Tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam

Lời mở đầu Trong những năm qua thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và kế hoạch 5 năm 2001-2005 tại Đại hội Đảng lần thứ IX, ngành thuỷ sản nỗ lực phát huy mọi nguồn lực vào đầu tư phát triển ngành thuỷ sản và đã đạt được những thành tựu to lớn, đóng góp không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế đất nước. Kim ngạch xuất khẩu đứng vị trí thứ 3 (sau dầu thô, giày da), đóng góp cho ngân sách nhà nước lượng không nhỏ, góp phần tạo công ăn

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1908 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế. Song hiện nay đứng trước thách thức lớn của ngành thuỷ sản là nguồn lợi hải sản đang ngày càng cạn kiệt mà nguồn lợi thuỷ sản xa bờ chưa được khai thác. Để giữ được tốc độ phát triển cao như hiện nay, trong tiến trình hội nhập nền kinh tế thế giới có những khó khăn mới luôn đặt ra cho ngành thuỷ sản. Vì vậy ngành thuỷ sản cần có những bước đi mang tính chiến lược, thì đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản chính là hướng đi tất yếu của ngành thuỷ sản. Để có cái nhìn tổng quát và khách quan về vấn đề này, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học của mình. Nội dung đề tài gồm 3 chương: Chương I: Những vấn đề lý luận chung. Chương II: Thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta hiện nay Chương III: Một số giải pháp tăng cường đầu tư phát triển ngành thuỷ sản giai đoạn 2003-2010 Đề tài đã đi sâu xem xét tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta trong thời gian qua và phương hướng trong những năm tới. Từ đó có một số giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy phát triển nuôi trồng thuỷ sản nói riêng và ngành thuỷ sản nói chung, trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Để hoàn thành đề tài này, trong suốt quá trình nghiên cứu em đã được sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của cô giáo TS.Nguyễn Bạch Nguyệt, qua đây em xin chân thành cảm ơn cô giáo. Mặc dù đã hết sức cố gắng tìm tòi nghiên cứu song thời gian và hiểu biết hạn chế, nên đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo, để em có thể hoàn thiện đề tài của mình chặt chẽ trong lý luận và thiết thực trong thực tiễn. Hà nội, tháng 5 năm 2003 Sinh viên: Nguyễn Bằng Thắng. Chương I Những vấn đề lý luận chung I. Lý luận chung về đầu tư phát triển 1. Khái niệm, và đặc điểm của đầu tư phát triển 1.1 Khái niệm: Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư Theo nghĩa rộng: Đầu tư là sự “hy sinh” các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực ở hiện tại có thể là: tiền, tài nguyên thiên nhiên, thời gian, sức lao động và trí tuệ. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội. Trong các kết quả đạt được trên đây những kết quả là các tài sản vật chất, tài sản trí tuệ và nguồn lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế. Những kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế được hưởng. Theo nghĩa hẹp: Đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp được gọi là Đầu tư phát triển. Vậy đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực và tài sản trí tuệ để xây dựng nhà cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Trên giác độ nền kinh tế đầu tư là sự hy sinh những giá trị ở hiện tại gắn liền với việc tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại, chuyển giao tài sản hiện có giữa các cá nhân, không phải là đầu tư đối với nền kinh tế. Đầu tư có thể phân loại thành ba hình thức chính theo bản chất và lợi ích do đầu tư mang lại như sau: Đầu tư tài chính: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất. Đầu tư tài chính không tạo ra sản phẩm mới cho nền kinh tế quốc dân (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của các tổ chức, cá nhân đầu tư. Với hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng. Điều này khuyến khích người có tiền bỏ ra đầu tư. Để giảm độ rủi ro họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một kênh cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại: Là loại hình đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó đem bán lại giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và bán lại. Loại hình đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế quốc dân (nếu không xét đến ngoại thươnng) mà chỉ làm tăng tài chính của người đầu tư trong quá trình mua bán hàng hàng hoá, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán và người mua. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình đầu tư phát triển, tăng thu cho ngân sách nhà nước, tăng tích luỹ cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Ngoài ra có thể hiểu đầu tư theo quan điểm tái sản xuất mở rộng: Đầu tư là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc tạo ra các năng lực sản xuất, tạo ra các yếu tố cơ bản tiên quyết cho quá trình phát triển sản xuất. Đây là hoạt động mang tính thường xuyên của mọi nền kinh tế và là cơ sở của mọi sự phát triển, tăng trưởng kinh tế. 1.2 Đặc điểm đầu tư phát triển Từ sự phân tích ở trên, cho ta thấy bản chất của đầu tư phát triển nói riêng có những đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ở những điểm sau: ỉ Đầu tư là hoạt động bỏ vốn nên việc quyết định đầu tư thường là quyết định tài chính Vốn được hiểu như là các nguồn lực sinh lợi dưới các hình thức khác nhau, nhưng vốn có thể xác định dưới các hình thức tiền tệ. Vì vậy các quyết định đầu tư thường được xem xét các phương diện trong đó phương diện tài chính là quan trọng nhất. Yếu tố tài chính sẽ cho ta thấy từ một dự án thì: tổn phí bao nhiêu, có khả năng thực hiện không? Có khả năng thu hồi vốn không? Mức sinh lợi là bao nhiêu? Trên thực tế hoạt động đầu tư và các quyết định chi tiêu đầu tư thường được cân nhắc bởi sự hạn chế của ngân sách của (nhà nước, doanh nghiệp, cá nhân) và luôn được xem xét khiá cạnh tài chính nói trên. Nhiều dự án có thể khả thi ở những phương diện khác (kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, môi trường) nhưng không khả thi về mặt tài chính nên dự án cũng không được thực hiện được. ỉ Đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài, các nguồn lực vật tư, tiền, lao động cần được huy động lớn Thời gian từ lúc tiến hành đầu tư cho đến khi các thành quả đầu tư phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều tháng, năm. Do đó trong quá trình đầu tư phải huy động một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư, không tham gia vào quá trình chu chuyển, nên nó không sinh lợi cho nền kinh tế. Đây là cái giá phải trả khá lớn của đầu tư phát triển. ỉ Thời gian cần thiết để thực hiện một công cuộc đầu tư thường kéo dài Quá trình vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi được vốn hoặc cho đến khi thanh lý tài sản do vốn đầu tư tạo ra cũng thường kéo dài trong nhiều năm. Nên không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của các yếu tố về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế. Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm, có khi hàng trăm hàng nghàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này nói lên giá trị lớn lao của các thành quả đầu tư phát triển. Những thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó các điều kiện về địa lý địa hình tại đó ảnh hưởng đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư. ỉ Đầu tư phát triển là hoạt động mang tính rủi ro Hoạt động đầu tư một mặt là sự đánh đổi lợi ích ở hiện tại và quá trình thực hiện diễn ra trong một thời gian dài không cho phép nhà đầu tư lường trước hết những thay đổi có thể xảy ra trong quá trình thực hiện đầu tư so với dự tính. Do các kết quả và hiệu quả của thành qủa đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố không ổn định theo thời gian và điều kiện địa lý của không gian. Để đảm bảo cho công cuộc đầu tư phát triển đạt được hiểu quả kinh tế xã hội cao thì đòi hỏi phải làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư. 2. Vai trò của đầu tư phát triển trong nền kinh tế Từ việc xem xét khái niệm, đặc điểm của đầu tư phát triển , các lý thuyết kinh tế, cả lý thuyết kinh tế kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự tăng trưởng. Vai trò này của đầu tư phát triển được thể hiện ở những mặt sau: P 0 P2 Q S’ S D’ E2 E1 D Q0 Q1 Q2 P1 E0 P0 2.1 Trên giác độ nền kinh tế của quốc gia ỉ Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. ỹ Đối với tổng cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với tổng cầu, tác động của đầu tư ngắn hạn. Khi tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng (đường D dịch sang D’) kéo sản lượng cân bằng tăng theo từ Q0 đến Q1 và giá trị của các đầu vào của đầu tư tăng từ P0 đến P1, điểm cân bằng dịch từ E0 đến E1 ỹ Đối với tổng cung: Khi các thành quả đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung ( đặc biệt là tổng cung dài hạn ) tăng lên (đường S dịch chuyển sang S’) kéo sản lượng tiềm năng tăng từ Q1 lên Q2 và do đó giá giảm từ P1 xuống P2. Sản lượng tăng, giá giảm cho phép tiêu dùng tăng. Tiêu dùng tăng lại kích thích sản xuất phát triển mà sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản của để tăng tích luỹ, phát triển kinh tế xã hội tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống của mọi thành viên xã hội. ỉ Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế có tác động làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế các quốc gia. Ví dụ, khi cầu các yếu tố của đầu vào tư tăng làm cho giá cả của hàng hoá có liên quan tăng đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến lạm phát. Đến lượt mình, lạm phát là yếu tố làm cho sản xuất đình trệ, đời sống người lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lương ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu của các yếu tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống người lao động, giảm tệ nạn xã hội và tất cả các yếu tố này làm cho kinh tế phát triển. ỉ Đầu với việc tăng cường khả năng khoa học công nghệ của đất nước Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là: tự nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là phương án không khả thi. Mặt khác công nghiệp là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khoa học công nghệ nước ta hiện nay. Quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu chúng ta không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. ỉ Đầu tư và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Thực tiễn của các nước trên thế giới cho thấy, để tăng trưởng kinh tế nhanh với tốc độ 9% đến 10% thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở mọi khu vực. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mặt cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế địa hình…của những vùng phát triển hơn làm bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển. ỉ Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế Qua nghiên cứu của các nhà kinh tế người ta thấy rằng, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15% đến 25% so với GDP tuỳ thuộc vào chỉ số ICOR của mỗi nước ICOR = Mức tăng GDP Vốn đầu tư ICOR Mức tăng GDP = Vốn đầu tư Và từ đó suy ra: Nếu như hệ số ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu tư. Chỉ tiêu ICOR mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố, thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách mỗi nước. Thực tế cho thấy các vùng lãnh thổ cũng như phụ thuộc voạ kiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp vẫn thấp hơn ICOR trong công nghiệp, ICOR trong giai đoạn chyển đổi cơ chế thường cao chủ yếu do tận dụng năng lực sản xuất. 2.2 Trên giác độ đơn vị kinh tế của đất nước ỉ Đối với các cơ sở sản xuất-kinh doanh-dịch vụ: Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư Mặt khác sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì sự hoạt động bình thường cần phải sửa chữa, thay mới, mua sắm bổ sung các thiết bị mới thay thế cho các thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư. ỉ Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không thể thu lợi cho bản thân mình) đang tồn tại. Để duy trì sự hoạt động ngoài tiến hành sửa chữa lớn theo định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư. 3. Vốn và nguồn vốn đầu tư phát triển 3.1 Khái niệm vốn và nguồn vốn đầu tư phát triển Xem xét nguồn hình thành và mục tiêu sử dụng, vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân cư và vốn huy động của các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội, nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Nguồn vốn đầu tư là thuật ngữ để chỉ các nguồn tập trung và phân phối vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội. Nguồn vốn đầu tư bao gồm hai bộ phận cơ bản là nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài 3.2 Vốn trong nước ỉ Nguồn vốn nhà nước: ỹ Nguồn vốn ngân sách nhà nước:là nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được đầu tư vào các lĩnh vực, địa bàn có khó khăn mà các nguồn vốn khác không muốn đầu tư nên nó có tính xã hội rất cao và cũng là nguồn vốn đóng vai trò thu hút các nguồn vốn khác. ỹ Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước: Thay phải cấp phát vốn đầu tư trực tiếp cho đơn vị sử dụng, đây là nguồn vốn cho vay tín dụng các chủ đầu tư có trách nhiệm phải hoàn trả sau khi dự án đầu tư hoạt động. Nguồn vốn tín dụng nhà nước góp phần giảm tính bao cấp về vốn trong đầu tư và khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược đất nước. ỹ Nguồn vốn từ các doanh nghiệp nhà nước Đây là nguồn hết sức quan trọng vì các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam được xác định là thành phần chủ đạo nắm giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và nắm giữ khối lượng vốn của nhà nước khá lớn. ỉ Nguồn vốn tư nhân Nguồn vốn từ khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích luỹ của các doanh nghiệp tư nhân và các hợp tác xã. Đây là nguồn vốn đóng góp to lớn vào tổng quy mô của toàn xã hội, cần được huy động và khai thác triệt để. 3.3 Vốn nước ngoài ỹ Nguồn vốn ODA Đây là nguồn vốn hỗ trợ phát triển của chính phủ các nước phát triển, các tổ chức quốc tế cho các nước đang phát triển. So với các nguồn vốn khác ODA có tính ưu đãi cao nhất. Mặc dù có các ưu đãi về lãi suất, thời hạn cho vay dài, khối lượng vốn lớn, loại vốn này thường đi kèm các điều kiện ràng buộc tương đối khắt khe như tính hiểu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn. Tuy nhiên nguồn vốn ODA có tác dụng làm giảm sự phát triển kinh tế mất cân đối giữa các vùng kinh tế trong nước và giải quyết việc làm nâng cao đời sống nhân dân, đồng thời làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các vùng. Đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì nguồn vốn viện trợ từ nước ngoài là rất quan trọng cho sự phát triển bền vững và góp phần thúc đẩy thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. ỹNguồn vốn FDI: Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có đặc điểm là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp nhận . Nó thường đơn thuần mang tính kinh doanh nhưng có tác đông khá lớn đến nền kinh tế vì nó thường mang theo các công nghệ mới, các quy trình quản lý tiên tiến vào các nước nhận đầu tư. Có thể thấy rằng FDI cung cấp nguồn vốn bổ sung cho nước chủ nhà để bù đắp sự thiếu hụt của nguồn vốn trong nước. Hầu hết các nước đang phát triển trong giai đoạn đầu cần vốn để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Thực tế cho thấy các nước trong khu vực ASEAN nhờ có FDI mà đã giải quyết được phần nào khó khăn về vốn chiếm 20% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Bên cạnh đó FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm để tạo đà cho các vung kinh tế khác cùng phát triển theo. Ngoài ra FDI là hình thức hợp tác đầu tư quốc tế do đó thông qua hình thức này Việt Nam có thêm điều kiện để mở rộng quan hệ quốc tế nâng cao vị trí của đất nước trên trường quốc tế. ỹ Thị trường vốn quốc tế Xu hướng toàn cầu hoá hiện nay ngày càng diễn ra với tốc độ nhanh, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn quốc gia voà hệ thống tài chính quốc tế, đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi quốc gia và làm tăng khối lượng vốn lưu chuyển trên toàn cầu. Đây là nguồn vốn có thể huy động với số lượng vốn lớn trong thời gian cao nên rất hấp dẫn đối với nhà đầu tư nước ngoài. 3.4 Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn Có thể nói rằng mối quan hệ gữa hai nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài là mối quan hệ biện chứng với nhau. Khi một nước đang phát triển vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vốn và dẫn tới sự thiếu thốn các thứ cần thiết khác để phát triển kinh tế như công nghệ, cơ sở hạ tầng.. .Do đó trong bước đầu cần phải có “cú hích ban đầu” chính vì thế mà không thể không huy động nguồn vốn từ nước ngoài vào. Trước hết ta xem xét tác động nguồn vốn trong nước đối với nguồn vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước luôn giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Quy mô và hiệu quả sử dụng nguồn vốn trong nước là nhân tố cơ bản cho phát triển kinh tế, đối với các nhà đầu tư nước ngoài thì đây là tiêu chí hàng đầu khi xem xét có đâu tư trực tiếp hay cho vay vốn hay không. Bên cạnh đó nguồn vốn trong nước được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, khi cơ sở hạ tầng ngày một hiện đại đồng bộ thì hoạt động đầu tư càng thuận lợi thì dòng vốn chảy vào càng nhiều. Mặt khác sự tăng trưởng kinh tế đất nước cơ bản bằng chính nguồn vốn trong nước đã tạo uy tín với các nhà đầu tư quốc tế. Nguồn vốn nước ngoài tác động trở lại đối với nguồn vốn trong nước, theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế tốc độ tăng GDP của nước ta trong năm 1995 là 9,5% nhưng nếu không có đầu tư nước ngoài thì mức tăng trưởng chỉ đạt được khoảng 5,2%. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế khu vực có vốn đầu tư nước ngoài còn tạo ra khối lượng lớn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đây là nguồn gốc của tích luỹ vốn đầu tư trong nước. Ngoài ra khu vực có vốn đầu tư nước ngoài sẽ mang lại kinh nghiệm quản lý, công nghệ.. .điều này sẽ làm tính cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước với các doanh nghiệp có vốn đầu tư ngoài. Do vậy sự có mặt của nguồn vốn nước ngoài tính hiệu quả trong hoạt động của thị trường Việt Nam được cải thiện và qua đó tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước. Tuy nhiên nếu đất nước phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn nước ngoài thì nền kinh tế sớm hay muộn cũng sẽ bị phụ thuộc và bị thao túng lũng đoạn từ các tập đoàn kinh tế lớn của nước ngoài. Từ mối quan hệ trên nhà nước ta phải có chính sách hợp lý trong thu hút vốn và sử dụng giữa hai nguồn vốn này có hiểu quả cao nhất đạt được các mục tiêu kinh tế đất nước đề ra. II. Lý luận chung về nghành thuỷ sản 1. Đặc điểm, vai trò của nghành thuỷ sản 1.1 Khái niệm về ngành thuỷ sản: Ngành thuỷ sản là ngành kinh tế cấp I, bao gồm các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và các hoạt động dịch vụ thuỷ sản có liên quan. Là một ngành kinh tế sinh học, được phân ngành thuộc ngành nông nghiệp, ra đời sớm và đựơc nhà nước xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Quá trình nuôi trồng thuỷ sản được tiến hành trên các loại hình mặt nước ngọt, lợ, mặn được khoanh nuôi. Bên cạnh đó việc nuôi cấy nhân giống thuỷ sản cũng được tiến hành song song với quá trình nuôi. Các hoạt động dịch vụ liên quan đến thuỷ sản như: Dịch vụ mua, vận chuyển sản phẩm, cung ứng các loại vật tư cho công việc đánh bắt thuỷ sản trên biển, các tàu thường làm công việc đánh bắt đồng thời chuyên làm dịch vụ hỗ trợ đánh bắt thuỷ sản. Dịch vụ cung ứng con giống, thức ăn, vật tư kỹ thuật 1.2 Đặc điểm của ngành Thuỷ sản Thuỷ sản là một ngành kinh tế kỹ thuật đặc trưng gồm các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí hậu cần, dịch vụ thương mại; là một trong những ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Sản xuất kinh doanh thuỷ sản dựa trên khai thác có hiểu quả, lâu bền nguồn lợi thuỷ sinh, tiềm năng các vùng nước. Do vậy có mối liên hệ ngành với sản xuất nông nghiệp, vận tải, du lịch, công nghiệp chế biến. Ngành thuỷ sản được xác định giữ vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Nó khai thác và phát triển một trong những nguồn tài nguyên có thể tái sinh quan trọng của đất nước, những tài nguyên với tiểm năng có thể đống góp lớn cho các mục tiêu lớn về tài chính , về công ăn việc làm và về dinh dưỡng. Xét một cách tổng thể thì ngành thuỷ sản có những đặc điểm sau: ỹ Ngành thuỷ sản là ngành vừa mang tính nông nghiệp, công nghiệp, thương mại lại vừa chịu sự chi phối rất lớn của thiên nhiên. ỹ Ngành thuỷ sản là ngành có năng suất và hiểu quả lao động tự nhiên cao, có tác dụng tái sản xuất mở rộng. Có nhiều thành phần kinh tế tham gia sản xuất đa dạng. ỹ Ngành thuỷ sản là ngành sản xuất có liên quan đến việc sử dụng diện tích mặt nước cũng như khai thác các sản phẩm có liên quan đến mặt nước. Các sản phẩm thuỷ sản có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao, được nhiều người nhiều nơi trong và ngoài nước ưa chuộng ỹ Ngành thuỷ sản có khả năng thu hồi vốn nhanh có thể thu hoạch được sản phẩm và tiêu thụ trong thời gian ngắn ỹ Ngành thuỷ sản là ngành có nguồn tài nguyên phong phú với trữ lượng lớn, tạo khả năng khai thác với quy mô lớn và con người có thể tái tạo nguồn tài nguyên này. 1.3 Vai trò của ngành thuỷ sản trong nền kinh tế Nước ta có ưu thế về biển, cuộc sống xã hội gắn chặt với sông nước. Vì vậy thuỷ sản nói chung, nghề cá nói riêng của nước ta là một ngành có truyền thống lâu đời. Đó là ngành cung cấp chất dinh dưỡng và tạo mức an toàn thực phẩm cho con người. Các sản phẩm của thuỷ sản là những yếu tố quan trọng đối với sự an toàn về lương thực, thực phẩm cho nhân dân. Trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, từ chỗ là một bộ phận có tỷ trọng không lớn trong ngành nông nghiệp những năm của thập kỷ 80. Thuỷ sản đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng có tốc độ và quy mô phát triển ngày càng cao. Xuất khẩu ngành thuỷ sản đã đóng góp vai trò đòn bẩy, tạo nên động lực phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nước ta. Từ giai đoạn 1991 đến nay cùng với dầu thô, gạo, dệt may, giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản luôn chiếm tỷ trọng cao. Hiện nay ngành thuỷ sản đã vươn lên đứng thứ 19 về tổng sản lượng, thứ 3 về kim ngạch xuất khẩu (sau dầu thô và giày da), thứ 5 về sản lượng nuôi tôm trên thế giới. Vai trò của ngành thuỷ sản được khẳng định trong nghị quyết của chính phủ (ngày15/6/2000) “ Một số chủ trương và chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” đó là: “Thuỷ sản là ngành sản xuất sản phẩm đạm động vật có nhu cầu ngày càng tăng ở thị trường trong nước và xuất khẩu lớn, có khả năng trở thành ngành sản xuất có lợi thế lớn nhất của nền nông nghiệp Việt Nam. Sản lượng thuỷ sản đạt 3 triệu đến 3,5 triệu tấn/năm, đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước, nâng kim ngạch xuất khẩu vươn lên hàng đầu trong khu vực Châu á”. Như vậy vai trò của ngành thuỷ sản đối với nền kinh tế có thể hiện dưới những góc độ sau ỉ Ngành thuỷ sản góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng ngày càng hợp lý và hiểu quả hơn. Khi hoạt kinh tế chưa phát triển thì hoạt động đánh bắt thuỷ sản được xem như là hoạt động chính của ngành thuỷ sản và được gắn liền với sản xuất nông nghiệp. Sau đó khi mà hoạt động kinh tế đã phát triển thì nhu cầu cuộc sống tăng lên, khoa học kỹ thuật tiến bộ. Ngư dân đã áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào nuôi trồng-khai thác thuỷ sản, từ đó ngành thuỷ sản từng bước phát triển mạnh. Với đặc điểm đa dạng của ngành thuỷ sản như: nuôi trồng, khai thác, chế biến, cơ khí tàu thuyền khai thác...đã thu hút được nhiều lao động tham gia. Đặc biệt là các vùng nông thôn ven biển nghề chính là nghề nông thì một bộ phận nông dân không nhỏ đã chuyển sang tham gia vào quá trình sản xuất thuỷ sản. Như vậy phát triển thuỷ sản sẽ tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động nhàn rỗi không có việc làm ở nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta theo hướng hợp lý và hiểu quả hơn. ỉ Ngành thuỷ sản sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu có giá trị, mang lại nguồn thu ngoại tệ cho đất nước. Bảng 1: Xuất khẩu thủy sản qua một số năm Năm 1996 1997 1998 1.999 2000 2001 Kim ngạch xuất khẩu (1000 USD) 670.000 776.000 858.600 971.120 1.478.609 1.777.485 Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Trong những năm qua, sản phẩm ngành thuỷ sản đang dần chiếm tỷ trọng lớn trong hàng xuất khẩu Việt Nam. Các doanh nghiệp thuộc ngành đã được chính phủ cho phép tự do hoá xuất khẩu thuỷ sản, điều này dẫn đến các doanh nghiệp chủ động tìm kiếm thị trường xuất khẩu nên tổng sản lượng xuất khẩu trong những năm qua không ngừng tăng lên qua bảng trên năm 1996 kim ngạch xuất khẩu 670 triệu USD thì đến năm 2001 đạt 1777 triệu USD. Xuất khẩu thuỷ sản dần trở thành bộ phận quan trọng trong xuất khẩu Việt Nam, góp phần đẩy nhanh quá trình CNH-HĐH đất nước có hiệu quả vững chắc. ỉ Ngành thuỷ sản cung cấp các yếu tố đầu vào cho ngành công nghiệp Với đặc thù sản phẩm của ngành thủy sản sẽ chóng phân huỷ sau khi khai thác, vì vậy sản phẩm thuỷ sản rất cần được bảo quản tốt và chế biến kịp thời thì mới đảm đựơc chất lượng và sản lượng. Do đó ngành công nghiệp chế biến đối với ngành thuỷ sản rất quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ lẫn nhau. Ngành thuỷ sản cung cấp các sản phẩm như cá, tôm, cua, rong... vừa có thể tiêu dùng trực tiếp, vừa là nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp chế biến thuỷ sản với mục đích đa dạng các sản phẩm từ chế biến thuỷ sản như: nước mắm, đồ hộp... Khai thác ngành chế biến thuỷ sản sử dụng tối đa sản lượng đánh bắt và nuôi trồng vào sản xuất thực phẩm và hàng xuất khẩu, thuận tiện trong lưu thông và đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng trong và ngoài nước. Với chính sách mở cửa, cho phép các thành phần kinh tế cùng tham gia tự do sản xuất kinh doanh chế biến thuỷ sản đã tạo ra thế mạnh tận dụng công nghệ truyền thống, phân bố chế biến bám sát với cơ sở sản xuất, nhất là nơi sản xuất có quy mô nhỏ nằm rải rác trong cả nước. Sản phẩm tạo ra sẽ được lưu thông tự do trên thị trường trong và ngoài nước với chủng loại đa dạng và phong phú. ỉ Ngành thuỷ sản sản xuất ra tư liệu sinh hoạt cho con người Thực phẩm từ thuỷ sản chứa rất nhiều đạm cần thiết cho cơ thể con người. Theo thống kê lượng đạm từ thuỷ sản là 30% trong tổng chất dinh dưỡng từ sản phẩm thuỷ sản. Trong những năm qua đa phần sản phẩm thuỷ sản được tiêu thụ ở dạng tươi sống trong thị trường nội địa, một năm trung bình lượng sản phẩm tiêu thụ từ thuỷ sản là 11,5 kg/người dân Việt Nam. Nếu so sánh con số này với các nước trong khu vực thì nước ta còn thấp (Thái Lan 17 kg/người, Malaysia 15,6 kg/người, Indonesia 14,8 kg/ người) Quá trình cung cấp và tiêu thụ thuỷ sản giữa các vùng ở nước ta còn có sự chênh lệch ở vùng ven biển có tỷ lệ cao, còn ở các vùng núi thì tỷ lệ này còn thấp. Dự kiến dân số nước ta sẽ tăng thêm 1,2 triệu người vào năm 2010 do đó việc cung cấp thực phẩm từ thuỷ sản cho người dân sẽ phải tăng đến 15 kg/người trong một năm, đòi hỏi ngành thuỷ sản ngày càng có vai trò quan trọng trong vấn đề an toàn lương thực cho người dân. Bên cạnh đó xu hướng tiêu dùng thuỷ sản trên thế giới ngày càng tăng, một mặt là do lượng đạm trong thuỷ sản cung cấp là khá lớn, với tình hình thực phẩm thức ăn chế biến từ gia cầm..ngày có nguy cơ mang bệnh cao, nên xu hướng người tiêu dùng chuyển sang tiêu thụ các sản phẩm từ thuỷ sản là điều tất yếu. 2. Đặc điểm đầu tư phát triển trong nuôi trồng thuỷ sản Thuỷ sản là một nghề phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên và có tính mùa vụ, vì vậy hoạt động đầu tư phát triển trong ngành thuỷ sản nói chung và nuôi trồng thuỷ sản nói riêng có đặc điểm khác biệt các hoạt động đầu tư các ngành khác. Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản có liên quan chặt chẽ đến vấn đề bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thuỷ sản bảo vệ môi trường, phát triển xuất khẩu. Vì thế quá trình đầu tư phát triển rất phức tạp, cần phải tổ chức và cơ chế quản lý đồng bộ, hoàn chỉnh giữa các cơ quan quản lý nhà nước. Hoạt động đầu tư nuôi trồng thuỷ sản rộng khắp trên các vùng địa lý, tính chất sản xuất phức tạp đa dạng do quy luật phát triển từng khu hệ động thực vật. Mặt khác nuôi trồng thuỷ sản k._.hó quan sát vật nuôi một cách thường xuyên, rủi ro lớn, cho nên hoạt động đầu tư phát triển thuỷ sản đảm bảo được những yêu cầu: Đầu tư phát triển trong nuôi trồng thuỷ sản phải đi đôi với bảo vệ và tái tạo nguồn thuỷ sản, bảo vệ môi trường, cân bằng sinh thái. Hoạt động đầu tư phát triển phải lấy hiểu quả kinh doanh làm động lực trực tiếp và lấy hiểu quả kinh tế làm tiêu chuẩn cơ bản. Kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại. Tập trung vào vấn đề chất lượng sản phẩm để đẩy mạnh xuất khẩu góp phần thực hiện chiến lược xuất khẩu trong phạm vi cả nước. Chăm sóc Thả con giống Thu hoạch Cải tạo ao, đầm, phá Trong đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, quá trình tác động nhân tạo xen kẽ quá trình tác động tự nhiên, tức là thời gian lao động không ăn khớp với thời gian sản xuất. Ví dụ một quy trình nuôi: Trong một quy trình nuôi như vậy, có những giai đoạn không có tác dụng của quy luật tự nhiên. Từ đó sinh ra tính chất mùa vụ trong nuôi trồng thuỷ sản gây ra nhiều phức tạp cho sản xuất, đặc biệt là điều kiện tự nhiên nước ta những