VIỆN HÀN LÂM 
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM 
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI 
TRIỆU QUỲNH CHÂU 
DÒNG HỌ CỦA NGƯỜI TÀY Ở 
HUYỆN BẠCH THÔNG TỈNH BẮC KẠN 
Chuyên ngành: Nhân học 
 Mã số : 62 31 03 02 
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC 
HÀ NỘI - 2017 
Công trình được hoàn thành tại: 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam -Học viện Khoa học xã hội 
Người hướng dẫn khoa học: 
PGS.TS NGUYỄN NGỌC THANH 
Phản biện 1: PGS.TS. KHỔNG DIỄN 
Phản biện 2: PGS.TS. LÊ NGỌC THẮNG 
Phản biện 3: PGS.TS. TRẦN VĂN
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
27 trang | 
Chia sẻ: huong20 | Lượt xem: 705 | Lượt tải: 0
              
            Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông tỉnh Bắc Kạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 BÌNH 
Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học 
viện họp tại: Học viện Khoa học xã hội vào hồi giờ  phút, ngày 
 tháng năm 2017 
 Có thể tìm hiểu luận án tại: 
 - Thư viện Quốc Gia Việt Nam, 
 - Thư viện Học viện Khoa học xã hội 
 - Thư viện Trường Đại học Khoa học - Đại học Thái Nguyên 
1 
MỞ ĐẦU 
1. Tính cấp thiết của của luận án 
Thiết chế dòng họ của người Tày là một trong những yếu tố văn 
hóa có nhiều điểm tương đồng với một số dân tộc thiểu số khác, 
nhưng đồng thời cũng có những nét đặc thù riêng. Dòng họ có vị trí 
đặc biệt quan trọng, là một trong những thành tố cốt lõi tạo nên xã 
hội người Tày. Là nền tảng cho sự tồn tại của thiết chế xã hội truyền 
thống, giữ vai trò quan trọng chi phối đến các lĩnh vực kinh tế, văn 
hóa, xã hội, trong sự phát triển chung của địa phương, quốc gia. 
Thông qua các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục tập 
quán, nghi lễ thờ cúng dòng họ của các cá nhân, các gia đình người 
Tày đã tạo nên chất keo bền vững, chặt chẽ, trong quan hệ dòng họ, 
đồng thời thể hiện vai trò và vị trí của dòng họ đối với các gia đình 
thành viên, với cộng đồng xã hội. 
Tuy nhiên, việc tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về dòng họ 
người Tày ở huyện Bạch Thông chưa được các nhà Dân tộc 
học/Nhân học ở Việt Nam quan tâm thoả đáng. Lựa chọn vấn đề 
“Dòng họ của người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn” để 
nghiên cứu, tác giả mong muốn có thêm hiểu biết một cách đầy đủ và 
sâu sắc hơn về văn hoá tộc người Tày với những đặc điểm riêng - 
chung về dòng họ Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn dưới góc 
nhìn nhân học. 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án 
- Tìm hiểu các đặc điểm và mối quan hệ của dòng họ người Tày 
ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn truyền thống và hiện nay. 
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, phát huy vai trò của 
dòng họ trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. 
2 
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận án 
- Tìm hiểu các đặc điểm và mối quan hệ của dòng họ người Tày 
ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn truyền thống và hiện nay. 
- Từ kết quả nghiên cứu đề xuất một số giải pháp, phát huy vai 
trò của dòng họ trong xây dựng nông thôn mới ở huyện Bạch Thông, 
tỉnh Bắc Kạn. 
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 
Để thực hiện mục tiêu trên, luận án có nhiệm vụ: 
- Triển khai điền dã, tổng hợp, thu thập các nguồn tư liệu thành 
văn viết về người Tày nói chung, người Tày ở huyện Bạch Thông, 
tỉnh Bắc Kạn nói riêng. 
- Trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài; 
xác định cơ sở lý thuyết và các khái niệm cho triển khai nội dung luận án. 
- Mô tả và tìm ra những đặc điểm cơ bản của dòng họ người Tày 
truyền thống và biến đổi. 
- Đề xuất các giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy vai trò của 
dòng họ trong xây dựng nông thôn mới vùng người Tày hiện nay. 
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án 
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án 
Nghiên cứu người Tày tại huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn trên 
các phương diện đặc điểm, vai trò và mối quan hệ của dòng họ trong 
đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội từ truyền thống đến biến đổi. 
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án 
Về không gian: Đề tài chủ yếu nghiên cứu ở các xã Vi Hương, 
Quang Thuận, thị trấn Phủ Thông, đây là những nơi người Tày cư trú 
tập trung và còn lưu giữ được nhiều phong tục tập quán truyền thống. 
3 
Về thời gian: Luận án nghiên cứu dòng họ của người Tày ở 
huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn trước năm 1986 (trước đổi mới) và 
sự biến đổi từ đổi mới năm 1986 đến nay. 
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 
4.1. Phương pháp luận 
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật 
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng 
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân tộc và 
chính sách dân tộc. 
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án 
Luận án được thực hiện dưới góc nhìn Nhân học, trong đó 
phương pháp chủ đạo là điền dã dân tộc với các hình thức quan sát, 
quan sát tham dự, phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm. Ngoài ra, phương 
pháp tổng hợp, phân tích, so sánh cũng được sử dụng nhằm thu thập 
các tài liệu, báo cáo, thông tin có liên quan về các vấn đề dòng họ 
dân tộc Tày.Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo ý kiến của các 
chuyên gia trong ngành Dân tộc học/Nhân học nhằm bổ sung, hoàn 
thiện các kiến thức còn thiếu sót trong quá trình thực hiện luận án. 
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 
Luận án là công trình nghiên cứu nhân học đầu tiên về dòng họ 
người Tày truyền thống và biến đổi ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. 
Luận án góp phần làm rõ vai trò, ảnh hưởng của dòng họ người 
Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn. 
Luận án góp thêm cơ sở khoa học và đề xuất một số giải pháp 
phát huy những giá trị tốt đẹp của dòng họ, đồng thời hạn chế những 
tác động tiêu cực trong xây dựng nông thôn mới ở vùng người Tày 
nói riêng và vùng các dân tộc thiểu số nói chung. 
4 
Trong một chừng mực nhất định, luận án còn là tài liệu tham khảo 
cho sinh viên các bộ môn lịch sử địa phương, văn hoá học, dân tộc học... 
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 
Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ đặc điểm của 
dòng họ người Tày; đồng thời, khẳng định vai trò dòng họ của người 
Tày trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 
Luận án cung cấp thêm luận cứ khoa học và gợi mở một số vấn đề 
có thể vận dụng vào thực tiễn nhằm phát huy hơn nữa vai trò của dòng 
họ ở vùng người Tày huyện Phủ Thông trong giai đoạn hiện nay. 
7. Bố cục của luận án 
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Tài liệu tham khảo, luận 
án gồm 4 chương: 
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở 
lý thuyết và địa bàn nghiên cứu; 
Chương 2: Đặc điểm một số dòng họ Tày ở các điểm 
nghiên cứu; 
Chương 3: Quan hệ dòng họ trong đời sống tộc người; 
Chương 4: Vai trò, giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của 
dòng họ trong đời sống người Tày hiện nay. 
Chương 1 
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, 
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 
1.1.1. Nghiên cứu về dòng họ của các tác giả nước ngoài 
Vấn đề về dòng họ đã được nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới 
quan tâm từ rất sớm. Trong các tên tuổi đó phải kể tới Emily A.Schultz, 
Robert H.Lavenda, Claude Lévi-Strauss, Radcliffe-Brown... 
5 
Đóng góp nhiều nhất về phương pháp luận nghiên cứu dòng họ 
và hệ thống thân tộc là nhà dân tộc học Liên Xô (nước Nga ngày nay) 
M.V. Kriukov. Ông là một trong những nhà dân tộc học Xô viết xây 
dựng không ít những công trình lý luận quý giá trong việc nghiên cứu 
hệ thống thuật ngữ thân tộc. Trong đó, công trình Các hệ thống thân 
tộc và khoa dân tộc học được coi là cơ sở nền tảng nghiên cứu về 
dòng họ và hệ thống thân tộc ở Việt Nam. 
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về dòng họ trên thế giới 
với những hướng tiếp cận khác nhau là nguồn tài liệu tham khảo cơ 
bản, thiết thực cho chúng tôi trong quá trình thực hiện luận án. 
1.1.2. Nghiên cứu dòng họ của các tác giả ở Việt Nam 
1.1.2.1. Nghiên cứu về dòng họ người Kinh (Việt) 
Nghiên cứu về dòng họ của người Kinh (Việt) đã có nhiều công 
trình được công bố như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử 
thông giám cương mục, Đại Nam thực lục... Tuy nhiên, các tác phẩm 
này chưa đi sâu tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, ảnh hưởng của dòng 
họ... Từ những năm 1990 của thế kỷ XX, việc nghiên cứu dòng họ 
được triển khai mạnh mẽ dưới nhiều góc độ khác nhau như Sử học, 
Xã hội học, Dân tộc học, Văn hóa học... Hiện nay, việc nghiên cứu 
dòng họ ở tộc người này vẫn được triển khai mạnh mẽ theo hướng 
truyền thống và biến đổi 
1.1.2.2. Nghiên cứu về dòng họ các dân tộc thiểu số ở miền núi 
phía Bắc Việt Nam 
Dòng họ các dân tộc thiểu số ở miền núi phía Bắc đã được các 
nhà dân tộc học Việt Nam tiến hành nghiên cứu và công bố qua các 
ấn phẩm sách, tạp chí của Viện Dân tộc học xuất bản từ 1970 đến 
nay. Ngoài các công trình kể trên, dòng họ của dân tộc thiểu số còn 
được lựa chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ... 
6 
1.1.2.3. Nghiên cứu về dòng họ người Tày 
Các nghiên cứu hiện nay không lấy dòng họ làm đối tượng 
nghiên cứu chính mà được trình bày trong các công trình tổng hợp về 
tộc người hoặc bài đăng ở tạp chí nghiên cứu chuyên ngành, kỷ yếu 
hội thảo Đây cũng là vấn đề cấp thiết để chúng tôi lựa chọn nghiên cứu, 
nhằm hướng tới bổ sung cơ sở dữ liệu về dân tộc Tày toàn diện hơn. 
