BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO 
ĐẠI HỌC HUẾ 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC 
------------------------- 
NGUYỄN HỮU LỄ 
ĐẶC ĐIỂM DU KÍ VIỆT NAM 
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX 
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam 
Mã số : 62220121 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ VÀ 
VĂN HOÁ VIỆT NAM 
Người hướng dẫn khoa học: 
PGS. TS. Trần Thái Học 
Huế - 2015 
 NGUYỄN HỮU LỄ 
CHARACTERISTICS OF VIETNAM 
TRAVEL WRITING IN THE FIRST HALF 
OF THE TWENTIETH CENTURY 
Specialization: Vietnam Literature 
Code : 62 22 01 21 
A SU
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
54 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 802 | Lượt tải: 2
              
            Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MMARY OF DISSERTATION ON 
VIETNAMESE LANGUAGE AND 
CULTURE 
The scientific guidance: 
Associate Prof. Dr. Trần Thái Học 
Huế, 2015 
NHỮNG CÔNG TRÌNH KHOA HỌC 
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 
1. Nguyễn Hữu Lễ, “Yếu tố kì ảo trong du kí Việt Nam nửa đầu thế 
kỉ XX”, Kỉ yếu hội thảo Yếu tố kì ảo và huyền thoại trong văn học, 
Đại học Khoa học Huế, 5/2013. 
2. Nguyễn Hữu Lễ, “Phong cách du kí Nguyễn Đôn Phục”, Tạp chí 
Khoa học Đại học sư phạm Hà Nội, Số 3/2014. 
3. Nguyễn Hữu Lễ, “Một số vấn đề phong cách thể loại của du kí”, 
Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, Số 6/2014. 
4. Nguyễn Hữu Lễ, “Một số vấn đề thi pháp thể loại của du kí”, Tạp 
chí Khoa học Đại học Huế, Tập 95, Số 7/2014. 
5. Nguyễn Hữu Lễ, “Bút pháp nghệ thuật du kí Mãn Khánh Dương 
Kỵ”, Tạp chí Sông Hương, Số 305, 7/2014. 
6. Nguyễn Hữu Lễ, “Những vấn đề thể loại của du kí”, Tạp chí 
Nghiên cứu Văn học, Số 8/2014. 
7. Nguyễn Hữu Lễ, "Vấn đề thể tài du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ 
XX", Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Số 5/2015. 
MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING 
HUE UNIVERSITY 
COLLEGE OF SCIENCE 
------------------------- 
THE LIST OF THE WORKS PUBLISHED BY THE AUTHOR 
RELATED TO THE TOPICS OF THE THESIS 
1. Nguyen Huu Le (2013), "The magical element in Vietnam travel 
writing in the first half of the twentieth century", Proceedings of 
Scientific Conference "The magic element and myth in literature", 
Hue. 
2. Nguyen Huu Le (2014), "Nguyen Don Phuc's style travel writing", 
Journal of science of HNUE, Vol. 59, No 3, pp. 39 – 47. 
3. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues on language style of travel 
writing", Journal of Language and Life, No 224, pp. 58 – 65. 
4. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues of genre – poetics of travel 
writing", Journal of science Hue university, Vol. 95, No. 7, 163 – 179. 
5. Nguyen Huu Le (2014), "The art style of Man Khanh Duong Ky 
travel writing", Song Huong Journal, No. 305, pp. 72 – 79. 
6. Nguyen Huu Le (2014), "Some issues on the genre of travel 
writing", Literary journals, No. 8, pp. 52 – 62. 
7. Nguyen Huu Le (2015), "The subject matter in Vietnam travel 
writing in the first half of the twentieth century", Literary journals, 
No. 5, pp. 104 – 115. 
MỞ ĐẦU 
1. Lí do chọn đề tài 
1.1. Từ trước đến nay, trong nghiên cứu văn học, người ta chú ý 
đến thể loại văn học đã rõ ràng. Bộ phận văn học nằm giữa ranh giới 
với các thể loại khác thường bị bỏ quên. Du kí Việt Nam đã nằm 
trong trường hợp đó. 
1.2. Đầu của thế kỉ XXI, du kí được các nhà nghiên cứu trong và 
ngoài nước quan tâm. Trong văn học Việt nam, du kí đã bùng phát 
hai lần: lần thứ nhất vào nửa đầu thế kỉ XX, lần thứ hai vào đầu thế kỉ 
XXI. Tuy nhiên, trong một thời gian khá dài, du kí chưa được nghiên 
cứu một cách đầy đủ và nghiêm túc. Vì thế, ở Việt Nam, chưa có 
công trình lí luận và lịch sử dành riêng về du kí. Chúng tôi muốn đặt 
vấn đề: làm sao để tháo gỡ những đường ranh thể loại du kí với các 
thể loại khác? Làm sao để xác định đặc điểm của du kí không phải 
bằng sự suy lí mà bằng cách khảo cứu thực tiễn sáng tác của nó?. 
1.3.Trải qua quá trình hình thành và phát triển, du kí Việt Nam 
đã tồn tại như một thể loại văn học. Đến nửa đầu thế kỉ XX, có sự 
xuất hiện nhiều tác giả, tác phẩm du kí đăng trên các báo và tạp chí. 