năm gần đây thiên tai, bão lụt thường xẩy ra ở nhiều nơi. Do đó hoạt động đầu tư phát triển cần tính đến những yếu tố này để tránh những rủi ro thiệt hại có thể xẩy ra. Quá trình sản xuất thuỷ sản phải tiếp xúc với cơ thể sống thuỷ sinh có đặc tính sinh lý, sinh thái, quy luật phát triển và sinh trưởng riêng của từng loài khác nhau nên cần phải đầu tư vào nghiên cứu quy trình nuôi phù hợp với từng loài Trong quá trình sản xuất thuỷ sản, chất lượng và số lượng sản phẩm thuỷ sản dễ bị thất thoát sau thu hoạch. Theo đánh giá của FAO tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch luôn ở mức trên 20%, tập trung ở khâu xử lý, bảo quản, sơ chế, vận chuyển, bốc dỡ và tiêu thụ sản phẩm. Do vậy hoạt động đầu tư cần chú trọng làm thế nào để giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch. Một số đối tượng nuôi trồng được giữ lại làm con giống cho quá trình sản xuất sau. Đặc điểm này đòi hỏi phải có sự đầu tư vào quá trình chăm sóc, lựa chọn giống riêng biệt và quan tâm đầu tư vào hệ thống sản xuất giống quốc gia nên số vốn chi cho đầu tư vào lĩnh vực này khá lớn, đòi hỏi các chủ đầu tư phải phân tích, tính toán lựa chọn phương án đầu tư một cách thích hợp nhất, có hiểu quả cao phù hợp với năng lực sản xuất, tổ chức quản lý của mình. Bên cạnh đó hoạt động đầu tư phải đảm bảo những nguyên tắc của phát triển bền vững nuôi trồng thuỷ sản, nghĩa là khai thác phải luôn gắn với quản lý, duy trì cơ sở nguồn lợi tự nhiên, bảo vệ sinh thái. Đảm bảo sự công bằng trong một thế hệ, đáp ứng các nhu cầu của con người trong thế hệ hiện tại và mai sau. Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn phụ thuộc vào những yếu tố hết sức biến động như thu nhập do hoạt động đầu tư mang lại, lãi vay ngân hàng, thuế, môi trường. Chương II Thực trạng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Việt nam I. Các nhân tố ảnh hưởng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở nước ta và sự cần thiết phải đầu tư 1. Các nhân tố ảnh hưởng đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản 1.1. Điều kiện tự nhiên ỉ Vị trí địa lý nước ta Đất nước ta trải dài trải dài theo chiều dọc trên 13 vĩ độ Bắc kề sát biển Đông (bờ biển Móng Cái-Quảng Ninh) tới Hà Tiên-Kiên Giang với 3260 km bờ biển, 112 cửa sông lạch. Bờ biển nước ta bao gồm nội hải, lãnh hải, vùng kinh tế đặc quyền, vùng tiếp giáp và thềm lục địa , hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Với vùng biển rộng lớn, có nhiều con sông lớn nhỏ đã tạo nên những vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thuỷ sản ở nước ta. Theo thống kê của bộ thuỷ sản diện tích nuôi trồng các loại mặt nước đến năm 1998 như sau: Bảng 2: Diện tích các loại hình mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 1998 Loại hình mặt nước Diện tích tiềm năng (ha) Diện tích có khả năng nuôi (ha) Diện tích đã nuôi Diện tích (ha) Tỷ lệ sử dụng so với tiềm năng(%) Ao, hồ nhỏ 120000 113000 82696 69 Mặt nớc lớn 340946 198220 98977 29 Ruộng trũng 579970 306003 154217 27 Vùng triều 660002 414417 290400 44 Tổng số 1700918 1031640 626290 37 Nguồn: Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ1999-2010 Bảng 3: Diện tích nuôi trồng thuỷ sản năm 1998 phân theo vùng sinh thái Vùng sinh thái Diện tích tiềm năng(ha) Diện tích có khả năng nuôi (ha) Diện tích đã nuôi Diện tích (ha) Tỷ lệ sử dụng so với tiềm năng(%) Trung du Miền núi 140624 136380 71653 51 Đồng bằng sông Hồng 183714 121286 71092 39 Ven biển miền Trung 193430 110234 54560 28 Tây nguyên 85000 38000 9612 11 Đông nam bộ 133000 73730 45600 34 Đồng bằng sông Cửu Long 964410 552000 373813 39 Tổng số 1700178 1031630 626330 37 Nguồn: Chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ1999-2010 Nuôi trồng thuỷ sản thời gian qua đã phát triển ở cả loại hình mặt nước: lợ, mặn, ngọt đang mở rộng vươn ra biển, với tốc độ nhanh bình quân tăng 4% đến 5%/năm. Theo số liệu thống kê năm 1998, diện tích các loại mặt nước đã sử dụng chiếm 37% diện tích tiềm năng. Trong đó mặt nước ao, hồ nhỏ đã sử dụng quá ngưỡng an toàn sinh thái, riêng phần sử dụng nuôi trên ruộng trũng và mặt nước lớn có thể phát triển thêm vì hiện nay chỉ mới sử dụng được 27% diện tích tiềm năng. Diện tích sử dụng mặt nước vùng triều tính đến năm 1998 sử dụng 44% so với diện tích tiềm năng, tại một số địa phương tỷ lệ này còn cao hơn và đang có xu hướng gia tăng. Việc phát triển nuôi trồng ở các vùng triều hiểu quả còn chưa cao. Dưới góc độ vùng sinh thái, ta thấy vùng Trung du miền núi có diện tích tiềm năng so với tiềm năng khá lớn (39%), nhưng xét về số tuyệt đối thì đồng bằng sông Cửu Long có diện tích nuôi trồng thuỷ sản lớn hơn cả, đem lại sản lượng chủ yếu cho ngành thuỷ sản nước ta Bên cạnh đó nước ta có 3260 km bờ biển với nồng độ muối mặn rất thích hợp để phát triển ngành thuỷ sản với nhiều hải sản quý, ở bán đảo Cà Mau Việt Nam được đánh giá là vùng nuôi tôm sinh thái lớn nhất thế giới. Dự kiến diện tích nước lợ có thể đưa vào nuôi tôm có thể đạt trên 500.000 ha trong đó có trên 100.000 ha có thể nuôi công nghiệp. ỉ Khí hậu, thuỷ văn: Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới Đông nam á, kéo dài từ khoảng 15 vĩ độ từ 8030’ đến 23022’. Nên khí hậu chịu ảnh hưởng của cả đại dương (Thái Bình Dương) và lục địa do đó biểu hiện đặc trưng khí hâu là nhiệt đới gió mùa.Cùng với sự chi phối của chế độ nhiệt đới gió mùa, chế độ mưa nhiệt đới đã ảnh hưởng đến các vùng trong cả nước tạo nên nét đặc trưng khí hậu ở mỗi vùng. Nét đặc trưng này đã tạo ra sự đa dạng các loài thuỷ sản và các loại hình. Miền Bắc: nhiệt độ trung bình từ 22.30c đến 23.60, lượng mưa trung bình 1500 đến 2400 mm, tổng số giờ nắng 1650->1750 giờ/mỗi năm. Vùng biển miền bắc thuộc khu vực nhật triều với biên độ tư 3,2-3,6m thích hợp cho nuôi trồng thuỷ sản. Miền Trung: Nhiệt dộ trung bình từ 22.50c đến 27.50 nên mưa tập trung vào cuối năm thường vào tháng 9->11. Nắng nhiều 2300-3000 giờ/năm. Chế dộ thuỷ triều gồm nhật triều và bán loại nhật triều. Khu vực miền trung có nhiều đầm phá thích hợp cho việc nuôi trồng thuỷ sản ở các loại hình: mặn, lợ, ngọt.Tuy nhiên miền trung là nơi xảy ra nhiều bão, lũ lụt và hạn hán, nên gây nhiều khó khăn cho công việc khai thác hải sản biển... Miền nam: Khí hậu ở đây mang tính xích đạo, nhiệt độ trung bình tư 22,70c đến 28,70c mưa tập trung từ tháng 5 đến tháng 10, vùng có chế độ bán nhật triều biên độ từ 2,5->3m. Do đó với đặc điểm khí hậu vùng thì sẽ tạo điều kiện cho mô hinh nuôi tôm, cá ở lồng bè có giá trị kinh tế cao. Bên cạnh đó Việt Nam có trên 50 con sông lớn nhỏ trong cả nước với lưu lượng chảy ra biển 700-800 tỷ m3 trong đó phần lớn dòng chảy là của sông Hồng và sông Cửu Long. Với điều kiện tự nhiên của nước ta rất thuận lợi cho đầu tư phát triển thuỷ sản ỉ Nguồn giống loài thuỷ sản Đất nước ta có các loài sinh vật rất đa dạng và phong phú bao gồm: Nguồn lợi cá nước lợ, mặn: theo thống kê hiện nay có 185 loài chủ yếu. Một số loài có giá trị kinh tế cao như: cá song, cá hồng, cá giò, cá bớp, cá tra, cá basa...đã được đưa vào nuôi trồng. Nguồn lợi cá nước ngọt: Hiện nay nước ta có trên 544 loài trong 18 bộ, 57 họ, 228 giống. Với sự đa dạng về giống phong phú về chủng loại, được đánh giá có giá trị kinh tế cao Nguồn lợi tôm: Thống kê có 16 loài chủ yếu là tôm sú, tôm cang xanh, tôm he, tôm hùm... Nguồn lợi nhuyễn thể: chúng ta có một số loại có giá trị kinh tế như: tray, hầu, ngao, ốc...