HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VANHSENG KEOBOUNPHANH
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG HÒA DÂN CHỦ
NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật
Mã số: 62 38 01 01
HÀ NỘI - 2016
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lê Minh Tâm
Phản biện 1:.........................................................
.............................
27 trang |
Chia sẻ: huong20 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 326 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Tóm tắt Luận án Xây dựng nhà nước pháp quyền cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
............................
Phản biện 2:.........................................................
.........................................................
Phản biện 3:.........................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2016
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và
Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường
(KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), Đảng nhân dân cách mạng
(NDCM) Lào rất chú trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới, làm cho Nhà nước thật sự là
nhà nước của dân, do dân và vì dân, đáp ứng các yêu cầu trong việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền (NNPQ). Xây dựng NNPQ là đòi hỏi cấp thiết khách quan, là
nhiệm vụ chiến lược, chỉ có NNPQ mới có khả năng quản lý mọi mặt đời sống xã
hội một cách hiệu quả, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội đất nước, góp phần
đẩy mạnh hội nhập quốc tế, kế thừa và tiếp thu những thành tựu, tinh hoa của thế
giới. Xây dựng NNPQ sẽ thúc đẩy quá trình dân chủ hóa xã hội, cải cách hành
chính, tăng cường hiệu lực của hệ thống chính trị, nâng cao trình độ, năng lực của
đội ngũ cán bộ công chức nhà nước, tạo khuôn khổ pháp lý cho nền KTTT và đẩy
mạnh xây dựng và hoàn thiện các thể chế của xã hội công dân.
Sau Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ V (1991), Hiến pháp nước Cộng hòa
dân chủ nhân dân (CHDCND) Lào ra đời. Đây là một sự kiện quan trọng trong đời
sống chính trị của nước CHDCND Lào. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có giá trị
pháp lý cao nhất, thể chế hóa đường lối do Đảng NDCM Lào đề ra trong “Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Hiến pháp
1991 là cơ sở pháp lý căn bản để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng
NNPQ và nền pháp chế xã hội chủ nghĩa ở CHDCND Lào.
Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ VIII (2006) đã khẳng định nhiệm vụ của
Nhà nước CHDCND Lào là tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước theo hướng xây dựng NNPQ CHDCND Lào “Phát huy nhà nước
dân chủ nhân dân, từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào dưới sự lãnh đạo của Đảng nhân dân cách mạng Lào”.
Vấn đề xây dựng NNPQ trong điều kiện ở CHDCND Lào hiện nay là hết
sức mới mẻ, còn gặp nhiều khó khăn thử thách, là công việc lâu dài, phức tạp và
hệ trọng, đòi hỏi nhiều giải pháp các yếu tố liên quan đến điều kiện chính trị, kinh
tế - xã hội, truyền thống lịch sự, văn hóa, tâm lý dân tộc, nhu cầu xã hội, quan hệ
quốc tế. Việc xác định các giải pháp xây dựng NNPQ phải gắn được lý luận với
thực tiễn, các giải pháp được nêu ra cần phải phù hợp với điều kiện cụ thể trong
nước của CHDCND Lào và xu hướng phát triển của khu vực và thế giới hiện nay.
2
Như vậy, việc xây dựng và từng bước hoàn thiện NNPQ CHDCND Lào đã
trở thành một trong những nhiệm vụ cấp thiết của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước Lào nói chung và đổi mới hệ thống chính trị nói riêng. Việc xây dựng NNPQ
CHDCND Lào đòi hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện, có hệ thống những vấn đề
lý luận và thực tiễn để xây dựng cơ sở khoa học cho việc thực hiện thắng lợi
những nhiệm vụ, giải pháp, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của đất nước
Lào. Trong thời gian vừa qua, ở CHDCND Lào đã có một số công trình, đề tài
nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, tuy nhiên qua nghiên cứu và tổng hợp các
công trình nghiên cứu khoa học, tạp chí đã được công bố trong nước có thể khẳng
định, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và
có hệ thống về xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân ở cấp
độ một luận án tiến sĩ luật học. Để góp phần vào việc giải quyết nhiệm vụ quan
trọng này, nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân” làm đề tài luận án tiến sĩ
luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích những giá trị có tính phổ biến
và những yếu tố hợp lý của NNPQ có thể vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ
CHDCND Lào; xây dựng luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng NNPQ
CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
Nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu của luận án gồm:
- Phân tích những vấn đề lý luận cơ bản về NNPQ và thực tiễn xây dựng
NNPQ ở một số nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam để xác định những
giá trị có tính phổ biến, những yếu tố hợp lý và những kinh nghiệm có thể tiếp
thu và vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân
và vì dân.