1.2. Cơ sở lý thuyết 
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản 
Luận án trình bày các khái niệm: Dòng họ, quan hệ dòng họ, ngoại hôn 
dòng họ, trựchệ,bàng hệ,hệ thống thuật ngữ thân tộc, dòng họ phụ hệ, dòng 
họ mẫu hệ; chi họ, giá trị, gốc Tày, lai Tày, Kinh thành Tày. 
1.2.2. Cơ sở lý thuyết 
Các lý thuyết được vận dụng bao gồm: Lý thuyết cấu trúc chức 
năng, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa, lý thuyết về vốn xã hội 
và mạng lưới xã hội. 
1.3. Vài nét về huyện Bạch Thông 
1.3.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên huyện Bạch Thông 
Bạch Thông là một huyện miền núi vùng cao, với chiều dài hơn 30km 
chạy theo Quốc lộ 3, bao gồm gần như toàn bộ phần đất thuộc trung tâm 
tỉnh Bắc Kạn. Huyện Bạch Thông có tổng diện tích tự nhiên là 545,62 km2. 
Phía nam giáp thành phố Bắc Kạn, phía đông giáp huyện Na Rì, phía bắc 
giáp các huyện Ngân Sơn, Ba Bể; phía tây giáp huyện Chợ Đồn. Chính vì 
vậy, Bạch Thông là huyện phản ánh tương đối đầy đủ những đặc điểm 
chính của Bắc Kạn cả về điều kiện tự nhiên và xã hội. 
1.3.2. Sự thay đổi các đơn vị hành chính 
Sau nhiều lần sáp nhập, năm 1997, tỉnh Bắc Kạn chính thức 
được tái lập, huyện Bạch Thông trở thành 1 huyện của tỉnh Bắc Kạn 
với 17 đơn vị hành chính, trong đó có 16 xã và 01 thị trấn. 
7 
1.3.3. Dân số, dân tộc và đặc điểm kinh tế - xã hội 
1.3.3.1. Dân số, dân tộc 
Năm 2016 dân số toàn huyện là 8.363 hộ, 33.131 người, dân tộc 
thiểu số có 29.703 người, chiếm 89,65%, trong đó dân tộc Tày: 5228 
hộ, 20716 người chiếm 62,99%, dân tộc Dao: 1291hộ, 5348 người 
chiếm 15,66%, dân tộc Nùng: 920 hộ, 4064 người chiếm 11,08%, 
dân tộc Hoa: 30 hộ,51 người chiếm 0,4%, dân tộc Hmông: 5 hộ, 28 
người chiếm 0,08% ngoài ra còn có các dân tộc khác như dân tộc Mường, 
Thái, Sán Chay. Ở Bạch Thông, nhiều xã người Tày chiếm tới 98% số dân 
như Quang Thuận, Vi Hương... Người Tày ở Bạch Thông nói riêng, Bắc 
Kạn nói chung đều tự gọi mình là người Tày (cần Tày). 
1.3.3.2. Đặc điểm kinh tế, văn hoá - xã hội 
- Hoạt động kinh tế: Người Tày ở tại các tỉnh miền núi Đông 
Bắc nói chung và vùng Phủ Thông, Bắc Kạn nói riêng thường cư trú 
ở thung lũng lòng chảo màu mỡ, độ cao trung bình. Đây là những địa 
bàn thích hợp với việc thâm canh lúa nước và trồng hoa màu. Ngoài 
ra, người Tày còn chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, ngựa, dê, 
lợn, gà, vịt,.. 
- Về văn hoá vật chất: 
 Ăn, uống: Người Tày ngày thường ăn hai bữa chính, cơm được 
nấu bằng gạo tẻ, ngoài nấu cơm người Tày còn dùng gạo tẻ để chế 
biến thành bún, bánh cuốn (bẻng cuổn), bánh bò (bẻng cao bông). 
Ngoài ra, người Tày Bạch Thông còn dùng gạo nếp làm xôi đỏ đen 
(khẩu nua đăm đeng) trong các dịp hiếu hỷ, lễ tết... Người Tày ở 
huyện Bạch Thông có một số món ăn đặc trưng riêng như măng nhồi 
thịt (mẩy nhường), thịt lợn, vịt nhồi lá mác mật (có thể quay hoặc 
hầm), khâu nhục, thịt kho trám... 
8 
Về trang phục: phụ nữ mặc áo năm thân, một thân ngắn, bốn 
thân dài đến ngang bụng chân, cài cúc ở cổ và nách bên phải, bên 
trong mặc áo ngắn cộc tay (slửa cỏm) kết hợp với váy hoặc quần dài 
tới mắt cá chân. 
Nhà ở: nhà ở của người Tày ở Bạch Thông chia làm hai loại 
chính: nhà sàn, nhà đất. Trong đó nhà sàn bốn mái, lợp ngói máng 
hoặc cỏ gianh là phổ biến nhất và là nhà ở truyền thống. 
Về văn hoá xã hội: người Tày ở Bạch Thông thường cư trú trong bản 
và có những nét riêng so với tộc người Tày ở các địa phương khác. 