đang tiến hành nuôi trồng Như vậy nguồn lợi thuỷ sản nước ta rất phong phú và có giá trị, tuy nhiên lượng phân bố không đều nằm rải rác và phân tán . Đặc điểm chung là biến động theo mùa nên cần có quy hoạch đầu tư, thiết kế các vùng nuôi trồng thuỷ sản một cách hợp lý hơn trong thời gian tới 1.2 Điều kiện kinh tế xã hội ỉ Lao động Dân số nước ta đông gần 80 triệu dân với phần lớn là lao động nông nghiệp, nhân dân ta có truyền thống lao động cần cù sáng tạo có khả năng tiếp thu nhanh những cái mới nói chung và khoa học kỹ thuật nói riêng. Giá cả sức lao động ở nước ta tương đối rẻ so với các nước trong khu vực . Tuy nhiên lao động trong lĩnh vực thuỷ sản chủ yếu là lao động giản đơn, trình độ văn hoá thấp, hầu hết chưa được qua trường lớp đào tạo nào. Bên cạnh đó lao động kỹ thuật: toàn ngành hiện mới chỉ có 90 tiến sỹ, 4.200 kỹ sư, 5.000 trung cấp và 14.000 cán bộ kỹ thuật chuyên ngành. Thêm vào đó là một bộ phận ngư dân hiện nay do thiếu vốn để đầu tư đánh bắt thuỷ sản xa bờ nên đã chuyển sang đầu tư nuôi trồng thuỷ sản. trong nhiều năm qua ngư dân đã tích luỹ nhiều kỹ thuật trong nuôi trồng thuỷ sản, góp phần nâng cao hiểu quả sản xuất và thực hiện thắng lợi chương trình nuôi trồng phát triển thuỷ sản. ỉ Khoa học công nghệ Theo chủ trương chính sách của Đảng, tại văn kiện đại hội đại biểu toàn quôc Đảng lần thứ IX,về định hướng khoa học công nghệ trong thời kỳ CNH-HĐH, hoạt động công nghệ ngày càng quan trọng cho sự phát triển của ngành thuỷ sản Từ năm 1996 đến nay các cơ quan khoa học thuộc bộ thuỷ sản đã triển khai 5 đề tài độc lập cấp nhà nước, đó là: chọn giống chất lượng cao, bệnh tôm, sản xuất cua biển, nghiên cứu nguồn lợi sinh vật biển quần đao Trường Sa, lưu giữ nguồn gen giống thuỷ sản nước ngọt. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế các Viện và trung tâm đã xây dựng xong 18 dự án đề tài khoa học. Như vậy vai trò khoa học trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản là rất to lớn trong sự phát triển của ngành, các ứng dụng khoa học vào sản xuất ngày càng nhiều và đã đạt những thành tựu tốt. ỉ Chính sách của nhà nước: Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Sự quan tâm này được thể hiện qua những chính sách khuyến khích phát triển sản xuất. Ngày 8/12/1999 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010 với những chính sách về: Sử dụng đất, mặt nước nuôi trồng thuỷ sản,Chính sách đầu tư, chính sách thuế. Hướng chỉ đạo phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo hướng phát triển bền vững gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, nuôi trông thuỷ sản cần từng bước hiện đại hoá, hướng mạnh vào phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nuôi biển đồng thời phát triển nuôi trồng nước ngọt, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nuôi tôm xuất khẩu và chú trọng nuôi trồng thuỷ sản khác. Việt Nam có lợi thế so sánh trong việc đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nếu được đầu tư đúng mức cho thuỷ sản thì ngành thuỷ sản có thể là một trong ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. 2. Sự cần thiết phải đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản Qua việc phân tích những điều kiện về tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội và vai trò của ngành thuỷ sản, có thể cho chúng ta thấy được sự cần thiết của việc phát triển tăng cường đầu tư phát triển vào lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản nhằm tận dụng được các nguồn lực, phát huy khả năng vốn có và lợi thế so sánh của ngành thuỷ sản nước ta. Sự cần thiết đó được thể hiện ở các mặt sau: Thứ nhất, Tận dụng tiềm năng nuôi trồng thuỷ sản, giảm áp lực khai thác hải sản Ngành thuỷ sản nước ta nhìn chung đã khai thác tới trần thậm chí có một số vùng đã khai thác quá giới hạn cho phép. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến vấn đề bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong nghề cá. Tại hội nghị Kyoto_1992 về “ Sự đóng góp bền vững của nghề cá vào sản xuất thực phẩm”, hội nghị các bộ trưởng thuỷ sản ở Roma_1999 đã nhấn mạnh: Đầu tư nuôi trồng khai thác thuỷ sản là phương hướng bảo vệ tài nguyên, môi trường và đa dạng sinh học trong nghề cá, là vấn đề đang được sự quan tâm của các quốc gia và các tổ chức bảo vệ môi trường. Hiệu quả và tính bền vững của nuôi trồng thuỷ sản luôn đi liền với việc ngăn chặn và bảo vệ các nguồn lợi tự nhiên bị khai thác cạn kiệt. Thứ hai, nuôi trồng thuỷ sản đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng thực phẩm cho tiêu dùng, hàng hoá xuất khẩu và nguyên liệu chế biến xuất khẩu Thực tế mức tiêu dùng của nước ta đối với các loại thuỷ sản ước tính chiếm 50% về tiêu dùng thực phẩm chứa Protein, riêng cá cung cấp khoảng 8 kg/người/năm trong đó cá nuôi chiếm 30%. Những năm tới xu thế đời sống nhân dân ngày một nâng cao thì nhu cầu về tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản sẽ tăng. Điều đáng quan tâm là ngày nay nhân dân có xu thế sử dụng thực phẩm có hàm lượng chất béo ít hơn. Do đó cá và các sản phẩm thuỷ sản sẽ chiếm phần quan trọng, nhất là sản phẩm hải sản tươi sống, cung cấp tại chỗ rất được ưu chuộng. Theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của ngành thuỷ sản, đến năm 2010 tổng sản lượng thuỷ sản đạt trên 3,5 triệu tấn/ năm, trong đó ưu tiên cho xuất khẩu khoảng 40%. Theo số liệu của FAO sản phẩm thuỷ sản dành cho chăn nuôi 30% số còn lại sẽ dành cung cấp thực phẩm cho con người, ước tính của FAO hiện nay bình quân trên thế giới 13,4 kg/người, ở các nước phát triển là 27 kg/người thì ở nước ta chưa đáp ứng được. Vì vậy đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản để cung ứng số lượng thiếu hụt đó. Bên cạnh đó sản phẩm xuất khẩu của ngành thuỷ sản của Việt Nam ngày càng được ưu chuộng ở nhiều nước trên thế giới và khu vực. Năm 1997 nước ta đã xuất khẩu sang 46 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đến 2003 đã xuất khẩu đến trên 50 nước và vùng lãnh thổ Điều đáng quan tâm là trong hàng xuất khẩu thuỷ sản thì tỷ trọng nhóm hàng tôm vẫn là mặt hàng chủ lực chiếm ngày càng cao, các đối tượng khác như: nhuyễn thể, cá hồng, cá basa, da trơn, baba, lươn, ếch xuất khẩu sống, trê phi đông lạnh. Hiện nay đang được ưu thích ở một số thị trường như Mỹ, EU, Nhật Bản và có xu hướng nhu cầu ngày càng tăng. Dự kiến đến năm 2005 cơ cấu sản phẩm thuỷ sản Việt Nam xuất sang các thị trường này sẽ là Nhật Bản 32%-34%, Bắc Mỹ là 20%-22%, EU là 16%-18%, Châu á (kể cả Trung Quốc) là 20%-22%, thị trường khác 8%-10%. Thứ ba, Đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản góp phần phát triển kinh tế xã hội Với đặc thù dân số đông, đặc biệt là vùng nông thôn ven biển, biên giới, hải đảo trình độ dân trí chưa cao, dân số hàng năm ngày càng có tỷ lệ gia tăng cao, lượng lao động dư thừa. Bên cạnh đó thực tế cho thấy một bộ phận ngư dân làm nghề khai thác thuỷ sản ven bờ, nguồn lợi khai thác ngày càng cạn kiệt nên từng bước chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Như vậy đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản góp phần làm chuyển đổi cho cấu kinh tế nông thôn, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện mức sống cho nông dân ven biển, góp phần xây dựng trật tự xã hội an ninh nông thôn vùng biển, biên giới hải đảo. Thứ tư, Xu hướng đầu tư nuôi trồng thuỷ sản trên thế hiện nay là đẩy nhanh tốc độ gia tăng sản lượng nuôi thuỷ sản so với sản lượng khai thác Hiện nay các nước Thái Lan, ấn