiêm túc theo phương hướng đổi mới sáng tạo ở một số cây bút là không thể phủ nhận". Tác giả đã khẳng định những nét đổi mới của tiểu thuyết trong việc bám sát cuộc sống hôm nay, nhất là quan tâm đến những vấn đề tâm lý xã hội của đời thường (quyền sống và số phận con người, những mối quan hệ nghĩa tình nhân bản, bi kịch cá nhân, sự suy thoái của đạo đức truyền thống...). Hơn thế nữa, tác giả còn nhận xét về cảm hứng chủ đạo trong tiểu thuyết thời kỳ này "cảm hứng phê phán trong những tác phẩm này rào rạt, mạnh mẽ hơn giai đoạn trước, tạo được những tác động mạnh đến tâm trạng xã hội"[137]. Như vậy, với công cuộc đổi mới trên toàn xã hội, văn xuôi đang chuyển mình một cách mạnh mẽ. Giờ đây nó "không xuôi chiều kiểu êm dầm mát mái nữa" mà mạnh dạn "phanh phui các mặt trái của xã hội, các uẩn khúc hoặc tráo trở của lòng người". Đến với những tác phẩm giai đoạn này, người đọc tìm thấy mọi cung bậc của tình cảm: từ buồn bã, cô đơn cho đến công phẫn, xót xa. Văn học giai đoạn này đã làm một cuộc "cách mạng" thực sự. Nó giàu chất thực hơn, miêu tả cuộc sống trần trụi và mạnh dạn phơi bày sự băng hoại đạo đức nếu thấy cần thiết. Giờ đây, yêu cầu tái hiện lịch sử phải đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, phải đặt lại mọi vấn đề, suy nghĩ lại mọi niềm tin và có thể vượt qua mọi cấm đoán kiêng kỵ. Điều này được Phan Cư Đệ ghi nhận định trong công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sữ và lý luận (2005): "Các nhà văn đã đi sâu vào tâm lý bên trong, để cho nhân vật soi bóng vào nhau hoặc tự khám phá mình, như là một sự lắng lại, suy ngẫm về cuộc đời đã qua...Nhân vật nhìn bản thân mình, tự đối diện với mình như một sự tự phán xét về nhân cách nhằm hướng tới một nhân cách hoàn thiện" [44, tr 152- 153]. Cho nên tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ này, quả đã ghi nhận những diễn biến tinh vi nhất về cuộc sống mới đa dạng và phức tạp. Văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng nhận thức trở lại chính bản thân nó. Nhận thức về mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Nhận thức mối quan hệ giữa văn học với chính trị. Yêu cầu mới đòi hỏi văn học phải trả lời được những câu hỏi như: Mối quan hệ giữa Văn học và cuộc sống. Nghệ sỹ anh là ai? Bản chất của văn học là gì? Văn học nghệ thuật trong thời đại mới trở về với thiên chức vốn có của mình là "món ăn tinh thần" đặc sắc nhất mà không một ngành nghệ thuật nào có thể thay thế được. Văn học mang sứ mệnh to lớn như vậy nên người nghệ sỹ cũng xác định nhiệm vụ của mình trong nghệ thuật phải sáng tạo, phải thể nghiệm mình. Điều này từng được Nam Cao khẳng định qua lời nhân vật Hộ, "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có". Điều này một lần nữa được Thạch Lam khẳng định trong tác phẩm của mình:"...là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực...làm cho lòng người trong sạch và phong phú". Sau chiến tranh, khi tư duy nghệ thuật thay đổi, văn học không chỉ nhìn lại quá khứ bằng việc miêu tả hiện thực đời sống chiến tranh hay trở lại những vấn đề lịch sử dưới một cái nhìn mới mà quan trọng hơn là đi sâu vào số phận mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi làng quê. Cuộc sống được phản ánh vào tác phẩm không chỉ là cái phần anh hùng cao cả mà còn thấm thía nỗi buồn của con người thời hậu chiến. Đấy là cuộc sống đời thường vừa nhân hậu ấm áp, vừa bận rộn nhưng cũng không kém phần sôi động quyết liệt. Đặc biệt “con người” trở thành một đối tượng thực sự trong văn học, một thế giới đầy bí ẩn và là đối tượng khám phá không cùng của văn học. Con người với đầy đủ các “phẩm chất” và “thuộc tính”, “bản năng” và “ý thức”, “thấp hèn” và “cao thượng”, “phần con” và “phần người”…… Từ con người tập thể sang con người đời thường với tất cả tính chất mâu thuẫn phức tạp, con người anh hùng và con người bi kịch.…Một quan niệm mới về con người được hình thành, đấy là con người cá nhân, con người chịu trách nhiệm trước mọi quyết định của chính bản thân mình. Con người ấy không còn "nguyên phiến sử thi" - chữ dùng của Trần Đình Sử - mà hiện lên với nhiều mâu thuẫn. Những mặt trái của đời sống được phơi bày cụ thể. Sự tha hoá về nhân cách, những số phận bi kịch, những tâm trạng lo âu, khắc khoải đựơc đặc tả. Giọng điệu mỉa mai, phê phán tự vấn thay thế giọng điệu ngợi ca, ru vỗ ngọt ngào êm ái. Con người được hình dung nhiều mặt. Không chỉ có ý chí, tư tưởng, tình cảm mà còn được khắc hoạ ở các phương diện bản năng vô thức, tâm linh nghịch lý. Anh sáng lý tưởng với những hào quang giờ đây nhạt dần. Những ngươi chiến sĩ, những anh hùng không còn vị trí trung tâm mà được thay thế bởi những con người đời thường, có khi la tầm thường nữa. Do đó, khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn phải nhường chỗ cho cảm hứng thế sự đời tư với những trăn trở tìm tòi. Nhiệt tình ca ngợi, khẳng định được thay thế bằng sự phê phán. Điều này thể hiện hầu như trong các tác phẩm có giá trị lúc bấy giờ:Bến không chồng của Dương Hướng, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường... Có thể nhận thấy trên các trang tiểu thuyết của văn học giai đoạn này, những mặt trái, những hiện tượng tiêu cực trong đời sống mà trước đây bị lờ đi, bị gác lại thì nay đã được các ngòi bút văn xuôi với thế mạnh riêng, lật xới lại hầu hết mọi vấn đề. Những nhân vật xấu trước đây chỉ được miêu tả như những thiếu sót, những khuyết điểm có thể sửa chữa được, còn về cơ bản vẫn là người tốt thì nay hoàn toàn khác. Những kẻ xấu là những kẻ mang bộ mặt đạo đức giả. Chúng lợi dụng danh nghĩa Đảng - cách mạng để trục lợi, để thoả mãn ham muốn quyền lực cá nhân. Chúng trù dập người khác nhằm nâng cao uy tín của bản thân, của gia đình và dòng họ mình. Phong Lê qủa là sắc sảo khi cho rằng :"Tiểu thuyết thời kỳ này không ngần ngại "vục vào cái sự thật tối tăm oan khổ" nhưng đem lại hiệu qủa "thanh lọc, tẩy rửa" [97, tr.130]. Tìm hiểu những trang tiểu thuyết hôm nay, người đọc bắt gặp những số phận riêng với những bi kịch rất đời thường của con người trong xã hội mới. Thực ra, đây không phải là điều mới mẻ gì, không phải là lần đầu tiên xuất hiện, bởi xu thế này đã có trên những trang văn xuôi giai đoạn 1930 - 1945. Tuy nhiên, với thời gian không phải là quá ngắn của cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm buộc văn học phải quan tâm đến cái chung còn những vấn đề cá nhân đời thường, số phận riêng mỗi con người phải tạm gác sang một bên. Giờ đây, khi chiến tranh kết thúc, cảm hứng đời tư thế sự với những trăn trở tìm tòi được thể hiện đậm nét trên những trang tiểu thuyết như Mùa lá rụng trong vườn của Ma Văn Kháng, Sao đổi ngôi của Chu Văn, Chim én bay của Nguyễn Trí Huân...Và không chỉ tiểu thuyết mà trong những truyện ngắn, cảm hứng thế sự cũng được khai thác mạnh mẽ. Cỏ lau, Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bi kịch nhỏ của Lê Minh Khuê, các sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài... cũng như của các nhà văn nhà thơ khác đều là những khám phá mới mẻ về cuộc đời con người. Dưới ngòi bút chính luận Nguyễn Khải, con người hiện lên sắc sảo với cách ứng xử thấu đáo và những suy nghĩ sâu sắc. Trong thế giới nghệ thuật Ma Văn Kháng, con người được soi chiếu cả ở phần thể chất lẫn tâm hồn nên vừa nồng nàn trong niềm khát khao được giao cảm