Sức hấp dấn của du kí đã thu hút nhiều nhà báo, nhà văn, học sinh, du 
khách bởi sự mới mẻ của thể loại này. Trong quá trình hiện đại hóa 
văn học nửa đầu thế kỉ XX, du kí là bộ phận văn học đã từng có vị 
thế trên văn đàn và có nhiều đóng góp quan trọng. Du kí Việt Nam 
nửa đầu thế kỉ XX cần phải được nghiên cứu một cách đầy đủ và 
nghiêm túc để làm sáng tỏ một số vấn đề : loại hình, thể loại, đặc 
trưng và vị trí của nó đối với quá trình phát triển của lịch sử văn học 
dân tộc. 
Từ những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: Đặc điểm du kí 
Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 
2. Mục tiêu nghiên cứu 
 Với đề tài "Đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX", 
công việc nghiên cứu của luận án nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể 
sau đây: 
 2.1. Xác lập cách hiểu hợp lí về thể loại, khái niệm du kí, xây 
dựng các vấn đề lí thuyết về thể loại. Những vấn đề này là căn cứ để 
nghiên cứu lịch sử và đặc điểm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 
 2.2. Việc nghiên cứu phải xác định những đặc điểm cơ bản 
của du kí Việt Nam về nội dung và hình thức. 
 2.3. Chỉ ra được các phong cách tiêu biểu của thể loại du kí 
trong văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 
3.1. Đối tượng nghiên cứu 
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là du kí Việt Nam nửa 
đầu thế kỉ XX. Đó là những tác phẩm du kí đăng trên các tạp chí nửa 
đầu thế kỉ XX: Nam Phong, Tri Tân, Phụ nữ Tân văn, An Nam, Nam 
Kỳ, Thanh Nghị, Tao Đàn, Tiểu thuyết thứ bảy,  và các ấn phẩm du 
kí xuất bản từ trước tới nay được sáng tác trong giai đoạn này. 
 2.2. Phạm vi nghiên cứu 
2.2.1. Phạm vi nghiên cứu lí thuyết của luận án là những vấn đề 
lí thuyết về thể loại và lịch sử văn học. 
2.2.2. Phạm vi nghiên cứu tư liệu của luận án bao gồm các tác 
giả tiêu biểu và những tác phẩm du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX. 
- Để việc nghiên cứu có tính hệ thống, chúng tôi xem xét những 
tác phẩm du kí Việt Nam trước thế kỉ XX và đầu thế kỉ XXI. 
- Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX có sự phong phú về nội 
dung, đa dạng về hình thức, có nhiều tác giả có phong cách độc đáo. 
Du kí Việt Nam giai đoạn này có ba loại hình: du kí có yếu tố Hán, 
du kí mang phong cách hiện đại, du kí chứa yếu tố hư cấu, tưởng 
tượng. Nhiệm vụ đặt ra của Luận án là phải lựa chọn và giới thiệu 
được các tác giả tiêu biểu. 
4. Phương pháp nghiên cứu 
4.1. Phương pháp lịch sử 
4.2. Phương pháp cấu trúc – hệ thống 
4.3. Phân tích - tổng hợp 
4.4. So sánh đối chiếu 
4.5. Các phương pháp liên ngành: Thi pháp học, Phong cách 
học, Văn bản học, Mĩ học tiếp nhận. 
5. Đóng góp mới của luận án 
 5.1. Về lí luận 
 - Luận án chỉ ra những điểm chưa thống nhất trong cách hiểu 
khái niệm và thể loại du kí. Từ đó, Luận án xác lập một quan niệm 
mới: du kí là một thể loại văn xuôi thuộc loại hình tự sự. Du kí có 
đầy đủ đặc điểm của một thể loại và có khả năng tiếp nhận phương 
thức phản ánh hiện thực của một số thể loại khác. Nó có khả năng 
ảnh hưởng trở lại với những thể loại khác. 
 - Luận án đã xây dựng được một số vấn đề lí thuyết thể loại 
của du kí, điều mà từ trước tới nay chưa có trong các sách lí luận văn 
học ở Việt Nam. 
 5.2. Về thực tiễn 
 - Sưu tầm nhiều tác phẩm du kí, trong đó có các tác phẩm 
chưa được phát hiện. Đây là những sản phẩm quí giá làm giàu di sản 
văn học dân tộc. 
 - Dựa trên phân tích các đặc điểm phong cách thể loại, chúng 
tôi đưa ra những căn cứ để phân biệt tác phẩm du kí với các tác phẩm 
của thể loại khác và chỉ ra những tác phẩm không phải là du kí đã 
gây hiểu nhầm cho nhiều người. 
 - Luận án tiếp cận du kí trên phương diện nội dung và hình 
thức để dựng lại diện mạo của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX với 
những đặc trưng cơ bản của nó. Việc nghiên cứu về phong cách tác 
giả càng khẳng định du kí nửa đầu thế kỉ XX là bộ phận văn học 
quan trọng. 
 - Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm tài liệu 
tham khảo để biên soạn giáo trình, tài liệu học tập và nghiên cứu cho 
các ngành: văn học, văn hóa học, du lịch. 