Văn hoá tinh thần: 
Tín ngưỡng: người Tày Bạch Thông gắn với tín ngưỡng dân 
gian, theo quan niệm đa thần, và ảnh hưởng Tam giáo. 
 Văn nghệ dân gian: hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian của 
người Tày hiện nay vẫn còn diễn ra rất sôi nổi. Đặc biệt, ở Bạch 
Thông có một số loại hình văn hóa văn nghệ dân gian đặc sắc như 
Then, hát quan làng. 
Tiếng nói, chữ viết: theo các nhà ngôn ngữ học, tiếng Tày thuộc 
loại hình ngôn ngữ đơn lập, đơn tiết, có thanh điệu và không biến hóa 
hình thái, tương đối gần gũi với tiếng Việt cả về cấu trúc âm tiết cũng 
như về ngữ pháp. Điều đó không những góp phần làm cho quá trình 
tiếp xúc ngôn ngữ giữa người Tày và người Kinh diễn ra một các 
thuận lợi mà còn giúp cho việc tiếp thu tiếng Việt của người Tày trở 
nên dễ dàng và nhanh chóng hơn. 
1.4. Khái quát về địa điểm nghiên cứu 
1.4.1. Xã Quang Thuận 
Xã Quang Thuận nằm ở phía tây nam huyện Bạch Thông, cách 
thành phố Bắc Kạn 5km theo trục đường tỉnh lộ 257 Bắc Kạn - Chợ 
Đồn đến km15. Diện tích đất tự nhiên 3.249,28 ha chủ yếu là đồi núi 
9 
cao. Dân số 496 hộ với 2032 khẩu, trong đó dân tộc Tày: 362 hộ 
1519 khẩu; Kinh: 63 hộ, 258 khẩu; Dao: 58 hộ, 237 khẩu; Nùng: 4 
hộ, 18 khẩu. Xã có 18 dòng họ, trong đó dân tộc Tày có 11 dòng họ. 
1.4.2. Thị trấn Phủ Thông 
Phủ Thông là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hoá, 
thương mại và dịch vụ của huyện Bạch Thông, nằm trên ngã ba cắt 
giao giữa tỉnh lộ 258 và Quốc lộ 3. Phía bắc, phía tây và phía đông 
giáp các xã Phương Linh, phía nam giáp xã Tú Trĩ. Dân số trên 500 
hộ, khoảng 1712 khẩu, trong đó dân tộc Tày: 232 hộ, 828 khẩu; 
Kinh: 181 hộ, 623 khẩu; Nùng: 54 hộ 202 khẩu; Hoa: 26 hộ, 39 khẩu; 
Dao: 5 hộ, 15 khẩu. Dân cư phân bố tại 4 tổ dân phố. Thị trấn có 15 
dòng họ, trong đó dân tộc Tày có 6 dòng họ. 
 1.4.3. Xã Vi Hương 
Xã nằm ở phía đông bắc huyện Bạch Thông, phía đông giáp xã 
Phương Linh; phía nam giáp xã Tú Trĩ, Lục Bình; phía tây giáp xã 
Đôn Phong (huyện Bạch Thông), xã Đồng Phúc và Mỹ Phương 
(huyện Ba Bể). Dân số 615 hộ; 2,587 khẩu, trong đó dân tộc Tày: 
408 hộ, 1757 khẩu; Dao 103 hộ, 432 khẩu ; Kinh: 59 hộ, 247 khẩu; 
Mường 41 hộ, 132 khẩu; Nùng: 4 hộ, 19 khẩu. Dân cư phân bố tại 11 
thôn/bản. Xã có 17 dòng họ, trong đó dân tộc Tày có 9 dòng họ 
Tiểu kết Chương 1 
Chương 1 của luận án đã trình bày tổng quan tình hình nghiên 
cứu, qua đó cho thấy, đến nay chưa có công trình chuyên sâu nào đề 
cập đến dòng họ của người Tày. Trong chương này, tác giả tập trung 
trình bày về các khái niệm liên quan đến tài. Đồng thời nêu rõ các lý 
thuyết vận dụng trong quá trình thực hiện luận án như lý thuyết cấu 
10 
trúc chức năng, lý thuyết về giao lưu, tiếp biến văn hóa, Lý thuyết về 
vốn xã hội và mạng lưới xã hội... 
Trải qua các giai đoạn lịch sử, thành phần dân cư, dân tộc của 
Bạch Thông có nhiều xáo trộn. Bên cạnh cư dân bản địa là các tộc 
người di cư từ nơi khác tới, chủ yếu là người Kinh từ miền xuôi lên. 
Do cùng sinh sống trên một địa vực nhất định mà quá trình giao thoa 
văn hoá giữa người Kinh người Tày ở đây diễn ra mạnh mẽ. 
Chương 2 
ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ DÒNG HỌ TÀY 
Ở CÁC ĐIỂM NGHIÊN CỨU 
2.1. Quan niệm về dòng họ 
Theo quan niệm của người Tày ở Bạch Thông thì dòng họ là 
toàn thể những người cùng huyết thống, cùng ông tổ, tiếng Tày gọi là 
Cần chang họ, tó Chỏ, Chựa. Cùng một dòng máu, hay những người 
cùng một cha mẹ sinh ra tiếng Tày gọi là bì noọng tó slai đưa. Tính 
huyết thống được tính theo bên bố, họ bên nội, người Tày gọi là bặng 
nả, còn những người thuộc bên mẹ, họ bên ngoại, gọi là bặng lăng. 