lại vừa bận rộn với những tính toán trong cuộc mưu sinh. Ngòi bút nhà văn dường như luồn thật sâu vào mọi ngõ ngách trong tâm hồn con người để lần tìm những rung động dù rất nhỏ. Cuộc sống thường nhật cũng như đời sống tâm hồn được miêu tả chân thực hơn. Ở đấy không chỉ có hạnh phúc, chiến thắng mà còn có đau đớn, tủi nhục, bất hạnh. Cuộc sống con người hiện lên trên trang viết hôm nay thật phong phú đa dạng. Các nhà văn đã tiếp cận con người từ nhiều chiều và thể hiện những cảm nhận về con người bằng nhiều cách khác nhau. Chiến tranh đã kết thúc nhưng những dư âm của cuộc chiến vẫn còn. Giờ đây, chiến tranh được tái hiện trên nhiều bình diện nhưng đằm lại và sâu lắng hơn. Hình tượng người chiến sỹ gần hơn với cuộc sống đời thường. Như vậy, đổi mới tư duy nghệ thuật, văn xuôi nói chung và tiểu thuyết nói riêng giai đoạn này đã thực sự mở rộng đường biên trong việc phản ánh vì nó được viết dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn. Văn học đã thực sự được cởi trói, cho nên chủ đề, đề tài được mở rộng, không bị gò ép, không bị giới hạn. Văn học đã tìm về với "con người đời thường", "con người cá nhân" nhưng vẫn "mới", vẫn không dẫm chân lên lối cũ "mà đầy sáng tạo" trong sự vận động không ngừng của cuộc sống mới. Văn học được trả lại “thiên chức” của mình trong việc phản ánh đời sống và điều ấy tạo nên giọng điệu đa thanh trong mỗi tác phẩm, trong từng tác giả. 1.3. Quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác văn học của Lê Lựu 1.3.1. Quan điểm nghệ thuật Tác phẩm chính là nơi nhà văn thể hiện quan điểm sáng tác của mình. Và Lê Lựu cũng không phải là một ngoại lệ. Trên những trang viết, ông đã thể hiện khéo léo quan điểm nghệ thuật ấy. Không phải thông qua bất cứ nhân vật nào trong tác phẩm mà nó được gói gọn trong lời phát biểu của chính tác giả: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc là sự thật. Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật. Tôi chỉ là người kể chuyện, có gì viết nấy”[104, tr.501]. Trong một lần “Hỏi chuyện tác giả, tìm hiểu tác phẩm”, ông tiếp tục khẳng định với bạn đọc: “Tôi nghĩ, văn chương phải đối thoại được với cuộc sống, viết thật lòng không nói dối – nhờ cái thật mà đối thoại được với cuộc đời và người đang sống”[104, tr. 547]. Như vậy chúng ta nên hiểu "sự thật" đó như thế nào? Cái thật trong văn học, theo quan niệm của Lê Lựu, nó bắt nguồn từ cái thật trong cuộc sống mà cuộc sống thời bấy giờ có nhiều sự đổi thay to lớn. Người đọc thích nhìn thẳng vào sự thật, nói thật và làm thật. Qua văn chương, người đọc muốn hiểu thời đại lúc bấy giờ ra sao, muốn nhận thức đúng thực chất các mối quan hệ xã hội của con người trong một xã hội đầy biến động. Ông ý thức rằng, văn học không thể tách rời hiện thực mà phải bám sát hiện thực. Vậy là đã rõ, “sự thật” chính là nguyên tắc của Lê Lựu trong việc xây dựng tác phẩm, “Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật”. Đấy là lời thổ lộ chân thành nhất của người cầm bút. Và điều này không phải là lời nói suông mà hầu hết trên tất cả những trang viết, sự thật hiện lên như nó vốn có. Không một chút màu mè! Không một chút tô vẽ! Trên hành trình kiếm tìm sự thật ấy, nhà văn đã mạnh dạn phơi bày tất cả những gì đang diễn ra, những gì trước nay bị che dấu, bị lờ đi. Vì vậy, sự thật về đời sống, về con người hiện lên rõ nét hơn trong tác phẩm của ông. Là một người nông dân mặc áo lính, Lê Lựu luôn luôn nghĩ về quê hương, ông chú ý đến tất cả mọi điều liên quan đến người nông dân. Nông thôn và người nông dân là mảng đề tài bất tận mà ông khai phá. Cho nên, viết về đề tài gì đi chăng nữa thì hình ảnh làng quê với những nhân vật "người nhà quê" vẫn hiển hiện trên từng trang viết. Theo nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn “Đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến tranh chống Mỹ có nhiều người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn cả”[104, tr.663]. Hơn thế nữa, Lê Lựu đi nhiều, biết nhiều, vốn sống của ông căng tràn. Bản thân là một người lính nên ông rất dễ hoà đồng với họ. Ông hiểu tâm tư tình cảm của họ một cách tự nhiên. Họ chính là ông mà ông cũng chính là họ. Ông đã viết những gì mình biết, mình hiểu một cách sâu sắc và tất cả những điều ấy đều xuất phát từ quan niệm nghệ thuật "tôn trọng sự thật". Do vậy, khi nghiên cứu tác phẩm, chúng ta không thể không đề cập đến quan điểm nghệ thuật của nhà văn. 1.3.2. Sự nghiệp sáng tác Lê Lựu sinh vào ngày 12/12/1942 tại một làng ngoài đê sông Hồng, thôn Mẫn Hoà, xã Tân Châu, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên trong một gia đình nông dân bình thường như bao gia đình nông dân tại vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Làng quê mà ông sinh ra và lớn lên là một vùng quê nghèo đói, một vùng chiêm trũng ngập lụt. Ông lớn lên giữa lúc miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Người nông dân bước vào công cuộc xây dựng xã hội mới, người cày có ruộng. Ông rời ghế nhà trường bước vào quân đội từ đầu những năm sáu mươi. Chính sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước cộng với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ đã thôi thúc nhà văn cầm bút ghi lại tất cả những chuyển biến đó. Lúc đầu, ông làm báo ở quân khu III. Tiếp đến là phóng viên báo, công tác tại mặt trận đường dây 559 Trường Sơn thời kỳ chiến tranh. Sau chiến tranh, ông về làm tại toà soạn của tạp chí Văn nghệ quân đội một thời gian dài. Ở đấy, ông không chỉ làm công việc của một biên tập viên mà còn sáng tác. Từ những trang viết đầu tiên, ông luôn thể hiện sự cần mẫn nghiêm túc. Để có vị trí trên văn đàn, Lê Lưụ đã trải qua một qúa trình khổ luyện. Nhà văn không chấp nhận sự nhạt nhẽo tầm thường. Ở bất cứ tác phẩm nào dù lớn hay nhỏ, ông cũng muốn gửi gắm vào một cái gì đó. Ông viết một cách vất vả chật vật không phải vì thiếu cảm xúc, thiếu tài năng mà quan trọng hơn với ông là phải viết "như thế nào?" Chính vì vậy, ông viết chậm, mỗi ngày chỉ vỏn vẹn vài trang, có khi chỉ mấy mươi dòng. Có những nhà văn đôi khi chỉ cần một tác phẩm thôi cũng đủ lưu giữ tên tuổi với đời. Hoàng Ngọc Phách với tác phẩm Tố Tâm chẳng hạn. Với Lê Lựu, sáng tác của ông có bề dày hơn. Ông cầm bút ngay từ khi còn là một chàng lính trẻ trong hàng ngũ chiến đấu. Trước khi trở thành nhà tiểu thuyết, ông đã là một cây bút truyện ngắn. Là một nhà văn – chiến sỹ, trực tiếp đứng trong hàng ngũ của những anh lính cụ Hồ, nếm trải bao nhiêu đắng cay của cuộc chiến tranh, cho nên sáng tác của Lê Lựu thường in đậm dấu ấn chiến tranh và chất chứa bao suy tư trăn trở về tình người, tình đời. Lê Lựu sử dụng khá nhiều vốn liếng thực tế trong những năm làm người lính lăn lộn ở Trường Sơn cũng như vốn hiểu biết về sinh hoạt và phong cảnh làng quê yêu dấu. Nhiều tình huống trong truyện dường như là kỷ niệm của bản thân người viết. Do vậy, tác phẩm của ông để lại trong lòng người đọc ấn tượng sâu sắc có lẽ không phải do nghệ thuật xây dựng tiểu thuyết như Nguyễn Minh Châu hay các nhà văn đương thời khác mà vì nội dung thấm đẫm tính nhân văn cao đẹp, hiện thực cuộc sống gai góc, tươi mới ngồn ngộn chảy trên trang viết. Năm 1964, ông trình làng truyện ngắn đầu tiên: Tết làng Mụa. Tiếp theo là các truyện Trong làng nhỏ, Người cầm súng...Trên bốn mươi năm cầm bút, với trên 15 tập sách, Lê Lựu đã có tác phẩm đạt đến đỉnh cao như Thời xa vắng. Từ truyện ngắn, ông lấn sân sang tiểu thuyết và cả hai thể loại đều thành công. Thế nhưng thành công hơn cả vẫn là tiểu thuyết. Sự thành công ấy được đánh dấu qua việc nhà văn nhận giải nhì cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 1967 – 1968 với truyện ngắn Người cầm súng và giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam 1998 với tiểu thuyết Thời xa vắng. So với các nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nguyễn Minh Châu chẳng hạn thì sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu chưa lớn. Thế nhưng khi ghi nhận những cây viết có sự đóng góp cho nền văn xuôi đương đại nước nhà, ta không thể bỏ qua Lê Lựu. Ông chính là một trong những cây bút có đóng góp quan trọng đối với văn học thời kỳ đổi mới. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng cảm hứng đời tư thế sự với những lấm lem bi kịch trong Thời xa vắng và các tác phẩm tiếp theo của ông đã góp phần đổi mới tư duy tiểu thuyết lúc bấy giờ. Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông không những cho bạn đọc biết đến một nhà tiểu thuyết Lê Lưụ mà bộ ba tác phẩm ấy đã khẳng định phong cách nghệ thuật cũng như in dấu đậm nét tên tuổi nhà văn trong quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương đại. Chương 2: SỰ ĐỔI MỚI CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT CỦA LÊ LỰU TRONG BỘ BA TÁC PHẨM THỜI XA VẮNG, CHUYỆN LÀNG CUỘI, SÓNG Ở ĐÁY SÔNG. 2.1. Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca 2.1.1. Khái niệm cảm hứng- Cảm hứng bi kịch Lê Ngọc Trà từng cho rằng: "Tư tưởng của tác phẩm không thể là những tư tưởng khô khan thuần lý mà phải biến thành khát vọng, thành cảm hứng"[149, tr.13]. Như vậy có nghĩa là cùng lấy con người và cuộc sống làm đối tượng khám phá, nhưng văn học khác với các ngành khoa học khác ở chỗ nó gắn liền với cảm hứng mạnh mẽ của người nghệ sỹ. Vậy cảm hứng là gì? Có thể nói, khái niệm cảm hứng đã được đề cập từ lâu trong lí luận nghệ thuật ở Châu Âu. Và Hegel chính là người đưa ra lý luận tương đối hoàn chỉnh về nó. Theo ông thì cội nguồn gốc rễ của nghệ thuật chính là cảm hứng. Ông khẳng định: "Tình cảm tạo nên trung tâm thực sự trên vương quốc chân chính của nghệ thuật; thể hiện tình cảm là cái chủ yếu trong tác phẩm nghệ thuật, cũng như trong cảm thụ của công chúng" [81, tr.39]. Như vậy, tác phẩm nghệ thuật chính là kết quả của cảm hứng. Điều này được Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương triển khai một cách cụ thể và đi đến kết luận: "Cảm hứng là sự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một tư tưởng nào đó" [61, tr.208- 209]. Chính cảm hứng chứ không phải cái gì khác: "Trở thành lòng say mê đối với tư tưởng, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt" [61, tr. 208- 209]. Nhà mỹ học Pospelov lại quan tâm đến sự chân thực của cảm hứng. Ông khẳng định: "Ở những tác phẩm không có chiều sâu của hệ vấn đề, sự lý giải và đánh giá các tính cách sẽ không được nâng lên thành cảm hứng. Ở những tác phẩm mang tư tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố tình" [132, tr.152 – 153]. Vậy là, dù cách diễn đạt có khác nhau nhưng ta có thể nhận thấy các nhà mỹ học, các nhà nghiên cứu văn học đều thống nhất khi quan niệm về cảm hứng. Đó chính là một thứ tình cảm mạnh mẽ, đam mê, mang bầu nhiệt huyết nóng hổi của trái tim người nghệ sĩ hướng về đối tượng phản ánh trong tác phẩm của mình. Cảm hứng do vậy cũng không thể là một thứ tình cảm giả tạo, hời hợt mà thực sự là một thứ tình cảm sâu sắc mãnh liệt. Đó thực sự phải là một tình yêu tha thiết, cũng có thể là một nỗi đau đớn nát tan hay một sự căm ghét tận xương tủy. Cuộc sống con người là thế giới muôn màu, chính vì thế, cảm hứng cũng mang nhiều dạng thức khác nhau. Có cảm hứng bi kịch, cảm hứng hài kịch, cảm hứng lãng mạn, cảm hứng châm biếm...Tuy nhiên, cảm hứng chủ đạo trong bộ ba tiểu thuyết của Lê Lựu là cảm hứng bi kịch nên người viết chỉ tập trung khám phá cảm hứng bi kịch. Chúng ta biết rằng bản chất của sự xuất hiện cái bi chính là sự xung đột. Và những xung đột để tạo ra cái bi ấy không phải là những xung đột thông thường mà là những xung đột mang ý nghĩa xã hội, lịch sử, nhân sinh. Một biểu hiện cụ thể dễ thấy khi con người rơi vào bi kịch theo Popelov là: "Người ta trải nghiệm sự căng thẳng và sự lo âu sâu sắc trong tâm hồn, khiến người ta phải chịu những đau khổ, thường rất nặng nề". Những bi kịch ấy chủ yếu ở "những mâu thuẫn và đấu tranh bên trong, nảy sinh trong ý thức, trong tâm hồn con người" [132, tr.170]. Như vậy, có thể khẳng định rằng cái bi chính là nỗi đau khổ, mất mát, chết chóc. Đấy là nỗi đau đớn dằn vặt trong tâm hồn. Chính vì vậy, cảm xúc bi kịch trong tác phẩm văn học trước hết chính là sự xót xa, đau đớn, đồng cảm với nhân vật. 2.1.2. Cảm hứng bi kịch trong văn học Việt Nam trước và sau thời kỳ đổi mới Nền văn học Việt Nam ra đời và phát triển trong dòng chảy của thời gian. Nó không chỉ là tấm gương phản chiếu cuộc sống muôn màu muôn vẻ mà còn giúp cho người đọc trong mọi thời đại hiểu được những đặc điểm riêng của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn. Cảm hứng bi kịch xuất hiện từ đầu trong những tác phẩm văn học dân gian rồi tiếp nối qua nền văn học viết. Vì vậy, nói đến cảm hứng bi kịch trong văn học "trước thời kỳ đổi mới" là nói đến một chặng đường dài mà tác phẩm đầu tiên gắn liền với cảm hứng bi kịch chính là truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy. Đấy là bi kịch mang tính thời đại - lịch sử chứ không phải là bi kịch cá nhân. Văn học Việt Nam bắt đầu chú ý đến bi kịch cá nhân có lẽ là qua tác phẩm Trương Chi - Mỵ Nương và tác phẩm Quan Âm Thị Kính. Bi kịch trong hai tác phẩm này chính là mối xung đột giữa khát vọng chính đáng riêng tư của con người và khả năng không thể thực hiện được những khát vọng đó trong cuộc sống. Cảm hứng bi kịch được tiếp nối trong nền văn học viết. Nó trở thành trào lưu với hàng loạt tác phẩm đề cập đến số phận cá nhân, đặc biệt nhất là hình ảnh người phụ nữ phải chịu mọi đau đớn trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ như thi hào Nguyễn Du từng nói:"Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung" ở giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Sự xuất hiện dồn dập những tiếng kêu thương bi thiết đầy xót xa đau đớn trong hàng loạt tác phẩm như thơ của Hồ Xuân Hương, Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du...Có thể nói bi kịch chính là cảm hứng chủ đạo của nền văn học giai đoạn này vì xã hội lúc bấy giờ có nhiều biến động dữ dội. Giai cấp phong kiến không còn khả năng quản lý. Chúng ra sức vơ vét bòn rút của cải, tranh giành quyền lực, gây ra những cuộc nội chiến liên miên khiến cho cuộc sống của người dân lao đao mà người chịu nhiều đau khổ nhất không ai khác chính là chị em phụ nữ. Từ cuối thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, vẫn tiếp tục tồn tại trong văn học cảm hứng bi kịch. Chúng ta bắt gặp trên từng trang viết nỗi cô đơn, sự day dứt, đau khổ của con người cá nhân mà một trong những tác phẩm đầu tiên thể hiện cảm hứng bi kịch giai đoạn này chính là Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Đặc biệt, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách lại khắc hoạ đậm