6. Cấu trúc luận án 
 Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận án có tất cả 5 
chương: 
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu 
Chương 2: Vấn đề lí thuyết thể loại và lịch sử du kí Việt Nam 
Chương 3: Đặc điểm nội dung của du kí Việt Nam nửa đầu thế 
kỉ XX 
Chương 4: Đặc điểm nghệ thuật của du kí Việt Nam nửa đầu thế 
kỉ XX 
Chương 5: Các phong cách du kí Việt Nam tiêu biểu nửa đầu thế 
kỉ XX 
NỘI DUNG 
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 
1.1. Về khái niệm và thể loại của du kí 
1.1.1. Ở nước ngoài 
Những năm 90 của thế kỉ XX, Nghiên cứu và phê bình du kí 
phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia trên thế giới. Hiện nay, nhiều 
học giả trên thế giới xem du kí là một thể của văn học du lịch. Các 
khái niệm về du kí đều xoay quanh vấn đề này. 
Vấn đề định nghĩa du kí phụ thuộc vào quan niệm về thể loại 
của du kí. Ở nước ngoài, vấn đề khái niệm và thể loại của du kí được 
tiếp cận ở hai quan niệm: hư cấu và không hư cấu. 
Về thể loại, không có quan điểm cho rằng du kí là tiểu loại, trái 
lại còn coi du kí lớn hơn thể loại, nó bao gồm nhiều tiểu loại khác 
nhau. 
Có người còn cho rằng du kí nằm giữa lằn ranh "giữa quan sát 
khoa học và tiểu thuyết" (Tim Youngs) 
Mặc dù có những quan niệm khác nhau về du kí, có khi trái 
ngược nhau nhưng những định nghĩa của những nhà nghiên cứu nước 
ngoài nói trên không coi du kí là sự ghi chép của người du lịch. Họ 
quan niệm du kí là một thể loại văn học, nó dung nạp các phương 
thức biểu hiện của các thể loại khác. Như vậy, nội dung của tác phẩm 
du kí lớn hơn nhiều so với những gì mà tác giả thể hiện trong văn bản. 
1.1.2. Ở trong nước 
 Đầu thế kỉ XX, thể loại du kí còn xa lạ với nhiều người. 
Quan niệm về du kí được nói đến tiên là Phạm Quỳnh. Ông cho rằng: 
phải có cuộc hành trình xa, nhiều ngày mới viết được du kí. Còn Vũ 
Ngọc Phan đã thừa nhận có văn du kí nhưng chưa khẳng định tính thể 
loại của du kí. Nhiều người khi nghiên cứu tác phẩm Thượng kinh kí 
sự của Lê Hữu Trác, họ gọi nó bởi nhiều tên khác nhau : du kí, kí sự, 
truyện kí lịch sử, bút kí,... 
Du kí được giới nghiên cứu và phê bình văn học bàn bạc với tư 
cách thể loại vào những năm 60 của thế kỉ XX. Dựa trên quan điểm 
của các nhà lí luận Liên-xô và Trung Quốc, các học giả Việt Nam 
chia văn học thành bốn thể loại: thơ, truyện, kịch, kí. Du kí được xem 
là tiểu loại của thể loại kí. Quan điểm đó vẫn duy trì cho đến ngày 
nay. 
Gần đây, du kí được định danh là thể tài nhưng không tách ra 
khỏi thể loại kí để tồn tại như một thể loại. 
1.2. Về du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX 
 1.2.1. Ở nước ngoài 
Khi phân tích tạp chí Nam Phong, trong luận án của mình, Phạm 
Thị Ngoạn chỉ nói đến du kí nhưng không đưa ra định nghĩa thể loại 
hay chỉ ra đặc điểm của du kí. 
 1.2.2. Ở trong nước 
Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã có nhiều người tiếp cận 
trên phương diện thể tài. Nguyễn Hữu Sơn có nhiều bài đăng trên các 
báo và tạp chí. 
 Ngoài ra, du kí giai đoạn này còn được tiếp cận trên phương 
diện văn hóa, ngôn ngữ nhưng vẫn dựa trên quan điểm: du kí là tiểu 
loại của thể loại kí. 
1.3. Nhận định về những vấn đề đặt ra từ tổng quan tình 
hình nghiên cứu 
So sánh du kí với các thể loại khác, chúng tôi đồng ý với nhiều 
người coi du kí là một thể loại. Chúng tôi cũng xác định các yếu tố 
chủ quan mang tính nghệ thuật của du kí và đưa ra khái niệm: 
Du kí là thể loại văn học, viết về cuộc hành trình hay liên quan 
đến cuộc hành trình với mục đích nào đó và thường phản ánh hiện 
thực bằng các phương thức tự sự và phi tự sự như: ghi chép, miêu tả, 
tường thuật, kể chuyện, dựng đối thoại,... Trong một số trường hợp, 
du kí có thể vận dụng các phương thức phản ánh của hội họa, nhiếp 
ảnh, điện ảnh, truyền hình, ... các phương thức thu nhận thông tin 
khoa học như: khảo cứu, điều tra, thống kê tư liệu, có khi đi kèm 
với các phương thức biểu cảm. Nhân vật trung tâm của tác phẩm du 
kí vừa là chủ thể, vừa là khách thể, đồng thời là người kể chuyện. 
Ngoài nội dung thông tin, nội dung biểu cảm, tác phẩm du kí còn 
chứa đựng văn hóa cá nhân tại thời điểm tiếp xúc văn hóa của chủ 
thể với hiện thực ở nơi mà lần đầu tiên chủ thể khám phá hoặc trải 
nghiệm nó. 