2.2. Những biểu hiện của đặc điểm dòng họ 
2.2.1. Nhận biết qua bàn thờ tổ tiên và tục cúng “hang chàn” 
Song song với việc duy trì tục thờ Thổ công, Mẹ Hoa (Mè 
bjóoc),Táo quân, mỗi gia đình người Tày có một bàn thờ tổ tiên, hễ 
người nào tách ra ở riêng thì phải tự lập bàn thờ riêng. Tổ tiên bao 
gồm ông bà cha mẹ và cụ kỵ các đời trong cây gia phả. Bàn thờ chính 
thường do gia đình anh cả trông coi. 
Ở một số dòng họ, cách một khoảng sân trước mặt gian nhà 
chính là một cột nhỏ cao khoảng 80cm - 1,2m, trên là một mặt phẳng 
tiết diện khoảng 20cm x 20cm, làm khung bằng tre, hoặc xây gạch. 
11 
2.2.2. Nhận biết dòng họ qua cư trú 
Sự thống nhất về mặt xã hội của dòng họ người Tày ở huyện 
Bạch Thông được diễn ra trên một địa vực cư trú hẹp, thường sống 
tập trung trong một bản hay địa vực cư trú lân cận. Sau năm 1954, 
ruộng đất của quan phủ cũ được chia cho dân nghèo không có ruộng. 
Chính điều này, dẫn đến sự trộn lẫn mạnh mẽ về nơi cư trú, thành phần 
dân cư thuần nhất 1 dòng họ hầu như không còn thấy ở người Tày. 
2.2.3. Nhận biết dòng họ qua gia phả 
Thường mỗi dòng họ có một cuốn gia phả. Người trưởng họ có 
trọng trách giữ cuốn gia phả đó và bổ sung, chỉnh sửa hàng năm... 
Gia phả là một trong những căn cứ quan trọng để nhận biết nguồn 
gốc và quan hệ dòng họ, giúp các thế hệ sau hiểu rõ nguồn cội và 
quan hệ huyết thống của mình. Qua đó tăng thêm niềm tự hào đối với 
tổ tiên, dòng tộc. 
2.2.4. Nhận biết dòng họ qua một số phong tục, tập quán 
2.2.4.1. Nhận biết qua nghi lễ tang ma 
Tang ma - bước cuối cùng trên chặng đường nhân sinh vốn là 
nơi lưu giữ nhiều nhất và tương đối bền vững nét văn hóa truyền 
thống của mỗi tộc người. Lệ tục, trình thức tang ma tạo ra những nét 
khu biệt giữa tộc người này với tộc người khác, thậm chí có thể được 
xem như dấu hiệu để nhận biết dòng họ trong cùng một dân tộc. 
2.2.4.2. Nhận biết qua qui ước và một số nguyên tắc của dòng họ 
- Quy ước của dòng họ 
Quy ước: là những quy định chung về các vấn đề thuộc tập quán 
của dòng họ như giỗ tổ, hôn nhân, tang ma...với mục đích bắt buộc 
các thành viên trong dòng họ phải thực hiện, quy ước của từng dòng 
họ nằm ngoài quy ước, luật tục của thôn bản. 
12 
- Nguyên tắc đặt tên con cái 
Đối với đại đa số người Tày ở Bạch Thông, tên gọi đầy đủ phải 
có tối thiểu ba thành phần: tên họ, tên đệm và tên riêng. Thường thì nam 
giới của mỗi dòng họ được đặt tên theo một cấu trúc tên họ, tên đệm cố 
định, không có sự khác biệt giữa các thế hệ hay thứ tự khai sinh. 
- Nguyên tắc xưng hô 
Người Tày ở Bạch Thông khi đến tuổi trưởng thành lấy vợ đều 
có ba mối quan hệ dòng họ: Bên nội gồm các thành viên có quan hệ 
họ hàng bên bố, là những người có quan hệ huyết tộc gần gũi dựa 
trên cơ sở cùng chung cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Bên ngoại là những 
người có mối quan hệ họ hàng với mẹ, gồm những thành viên có 
quan hệ huyết tộc, thân thích bên mẹ. Bên vợ gồm những người có 
quan hệ họ hàng, huyết tộc gần gũi với bố vợ (anh, em trai của bố và 
mẹ vợ, anh chị em của vợ). Tuy nhiên trong văn hóa ứng xử, để tránh 
thất lễ hay bị họ hàng chê cười, bất kỳ một cá nhân nào cũng phải 
chú ý đến việc sử dụng đại từ nhân xưng cho đúng 
- Nguyên tắc hôn nhân 
Ngoại hôn dòng họ là một nguyên tắc phổ biến trong đời sống 
hôn nhân ở người Tày Bạch Thông. 
2.3. Truyện kể về dòng họ 
Một số dòng họ người Tày hiện nay vẫn còn lưu giữ những ghi 
chép hoặc câu chuyện truyền miệng kể về nguồn gốc tổ tiên họ. 