Độ, Indonesia, Đài Loan có giá trị xuất khẩu thuỷ sản lớn, đây cũng là những nước có sản lượng nuôi trồng thuỷ sản lớn. Các nước châu á coi trọng phát triển nuôi trồng thuỷ sản, là khu vực nuôi trồng thuỷ sản chính của thế giới. Các nước đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản nhằm cung cấp thực phẩm chứa đạm cho nhu cầu tiêu dùng của con người, đảm bảo an ninh thực phẩm, theo hướng nuôi bằng hình thức công nghiệp để nâng cao năng suất và sản lượng các đối tượng nuôi để phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Qua phân tích trên, ta có thể thấy được nuôi trồng thuỷ sản là một nghề có lợi và sẽ phát triển, nuôi trồng thuỷ sản đã được chú ý đầu tư phát triển ở nước ta trong thời gian qua. Tuy nhiên với tiềm năng to lớn như vậy, đầu tư phát triển thuỷ sản nước ta chưa tương xứng và cần thiết phải đẩy mạnh đầu tư hơn nữa trong thời gian tới. II. Tình hình đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản ở Việt Nam 1. Tình hình thu hút vốn đầu tư thuỷ sản giai đoạn 1996-2001 1.1 Vốn đầu tư ngành thuỷ sản so với tổng vốn đầu tư cả nước Bảng 4: Vốn đầu tư thuỷ sản so với vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 1997-2001 Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ % % % % % % Tổng vốn đầu tư cả nước 87394 100 108370 100 117134 100 131171 100 145333 100 163500 100 Vốn đầu tư cho thuỷ sản 627,7 0,718 1036,9 0,957 1747,2 1,49 2913,2 2,23 3715,5 2,56 4110 2,51 Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Đơn vị tính: Tỷ đồng Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, ngành thuỷ sản trong thời gian qua có được sự quan tâm đầu tư đúng mức và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Vốn đầu tư vào ngành thuỷ sản trong giai đoạn 1996-2001 tăng lên rõ rệt. Theo số liệu trên ta có tổng vốn đầu tư của toàn xã hội năm 1996 là 87394 tỷ đồng thì vốn đầu tư cho thuỷ sản là 627,7 tỷ đồng, chiếm 0,718% so với vốn đầu tư cả nước; nhưng đến năm 2001 vốn đầu tư cho toàn xã hội 163500 tỷ đồng trong đó ngành thuỷ sản có vốn đầu tư là 4110 tỷ đồng chiếm 2,51%. Như vậy vốn đầu tư cho ngành thủy sản đã không ngừng tăng lên, tốc độ tăng vốn của năm 2001 so với năm 1996 là 654,8% điều này phản ánh ngành thuỷ sản đang ngày càng thu hút vốn đầu tư phát triển từ mọi thành phần kinh tế khác nhau với nhiều hình thức khác nhau Tuy vậy cơ cấu vốn đầu tư hiện nay cho ngành thuỷ sản so với tổng vốn đầu tư tổng xã hội với tỷ lệ còn thấp, chưa tương xứng với tiềm năng mà ngành thuỷ sản nước ta hiện có. Do đó trong thời gian tới Bộ thuỷ sản cần phối hợp với Bộ đầu tư vạch ra chiến lược cụ thể trong thu hút vốn đầu tư phát triển thuỷ sản cũng như trong cơ cấu vốn đầu tư cho thuỷ sản so với vốn đầu tư cả nước để phát huy mọi lợi thé của ngành thuỷ sản. 1.2 Vốn đầu tư cho thuỷ sản so với vốn đầu tư ngành nông nghiệp Bảng 5: Vốn đầu tư cho thuỷ sản so với vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp Chỉ tiêu Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ Số vốn Tỷ lệ % % % % % % Tổng vốn đầu tư nông lâm-thuỷ-sản 11399 100 14199,2 100 14970 100 18556 100 20934 100 24110 100 Vốn đầu tư cho thuỷ sản 627,7 5,828 1036,9 7,303 1747,2 11,7 2913,2 15,7 3715,5 17,75 4110 17,05 ,Nguồn: Niên giám thống kê 2001 Đơn vị tính: Tỷ đồng Biểu đồ Trong thời kỳ 1996-2001 chúng ta thấy rằng vốn đầu tư phát triển cho thuỷ sản chiếm tỷ trọng ngày càng tăng lên trong tổng vốn đầu tư cho ngành nông nghiệp nước ta. Từ đại hội Đảng lần thứ V, Đảng và nhà nước ta đã xác định “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” và đến đại hội Đảng lần thứ VI đã cụ thể hoá bằng kế hoạch 5 năm (1986-1990) với 3 chương trình lớn: lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Từ chủ trương của đảng trong những năm qua ngành nông nghiệp nói chung, ngành thuỷ sản nói riêng đã chú trọng đầu tư phát triển. Hiện nay nước ta xuất khẩu nông sản dứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan, riêng lĩnh vực thuỷ sản chúng ta là một trong 5 nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu. Đây là kết quả của công cuộc đầu tư hợp lý trong những năm qua, mà bước đột phá từ năm 1996 đến nay, tỷ lệ vốn đầu tư cho thuỷ sản trong năm 1996 chỉ chiếm 5,828% vốn đâu tư cho ngành nông nghiệp, thì đến năm 2001 tỷ lệ này đã là 17,05%. Qua đây cho ta thấy ngành thuỷ sản đang dần khẳng định vai trò của mình đối với nền kinh tế đất nước trong quá trình thu hút vốn đầu tư từ mọi thành phần nền kinh tế vào ngành. Bảng 6: Tình hình vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 1996-2000 Năm 1996 1997 1998 1999 2000 Vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản (tỷ đồng) 234,1 330,8 456,9 662,4 820,2 Tốc độ phát triển so với định gốc 1996 (%) 1 141,30713 195,173 282,956 350,363093 Nguồn: Vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 1996-2000 Bộ kế hoạch đầu tư Biểu đồ Nhìn vào biểu đồ ta thấy nguồn vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản tăng nhanh trong những năm gần đây. Năm 1996 vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản la 234,1 tỷ đồng thì đến năm 2000 số vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản đã là 820,2 tỷ đồng tăng 350,36% so với năm 1996. Đầu tư đã chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng cho nghề nuôi trồng thuỷ sản, quá trình đầu tư được gắn liền với áp dụng khoa học công nghệ mới, quan tâm sản xuất giống và thức ăn. Trong giai đoạn 1996-2000 nghề nuôi trồng thuỷ sản đã thu hút vốn đầu tư phát triển để chuyển hướng sang sản xuất hàng hoá theo cơ chế thị trường, chú trọng đầu tư phát triển nuôi trồng các loại thuỷ sản có giá trị xuất khẩu cao. Hiện nay nôi tôm đã trở thành phong trào sôi động của các tỉnh ven biển, góp phần vào mục tiêu chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Năm 2000 ngành thuỷ sản đã có nhiều dự án nuôi tôm theo mô hình công nghiệp, đến nay có 25 dự án nuôi tôm công nghiệp đã được phê duyệt với tổng số vốn đầu tư lên tới 953,4 tỷ đồng, trong đó vốn được cấp từ ngân sách là 521,3 tỷ đồng. Diện tích vùng dự án là 3.978 ha, diện tích nước nuôi 2.500 ha. Năng suất bình quân đạt từ 4-7 tấn/ha/năm. Bên cạnh đó sản xuất tôm giống và cá giốn được đầu tư mạnh trong những năm qua. Năm 1995 cả nước có 840 cơ sơ sản xuất giống tì đến nay đã có tới 3120 cơ sở đáp ứng yêu cầu sản xuất, góp phần khắc phục tình trạng phụ thuộc vào giống vớt tự nhiên. Ngày 9/9/2000 thủ tướng chính phủ ban hành quyết định số 103/2000/QĐ-TTg với các chính sách: các khoản vay dưới 50 triệu đồng cho đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản không phải thế chấp tài sản, khuyến khích mọi tổ chức cá nhân và mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển vào lĩnh vực bảo vệ & phát triển giống thuỷ sản. Về thức ăn cho nuôi trồng thuỷ sản, trước đây trong một thời gian dài nuôi trồng thuỷ sản theo mô hình quảng canh, sự hiểu biết kỹ thuật nuôi bán thâm canh, thâm canh còn hạn chế nên chưa có nhu cầu sử dụng thức ăn công nghiệp cho nuôi trồng thuỷ sản. Trong những năm gần đây khi nuôi trồng thuỷ sản đã có bước phát triển mạnh thì việc sử dụng các loại thức ăn công nghiêp chứa nhiều protein vào nuôi trồng thuỷ sản đã mang lại năng suất và sản lượng cao. Hiện nay cả nước có trên 110 cơ sở sản xuất với công suất đạt 2.700.000 tấn/năm, phân bố như sau: miền Bắc có 16 cơ sở, miền Trung có 51 cơ sở, miền Nam có 43 cơ sở (Nguồn Vụ KH&ĐT- Bộ thuỷ sản). 