Đối với những tác phẩm du kí sử dụng chất liệu ngôn từ, du kí 
chịu ảnh hưởng của các thể loại khác như: bút kí, hồi kí, tùy bút, tản 
văn, biền văn, phóng sự, kí sự,... nên trong một số tác phẩm đã có 
hiện tượng giao thoa thể loại. Dựa trên những đặc trưng phổ quát, 
du kí có thể phân biệt được với các thể loại gần gũi với nó. Du kí bao 
giờ cũng tồn tại trong một cấu trúc bị chi phối bởi cuộc hành trình. 
Những yếu tố như thời gian, không gian, nhân vật trong tác phẩm du 
kí luôn đảm bảo tính khách quan. 
Chương 2: VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT THỂ LOẠI VÀ LỊCH 
SỬ DU KÍ VIỆT NAM 
2.1. Thi pháp thể loại du kí 
2.1.1. Cốt truyện 
Vấn đề cốt truyện đã được các nhà nghiên cứu đưa ra những 
cách lí giải khác nhau. Cách hiểu hiện đại coi cốt truyện du kí là hành 
trình của nhân vật di chuyển qua các không gian khác nhau. So sánh 
cốt truyện du kí với cốt truyện của truyện kể: cốt truyện của du kí 
phụ thuộc người trần thuật; cốt truyện truyện kể phụ thuộc vào nhân 
vật. Vì vậy, trong tác phẩm du kí, người kể chuyện đóng vai trò quan 
trọng đối với cốt truyện, tức là điều khiển câu chuyện theo một ý đồ 
nhất định. 
 2.1.2. Kết cấu 
Kết cấu của tác phẩm du kí là kết cấu một chiều, theo nguyên tắc 
trật tự của thời gian. Nó có thể bỏ qua một khoảng thời gian nào đó 
chứ không quay trở lại. Tọa độ của kết cấu chính là điểm giao nhau 
của hai trục: trục tung để liên kết các sự kiện trong cuộc hành trình, 
trục hoành là các khoảng cách văn hóa được xác lập ở người đọc 
trong mối quan hệ giữa tác giả và độc giả. 
Đặc trưng cấu trúc của du kí là cấu trúc khúc đoạn theo trục thời 
gian với bốn kiểu kết cấu tiêu biểu: kết cấu trực quan, kết cấu truyện 
lồng trong truyện, kết cấu nhật trình, kết cấu đan xen tự sự - trữ tình. 
2.1.3. Điểm nhìn trần thuật 
Điểm nhìn trần thuật trong du kí là điểm nhìn bên ngoài, nơi chủ 
thể lựa chọn nó để phản ánh. Ý đồ của tác giả thể hiện cách lựa chọn, 
và ưu tiên các sự kiện xảy ra trong cuộc hành trình. 
2.1.4. Thời gian và không gian 
Không gian trong du kí có hai loại. Không gian vật lí là không 
gian của lộ trình, bao gồm: địa điểm, địa danh, và các yếu tố biểu thị 
không gian như: phương tiện đi lại, nhà cửa, đền đài, chùa chiền, 
thắng cảnh, cây cối, núi non,... Không gian ý niệm là không gian 
mang ý nghĩa của chuyến đi như là sự trở về cội nguồn, trải nghiệm. 
Mỗi kiểu đi có cách mô tả không gian khác nhau để thể hiện những ý 
niệm khác nhau. 
Thời gian trong du kí có hai dạng. Thời gian vật lí là thời gian 
tuyến tính. Thời gian ý niệm là thời gian tái hiện không gian quá khứ 
để ý niệm rằng: cuộc hành trình còn mang một nghĩa khác. Thời gian 
này có khả năng đưa con người vượt ra khỏi trục thời gian của mình 
để đến với thời gian khác. 
2.1.5. Ngôn từ 
 Ngôn từ trong du kí là lớp ngôn từ chung. Kiểu ngôn từ trong 
các tác phẩm du kí thường gặp trong các văn bản: nhật kí, bức thư 
trên lộ trình, bài tạp bút, bài tuỳ bút... Phát ngôn của nhân vật chính 
trong du kí là những phát ngôn về đối tượng được nói đến đã lọc qua 
tư tưởng 
2.2. Khái quát quá trình lịch sử của du kí Việt Nam 
Chúng tôi nhận thấy du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX không 
phải là một hiện tượng đột phát mà là một quá trình. Có thể xác định 
vị trí của du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trong lịch đại của nó như 
sau: 
2.2.1.Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ thứ XVII. Du kí tồn tại 
dưới hình thức thơ, phú. Thông qua cuộc hành trình của mình, tác giả 
thường bộc lộ cảm xúc của mình về những nơi đến và cả về thế sự. 
Về thơ du kí được viết khi đi sứ, đi chơi núi có tác giả Trương Hán 
Siêu. Thơ du kí được viết khi đi làm việc quan có tác giả Phạm Sư 
Mạnh. Thơ du kí được viết khi đi du ngoạn của Chu Văn An, Hồ 
Tông Thốc, Về phú du kí có Trương Hán Siêu, Nguyễn Hãng. 