nét cảm hứng này. Có thể nói Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản và Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là những trang viết thấm đẫm nước mắt bởi nhân vật chính đã ý thức sâu sắc về nỗi đau khổ của mình. Nhân vật thật sự bị giằng xé, đau đớn trong đời sống nội tâm. Cái chết của nhân vật để lại những ấn tượng sâu sắc cho người đọc. Tiếp nối nguồn cảm hứng ấy, Nam Cao - một nhà văn của phong trào hiện thực - đã khái quát bi kịch bằng những hình tượng nhân vật sống động cho nền văn học lúc bấy giờ. Qua tác phẩm Chí Phèo, chúng ta thấy tấn bi kịch về sự tha hoá, bi kịch không được quyền làm người của anh Chí. Ta còn bắt gặp bi kịch "chết mòn", bi kịch "sống không ra sống" của Hộ trong Đời thừa, Thứ trong Sống mòn... Đó là bi kịch của những xung đột không thể giải quyết được giữa con người và hoàn cảnh, giữa cá nhân và xã hội. Văn học giai đoạn từ 1945 đến trước thời kỳ đổi mới với nhiệm vụ động viên cổ vũ nên được viết hoàn toàn bởi chất sử thi và cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng bi kịch hầu như không xuất hiện, không được khơi nguồn. Nó hoàn toàn bị chặn đứng dù thực tế cuộc sống khắc nghiệt lúc bấy giờ thiếu gì cái bi. Trong giai đoạn lịch sử ấy, điều cần thiết là niềm vui, niềm tin, niềm hy vọng vào một ngày mai tươi sáng. Với cảm hứng ngợi ca, nhà văn thường xây dựng những mẫu người, những hình tượng ước lệ về một vẻ đẹp toàn diện. Chúng ta bắt gặp một loạt nhân vật như vậy trong hầu hết các tác phẩm: Chị Sứ (Hòn Đất - Anh Đức), anh Núp (Đất nước đứng lên - Nguyên Ngọc), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng- Nguyễn Thi), Tnú (Rừng Xà Nu - Nguyễn Trung Thành), chị Trần Thị Lý (Người con gái Việt Nam - Tố Hữu). Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước với phương châm : "Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật" của Đại hội Đảng lần VI (1986) đã thực sự khơi dòng chảy cho nguồn "cảm hứng bi kịch" đang bị chặn lại trong chiến tranh. Với cảm hứng bi kịch, các nhà văn đã dò thật sâu vào bên trong đời sống tâm hồn và tình cảm của con người. Họ phản ánh sự thật mà không hề né tránh dù đó là sự thật khốc liệt nhất. Viết về chiến tranh, chúng ta không chỉ thấy những hào quang lấp lánh nữa mà còn thấy cả những tổn thất mất mát. Con người có thể mất đi một phần hoặc mất tất cả: gia đình, bạn bè, người thân, mất cuộc sống bình thường; mất quyền "làm người", mất đi một phần thân thể hay cả chính phần người trong con người mình...khiến cho con người rơi vào chuỗi đau đớn đến tuyệt vọng đầy bi kịch. Điều này được thể hiện trong một loạt tác phẩm như: Truyền thuyết về quán tiên (Xuân Thiều), Bến không chồng(Dương Hướng), Cỏ lau (Nguyễn Minh Châu), Người còn sót lại của Rừng Cười (Võ Thị Hảo), Chim én bay (Nguyễn Trí Huân), Nước mắt đỏ (Trần Huy Quang). Viết về chiến tranh ở giai đoạn này không chỉ có bi kịch của sự mất mát mà các nhà văn thời kỳ đổi mới còn khắc hoạ tấn bi kịch lạc lõng của người lính sau cuộc chiến. Có lẽ sống quen trong hoàn cảnh "bất bình thường" nên giờ đây, khi quay về với cuộc sống bình thường, những người lính cảm thấy lạc lõng. Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Góc tăm tối cuối cùng (Khuất Quang Thuỵ)...là những tác phẩm thể hiện đậm nét tấn bi kịch lạc lõng ấy. Viết về mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, văn học thời kỳ đổi mới với tinh thần dân chủ đã mạnh dạn đề cập đến những thân phận, những cuộc đời mà hoàn cảnh và môi trường sống không thuận lợi tạo nên bi kịch. Ngoại tình (Nguyễn Mạnh Tuấn), Những thiên đường mù (Dương Thu Hương), Đi về nơi hoang dã (Nhật Tuấn), Bước qua lời nguyền (Tạ Duy Anh), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)...là những tác phẩm tiêu biểu phản ánh những tấn bi kịch như vậy. Không chỉ dừng lại mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh, văn học thời kỳ đổi mới còn khám phá bi kịch trong mối quan hệ giữa con người với con người ở những cung bậc khác nhau. Đó có thể là bi kịch vỡ mộng trong tác phẩm Bên kia bờ ảo vọng của Dương Thu Hương, Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh, Con chó và vụ li hôn của Dạ Ngân... Cũng có thể là bi kịch bị xâm hại trong chùm truyện ngắn mang đậm chất huyền thoại Những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn Hậu thiên đường của Nguyễn Thị Thu Huệ... Hay bi kịch đánh mất mình trong tác phẩm Bất hạnh của tài hoa (Đặng Thư Cưu), Bi kịch nhỏ (Lê Minh Khuê)... Như vậy, vơi cảm hứng bi kịch, hiện thực trong tác phẩm văn xuôi thời kỳ đổi mới hiện ra không phải là hiện thực một chiều của sự ca ngợi hoặc phê phán mà đấy là hiện thực bộn bề, ngổn ngang phức tạp không thể giải quyết. 2.1.3.Cảm hứng bi kịch thay thế cho chất sử thi và cảm hứng ngợi ca - những biểu hiện cụ thể trong bộ ba tiểu thuyết Thời xa vắng - Chuyện làng Cuội - Sóng ở đáy sông. Con người luôn là đối tượng trung tâm của mọi ngành khoa học và nghệ thuật. Lấy con người làm đối tượng khám phá vô tận, văn học thời kỳ đổi mới đã đặt con người trong "tổng hoà các mối quan hệ xã hội" thay thế cho con người "nguyên phiến", con người "sử thi ". Giờ đây, con người được nhận thức và khám phá "như một thế giới riêng phong phú, phức tạp với số phận riêng và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú, phức tạp của nó với toàn bộ xã hội, trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác" [17]. Tiểu thuyết với khả năng riêng đã phản ánh "con người" một cách sâu sắc và nhiều chiều. Khám phá về con người trở thành vấn đề cốt tử của tất cả các nhà tiểu thuyết trong đó có Lê Lựu. Có thể nhận thấy qua những trang viết của các nhà tiểu thuyết lúc bấy giờ, con người đươc nhận thức khá đầy đủ. Bakhtin - nhà lý luận văn học Xô Viết - giúp chúng ta có được nhận thức sâu sắc về con người: "Một trong những đề tài cơ bản có tính nội tại của tiểu thuyết chính là đề tài nhân vật không tương hợp với số phận và vị thế của nó. Con người hoặc cao lớn hơn thân phận mình, hoặc bé nhỏ hơn nhân tính của mình. Con người không thể hoá thân đến cùng vào cái thân xác xã hội - lịch sử hiện hữu" [8, tr.287]. Khi nghiên cứu thi pháp tiểu thuyết Đôtxtôiepxki, Bakhtin cũng chỉ ra rằng:"Con người không bao giờ trùng hợp với bản thân mình. Theo tư tưởng nghệ thuật của Đôtxtôiepxki, sự sống địch thực của cái bản ngã diễn ra dường như chính cái điểm con người không trùng hợp với bản thân con người ấy; Ơ cái điểm con người vượt ra ngoài giới hạn của toàn bộ cái hiện hữu của nó như một vật thể sinh tồn mà ta có thể rình xem"[8, tr.261]. Bakhtin cũng nhấn mạnh "Nếu cái cuống nhau nối liền nhân vật vớ._.15. Ngô Ngọc Bội (1987), Đổi mới tư duy là một cuộc cách mạng tự thân, Văn nghệ số 5. 16. Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (1989), "Văn học trong sự nghiệp đổi mới", báo Nhân dân 28/10. 17. Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam (1990), "Về tình hình sáng tác văn học hiện nay", báo Văn nghệ số 30, ngày 28/7. 18. Ban chấp hành Trung ương Đảng (1975), Những bức thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng gửi các Đại hội Văn nghệ, Nxb Sự thật, Hà Nội. 19. Bộ chính trị ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Nghị quyết 05 về văn hoá, văn nghệ. 20. Nông Quốc Chấn (1989), Đổi mới trong văn học, Văn nghệ số 37, 16/09. 