2.4. Họ quan và họ dân trong xã hội truyền thống Tày 
Trong xã hội truyền thống của người Tày có tồn tại sự phân chia 
giữa họ quý tộc và họ thường dân - một biểu hiện cụ thể của chế độ 
đẳng cấp sơ khai. Trong tiềm thức của lớp người Tày cao tuổi ở Bạch 
Thông hiện nay thì nơi đây không chia thành họ quý tộc - thường 
13 
dân, mà chính xác phải là họ quan - họ dân. Họ Hoàng ở đây được 
xem là họ quan vì có nhiều người làm quan, các họ khác như Nông, 
Đinh, Triệu được xem là họ dân. 
2. 5. Tổ chức dòng họ 
2.5.1. Trưởng họ 
Trưởng họ (cốc họ) là người đứng đầu, có quyền hạn lớn nhất 
trong một dòng họ và thường là người con trai cả của gia đình dòng 
trưởng, cho nên đôi lúc người ta gọi trưởng họ là anh cả (pì chài cốc). 
Vị trí trưởng họ được duy trì cả đời [cho đến lúc chết] và lựa chọn 
bằng hình thức thế tập, không qua bình bầu và không bị miễn nhiệm. 
2.5.2. Những người có uy tín trong dòng họ 
Trong xã hội truyền thống của người Tày ở Bạch Thông, quyền 
uy của trưởng họ (cốc họ) rất lớn nhưng không phải tuyệt đối. Khi 
họp họ, cốc họ đôi khi chỉ đơn giản là người triệu tập và điều hành, 
còn việc đưa ra quyết định cuối cùng lại thuộc về các bậc cô chú bác 
bề trên. Ngoài ra còn có Tào Pựt Then, Quan Làng, Pả Mè là những 
người có uy tín vai trò lớn trong các dòng họ người Tày. 
2.5.3. Mối quan hệ của trưởng họ với những người uy tín 
trong dòng họ 
Trong xã hội truyền thống, không có quy định rằng phải đến tuổi 
trung niên hoặc đã lập gia đình mới được tham gia họp họ. Quy định 
về thành phần tham gia chỉ đơn giản là đàn ông từ 18 tuổi trở lên 
(đến tuổi trưởng thành) và đã ra ở riêng. 
2.5.4. Nguyên tắc nhận họ và khai trừ họ 
Tục nhận họ của người Tày ở huyện Bạch Thông hiện nay tuy 
không phổ biến, nhưng vẫn diễn ra. Việc nhận họ phải được sự đồng 
ý của gia đình, và của trưởng họ sau khi đã được sự đồng tình thống 
nhất của các chi họ. 
14 
Việc khai trừ thành viên khỏi dòng họ của người Tày ở huyện 
Bạch Thông hiếm khi xảy ra, nếu có chỉ là trường hợp bất đắc dĩ, như 
loạn luân, hoặc trường hợp đã vi phạm nghiêm trọng đến luật tục 
dòng họ... Người bị khai trừ sẽ mất mọi quyền lợi. 
Tiểu kết Chương 2 
Dòng họ của người Tày ở Bạch Thông - Bắc Kạn là tổ chức tự 
quản chặt chẽ với những luật tục, qui định rõ quyền lợi, trách nhiệm 
của các thành viên, giữ vai trò quan trọng là nền tảng cốt lõi trong 
các mối quan hệ, ứng xử xã hội. 
Vai trò của trưởng họ (cốc họ) người Tày ở Bạch Thông rất quan 
trọng là người có uy tín, đạo đức, có kinh nghiệm sản xuất, giỏi tổ 
chức, am hiểu các nghi lễ, nắm chắc phong tục tập quán của dòng họ 
có quan hệ mật thiết với những người có uy tín trong dòng họ, như 
các bậc cao niên và nhất là những người làm công việc tâm linh (thầy 
Tào, Pựt, Mo, Quan làng, Pả mẻ). 
Chương 3 
QUAN HỆ DÒNG HỌ TRONG ĐỜI SỐNG TỘC NGƯỜI 
3.1. Quan hệ trong nội bộ dòng họ 
3.1.1. Quan hệ dòng họ tương trợ trong sản xuất nông nghiệp 
Người Tày ở Bạch Thông cũng có khái niệm ruộng họ (nà họ/ nà 
tì họ/ nà cốc chỏ). Phương thức canh tác và thu hoa lợi không phải 
theo lối luân phiên mà là phân tán cho các hộ gia đình... Người trong 
dòng họ giúp nhau chủ yếu trong làm đất, gieo cấy và thu hoạch. Đây 
là hoạt động mang tính đổi công nhưng hoàn toàn tự nguyện, trên cơ 
sở mối quan hệ anh em, họ hàng truyền thống. 
15 
3.1.2. Quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh doanh, 
dịch vụ buôn bán 
Trong hoạt kinh doanh, buôn bán người Tày thường hợp tác 
chặt chẽ với những người cùng dòng họ. Ở các hợp tác xã sản xuất 
bánh phở phần lớn là những người trong cùng dòng họ. Người Tày ở 
đây quan niệm, người cùng dòng họ dễ nghe theo sự phân công khi đảm 
nhận công việc, hơn thế nữa, nghề truyền thống lại không bị thất truyền. 