- Làm rõ một số tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Kay-són PHÔM-VI-
HÁN và của Đảng NDCM Lào về xây dựng NNPQ; phân tích đặc điểm, điều kiện
và các yếu tố đặc thù có tác động và ảnh hưởng đến quá trình xây dựng NNPQ
CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân, trên cơ sở đó xác định bản chất, đặc
điểm, chức năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
- Phân tích khái quát quá trình hình thành, phát triển của Nhà nước
CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì
dân, khẳng định những kết quả, thành tựu đã đạt được, chỉ ra những hạn chế, khó
3
khăn và những yêu cầu đặt ra trong quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của
dân, do dân và vì dân.
- Đề xuất các quan điểm và giải pháp chủ yếu xây dựng NNPQ CHDCND
Lào của dân, do dân và vì dân trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: là những vấn đề lý luận về Nhà nước
pháp quyền, những giá trị có tính phổ biến của Nhà nước pháp quyền, kinh
nghiệm và bài học về xây dựng Nhà nước pháp quyền của một số nước nhất là của
Việt Nam có thể vận dụng cho Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; những tư tưởng
của Hồ Chí Minh, của Kay-són PHÔM-VI-HÁN; các chủ trương, quan điểm của
Đảng NDCM Lào, chính sách, pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào về xây
dựng NNPQ; các kết quả nghiên cứu khoa học, tổng kết, đánh giá thực tiễn xây
dựng Nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào đã được công bố trong những năm
gần đây.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong khuôn khổ của một luận án tiến sĩ
luật học thuộc chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, phạm vi
nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau:
Về cơ sở lý luận, luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận cơ bản
về Nhà nước pháp quyền, nghiên cứu một cách khái quát lịch sử hình thành và
phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền, chú
trọng phân tích tư tưởng Hồ Chí Minh và Kay-són PHÔM-VI-HÁN về Nhà nước
pháp quyền; tập trung phân tích và làm rõ bản chất, đặc trưng, chức năng, nhiệm
vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân; điều kiện, hoàn cảnh, các
yếu tố tác động đến quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và
vì dân.
Về thực tiễn, luận án nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của Nhà
nước CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do
dân, vì dân; nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tập trung phân tích những vấn đề còn
tồn tại, bất cập để tìm ra những nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các quan điểm
và giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và
vì dân hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và Kay-són PHÔM-VI-HÁN, quan điểm của Đảng NDCM Lào về
Nhà nước và pháp luật nói chung và về NNPQ CHDCND Lào nói riêng.
4
- Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng
trong luận án bao gồm: Phương pháp logich - lịch sử; phương pháp phân tích, tổng
hợp và so sánh; phương pháp phân tích tài liệu, phân tích thực tiễn và xã hội học;
phương pháp tiếp cận hệ thống, kết hợp lý luận và thực tiễn. Đồng thời, trong quá
trình nghiên cứu tác giả luận án cũng chú trọng sử dụng kết hợp một cách linh
hoạt các phương pháp của luật học với triết học và chính trị học.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Luận án nghiên cứu xác định những giá trị lý luận có tính phổ biến về
NNPQ có thể tiếp thu và vận dụng vào quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào
của dân, do dân và vì dân.
- Luận án góp phần làm rõ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng
NDCM Lào và Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào về xây dựng NNPQ
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân
- Phân tích, đánh giá một cách tương đối có hệ thống toàn diện thực trạng và
những ưu điểm và hạn chế tồn tại trong việc xây dựng NNPQ CHDCND Lào của
dân, do dân và vì dân.
- Luận án đề xuất một số quan điểm và các giải pháp chủ yếu xây dựng
NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Với kết quả của luận án đạt được, tác giả hy vọng sẽ góp phần làm sáng tỏ
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lào của dân, do dân và vì dân.
Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng
dạy về vấn đề liên quan đến việc xây dựng NNPQ ở CHDCND Lào.
7. Kết luận của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình nghiên cứu của tác giả
đã công bố liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 13 tiết.