21. Nguyễn Minh Châu (1983), Vài suy nghĩ về tiểu thuyết, Văn nghệ số 39. 22. Nguyễn Minh Châu (1987) "Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Văn nghệ (49 - 50). 23. Trần Cương (1995), "Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80", Văn học (4). 24. Huy Cận (1990), "Nhiệm vụ của văn học nghệ thuật trong giai đoạn cách mạng hiện nay", Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội. 25. Nguyễn Thị Chiến (1992), "Tính bi kịch xã hội qua hình tượng người phụ nữ trong thơ ca thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX", Văn học (2). 26. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - lý luận và ứng dụng, Nxb GD, HN. 27. Hoàng Diệu (1988), "Mấy ghi nhận từ đời sống văn học năm 1987", Văn nghệ quân đội (4). 28. Đinh Trí Dũng (1992), "Bi kịch tự ý thức, nét độc đáo trong cảm hứng nhân đạo của Nam Cao", Nghĩ tiếp về Nam Cao, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 29. Đinh Xuân Dũng (1990), "Đổi mới văn xuôi chiến tranh", Văn nghệ (51). 30. Đinh Xuân Dũng(1996), "Văn học Việt Nam về chiến tranh, hai giai đoạn của sự phát triển", 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8, Nxb Đại học Quốc gia HN. 31. Đinh Xuân Dũng (1987), Vài suy nghĩ về những cuộc tranh luận văn học gần đây, Văn nghệ số 29. 32. Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân đội nhân dân. 33. Triều Dương (1989), "Đánh giá đúng thực trạng văn học, bình tĩnh tiếp tục công cuộc đổi mới", Văn nghệ (41). 34. Đỗ Đức Dục (1990), Vai trò của văn học trong việc “Đổi mới con người”, Tuổi trẻ chủ nhật số 5. 35. Lê Duẩn (1997), Xây dựng nền văn hoá mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Văn hoá, Hà Nội 36. DOROTHY BREWSTER và ANGUS BURRELL(1971), Tiểu thuyết hiện đại, Dương Thanh Bình dịch, Ủy ban dịch thuật phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hoá xã hội. 37. Hà Minh Đức (1991), "Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới", Nxb sự thật, Hà Nội. 38. Hà Minh Đức (2002), "Những thành tựu của văn học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", Văn học (7). 39. Hà Minh Đức (1997), Lý luận văn học, (Chủ biên), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 40. Trần Bạch Đằng (1991), "Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong chiến tranh", Văn nghệ quân đội (7). 41. Trần Bạch Đằng (1988), "Tiếp tục con đường đổi mới trong sáng tạo nghệ thuật", Văn nghệ số 50. 42. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn học, HN. 43. Phan Cư Đệ (1975), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 44. Phan Cư Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 45. Phan Cư Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội. 46. Phan Cư Đệ (1972), "Về những tiểu thuyết gần đây của nhà văn quân đội", Văn nghệ quân đội số 12. 47. Trần Trọng Đăng Đàn (1974), "Từ Dấu chân người lính nghĩ đến những cuốn tiểu thuyết lớn xứng đáng với dân tộc với thời đại", Tạp chí Văn học số 3. 48. Trần Thanh Đạm (1989), "Nghĩ về một xu thế đổi mới trong đời sống văn chương hiện nay", Văn nghệ số 1. 49. Nguyễn Khoa Điềm (1994), "Một vài cảm nhận về đời sống văn chương hôm nay", Văn nghệ số 35. 50. Trần Độ (1993), "Cảm nhận về một nền văn nghệ mới đang ra đời", Văn nghệ số 2. 51. Phạm Văn Đồng (1983), "Tổ quốc ta, nhân dân ta, sự nghiệp ta và người nghệ sĩ", Nxb Văn học, Hà Nội. 52. Nguyễn Hà (2000), "Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80", Văn học (3). 53. Nguyễn Hà (1998), "Điểm lại 15 năm văn học Việt Nam (1975 - 1990)", Bình luận văn học, Niên giám 1997(1), Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp.HCM, Nxb Khoa học xã hội, HN. 54. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam sau CMT8, Đề tài cấp Nhà nước, HN. 55. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), Những đặc điểm nghệ thuật của văn xuôi Việt Nam cuối những năm 80 - đầu những năm 90, Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHKHXH và NV Tp.HCM. 56. Lưu Thị Thu Hà (2004), "Hiện tượng phân rã cốt truyện trong Phiên chợ Giát" và "Thân phận tình yêu", evan.com.vn. 57. Nam Hà, Viết về đề tài chiến tranh (1992), Văn nghệ số 33. 58. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb GD, HN. 59. Nguyễn Văn Hạnh (1987),"Văn học trên con đường đổi mới", Văn học (4). 60. Nguyễn Văn Hạnh (1987), "Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật", Văn học (2). 61. Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh Như Phương (1999), Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, HN. 62. Nguyễn Văn Hạnh (1979), Suy nghĩ về văn học, Nxb Văn học, Hà Nội. 63. Nguyễn Văn Hạnh (1993), "Nguyễn Minh Châu những năm 80 và sự đổi mới cách nhìn về con người", Tạp chí Văn học số 3. 64. Lê Đức Hạnh (1999), Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 65. Hoàng Ngọc Hiến (1987), "Đọc Thời xa vắng của Lê Lựu", Văn nghệ quân đội (4). 66. Hoàng Ngọc Hiến (1991), "Những nghịch lý của chiến tranh", Văn nghệ (15) 67. Đỗ Đức Hiểu (1994), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học Xã hội và Nxb Mũi Cà Mau. 68. Nguyễn Thái Hoà (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, HN. 69. Nguyễn Hoà (1989), "Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về chiến tranh", Văn nghệ (51). 70. Nguyễn Hoà (1994), Để văn học thực sự là văn học, Văn nghệ số 14. 71. Nguyễn Hoà (1990), Về một đoạn đường mới sau chiến tranh, Văn nghệ quân đội (2). 72. Nguyễn Hoà (1987), "Suy tư từ một Thời xa vắng, Văn nghệ (49-50). 73. Thanh Hương (1995), "Trao đổi về văn xuôi mấy năm gần đây", Văn nghệ (44). 74. Mai Hương (1993), "Nhìn lại văn xuôi 1992", Văn học số 3. 75. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam 75 - 95, Luận án phó tiến sĩ, Trường ĐH KHXH và NV Tp.HCM. 76. Lê Thị Hường (1994), "Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay", Văn học (2). 77. Lê Thị Hường (1995), "Các kiểu kết thúc truyện ngắn hôm nay", Văn học số 2. 78. Nguyễn Thị Huệ (1998), "Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80", Văn học số 2. 79. Nguyễn Trí Huân (1994), "Những trang viết về người lính", Văn nghệ số 41. 80. Tố Hữu (1982), Phấn đấu vì một nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, Nxb sự thật, Hà Nội. 81. Hêghen, Phan Ngọc dịch (1999), Mĩ học, tập 1, Nxb Văn học, HN. 82. Nguyễn Khải (1984), "Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống mới", Văn nghệ quân đội (1). 83. Nguyễn Khải (1988), "Nghề văn, nhà văn và Hội nhà văn", Văn nghệ số ra ngày 30 tháng 11. 84. Nguyễn Khải (1990), Những suy nghĩ về đổi mới văn nghệ, Văn nghệ số41. 85. Đỗ Văn Khang (2002), Mỹ học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia HN. 86. Đỗ Văn Khang (1989), "Văn nghệ cần tiếp tục đổi mới như thế nào", Văn nghệ (19). 87. Nguyễn Hoành Khung (1998), "Về nhân vật Chí Phèo' Nam Cao, tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 88. M.B.Khrapchenkô, Lê Sơn, Nguyễn Minh dịch (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 89. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 45 - 75, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 90. Chu Lai (1996), "Nhân vật người lính trong văn học", 50 năm văn học Việt Nam sau Cách Mạng Tháng 8, Nxb Đại học Quốc gia, HN. 91. Chu Lai (2004),"Viết về chiến tranh đôi điều suy ngẫm", Văn nghệ quân đội, số ra tháng 8.2004. 