2.2.2. Giai đoạn từ thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX 
Ở thế kỉ XVIII, tiếp nối du kí viết bằng thơ có sự xuất hiện du kí 
văn xuôi chữ Hán của: Trịnh Xuân Thụ, Lê Hữu Trác. Đến thế kỉ 
XIX, du kí văn xuôi chữ Hán phát triển. Giai đoạn này, đã xuất hiện 
một số tác phẩm viết về các chuyến công du ở nước ngoài như: Tây 
hành kiến văn kỉ lược (1831) của Lý Văn Phức (1785 - 1849), Hải 
trình chí lược (1834) của Phan Huy Chú (1782 - 1840); các tác phẩm 
của phái đoàn Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ và Ngụy Khắc Đản 
đi sứ sang Pháp và Tây Ban Nha năm 1863: Như Tây sứ trình nhật kí 
(1864) của Phạm Phú Thứ, Như Tây kí (1864) của Ngụy Khắc Đản, 
Tây phù nhật kí (1865) của Tôn Thọ Tường ... 
2.2.3. Giai đoạn nửa đầu thế kỉ XX 
Đây là giai đoạn phát triển của du kí. Dí xuất hiện trên các tạp 
chí: Nam Phong, Tri Tân, Phụ nữ Tân văn, Đội ngũ sáng tác đông 
đảo, có nhiều cây bút đã tạo được phong cách riêng như: Phạm 
Quỳnh, Nguyễn Đôn Phục, Dương Kỵ, 
Du kí giai đoạn này phát triển là do tác động của sự thay đổi văn 
hóa và văn học, đó là: 
- Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp. 
- Sự hình thành văn học và báo chí Quốc ngữ. 
- Hoạt động dịch thuật và phê bình. 
Du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX trải qua các bước phát triển: 
- Từ 1900 – 1917. Báo chí in các tác phẩm của quá khứ. Chỉ có 
Nguyễn Văn Vĩnh viết Hương Sơn hành trình đăng trên Đông dương 
tạp chí. 
- Từ 1918 – 1934. Giai đoạn nở rộ của du kí trên tạp chí Nam 
Phong. Trong 17 năm tồn tại, Nam Phong có 120 số báo đăng các tác 
phẩm du kí trong và ngoài nước. Tạp chí Phụ nữ Tân văn cũng đăng 
du kí ngay từ số đầu và đăng nhiều kì. Giai đoạn này xuất hiện nhiều 
cây bút du kí chuyên nghiệp như: Phạm Quỳnh, Nguyễn Đôn Phục, 
Nguyễn Bá Trác, Phạm Vân Anh (Đào Trinh Nhất), Nguyễn Tiến 
Lãng, 
Du kí giai đoạn này có đặc điểm: vừa mang yếu tố truyền thống 
vừa mang tính hiện đại. Đây là giai đoạn văn học Quốc ngữ đang 
hình thành và phát triển.Trong một số tác phẩm du kí có sự ảnh 
hưởng của văn học chữ Hán. Sự tiếp nối truyền thống này đã tạo ra ở 
du kí Việt Nam sự đa dạng về phong cách thể loại. So với du kí thế kỉ 
trước, du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX đã có những chuyển biến 
mạnh mẽ, mang tính hiện đại. Tính hiện đại này thể hiện qua các yếu 
tố: chất liệu, thi pháp, phong cách, trào lưu sáng tác, 
- Từ 1935 – 1945. khi Nam Phong chấm dứt, du kí vẫn tiếp tục 
xuất hiện trên các tạp chí: Tri Tân, Phong Hóa, Thanh Nghị, Nam 
Kỳ, Đã có thêm những cây bút vững vàng như: Trần Huy Bá, 
Dương Kỵ, Nhất Linh, Nguyễn Tuân, Du kí giai đoạn này đã có sự 
ảnh hưởng qua lại với các thể loại văn xuôi khác. 
2.2.4. Giai đoạn nửa sau thế kỉ XX 
Từ sau năm 1945 đến thập niên 80 của thế kỉ XX, đất nước ta 
phải chịu những cuộc chiến tranh liên miên và sự cấm vận của Mĩ, du 
lịch không có điều kiện phát triển, du kí vì thế mà không có đất để 
sinh sôi. 
2.2.5. Giai đoạn từ thập niên cuối thế kỉ XX đến nay 
Bắt đầu từ thập niên cuối thế kỉ XX sang thập niên đầu thế kỉ 
XXI, du kí xuất hiện trở lại. Du kí giai đoạn này chủ yếu viết trong 
các chuyến học tập tham quan ở nước ngoài. Nổi bật giai đoạn này là 
sự lên ngôi của các cây bút nữ như: Ngô Thị Giáng Uyên, Dương 
Thụy, Trần Thị Khánh Huyền, 
 Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA DU KÍ VIỆT NAM 
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX 
3.1. Sự phong phú của đề tài 
3.1.1. Đề tài khảo cứu văn hóa 
Các bài du kí viết về đề tài khảo cứu văn hóa dân tộc trong giai 
đoạn này khá đa dạng và thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Hiện 
tượng gặp gỡ văn hóa cá nhân và giá trị văn hóa của đối tượng được 
khảo cứu như là một cách triển khai đề tài trong tác phẩm. 
3.1.2. Đề tài lịch sử 
Du kí giai đoạn này còn có nhiều tác phẩm du kí mang đề tài 
lịch sử. Khác với đề tài lịch sử trong tiểu thuyết, du kí không chủ ý 
để viết về nhân vật hay sự kiện lịch sử. Du kí hướng đến mục đích 
thông tin về các địa danh lịch sử và di tích; và giả định rằng những 
nơi đó ít người biết, hoặc nếu có biết thì chưa tường tận. 