5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
Nhà nước pháp quyền là một khái niệm có tính lịch sử, một giá trị có tính
phổ biến và là một mô hình tổ chức nhà nước được nghiên cứu và vận dụng rộng
rãi trong nhiều quốc gia. Vì vậy, Nhà nước pháp quyền cũng là đối tượng nghiên
cứu của nhiều bộ môn khoa học và có rất nhiều công trình khoa học đã được công
bố dưới nhiều dạng khác nhau. Đề tài luận án được thực hiện theo mã số chuyên
ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật, vì vậy luận án chú trọng chọn lựa
một số công trình tiêu biểu, có liên quan đến đề tài và mã số để tham khảo, trong
đó có những công trình của các nhà tư tưởng, các tác giả nước ngoài (bao gồm các
tác giả của các nước và các tác giả Việt Nam) và các công trình được công bố ở
nước Cộng hòa DCND Lào.
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả các nước về Nhà nước
pháp quyền
Có rất nhiều các công trình nghiên cứu của các nước đã được công bố có
liên quan đến Nhà nước pháp quyền từ các góc độ: triết học, chính trị học, xã hội
học, luật học, sử học, văn hóa học... Trong khuôn khổ đề tài này, Luận án chỉ lựa
chọn một số công trình có tính chất tiêu biểu, phù hợp với mã số chuyên ngành để
tham khảo cho việc viết Luận án, trong đó có các công trình như: “Góp phần phê
phán triết học pháp quyền” của C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 1, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội-1995; “The rule of law” as a concept in Constitutional discourse (Các
quy định của pháp quyền là một khái niệm trong ngôn ngữ Hiến pháp) của Dr.
Prof. Richard H. Fallon (1997); “Nhà nước pháp quyền” (gồm một số tiểu luận
của các học giả nước ngoài), do Josef Thesing biên tập, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội-2002; “Bàn về tinh thần pháp luật” của Montesquieu do Hoàng Thanh
Đạm dịch, Nxb Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội-2004; “Bàn về khế ước xã
hội” của J.J.Rousseau, do Hoàng Thanh Đạm dịch, Nxb Học viện Chính trị quốc
gia, Hà Nội-2006; “Chế độ dân chủ nhà nước và xã hội” của N.M Voskresenskaia
và N.B Davletshina, do Phạm Nguyễn Tường dịch, Nxb Tri thức, Hà Nội-2008....
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam về Nhà nước
pháp quyền
Luận án đặc biệt chú trọng tham khảo các công trình, đề tài nghiên cứu, sách
báo khoa học của các tác giả Việt Nam đã được công bố trong những năm vừa
qua, trong đó có các công trình tiêu biểu như:
6
- Về sách, luận án đã tham khảo nhiều sách chuyên khảo, tham khảo về Nhà
nước pháp quyền đã được công bố ở Việt Nam, trong đó có một số sách tiêu biểu
như: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân -
Lý luận và thực tiễn”, do GS.VS. Nguyễn Duy Quý và PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn
(Đồng chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2008; “Mô hình tổ chức và hoạt
động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, do GS.TSKH. Đạo
Trí Úc (Chủ biên), Nxb Tư pháp, Hà Nội-2007; “Xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, do GS.TSKH. Đào Trí Úc (Chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội-2005; “Mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của Quốc
hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”, do
GS.TS. Trần Ngọc Đường (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2008;
“Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, do GS.TSKH. Đào Trí Úc và PGS.TS.
Phạm Hữu Nghị (Đồng chủ biên), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội-2009;“Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Lý luận và thực tiễn”, do
PGS.TS. Nguyễn Văn Mạnh (Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2010;
Một số vấn đề về: Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, do GS.TS.Trần Ngọc Đường
(Chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội-2011; “Xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, của GS.TS. Lê
Minh Tâm (Chủ biên), Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội-2003; “Xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa”, của PGS.TS. Nguyễn Minh Đoan (Chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia - Sự thật, Hà Nội-2011; “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các
tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam”, do GS.TS. Lê Hữu
Nghĩa, GS.TS. Hoàng Chí Bảo và Bùi Đình Bôn (Đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội-2008...