92. Tôn Phương Lan (2001), Một vài suy ngĩ về con người trong văn xuôi thời kỳ đổi mới", Văn học (9). 93. Tôn Phương Lan (2004), "Truyện ngắn chiến tranh nhìn từ sự vận động của thể loại", Nghiên cứu văn học (11). 94. Tôn Phương Lan (1995), Tiểu thuyết về chiến tranh sau 1975, Văn nghệ quân đội (6). 95. Phong Lê (1988), "Văn học và đời sống - hôm qua và hôm nay", Văn học(1). 96. Phong Lê (1990) (Chủ biên), Văn học học và hiện thực, Nxb Khoa học xã hội, HN. 97. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, HN. 98. Cao Tiến Lê (1985), Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay, Văn nghệ số 14, 15. 99. Nguyễn Văn Long (1985), Văn xuôi sau 1975 viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, Văn nghệ quân đội số ra tháng 4. 100. Nguyễn Văn Long (2001), "Tiếp cận và đánh giá văn học Việt Nam sau Cách Mạng Tháng 8", Nxb Giáo dục, HN. 101. Nguyễn Văn Lưu (1996), "Thử nhìn lại văn học Việt Nam sau 10 năm đổi mới", Văn nghệ quân đội (6). 102. Phương Lựu (1991), "Góp bàn với một số truyện viết về sự hy sinh mất mát trong chiến tranh", Văn nghệ quân đội (7). 103. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam - Lê Ngọc Trà - La Khắc Hoà - Thành Thế Thái Bình (1997), Lí luận văn học (Tái bản lần thứ nhất), Nxb Giáo dục, HN. 104. Lê Lựu (2003), Tạp văn, Nxb Văn hoá thông tin, HN. 105. Lê Lựu (2003), Sóng ở đáy sông, Nxb Hải Phòng. 106. Lê Lựu (2003), Chuyện làng Cuội, Nxb Văn học, HN. 107. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 108. Thiếu Mai (1987), "Nghĩ về một Thời xa vắng chưa xa", Văn nghệ quân đội (4). 109. Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Ngô Thảo(1987), Một thời đại văn học mới, NXB Văn học, HN. 110. Nguyễn Đăng Mạnh (1995), Một cuộc nhận đường mới, Văn học (4). 111. Lê Thành Nghị (1991), "Qua những cuốn sách gần đây viết về chiến tranh", Văn nghệ quân đội (52). 112. Lê Thành Nghị (1996), "Tiểu thuyết viết về chiến tranh mấy ý nghĩ góp bàn", 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8, Nxb Đại học Quốc gia, HN. 113. Phan Huy Nghiêm (1997), "Thành công của tiểu thuyết về đề tài chiến tranh trong 10 năm đổi mới văn học (1986 -1996)", Luận văn Thạc sĩ, Trường ĐHSP Tp. HCM. 114. Nguyên Ngọc (1990), "Hội thảo tình hình văn xuôi hiện nay", Văn nghệ(15). 115. Nguyên Ngọc (1992), "Văn học đổi mới và những bước đi hợp quy luật", Văn nghệ (48). 116. Nguyên Ngọc (1988), "Văn xuôi sau 1975 thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển", Văn học (4). 117. Nguyên Ngọc, Bài thuyết trình tại trường Đại Học Diderot -PariVII "Văn học Việt Nam đang ở đâu" tp://Perso.wanadoo.fr/iendan. 118. Lã Nguyên (1988), "Văn học nghệ thuật trong bước ngoặt chuyển mình", Tạp chí Văn học (4). 119. Phạm Xuân Nguyên (1991), "Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết", Văn học (2). 120. Phạm Xuân Nguyên (1992), "Văn học hôm nay có gì mới", Văn học(6). 121. Vương Trí Nhàn (1987), "Một đóng góp vào việc nhận diện con người Việt Nam hôm nay (Trở lại với tiểu thuyết "Thời xa vắng"), Văn nghệ (49-50). 122. Nhiều tác giả (1996), 50 năm văn học Việt Nam sau CMT8, Nxb Đại học Quốc gia, HN. 123. Nhiều tác giả (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 124. Nhiều tác giả: Lê Quang Trang- Nguyễn Trọng Hoàn (1996), Những vấn đề văn hoá Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 125. Võ Văn Nhơn (1998), "Cảm hứng anh hùng và cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết viết về chiến tranh xuất bản sau 1975", Bình luận văn học - Niên giám 1997 (1), Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học tại Tp. HCM, Nxb Khoa học xã hội, HN. 126. Bảo Ninh (2005), "Hiệu ứng thời xa vắng". Báo Văn nghệ trẻ, số 47- 2005". 127. Đỗ Hải Ninh (2006), Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 7- 2006. 128. Huỳnh Như Phương (1991), "Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hoá nền văn học", Văn học (4). 129. Huỳnh Như Phương (1993), "Văn học đang nhìn lại chính mình", Văn học (1). 130. Huỳnh Như Phương (1983), "Cảm hứng phê phán trong văn chương hiện nay", Văn nghệ (24) 131. Huỳnh Như Phương (1994), Những tín hiệu mới, Nxb Hội nhà văn. 132. N.Poxpêlop (1998), (Trần Đình Sử dịch), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 133. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học, HN. 134. Trần Đình Sử (1987), Tự sự học một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, HN. 135. Trần Đình Sư (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đại học, HN. 136. Trần Đình Sử (2000), Mấy vấn đề quan niệm của văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, HN. 137. Trần Hữu Tá (1989), "Về vấn đề định hướng của văn học trong tình hình hiện nay", Văn học, (5). 138. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Thành phố Hồ Chí Minh. 139. Nguyễn Đình Thi (1998), Chuyện văn - Chuyện đổi mới trong văn học, Văn nghệ quân đội, (11). 140. Bùi Việt Thắng (1990), "Suy nghĩ về chiến tranh và số phận con người- Nhân đọc Người mẹ tội lỗi", Văn nghệ quân đội ,(7). 141. Bùi Việt Thắng(1996), "Những biến đổi trong cấu trúc thể loại tiểu thuyết sau 1975", 50 năm văn học Việt Nam sau CMT8, Nxb Đại học Quốc gia, HN. 142. Bùi Việt Thắng (1991), "Văn xuôi gần đây và quan niệm con người", Văn học (6). 143. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống môtip chủ đề", Văn học (4). 144. Bích Thu (1996), "Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975", Văn học (9). 145. Lý Hoài Thu (2001), "Tiểu thuyết - tầm vóc hiện thực và số phận con người", Văn nghệ quân đội (2) 146. Toạ đàm về tiểu thuyết (1990): Góc tăm tối cuối cùng" Khuất Quang Thuỵ, Báo Văn nghệ số 11, ngày 17/03. 147. Lê Anh Trà, Nguyễn Văn Phú (1968), "Về vấn đề bi kịch và cái chết của người anh hùng cách mạng trong thời đại chúng ta", Văn học(9). 148. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, Nxb Trẻ, Tp.HCM. 149. Lê Ngọc Trà (Chủ biên), Lâm Vinh, Huỳnh Như Phương (1994), Mỹ học đại cương, Nxb Văn hoá thông tin, HN. 150. Lê Ngọc Trà (2002),"Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới", Văn học (2). 151. Lê Ngọc Trà (1987),"Văn nghệ và chính trị", Văn nghệ, số ra ngày 19/12. 152. Lê Ngọc Trà (2003), Thách thức của sáng tạo, Nxb Thanh Niên, TP.HCM. 153. Lê Ngọc Trà (1980), Tư tưởng lý luận của nhà văn và sáng tác văn học - báo Văn nghệ số 34. 154. Lý Hoàn Thục Trâm (1993), Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết Việt Nam những năm 80, Luận văn tốt nghiệp cử nhân khoa học Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Tp.HCM. 155. Hà Xuân Trường (1991), "Có sự đổi mới thực sự trong văn học", Văn nghệ số 49. 156. Hoàng Thị Văn (1999), "Dấu ấn chiến tranh trong thân phận những con người đã đi qua chiến tranh", Kỷ yếu khoa học, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM. 157. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90, Luận án tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Tp.HCM. 158. Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hoá văn nghệ (Từ Đại hội VI đến Đại hội VII),(1993), Nxb Sự thật, HN. 159. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1987), Nxb Sự thật, HN. 160. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. PHỤ LỤC TÓM TẮT 3 TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI 1. Thời xa vắng Nhân vật chính của truyện là Giang Minh Sài. Do hủ tục lạc hậu nên mới 10 tuổi đầu Sài đã được bố mẹ hỏi cho một cô vợ hơn mình 3 tuổi. Có lẽ bi kịch cuộc đời của anh bắt đầu từ đây. Sài có vợ nhưng Sài không yêu vợ. Dù cha mẹ có khoá cửa cho hai người ở chung phòng đi chăng nữa thì cả 5 đêm liền Sài đều ngủ dưới đất. Chén nước mắm nào mà Tuyết đã chấm vào thì không bao giờ Sài dùng nữa. Thế nhưng vì không muốn mang tiếng “không đoàn kết với vợ”, Sài buộc phải sống hai bộ mặt. Khi đứng trước đám đông, Sài luôn là một người gương mẫu, là người chồng yêu thương vợ, còn khi chỉ còn lại một mình thì Sài đau đớn vô cùng. Cuộc sống của Sài cứ thế trôi đi cho đến năm Sài 18 tuổi. Làng Hạ Vị ngập lụt, Sài hăng hái giúp đỡ mọi người. Sau khi xong công việc, anh tìm đến thế giới riêng của mình là sân thượng nhà ông tổng Lỡi. Tại đây, Sài đã gặp Hương, người bạn gái học chung lớp mà cả 3 năm trời Sài không dám quay đầu nhìn xuống mặc dù trong lòng Sài thật sự rung động trước vẻ đẹp của Hương. Giữa mênh mông sóng nước, hai người đã thổ lộ tình cảm với nhau, họ ôm nhau ngủ suốt đêm và chỉ sực tỉnh dậy khi có tiếng động. Tin Sài đã có vợ mà còn tằng tịu với con gái lan truyền đi khắp nơi đã được chú Hà dập tắt. Sài trong mắt mọi người vẫn là người gương mẫu. Thế nhưng Sài không thể tiếp tục sống bên người vợ không yêu, anh quyết định nghỉ học và xin nhập ngũ. Ở đơn vị bộ đội, Sài phấn đấu rèn luyện, phấn đấu học thêm, được đi học đại học, được bồi dưỡng để có thể trở thành đảng viên. Sài làm việc, học tập để quên đi tình yêu giữa mình với Hương và cũng để quên đi rằng mình đã có một người vợ…Mọi người ở đơn vị rất yêu quý Sài, đặc biệt là Hiểu và Hiền đều xem Sài như một đứa em. Ở đơn vị, Sài hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc và đây chính là lý do khiến Sài được trở thành đối tượng Đảng. Sài đã “yêu vợ” theo ý muốn của thủ trưởng, thế nhưng Sài vẫn không được kết nạp Đảng vì lý lịch gia đình vợ còn Hương lại hiểu lầm nên đi lấy chồng. Sài viết đơn xin đi B. Tại chiến trường ác liệt ấy, Sài đã lập nên nhiều chiến tích oanh liệt. Tên tuổi của Sài vang dội khắp nơi. Về phần mình, Hương sau khi nghe Kim kể chuyện đã hiểu những éo le mà Sài phải gánh chịu, chị vẫn theo dõi từng bước anh đi. .. Hoà bình lập lại, Sài bắt đầu một cuộc sống mới. Sài bỏ Tuyết, hăm hở đến với tình yêu mới. Những người thân khác khuyên can Sài vì Châu không hợp với anh. Thế nhưng anh yêu một cách hối hả, yêu một cách mù quáng. Càng sống với nhau, cả hai đều cùng nhận thấy người bạn đời của mình có quá nhiều sự trái ngược. Giữa hai người có khoảng cách quá lớn về cá tính. Biết Sài là người rất mực thương yêu mình nhưng Châu lại không thể chấp nhận người chồng quá đơn điệu nhàm chán, không có bản lĩnh để chỉ huy cô. Còn Sài lúc nào cũng cảm thấy mình hụt hơi nhưng anh đều gồng mình lên để cố gắng vì sợ mang tiếng đã một lần bỏ vợ. Quãng thời gian Sài sống với Châu là một quãng thời gian tối tăm trong cuộc đời Sài. Những ngày tháng Châu bụng mang dạ chửa, Châu sinh con, những ngày tháng con đau ốm… Sài lo lắng chăm sóc hết mình.Và đó cũng chính là khoảng thời gian Sài đánh mất mình. Sài quyết định ly dị Châu khi cái kỷ vật cuối cùng- chiếc ba lô đầy kỉ niệm với người bạn đã cứu mình thời chiến tranh - bị Châu cắt và ném lăn lóc trên giường. Tấn bi kịch chưa buông tha anh, trước khi toà tuyên bố ly hôn, anh mới biết sự thật đau lòng. Đứa con anh yêu thương không phải là con của anh. Sài lên đường về quê, bắt đầu cuộc sống mới. Với sự thông minh, chăm chỉ, Sài đã làm cho làng Hạ Vị "thay da đổi thịt" . 2. Chuyện làng Cuội Câu chuyện xoay quanh cuộc đời đầy đau khổ của bà Hiêu Đất. Chuyện bắt đầu và kết thúc bằng cái chết của bà. Từ đấy, tác giả cho các nhân vật tái hiện lại dòng quá khứ thông qua những mối tình. Đất được xem là cô gái xinh đẹp nhất làng Cuội. Cô đã lọt vào mắt "xanh” Tổng Lỡi – một kẻ giàu có, đầy quyền hành và đã có 3 bà vợ. Cô bị Tổng Lỡi hãm hiếp và hắn hứa sẽ lấy cô làm vợ. Đất tin lời Tổng Lỡi. Thế rồi cô mang bầu. Tổng Lỡi không thực hiện lời hứa mà đưa cô lên một vùng dân tộc thiểu số trên núi. Ở đấy, cô phải tự lo lấy tất cả. Năm Hiếu được 10 tuổi, Đất đã dẫn con về làng Cuội – nơi cô sinh ra và lớn lên. Cô đã “hợp thức hoá” lai lịch của mình bằng một câu chuyện “cô bỏ đi theo chồng – cha của cu Hiếu - anh ấy đi bộ đội và đã hy sinh". Đất là một người chịu thương chịu khó, cô không hề oán trách kẻ gieo tai hoạ cho mình. Cô trải lòng mình âm thầm trên những dòng nhật ký. Sau trận lụt, làng Cuội thực sự ấm trở lại vì Việt Minh về. Trong số đó có anh Kiêm, một chiến sỹ giàu lòng yêu nước. Anh đã đến làng Cuội và thực sự thay đổi cuộc sống ở đây. Từ những em bé như Cu Hiếu đến những ông lão như cu Từ…tất cả đều chộn rộn khí thế. Họ tập trung diệt giặc đói, giăc dốt cho dân. Trước người phụ nữ “gái một con trông mòn con mắt”, Kiêm đã thực sự rung động. Còn Đất, người con gái đã một lần lầm lỡ ấy vừa tha thiết lại vừa e dè. Thế rồi sau khi có quyết định cho phép của đơn vị, họ đến với nhau. Hạnh phúc ngỡ như mỉm cười với Đất, thế nhưng sau ngày cưới, họ lại phải xa nhau, Kiêm bị bắt . Dân làng Cuội khốn đốn. Đất không là một ngoại lệ. Cô lại còn phải chịu bao đau đớn hơn vì nàng là vợ của “thằng Việt Minh“ đầu sỏ. Hằng ngày chúng bắt chị lên trình diện trên bốt qua đêm để hai đứa con bé dại ở nhà. Tỗng Lỡi lúc này lại làm quan lớn, hắn về làng, tìm mẹ con cô. Hắn bắt bọn tay sai là từ nay không ai có quyền được bắt nạt cô và yêu cầu chúng lấy gạch đá từ nhà hắn về xây dựng nhà dưới hình thức là động viên dân chúng cho mẹ con cô ở. Hoà bình lập lại, hạnh phúc ngỡ như mỉm cười với người đàn bà tội nghiệp ấy. Thế nhưng, chồng cô – anh Kiêm bị đưa ra đấu tố. (Người ta cho rằng Kiêm là kẻ phản động bởi mặc dù những ngày tháng giặc ráo riết tìm kẻ Việt Minh để chém giết nhưng Tổng Lỡi vẫn cho người xây căn nhà cho mẹ con cô. Và đây chính là lý do khiến người ta khép gia đình cô vào một giai cấp khác, giai cấp bóc lột nông dân). Lúc này, ngay cả con dâu và con trai cô cũng xa lánh. Chồng bị hàm oan mà chết, sau một thời gian, người ta nhận ra những sai lầm trong cuộc cải cách ruộng đất đẫm máu kia, chồng cô được minh oan. Hiếu ngày càng thăng quan tiến chức. Hai người em cùng mẹ khác cha với Hiếu không được học đại học vì người ta sợ có lòng thù hằn Cách Mạng. Mai xung phong đi B. Anh bị giặc tung tin đồn nhảm là theo giặc, do vậy, bà Đất bị mọi người xa lánh vì có con đầu hàng giặc. Bà đau đớn không dám nhìn mặt ai. Đứa con trai út cũng xin ra trận để làm sao cho mẹ vui lòng. Hiếu đi lại với Nho, người đàn bà bên quán nước ven đường. Trong lúc Hiếu còn lo sợ chạy đôn chạy đáo để thăng quan tiến chức thì được tin hai em trai đều hy sinh một cách anh dũng trên chiến trường. Tin ấy đến tai bà Đất trong khi bà đang phát biểu về việc học tập gương các bà mẹ anh hùng ở miền Nam… Hiếu bỏ vợ, đổ mọi trách nhiệm lên đầu bà Đất. Bà vì con nên mang tiếng là người ác độc. Thời gian cứ thế trôi đi, trên con đường danh vọng, Hiếu vẫn luôn gặt hái được những điều may mắn mặc dù hắn vẫn trải qua những sai lầm như việc mở rộng đường sá, bán chuối… Trong hạnh phúc gia đình, hắn không hề gặp may. Hắn không lấy Nho – người đàn bà một thời hắn đã ăn nằm mà lấy con gái của bà ta. Cuộc hôn