3.1.3. Đề tài danh lam thắng cảnh 
 Đề tài danh lam thắng cảnh là đề tài mang tính truyền thống 
của du kí Việt Nam. Cảnh vật trong du kí giai đoạn này đã có đủ mọi 
đối tượng. Cảnh vật thiên nhiên: có núi, có sông, có hồ, có biển. 
Cảnh vật nhân tạo: có chùa, có tháp, có lăng, có điện, có thành quách, 
lâu đài, Tất cả tạo nên hình ảnh đất nước Việt Nam hài hòa và đẹp 
đẽ. 
3.1.4. Đề tài quốc tế 
Du kí đầu thế kỉ XX có nhiều tác phẩm viết khi nhà văn đi ra 
nước ngoài như: Pháp, Lào, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái lan, Nhật 
Bản. Đề tài quốc tế trong du kí giai đoạn này không mang nặng quan 
hệ chính trị hay ngoại giao. Quan hệ chủ yếu là quan hệ văn hóa giữa 
chủ thể và khách thể. Với đề tài này, du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ 
XX mang nhiều ý nghĩa khác nhau: không chỉ quan hệ văn hóa cá 
nhân mà còn nói đến vấn đề dân tộc và thuộc địa. 
3.1.5. Đề tài dân tộc thiểu số 
Đề tài này xuất hiện lần đầu trong du kí Việt Nam nửa đầu thế kỉ 
XX. Các nhà văn du kí đã đến những nơi người dân tộc thiểu số sinh 
sống ở miền núi và trung du phía Bắc, Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, 
Nam Bộ. Những cuộc hành trình khám phá đời sống, phong tục, con 
người của một số dân tộc thiểu số đã bổ sung thêm bức tranh về văn 
hóa và con người Việt Nam. 
 3.2. Sự đa dạng của cảm hứng 
 3.2.1. Cảm hứng viễn du 
 Cảm hứng viễn du của du kí Việt Nam đầu thế kỉ XX nằm 
trong xu hướng du kí thế giới nửa cuối thế kỉ XIX. Đặc điểm nổi bật 
của cảm hứng viễn du trong giai đoạn này là kết hợp giữa cảm hứng 
văn hóa với khám phá chính mình. 
 3.2.2. Cảm hứng yêu nước 
 Người trí thức Việt Nam ý thức về thân phận người dân của 
một nước thuộc địa. Cảm hứng yêu nước thể hiện ở thái độ của nhà 
văn đối với hiện thực, con người, sự gặp gỡ, tiếp xúc với di tích, cảnh 
vật. 
 3.2.3. Cảm hứng tâm linh 
 Cảm hứng tâm linh trong du kí là nhu cầu, khát vọng của nhà 
văn thực hiện điều tâm nguyện bằng cuộc hành trình.Có nhiều trường 
hợp, trong khi thực hiện cuộc hành trình, nhà văn đã gặp gỡ những 
điều mang yếu tố tâm linh. Có nhiều bài du kí nói về những cuộc 
hành trình vãn cảnh chùa, chiêm ngưỡng nơi được coi là Phật hiển 
linh. Có nhiều bài du kí đến những nơi là chốn linh thiêng, nơi đó có 
miếu, có đình, có tháp và cả những nơi sinh hoạt tâm linh đang diễn 
ra. 
 3.2.4. Cảm hứng trữ tình 
 Cảm hứng trữ tình trong du kí chính là trí tưởng tượng và 
cảm xúc trước sự vật, con người và những hiện tượng khác mà nhà 
văn đã trải qua. Có khi cảm hứng trữ tình hòa với cảm hứng thiên 
nhiên, cảm hứng lãng mạn. Cảm hứng trữ tình phổ biến trong du kí 
giai đoạn này là xúc cảm thành thơ. 
 3.2.5. Cảm hứng thế sự 
Cảm hứng thế sự thể hiện sự quan tâm của nhà văn khi tiếp xúc 
với các hiện tượng đời sống gặp trên đường đi. Đội ngũ nhà văn viết 
du kí là những người làm báo, nghề nghiệp chi phối cách viết của họ. 
Sự quan tâm của họ không bộc lộ thành đề tài mà chỉ xuất hiện trong 
những đoạn miêu tả và nghị luận. 
Chương 4: ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA DU KÍ VIỆT 
NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX 
4.1. Cốt truyện 
4.1.1. Cốt truyện hành trình 
 Du kí Việt Nam có cốt truyện gắn liền với mục đích của cuộc 
hành trình. Du kí có cốt truyện thường ở các tác phẩm có cuộc hành 
trình ra nước ngoài với hành trình có độ lớn về không gian, độ dài về 
thời gian như: Pháp du hành trình nhật kí (1922) của Phạm Quỳnh, 
Sang Tây – Mười tháng ở Pháp (1929) của Phạm Vân Anh (Đào 
Trinh Nhất), Đi Tây (1935) của Lãng Du, Tôi thầu khoán (1941) của 
Lê Văn Trương, Một chuyến đi (1941) của Nguyễn Tuân 
 Du kí có cốt truyện vừa và nhỏ ở các tác phẩm gắn liền với 
các cuộc hành trình ngắn như đi Lào, đi trong nước. Những tác phẩm 
không có cốt truyện thường gần với tản văn, họ viết trong các chuyến 
đi du ngoạn cảnh vật. 