- Về các bài báo khoa học và các luận án, luận văn: Luận án đã tham khảo
nhiều bài báo khoa học về Nhà nước pháp quyền đã được công bố trong các tạp
chí khoa học có uy tín ở Việt Nam, trong đó có các công trình như: Hoàn thiện cơ
chế pháp lý bảo đảm chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học của NCS.Trương Thị Hồng Hà, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội-2007; Trách nhiệm pháp lý của
công chức trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ Luật học của NCS. Ngô Hải Phan, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, Hà Nội-2004; Những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện các quyền cơ
bản của công dân trong lĩnh vực tự do cá nhân, Luận án tiến sĩ Luật học của
NCS.Trần Thanh Hương, Viện khoa học xã hội, Hà Nội-2006....
7
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO
Trong những năm gần đây ở CHDCND Lào, việc nghiên cứu cơ sở lý luận
về xây dựng NNPQ hoặc có liên quan đến NNPQ cũng đã được quan tâm và cũng
đã có những công trình nghiên cứu có giá trị có liên quan đến NNPQ của các tác
giả Lào đã được công bố; một số đề tài luận án, luận văn đã bảo vệ thành công,
trong đó có một số công trình, đề tài, luận án, luận văn, bài báo khoa học đã được
tham khảo cho quá trình viết luận án như sau:
- Một số đề tài nghiên cứu khoa học: “Chiến lược phát triển Nhà nước pháp
quyền của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến năm 2020”, Đề tài khoa nghiên
cứu khoa học cấp bộ, Bộ Tư pháp Lào (2009); Đề tài hợp tác nghiên cứu Việt
Nam - Lào (2014): “Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong điều kiện phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”.
- Một số luận án, luận văn: “Đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, Luận án tiến sĩ Luật học
của NCS. Pa-tha-na SÚC- A-LUN, Trường Đại học Luật Hà Nội-2007; Cải cách
bộ máy hành chính nhà nước cấp huyện ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào,
Luận án tiến sĩ Luật học của NCS. Phô- xay XAY-NHA-SÓN, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội-2011 “Cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới tổ chức
bộ máy chính quyền cấp tỉnh ở nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào hiện nay,
Luận án tiến sĩ Luật học của NCS. Khăm-khoong PHÔM-MA-PĂN-NHA, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội-2012; Một số giải pháp xậy dựng
Nhà nước pháp quyền ở CHDCND Lào hiện nay, Luận văn Thạc sĩ chính trị học
của Séng VI-LAY, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội-2005....
- Ngoài ra, luận án cũng đã tham khảo một số bài báo khoa học có liên quan
đến NNPQ do các tác gỉa Lào công bố trên các tạp chí khoa học ở Lào và Việt
Nam như: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền”, của TS. Un-kẹo BÚT-THỊ-
LÁT,Tạp chí Đại biểu Nhân dân của Quốc hội Lào, 2011; “Xây dựng Nhà nước
pháp quyền ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào”, của Sính-tăn XAY-LƯ-XÔNG,
Tạp chí Đại biểu Nhân dân của Quốc hội Lào, 2010...
Những phân tích về tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước về NNPQ nói
chung và NNPQ Cộng hòa DCND Lào nói riêng trong luận án cho thấy, có thể
nghiên cứu, tham khảo, chọn lọc và tiếp thu một số kiến thức, quan điểm học thuật
và kinh nghiệm cho việc vận dụng vào điều kiện của Cộng hòa DCND Lào, đồng
thời cũng đặt ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu đó là:
- Về cơ sở lý luận, luận án kế thừa những kết quả nghiên cứu lý luận cơ bản
về Nhà nước pháp quyền, nghiên cứu một cách khái quát lịch sử hình thành và
8
phát triển tư tưởng Nhà nước pháp quyền và khái niệm Nhà nước pháp quyền, chú
trọng phân tích tư tưởng của Kay-són PHÔM-VI-HÁN và quan điểm của Đảng
NDCM Lào về Nhà nước pháp quyền; tập trung phân tích và làm rõ bản chất, đặc
trưng, chức năng, nhiệm vụ của NNPQ CHDCND Lào của dân, do dân, vì dân;
điều kiện, hoàn cảnh, các yếu tố tác động đến quá trình xây dựng NNPQ
CHDCND Lào của dân, do dân và vì dân.