nhân thứ hai này cũng không mang lại hạnh phúc cho hắn bởi vợ hắn là một con đàn bà hư hỏng. Ả ăn nằm với bạn trai của chồng ngay trong nhà. Hắn tìm cách trả thù cùng một lúc hai nỗi nhục trong đời do hai người vợ gây ra bằng cách chiếm đoạt người bạn gái của Huyền trong một lần đi dưỡng sức ở nước ngoài. Đấy là con gái của kẻ thù ngày trước – con gái của đội Lăng. Về phần mình, vì thương cháu, vì hạnh phúc của con trai, bà Đất đã bao phen cắn răng chịu đựng. Bà tận tuỵ lo cho con cho cháu trong những ngày vợ hắn sinh nở. Thế nhưng chỉ một thời gian sau, khi con lớn, biết đi mẫu giáo là cô ta lại mặt nặng mày nhẹ với mẹ chồng. Buộc bà phải về quê để cho con trai thoải mái. Bà đã phải chịu đựng cái cảnh con dâu làm tình với trai khi con trai bà vắng mặt. Thương con, bà chấp nhận tất cả. Bà chấp nhận cả những việc làm sai trái của Hiếu. Ngay cả việc Hiếu viết thư xin tiền Tỗng Lỡi – người cha đích thực của hắn mà không bao giờ hắn dám nhìn nhận. Thế rồi bà đã ra đi, đi mãi mãi vì sự phản bội của chính núm ruột của mình. Hắn xỉ vả nhiếc móc bà thậm tệ. Bà đã chọn lấy cái chết đầy đau đớn. Bà chết trôi và người ta vớt xác bà lên tại nơi đầm Cuội ngày xưa. 3. Sóng ở đáy sông Hắn có tên là Núi. Hắn được sinh ra trong một gia đình khá đặc biệt. Mẹ hắn bản thân la con ở, đã mang bầu trong thời gian bà chủ ở cữ. Vì thương tình hoàn cảnh của mẹ hắn nên bà chủ đứng ra cưới mẹ hắn làm vợ hai cho chồng. Gia đình bà cả sống ở tầng trên còn gia đình hắn sống ở tầng dưới. Tuy cùng sống trong một ngôi nhà nhưng giữa tầng trên và tầng dưới hoàn toàn khác nhau. Mẹ hắn cùng anh em hắn vừa là vợ, là con nhưng đồng thời lại là phận tôi tớ. Bản thân cha hắn cũng phân biệt hai loại con mà loại như anh em hắn thì không thể có hy vọng gì. Sau khi những mâu thuẫn ở tầng trên xuất hiện do anh An và anh Nam gây ra, cha hắn đã cùng với anh Ý xuống tầng dưới ở với mẹ con hắn. Chiến tranh xảy ra, gia đình hắn buộc phải di tản. Cha mẹ hắn ở lại thành phố còn anh em hắn phải về quê ngoại. Thay mặt mẹ, một mình hắn phải đứng ra lo toan mọi thứ, từ tắm giặt, ăn uống, học hành cho mấy đứa em. Tuy bận rộn nhưng về đây, hắn vẫn học giỏi nhất nhì xã. Bà con, thầy cô, bè bạn ai cũng quý mến hắn. Mỗi lần cha mẹ hắn xuống thăm, người ta lại thi nhau kể về những ưu điểm của hắn. Tại quê hương, hắn đón nhận mối tình đầu mãnh liệt với Hiền. Hắn và Hiền đã quan hệ tình dục ngay đêm đầu tiên gặp nhau. Hiền có bầu, hai người bàn tính chuyện cưới nhau nhưng theo tục lệ của làng thì hai người không thể lấy nhau vì có quan hệ họ hàng xa. Hiền bỏ quê ra đi. Sau khi Hiền đi, hắn thực sự mất ăn mất ngủ, muốn đi tìm Hiền nhưng điều kiện không cho phép. Chưa hết sự đau đớn này lại gặp phải đau đớn khác. Mẹ hắn sau một lần sinh em bé đã không thể qua khỏi. Cha hắn thuê người đưa xác mẹ hắn về quê chôn cất. Anh em hắn đau đớn xót xa. Sau khi mẹ hắn chết được năm ngày, cha hắn từ biệt anh em hắn lên thành phố. Mẹ chết rồi, cha cắt hết khoản gạo mà ngày trước mẹ đong thêm, mấy đứa em hắn đã khóc nấc nghẹn ngào vì từng đấy gạo làm sao đủ ăn mà chúng thì đang tuổi ăn tuổi lớn. Thương em vô cùng, hắn nguyện từ nay sẽ làm việc để nuôi em. Rồi hắn ngã bệnh vì suy nhược thần kinh. Hắn phải lưu ban. Vì muốn chăm sóc mấy đứa em, hắn đã bỏ học. Hắn nói dối mọi người là được suất học bổng trên Kinh Môn nhưng thực chất là làm “cửu vạn”. Tất cả số tiền kiếm được hắn mua gạo, mua những đồ dùng cần thiết cho em. Thế nhưng sau ba tháng, hắn bị tạm giam vì do vô tình liên quan với hai tên đào ngũ chuyên trộm cắp. Cha hắn được mời đến để bảo lãnh cho hắn. Cha hắn rất bất ngờ trước việc hắn bỏ học. Ngay giờ phút ấy, cha hắn từ hắn, không xem hắn là con và cũng không thèm tìm hiểu vì sao hắn lại bỏ học. Ong chỉ cho hắn ở trong nhà khi ông có mặt. Khi ông đi làm, hắn phải ra khỏi nhà. Về phần ăn uống hắn phải tự lo nên phải ăn vơ ăn vất cái gì còn sót lại của người ta. Để cho em đón một mùa xuân vui vẻ, hắn đã ra đi. Trong một đêm mưa phùn, hắn về quê ngoại và thắp nhang cho mẹ, hắn cầu xin mẹ phù hộ bởi vì hắn có thể đi ăn cắp vì không biết làm gì để có ăn. Hắn có quyết định được vào làm ở nhà máy cá hộp. Trong thời gian chờ đợi, hắn trở về thăm các em nhưng cha hắn không cho hắn ở nhà. Hắn bắt đầu cuộc đời của một thằng “ăn cắp”. Hắn vào tù ra tội không biết bao nhiêu lần. Hắn chán cảnh tù đày, rất muốn trở thành người giàu có. Hắn đi buôn nhưng không gặp may. Tại đây hắn gặp Mai – một ả giang hồ. Hắn và Mai nghiễm nhiên trở thành vợ chồng. Thế nhưng ả đã lừa hắn để bỏ đi với Hưng sẹo. Hắn gặp lại Hồng – cô bạn gái của Hiền ngày xưa. Hồng là người chất phác, phúc hậu. Hồng về ở với hắn. Hạnh phúc tưởng như mỉm cười với hắn bởi Hồng chăm sóc hắn từng tý một. Thế nhưng, Mai bế con cùng hai ả giang hồ nữa xuất hiện. Chúng đánh đập, mắng chửi Hồng thậm tệ, rồi đuổi Hồng ra khỏi nhà. Vì thương đứa con nên hắn không thể đứng ra bảo vệ được cho Hồng. Sau khi Hồng đi, Mai - vợ hắn, tiêu xài hết tiền cũng bỏ con lại cho hắn mà đi. Vì thương con còn nhỏ, hắn quyết tâm đi tìm Mai. Hắn thấy Mai đang ngồi bên Hưng sẹo. Khi hắn bế lấy con đưa cho vợ hắn, vợ hắn quay ngoắt, thu tay lại. Hắn sững sờ đau xót vì không ngờ, đến con mình đẻ ra mà ả tàn nhẫn đến vậy. Rồi con bị ỉa chảy, nhờ bà tổ trưởng tổ nước sôi, con hắn được thoát chết. Bà con lối xóm giúp đỡ hắn tận tình. Nhưng vì mưu sinh, hắn lại đi ăn cắp để lấy tiền mua sữa cho con. Thế rồi nghe lời khuyên của bà tổ trưởng, hắn bồng con về gửi cho một người cậu họ và đi buôn. Việc làm ăn của hắn lần này rất khá. Thế nhưng công an vẫn không quên vụ móc túi bên bến Bính mà hắn gây ra. Một lần nữa hắn phải vào tù. Cha hắn sau khi nghe em gái hắn cầu cứu, ông không những không giúp mà còn viết một cái đơn xin toà kết án tù chung thân. Ơ trong tù lần này, hắn vô cùng lo lắng và đau xót. Hắn thương con vô cùng. Còn đứa con gái bé bỏng tội nghiệp của hắn cũng vậy. Không thể ở người nhà ông cậu họ xa, không thể ở với cô Biển, cũng không thể ở với cậu Uyên…Trong một lần mang cháu lên gặp hắn tại nhà tù, bà đã để bé ở lại đấy. Vì thương tình, các giám thị đã cho phép bé ở lại, chăm sóc và dạy dỗ để hắn yên tâm mà cải tạo. Cô bé chỉ tạm thời đến trại trẻ mồ côi khi bác Minh Vũ hết án. Vì hạnh phúc và tương tai của con, hắn tu chí học nghề mộc. Hắn học chăm chỉ và rất giỏi. Trong khoảng thời gian hắn ở tù, Hồng lên thăm và cho hắn biết tin tức về mẹ con Hiền. Có địa chỉ con trai, hắn viết thư kể mọi ngọn ngành và giải thích vì sao hắn ở tù. Hắn sung sướng khi nhận thư hồi âm của con hắn. Hơn thế nữa, hắn lại được cả hai mẹ con Hiền lên thăm. Sau khi hết án, hắn được trại cho mượn một miếng đất để mở xưởng mộc, vừa tạo điều kiện cho hắn, vừa tăng thu nhập cho trại. Về phần cha hắn, sau khi anh Ý ly di vợ, mua một căn nhà 4 tầng cho ông ở. Rồi anh Ý vỡ nợ bỏ trốn, căn nhà bị niêm phong, ông phải ở cái gian trước đây dành cho chó nằm. Ông bị bán thân bất toại. Biển bàn với hắn là cho con gái hắn về hầu hạ ông bởi vì giờ đây, bên người cha khắc nghiệt ấy chỉ có hai anh em hắn. Cha hắn quá sửng sốt và chết ngay sau khi biết được đứa bé hằng ngày giúp mình ăn uống, tắm giặt, ỉa đái là con của thằng Núi, đứa cháu nội mà trước đây ông ta từng ruồng bỏ. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLA7112.pdf
Tài liệu liên quan