 4.1.2. Cốt truyện sự tích – huyền thoại 
 Cốt truyện có mối quan hệ với đề tài, tư tưởng. Du kí Việt 
Nam có nhiều tác phẩm có cốt truyện sự tích – huyền thoại. Những 
tác phẩm này kể những câu chuyện về những nhân vật văn hóa, lịch 
sử có nội dung liên quan đến địa danh, di tích, danh lam,được tác 
giả gặp trên lộ trình. Tiêu biểu là các tác phẩm của Dương Kỵ, 
Nguyễn Đôn Phục, Hoàng Minh, 
4.2. Kết cấu 
4.2.1. Kết cấu khung của tác phẩm 
 Cấu trúc khung văn bản cũng là một kiểu kết cấu. Thông 
thường, tác phẩm du kí dựa trên cấu trúc “tam đoạn”: mở đầu, chính 
văn, kết thúc. Trong thực tế, mỗi tác phẩm có một kiểu cấu trúc khác 
nhau, biểu hiện tính đa phong cách trong nghệ thuật xây dựng tác 
phẩm. 
4.2.2. Kết cấu trực quan 
 Trong du kí Việt Nam, kết cấu trực quan gắn liền với việc 
miêu tả đối tượng theo trình tự của thời gian hành trình. Đó là các tác 
phẩm: Cuộc chơi năm tầng núi của Nguyễn Đôn Phục, Cuộc chơi 
trăng sông Nhuệ của Nguyễn Mạnh Hồng, 
4.2.3. Kết cấu nhật trình – sự kiện 
Trong những tác phẩm của Phạm Quỳnh, Mẫu Sơn Mục, 
thường sử dụng lối kết cấu nhật trình - sự kiện để thuật lại các sự 
kiện theo thời gian là đơn vị ngày. 
4.2.4. Kết cấu đan xen tự sự - trữ tình 
Kết cấu này chiếm số lượng lớn trong du kí Việt Nam. Những 
tác phẩm viết trong dịp thăm danh lam, thắng cảnh, di tích với các 
bài du kí ngắn có kết cấu tự sự - trữ tình. Những tác phẩm này có sự 
kết hợp giữa kể, tả với bộc lộ cảm xúc bằng thơ hoặc văn. 
4.3. Điểm nhìn trần thuật 
4.3.1. Điểm nhìn đa diện đối với hiện thực 
 Mối quan hệ giữa điểm nhìn trần thuật và nhân vật trong du 
kí Việt Nam đã làm dịch chuyển vị trí các ngôi trần thuật. Trong mối 
quan hệ với nhân vật, điểm nhìn trần thuật là phương thức phát ngôn, 
cách trình bày, mô tả, phù hợp với cách cảm, cách nghĩ đối với 
hiện thực mà nhân vật chứng kiến, trải nghiệm trong cuộc hành trình. 
4.3.2. Điểm nhìn dịch chuyển của người kể chuyện 
 Đối với tác phẩm du kí có dung lượng nhỏ, điểm nhìn trần 
thuật phổ biến là sự dịch chuyển giữa tác giả - kí giả - nhân vật như 
các tác phẩm của Nguyễn Đôn Phục, Thái Hữu Thành, Vũ Nga,... 
4.4. Nghệ thuật ngôn từ 
 4.4.1. Sự kết hợp các chất liệu 
Trong du kí Việt Nam, hiện tượng hỗn dung ngôn ngữ xảy ra ở 
hai trường hợp: chữ Hán và chữ Pháp trong văn bản tiếng Việt. Trong 
nhiều trường hợp, việc sử dụng ngôn ngữ này đều mang mục đích 
nghệ thuật. 
4.4.2. Sự đa dạng của văn phong 
Hành văn trong văn bản của tác phẩm du kí Việt Nam thường 
biểu thị các hình thức phản ánh: miêu tả, nghị luận và trữ tình. Hành 
văn mang tính nhạc trong văn du kí thường xuất hiện trong những tác 
phẩm có đoạn văn mang yếu tố trữ tình. 
Những tác phẩm du kí có phong cách diễn đạt này có sự trộn lẫn 
giữa thơ và văn xuôi làm hấp dẫn đối với người đọc. Cách diễn đạt 
này được kết hợp hai yếu tố tự sự và trữ tình, là kiểu phát ngôn nghệ 
thuật đặc trưng của du kí truyền thống. 
Chương 5: CÁC TÁC GIẢ DU KÍ VIỆT NAM TIÊU BIỂU 
NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX 
5.1. Nguyễn Đôn Phục – phong cách truyền thống 
 5.1.1. Triết lí nghệ thuật về "sự đi" 
Theo Nguyễn Đôn Phục, cách chơi của hạng người văn chương 
là không chơi phiếm, chơi suông. Họ có cách chơi chữ nghĩa, chơi có 
mục đích, hướng về tâm hồn dân tộc. Cách chơi của Nguyễn Đôn 
Phục trong du kí là cách chơi với cái thú thanh cao, cái vui cổ kính 
không phàm tục. 