Ở người Tày, thường những khi cần vốn người ta tìm đến anh em họ 
hàng để vay. 
3.1.3. Quan hệ dòng họ với người cùng huyết thống ở những 
địa phương khác 
Quan hệ dòng họ của người Tày từ xưa đã không lấn át hoàn 
toàn quan hệ láng giềng [khác họ] trong đời sống của gia đình. Giống 
như người Kinh, người Tày ở Bắc Kạn cũng có quan niệm “bán anh 
em xa mua láng giềng gần”... 
 3.1.4. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong một số phong tục, tập 
quán 
3.1.4.1. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong sinh đẻ 
Khi người phụ nữ sinh con thường được gia đình, dòng họ rất 
quan tâm và chăm sóc cẩn thận. Sự chăm sóc này không chỉ dừng lại 
ở những bữa ăn của sản phụ và đứa bé mà còn được thể hiện qua 
những lễ nghi liên quan đến sinh đẻ, nuôi con như lễ đặt tên, lễ lập 
bàn thờ Mẹ hoa (Mè Bjoóc), lễ khay tuổn, khai bươn. 
3.1.4.2. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong tổ chức đám cưới 
Theo tập quán, sau khi tổ chức ăn hỏi hai gia đình thường thống 
nhất khoảng một năm sau mới tổ chức lễ cưới cho đôi bạn trẻ. Đây 
cũng là thời gian chuẩn bị lễ vật. Sau khi đã ấn định thời gian tổ chức 
đám cưới, gia chủ sẽ có lời mời tới các thành viên trong dòng họ 
16 
3.1.4.3. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong lễ Kỳ yên 
Tục tổ chức sinh nhật hay lễ mừng thọ cho người già của người 
Tày còn được gọi là lễ Kỳ yên, được tổ chức vào những năm tròn 60 
tuổi hoặc những chẵn, năm xung, năm hạn. Ngoài ra, khi người già 
ốm đau thì có thể tổ chức lễ Kỳ yên bất cứ lúc nào, với mong muốn 
người già ốm đau đó tai qua nạn khỏi, phục hồi sức khỏe, sống lâu... 
 3.1.4.4. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong làm nhà mới 
Do điều kiện cư trú ở vùng núi, cây rừng rậm rạp, sự tác động 
của nắng mưa tạo nên độ ẩm cao, nhiệt độ không đều giữa ngày và 
đêm, con người luôn bị đe dọa bởi côn trùng, rắn rết, thú giữ... người 
Tày ở Bạch Thông cũng như ở các tỉnh lân cận có thói quen sống ở 
nhà sàn. 
 3.1.4.5. Quan hệ dòng họ qua tương trợ trong tang ma 
Trong đám tang sự tương trợ của dòng họ đối với gia chủ cũng 
thể hiện khá rõ. Đám tang làm to, ít nhất họ nội phải có một mâm 
viếng gồm 1 con lợn (to nhỏ tùy ý), 1 yến gạo (10kg), 1 can rượu, 1 
con gà, 2 mâm bánh kẹo tự làm (bánh khảo, bánh giậm, bánh dẻo). 
Bên ngoại nếu làm được thì mỗi gia đình cũng có một buổi lễ riêng, 
nhưng đơn giản hơn, gồm: 1 thủ lợn, 1 con gà, một ít hoa quả bánh 
kẹo (lợn cả con thì cũng được, tùy lòng hảo tâm). 
 3.2. Quan hệ dòng họ với dòng họ khác 
Để hiểu về mối quan hệ giữa dòng họ với dòng họ thì trước hết 
phải nói đến mối quan hệ giữa cá nhân với các dòng họ. Thông 
thường, mỗi một người trưởng thành và đã kết hôn đều bị ràng buộc 
bởi cả ba mối quan hệ bên họ nội, họ ngoại và họ thông gia. 
3.3. Mối quan hệ dòng họ với thiết chế bản 
Giống như người Tày ở các địa phương khác trên cả nước, người Tày 
ở Bắc Kạn cũng có thói quen sống tập trung trong các bản gần sông 
17 
suối ở vùng thung lũng. Trong xã hội truyền thống, bản của người 
Tày được cấu thành bởi cả những gia đình lớn và gia đình nhỏ phụ 
quyền. Bản nhỏ thì từ 15 - 30 nóc nhà với 2 - 3 dòng họ cùng sinh 
sống. Bản lớn thì có 30 - 40 nóc nhà với 5 dòng họ trở lên. 
 3.4. Quan hệ dòng họ trong đời sống chính trị xã hội 
Đối với bộ máy chính quyền cơ sở dòng họ của người Tày ở Bạch 
Thông có mối quan hệ mật thiết chặt chẽ, thể hiện qua quan hệ dòng họ 
ở các vị trí nhất định trong hệ thống chính trị cơ sở từ bản tới xã. 