- Về thực tiễn, luận án nghiên cứu về quá trình hình thành, phát triển của
Nhà nước CHDCND Lào và quá trình xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân,
do dân, vì dân; nghiên cứu, đánh giá thực trạng, tập trung phân tích những vấn đề
còn tồn tại, bất cập để tìm ra những nguyên nhân, trên cơ sở đó đề xuất các quan
điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện xây dựng NNPQ CHDCND Lào của dân, do
dân và vì dân hiện nay.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỘNG
HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN LÀO CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
2.1. KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
HỌC THUYẾT NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN
2.1.1. Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền (NNPQ) được hình thành rất sớm, trải
qua nhiều giai đoạn phát triển, những tư tưởng này được bổ sung, phát triển và trở
thành học thuyết khoa học về NNPQ có giá trị phổ biến của nhân loại và được vận
dụng vào quá trình xây dựng NNPQ ở nhiều nước với những cách thức khác nhau.
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền CHDCND Lào, việc nghiên cứu
về lịch sử tư tưởng NNPQ và thực tiễn xây dựng NNPQ của các nước, trong đó có
Việt Nam có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở cho việc làm rõ những khía cạnh lý
luận, tiếp thu có chọn lọc những giá trị có tính phổ biến của nhân loại và những
kinh nghiệm của các nước để vận dụng sáng tạo phù hợp với điều kiện của
CHDCND Lào.
2.1.1.1. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại ở phương Tây
Những tư tưởng tiến bộ về NNPQ thời cổ đại ở phương Tây thể hiện rõ nét
ở các nhà tư tưởng tiêu biểu của thời kỳ này như: Xôlông (638-559 tr.CN), Xôcrát
(469-399 tr.CN), Platôn (427-374 tr.CN), Xixêrôn (106-43 TCN), Arixtốt (384-
322 tr.CN). Luận án đã chọn, phân tích những quan điểm, tư tưởng điển hình và
rút ra nhận xét: Những ý tưởng, quan niệm của các nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại tuy
9
được nêu ở những góc độ khác nhau, nhưng tựu chung đều cổ vũ cho việc đề cao
pháp luật và xây dựng nhà nước hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật công
bằng. Những ý tưởng đó có ảnh hưởng rất lớn tới việc hình thành và phát triển các
lý thuyết về tính tối cao của pháp luật, về phân chia quyền lực nhà nước và về
NNPQ nói chung.
2.1.1.2. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời kỳ cách mạng tư sản ở
phương Tây
Trong thời kỳ này, tư tưởng về Nhà nước pháp quyền được phát triển khá
phong phú, toàn diện, hình thành hệ thống quan điểm trong các học thuyết chính
trị - pháp lý. Luận án đã chọn, phân tích những công trình, quan điểm tiêu biểu của
các nhà tư tưởng nổi tiếng như: J.Lốccơ (1632-1704) với nguyên tắc: Cá nhân
công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm còn các cơ quan, công
chức nhà nước chỉ được làm những điều mà pháp luật cho phép; S.L.Môngtexkiơ
(1698-1755) với tác phẩm nổi tiếng “Tinh thần pháp luật” và học thuyết phân
chia và kiềm chế quyền lực; J.J.Rútxô (1712-1788) với tác phẩm “Khế ước xã
hội” và học thuyết khế ước xã hội; I. Cantơ (1724-1804) với triết lý về pháp luật,
đạo đức, tự do và nhà nước;... Luận án cũng đã đề cập đến trào lưu mới xuất hiện
đầu thế kỷ XIX, Trào lưu nghiên cứu ứng dụng học thuyết NNPQ vào việc xác lập
các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, xây dựng, thực thi
pháp luật và xã hội công dân; R.Ph.Môn (Robert Fon Mohn) và K.T.Vancơ (Karl
Teodor Valker) là người đầu tiên đã sử dụng thuật ngữ NNPQ (tiếng Đức là
Rechtsstaat). Môn và Vanđơ coi tính tối cao của luật là nguyên tắc hàng đầu của
một NNPQ và tiếp sau đó là sự bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Tính
tối cao của luật thể hiện chủ quyền nhân dân dưới hình thức nghị viện....