 5.1.2. Tiếp cận đối tượng trên phương diện lịch sử 
Từ điểm nhìn lịch sử mà thế giới trong các bài du kí, Nguyễn 
Đôn Phục đưa người đọc đến với thế giới cổ tích của các nhân vật và 
sự kiện lịch sử 
 5.1.3. Ngôn từ cổ kính và biểu cảm 
Du kí của Nguyễn Đôn Phục như là một hình thức đối thoại 
nghệ thuật giữa hai trường phái tư tưởng: cách tân và thủ cựu. Ngôn 
ngữ trong du kí của Nguyễn Đôn Phục có nhiều câu châm ngôn, triết 
lí. Ông sử dụng từ Hán Việt và chữ Hán, có nhiều câu văn biểu cảm 
và các thán từ. 
5.2. Phạm Quỳnh – phong cách hiện đại 
5.2.1. Văn du kí mang tính tư tưởng 
Văn Phạm Quỳnh là văn tư tưởng và cũng viết bởi mục tiêu tư 
tưởng. Trong văn du kí, Phạm Quỳnh luôn thể hiện các vấn đề về tư 
tưởng quốc gia, dân tộc, vấn đề đạo lí,  Do tiếp xúc với tư tưởng 
phương Tây hiện đại, nhiều tác phẩm du kí của Phạm Quỳnh mang tư 
tưởng dân tộc hiện đại, thể hiện những khát vọng canh tân đất nước. 
Những tác phẩm viết về đề tài quốc tế thường mang tính tư tưởng 
như: Pháp du hành trình nhật kí và Du lịch xứ Lào. Ngoài ra, các tác 
phẩm viết về cuộc đi thăm, đi chơi ở trong nước như: Mười ngày ở 
Huế, Một tháng ở Nam kì đều có sự thể hiện tư tưởng của ông. 
5.2.2. Kết cấu và ngôn ngữ mang tính hiện đại 
 Du kí Phạm Quỳnh có nhiều tác phẩm có qui mô lớn, gắn 
liền với cuộc hành trình lớn. Những tác phẩm này đều có lối kết cấu 
hiện đại như du kí châu Âu. Ngôn ngữ trong du kí Phạm Quỳnh là 
tiếng Việt hiện đại. 
 5.2.3. Văn du kí giàu chất triết luận 
Văn du kí Phạm Quỳnh dài dòng không phải là sự ghi chép lôi 
thôi, thấy gì ghi đó khi gặp trên lộ trình. Chất triết luận trong văn ông 
chi phối sự lựa chọn lối viết. Văn du kí của Phạm Quỳnh không cứng 
nhắc trong một kiểu cấu trúc văn bản mà có thể biến hóa linh hoạt. 
Văn du kí Phạm Quỳnh khác người ở chỗ, cái tư tưởng bao giờ cũng 
được đặt lên hàng đầu. Vì thế, dù mức độ đậm nhạt khác nhau nhưng 
bài nào cũng được trang điểm bởi chất triết luận. 
5.3. Mãn Khánh Dương Kỵ - phong cách huyền thoại hóa 
5.3.1. Cảm quan lịch sử và bút pháp huyền thoại hóa 
Cuộc hành trình trong du kí Mãn Khánh Dương Kỵ là cuộc hành 
trình xuyên thời gian, không gian để đến những nơi chưa có ai từng 
đến ở thời đại của ông; đó là kinh đô Chiêm Thành cách đây chừng 
mười thế kỉ. Thế giới nghệ thuật du kí của Mãn Khánh Dương Kỵ là 
sự trộn lẫn giữa lịch sử và truyền thuyết. Ông dùng bút pháp huyền 
thoại hoá để làm cho cái thực và cái ảo đồng hiện, khó phân biệt. 
5.3.2. Nghệ thuật dựng cảnh và tạo không khí lịch sử 
Mãn Khánh Dương Kỵ có tài năng dựng cảnh và tạo không khí 
lịch sử cả trong lời văn và kết cấu. 
5.3.3. Ngôn từ giàu tính tạo hình 
Ngôn ngữ du kí của Mãn Khánh Dương Kỵ được chọn lọc. Ông 
có vốn từ vựng phong phú để miêu tả đúng cảnh, đúng người. Ngoài 
ra ông còn có vốn từ khoa học, những nguồn tư liệu quí giá và sự am 
hiểu ngôn ngữ và văn hóa Chămpa. Điều này ông đã phục hồi những 
cái mất đi phải trở về trong ý niệm. Sử dụng chất liệu này, nhiều bức 
tranh cảnh vật được ông vẽ lên giàu màu sắc, đường nét và biểu cảm. 
KẾT LUẬN 
1. Du kí là vấn đề của văn học đương đại. Nhờ sự tác động nhiều 
mặt của kinh tế - văn hóa – xã hội trong thời đại khoa học – kĩ thuật 
và công nghệ phát triển, nhiều vấn đề của lịch sử và lí luận văn học 
được nhìn nhận lại. Du kí đã trở thành đối tượng nghiên cứu không 
chỉ đối với lí luận và phê bình văn học mà còn của nhiều ngành khác 
nhau. Trong thập niên cuối của thế kỉ XX, những cuộc hội thảo quốc 
tế về du kí đã thu hút nhiều nhà nghiên cứu đến với
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tom_tat_luan_an_dac_diem_du_ki_viet_nam_nua_dau_the_ki_xx.pdf