Tiểu kết Chương 3 
Mối quan hệ tương trợ giữa các thành viên trong dòng họ người 
Tày ở tỉnh Bắc Kạn được biểu hiện trong lao động sản xuất, kinh 
doanh buôn bán, tuy nhiên vai trò tương trợ và phát triển kinh thế 
chưa thực sự đậm nét. 
Trong một số phong tục, tập quán, quan hệ dòng họ còn có ảnh 
hưởng nhất định đến bộ máy chính quyền địa phương ở những mức 
độ khác nhau, tác đông không nhỏ tới đoàn kết, trật tự an ninh, dòng 
họ, thôn bản. 
Chương 4 
VAI TRÒ, GIẢI PHÁP BẢO TỒN VÀ 
 PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ CỦA DÒNG HỌ 
TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI TÀY HIỆN NAY 
4.1. Vai trò của dòng họ trong đời sống người Tày ở huyện 
Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn 
4.1.1. Vai trò của dòng họ trong trong đời sống lễ nghi 
 Người Tày nói chung, người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc 
Kạn nói riêng, có rất nhiều nghi lễ, đây là những hình thức sinh hoạt 
văn hoá mang đậm dấu ấn gia đình và dòng họ, nhiều nhất phải kể 
18 
đến việc sinh đẻ, lễ cưới và lễ tang, tảo mộ tổ... Qua những nghi lễ 
này, sự cố kết của dòng họ được khẳng định, những rạn nứt, đố kị, có 
khi cả những hận thù diễn ra trong cuộc sống hàng ngày lắng dịu một 
phần, đôi khi được xoá bỏ, người trong dòng họ gắn bó với nhau hơn. 
4.1.2. Vai trò của dòng họ qua các chương trình phát triển 
kinh tế- xã hội nông thôn miền núi 
Việc xem xét chức năng kinh tế của dòng họ thường không dễ 
dàng như xem xét chức năng kinh tế của gia đình, bởi lẽ dòng họ 
chưa bao giờ mang đầy đủ những đặc điểm của một đơn vị kinh tế 
thực thụ, cả ở lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. 
4.1.3. Vai trò của dòng họ trong đời sống chính trị, xã hội 
Đối với việc thực hiện các điều luật của Nhà nước, dòng họ 
người Tày đã và đang phát huy những mặt tích cực nhất định: Dòng 
họ giữ vai trò quan trọng với chính quyền cơ sở địa phương, qua kết 
quả điền dã cho thấy quan hệ huyết thống, dòng họ, tông tộc là mối 
quan hệ được coi trọng nhất đối với đồng bào Tày tại Bạch Thôn, 
tỉnh Bắc Kạn. 
 4.1.4. Vai trò của dòng họ trong giữ gìn bản sắc văn hoá 
Văn hóa dòng họ, cũng như văn hóa gia đình đều là những bộ 
phận quan trọng của văn hóa tộc người. Ngày nay, những khía cạnh 
vật chất của văn hóa dòng họ (ruộng họ, gia phả, nhà thờ họ, đồ thờ 
cúng...) có thể bị đánh mất hoặc ít được quan tâm bảo lưu, nhưng văn 
hóa tinh thần và ứng xử (nghi lễ, phong tục, tổ chức dòng họ, quan hệ 
tôn ti...) vẫn cơ bản được giữ vững. 
4.2. Một số thách thức đối với phát triển kinh tế - xã hội ở 
dòng họ người Tày huyện Bạch Thông 
4.2.1. Thách thức về phát triển kinh tế - xã hội 
19 
Nhận thức, suy nghĩ, tình cảm của người Tày ở Bạch Thông đều 
chịu tác động từ bên ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau, về vật 
chất, tinh thần, tâm linh... Từ những tác động đó dần hình thành tâm 
lý, dẫn tới nguy cơ phân hoá, cực đoan, cục bộ dân tộc, cục bộ dòng 
họ, cục bộ địa bàn cư trú, đây chính là những mầm mống gây mất 
đoàn kết giữa các dòng họ, các dân tộc trong địa bàn cư trú, ảnh 
hưởng không nhỏ tới an ninh chính trị ở địa phương. 
4.2.2. Thách thức trong hệ thống chính trị ở địa phương 
Qua khảo sát, những cán bộ cơ sở đang trực tiếp sinh sống tại 
nơi mình được sinh ra, lớn lên và trưởng thành, ở đó có sự ràng buộc 
bền chặt về gia đình, dòng họ, mối quan hệ dòng tộc ảnh hưởng trực 
tiếp tới công việc họ đang thực hiện. Từ đó nảy sinh tư tưởng cục bộ, 
phe cánh, nhất là với những dòng họ đang nắm giữ những vị trí quan 
trọng tại địa phương. 
 4.3. Giải pháp bảo tồn và phát huy các giá trị của dòng họ 
người Tày ở huyện Bạch Thông, tỉnh Bắc Kạn 
4.3.1. Quan điểm về bảo tồn và phát huy các giá trị của dòng họ 
 Quan điểm chung là cần nhận thức đúng đắn về giá trị của dòng họ 
như là động lực thúc đẩy sự phát triển, nhất là vận dụng những giá trị tốt 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
tom_tat_luan_an_dong_ho_cua_nguoi_tay_o_huyen_bach_thong_tin.pdf
Tomtat_Eng_TrieuQuynhChau.pdf