2.1.1.3. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền thời cổ đại ở phương Đông
Ở phương Đông, mặc dù không có một học thuyết hoàn chỉnh như học
thuyết NNPQ ở phương Tây, nhưng tư tưởng pháp trị cũng được hình thành khá
sớm và có những quan điểm, nguyên tắc rất gần với tư tưởng NNPQ, nhất là ở
Trung Quốc. Luận án đã chọn và nêu quan điểm của một số nhà tư tưởng như:
Quản Trọng (683-640 tr.CN) với tư tưởng “Pháp bất vị thân”, vua, tôi, sang, hèn
đều phải tuân thủ pháp luật; Thương Ưởng (~347 tr.CN) chủ trương “biến pháp
canh tân”, nước phải có ba yếu tố là: Pháp luật, Quyền lực và Lòng tin của dân;
Hàn Phi (280-230 tr.CN) với hệ thống quan điểm về pháp trị và nguyên tắc “thời
biến thì pháp phải biến”...
2.1.2. Khái niệm và những đặc điểm cơ bản của Nhà nước pháp quyền
Có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm NNPQ. Có thể nêu một số
quan điểm có tính phổ biến sau: Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Nhà nước pháp
10
quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và quản lý bản thân mình cũng
bằng pháp luật, bộ máy nhà nước phải tự đặt mình dưới pháp luật”. Quan điểm
thứ hai cho rằng: NNPQ không phải là một kiểu nhà nước mà là mô hình nhà
nước. “Khái niệm Nhà nước pháp quyền được hiểu trên cả hai bình diện: Thứ
nhất, khái niệm Nhà nước pháp quyền phản ánh những đặc điểm chung của một
nhà nước, với tư cách là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một thành
tố đặc biệt của hệ thống chính trị. Thứ hai, khái niệm Nhà nước pháp quyền phản
ánh những đặc điểm riêng của một nhà nước đặt trong mối quan hệ khách quan
giữa Nhà nước-Pháp luật - Xã hội công dân”. Quan điểm thư ba, Tại Hội nghị
quốc tế họp tại Ber-lin (09/1991) với sự tham gia của 40 quốc gia đã đưa ra một
khái niệm chung về NNPQ như sau: “Nhà nước pháp quyền là một chế độ chính
trị mà ở đó Nhà nước và cá nhân phải tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ của tất cả,
của mỗi người được pháp luật ghi nhận và bảo vệ, các quy trình, các quy phạm
pháp luật được bảo đảm thực hiện bằng một hệ thống tòa án độc lập. Nhà nước
pháp quyền có nghĩa vụ tôn trọng giá trị cao nhất của con người và bảo đảm cho
công dân có khả năng, điều kiện chống lại sự tùy tiện của pháp luật cũng như các
hoạt động của bộ máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền phải đảm bảo cho công
dân không bị đòi hỏi bởi những cái ngoài Hiến pháp và pháp luật quy định. Trong
hệ thống pháp luật thì Hiến pháp giữ vị trí tối cao và nó phải được xây dựng trên
cơ sở bảo đảm quyền tự do và quyền công dân”.
Ở Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, trong những năm gần đây vấn đề khái
niệm NNPQ cũng được bàn luận với những quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ
nhất: “Nhà nước pháp quyền là nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; mỗi công
dân phải sinh hoạt và hoạt động theo pháp luật; có nghĩa là lấy pháp luật làm công
cụ bảo đảm quyền và lợi ích của mình và ngăn chặn sự lạm quyền của nhà nước,
làm cho nhà nước làm theo pháp luật quy định, còn công dân làm được tất cả
những gì pháp luật không cấm. Vì vây, trong Nhà nước pháp quyền công dân thực
hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, trong Nhà nước pháp quyền nhân dân là
quyền lực tối cao”; Quan điểm thứ hai: “Nhà nước pháp quyền là Nhà nước hoạt
động và quản lý bằng pháp luật, coi pháp luật là một công cụ quản lý mọi hoạt
động của cơ quan nhà nước và công dân. Nhà nước pháp quyền là nhà nước tự đặt
mình dưới pháp luật. Trong đó, cá nhân và cơ quan nhà nước kể cả cán bộ công
chức, quân đội, công an, nhân dân và tất cả tầng lớp nhân dân trong xã hội phải
hoạt động theo pháp luật quy định”.