2. Cơ cấu nguồn vốn đầu tư phát triển thuỷ sản 2.1 Đầu tư phát triển theo nguồn vốn đầu tư Bảng 7: Nguồn vốn đầu tư phát triển trong 2 giai đoạn ngành thuỷ sản Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Vốn (Tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Tổng mức đầu tư 234,1 100 330,8 100 456,9 100 622,4 100 820,2 100 A. Trong nớc 227,3 97,1 320,8 97 444,3 97,2 606,8 97,5 807,1 97,9 1.Ngân sách 32,4 13,8 46,5 14,4 68,9 15,1 90,2 14,5 120,7 14,6 2.Tín dụng 51,5 22 72,8 22 97,7 21,4 127,4 20,5 164 19,9 3.Huy động 143,4 61,3 201,5 60,9 277,7 60,7 389,2 62,5 522,7 63,4 B. Nước ngoài 6,8 2,9 10 3 12,6 2,8 12,9 2,5 13,1 2,1 1.ODA 3 1,3 3,9 1,2 4,8 1,1 5,9 1,4 5,1 1 2.FDI 3,8 1,6 6,1 1,8 7,8 1,7 7 1,1 8 1,1 Nguồn: Báo cáo tổng kết đầu tư xây dựng cơ bản 5 năm 1996-2000 của Bộ thuỷ sản Qua biểu bảng trên ta thấy rằng nguồn vốn đầu tư cho thuỷ sản tăng lên rõ rệt nếu trong năm 1996 tổng vốn đầu tư 234,1 tỷ đồng thì đến năm 2000 số vốn này đã tăng lên 820,2 tỷ đồng tức là gấp hơn 4 lần. Điều này cho thấy ngành thuỷ sản đã quán triệt chủ trương đường lối của Đảng về phát huy nội lực trong đầu tư phát triển. Vốn đầu tư phát triển ngành chủ yếu là nguồn vốn trong nước (chiếm từ 97,1% đến 97,9 tổng mức vốn đầu tư) trong đó nguồn vốn huy động trong nhân dân (chiếm từ 61,3% đến 63,4% tổng vốn đầu tư). Kết quả này phản ánh ngành thuỷ sản đã đánh giá đúng vai trò của nguồn vốn huy động từ dân cư cho đầu tư phát triển. Tuy nhiên xét về cơ cấu vốn đầu tư phát triển thì nguồn vốn đầu tư do ngân sách nhà nước cấp còn hạn chế (chỉ chiếm 13,8% đến 14,6% tổng mức đầu tư) chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò của ngành thuỷ sản. Bên cạnh đó tuy ban đầu việc huy động vốn trong dân cư đã có kết quả song tỷ lệ huy động như vậy còn thấp so với tiềm năng của người dân. Tình hình đó đòi hỏi các cơ quan quản lý của ngành phải cụ thể hoá bằng luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật khuyến khích đầu tư nước ngoài. Cần xây dựng chính sách ưu đãi khuyến khích đầu tư trong: nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt khai thác hải sản xa bờ, chế biến thuỷ sản và xây dựng cơ sở hạ tầng nghề cá nhằm thu hút mọi nguồn lực trong-ngoài nước cho đầu tư phát triển ngành, trong đó nguồn vốn trong nước luôn giữ vị trí quan trọng mà chủ yếu là vốn huy động từ dân cư và các thành phần kinh tế. Mặc dù trong những năm qua Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách mở cửa kêu gọi đầu tư nước ngoài vào nước ta, đặc biệt là trong các lĩnh vực sử dụng nhiều nhân công lao động như ngành thuỷ sản.. Nhưng tổng vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực thuỷ sản còn hạn chế (chỉ chiếm 2,1% đến 2,9%). Điều này cho thấy đầu tư vào lĩnh vực thuỷ sản chưa thật hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, cũng như khả năng thu hút vốn của nước ta từ bên ngoài vào cho đầu tư phát triển ngành thuỷ sản chưa có hiệu quả, chúng ta chưa giới thiệu hết tiềm năng phát triển ngành thuỷ sản của đất nước với các nhà đầu tư nước ngoài. Trước tình hình đó đặt ra vấn đề cần thiết phải nghiên cứu, tìm hiểu các tiêu chí và những điều kiện, nguyên vọng của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào lĩnh vực này là gì? Để chúng ta ngày càng cải thiện môi trường đầu tư trong nước ngày một hấp dẫn hơn đối với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời xây dựng chính sách tạo điều kiện cho đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào tất cả mọi lĩnh vực của ngành trong thời gian tới. 2.2 Đầu tư theo lĩnh vực Bảng 8: Tình hình vốn đầu tư cho thuỷ sản theo lĩnh vực Chỉ tiêu 1991-1995 1996-2000 Mức tăng (%) Số vốn (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Số vốn (tỷ đồng) Tỷ lệ (%) Tổng số 2.829,34 100 8.987,12 100 317,64 Nuôi trồng thuỷ sản 860,61 30,42 2.283,27 25,41 265,31 Khai thác thuỷ sản 902,02 31,88 2.497,3 27,79 276,86 Chế biến thuỷ sản 745,47 26,35 2.727,31 30,35 365,85 Hậu cần dịch vụ 321,24 11,35 1.479,24 16,45 460,49 Nguồn: Báo cáo tổng kết đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 1996-2000 của Bộ thuỷ sản Từ chủ trương của Đảng và nhà nước ta về công nghiệp hoá-hiện đại hóa đất nước trong mọi lĩnh vực trong nền kinh tế. Ngành thuỷ sản đã tập trung đầu tư vào 3 chương trình trọng điểm mang tính chiến lược của ngành đó là: khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Có thể nhận thấy rằng lĩnh vực khai thác thuỷ sản là lĩnh vực lâu đời nhất nước ở nước ta xét trong ngành thủy sản, lĩnh vực này đang được đầu tư mạnh. Trong thời kỳ 1991-1995 tổng vốn đầu tư cho khai thác thuỷ sản là 902,02 tỷ đồng chiếm 31,88% đứng vị trí thứ nhất trong tổng vốn đầu tư cho toàn ngành, sang thời kỳ 1996-2000 tuy tỷ lệ vốn đầu tư chỉ đứng thứ hai sau chế biến thuỷ sản nhưng tỷ trọng vốn đầu tư cho lĩnh vực này vẫn chiếm khá lớn trong vốn đầu tư toàn ngành thuỷ sản trong giai đoạn này và sẽ giữ vững xu hướng này. Tuy nhiên trong thời kỳ 1996-2000 chế biến thuỷ sản đang được ưu tiên đầu tư hơn các lĩnh vực khác với mục đích xuất khẩu ra thị trường nước ngoài với vốn đầu tư 2.727,31 tỷ đồng, đứng vị trí thứ nhất so với tổng vốn đầu tư toàn ngành, tăng 365,85% so với vốn đầu tư cho lĩnh vực này giai đoạn 1991-1995. Chú trọng đầu tư vào các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản chỉ dừng lại ở mức độ sản xuất nhưng chưa hướng tới đầu tư cho thị trường đầu ra, mà chủ chủ yếu là thị trường nội địa va xuất khẩu. Vì vậy trước yêu cầu đó ngành thuỷ sản đã đầu tư cho lĩnh vực hậu cần dịch vụ và tìm kiếm thị trường đầu ra với mức vốn tăng lên đáng kể, nếu thời kỳ1991-1995 là 321,24 tỷ đồng thì trong giai đoạn 1996-2000 là 1.479,24 tỷ đồng, tỷ lệ vốn tăng giữa hai thời kỳ này là 460,49%. Điều này đã góp phần nâng cao hiểu quả sản xuất và chất lượng sản phẩm sau khi khai thác và chế biến, nâng giá trị sản phẩm khi xuất ra thị trường tiêu dùng và xuất khẩu. 2.3 Đầu tư theo các đối tượng nuôi trồng thuỷ sản Bảng 9: Tổng hợp vốn đầu tư cho nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 1996-2000 Các đối tượng Vốn đầu tư của năm Thời kỳ 1996-2000 1996 2000 Mức tăng % Số vốn Tỷ lệ % Tổng 521,56 820,15 157,25 2.283,27 100 A. Nuôi nước lợ, mặn 392,63 665,4 169,47 1.718,84 75,28 Tôm: lợ, mặn 342,41 578,14 168,84 1.497,56 64,8 Cá biển 41,72 63,89 153,14 202,07 8,85 Nhuyễn thể 7,98 12,65 158,52 34,93 1,53 Rong biển 0,52 0,72 138,46 2,28 1,1 B. Nuôi nước ngọt 128,93 164,75 127,78 564,43 24,72 Tôm nước ngọt 29,5 49,2 166,78 125,36 5,49 Ao hồ nhỏ 69,15 75,53 109,23 302,41 13,25 Ruộng trũng 23,73 31 130,64 109,89 4,81 Nuôi khác 6,55 9,02 137,74 26,77 1,17 Nguồn: Dự thảo báo cáo tổng kết vốn đầu tư cho phát triển nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 1996-2000 Bộ thuỷ sản Trong những năm qua ngành thuỷ sản đã đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản theo các đối tượng, đã góp phần làm chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế nông thôn và các vùng ven biển tạo việc làm tăng thu nhập cải thiện đời sống cho ngư dân. Từ biểu bảng trên ta thấy rằng từ 1996-2000 nuôi trồng thuỷ sản đã phát triển mạnh trên phạm vi toàn quốc trên tất cả các dạng mặt nước: nước mặn, nứơc lợ, nước ngọt, ở các khu vực thuỷ nội địa với mục tiêu đảm bảo an ninh thực phẩm tạo nguồn hàng xuất khẩu đảm bảo nguyên liệu cho chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm cho ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0001.doc
Tài liệu liên quan