Từ sự phân tích, so sánh các quan điểm khác nhau cho thấy, Nhà nước pháp
quyền là khái niệm có tính lịch sử. Có thể nêu quan niệm khái quát về NNPQ như
11
sau: “Nhà nước pháp quyền là một mô hình tổ chức nhà nước, trong đó hiến pháp
và luật có vị trí tối thượng, quyền lực nhà nước được tuyên bố thuộc về nhân dân;
dân chủ, quyền con người, quyền công dân được ghi nhận và bảo đảm bằng pháp
luật; bộ máy nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực và có
mối quan hệ mật thiết với xã hội công dân”.
Nhà nước pháp quyền nói chung có những đặc trưng cơ bản là: Thứ nhất,
trong Nhà nước pháp quyền, hiến pháp và luật có vị trí tối thượng; Thứ hai, trong
Nhà nước pháp quyền, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước; Thứ ba, trong
Nhà nước pháp quyền, các quyền con người và quyền công dân được ghi nhận và
bảo đảm bằng pháp luật; Thứ tư, trong Nhà nước pháp quyền, dân chủ được ghi
nhận và bảo đảm bằng pháp luật; Thứ năm, bộ máy Nhà nước pháp quyền được tổ
chức theo nguyên tắc phân chia quyền lực, dùng quyền lực để kiểm tra, giám sát
quyền lực; Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền có mối quan hệ mật thiết với xã hội
công dân.
2.2. QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ
MINH VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật
xã hội chủ nghĩa
Theo lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen các quan điểm về nhà nước và pháp
luật so với các lĩnh vực khác tuy không nhiều nhưng hết sức khái quát, cô đọng đã
trở thành những quan điểm có tính kinh điển trong nghiên cứu về nhà nước và
pháp luật cũng như xây dựng nhà nước và pháp luật kiểu mới.
Học thuyết của V.I.Lênin về pháp chế XHCN hàm chứa những tư tưởng,
quan điểm rất gần gũi với học thuyết NNPQ. Theo V.I.Lênin, pháp chế có những
yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, tôn trọng tính tối cao của Hiến pháp và Luật, mọi quy định của
pháp luật phải phù hợp với Hiến pháp và các đạo luật nhằm bảo đảm cho một hệ
thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong đời sống xã hội, bảo đảm hiệu quả thực tế của quản lý nhà nước bằng
pháp luật.
Thứ hai, bảo đảm tính thống nhất của pháp chế trên quy mô toàn quốc về
mặt nhận thức pháp luật và thực hiện pháp luật, loại trừ hiện tượng cục bộ, vô
chính phủ, đặc quyền và đặc lợi; đảm bảo trật tự, kỷ cương trong bộ máy nhà nước
từ trên xuống dưới và sự chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh của mọi công dân,
không có ngoại lệ.
12
Thứ ba, xã hội phải đạt đến một trình độ nhất định về văn hóa pháp lý và ý
thức pháp luật bảo đảm khả năng thực tế cho sự xác lập nguyên tắc pháp chế và
đưa vào áp dụng trong đời sống xã hội.
Thứ tư, xử lý kịp thời và nghiêm minh các vi phạm pháp luật.
Như vậy, trong tư tưởng pháp chế của V.I.Lênin đã có nhiều yếu tố thể hiện
trong những đặc trưng của NNPQ.
2.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân là một hệ thống các quan điểm lý luận về bản chất, chức năng, cơ chế hoạt
động, tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước; trong đó,
quan niệm về NNPQ là một tư tưởng nhất quán, thể hiện tầm nhìn vượt thời đại và
có giá trị lâu bền. Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Pháp luật của ta là pháp luật
thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”.
Tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh là tư tưởng pháp quyền nhân nghĩa, có nội
hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ sâu sắc.
Theo Hồ Chí Minh, pháp luật là công cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con
người; trong NNPQ của dân, do dân, vì dân “Tất cả quyền bính trong nước là của
toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai
cấp, tôn giáo”. Nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực của dân, mưu cầu hạnh
phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích cho dân, thỏa mãn những nhu cầu hợp lý
của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Đó là một Nhà nước dân chủ và tiến bộ.
Những lợi ích và nhu cầu đó lại phải được thực hiện một cách công bằng, dân chủ,
văn minh, chính đáng, bảo đảm sự kết hợp hài hòa giữa phát triển các cá nhân với
mục tiêu phát triển xã hội. Đồng thời, lại phải chăm lo giải quyết những vấn đề
bức xúc hàng ngày của dân tộc, của đất nước.
“Chính phủ là công bộc của dân”; “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có
quyền đuổi chính phủ”. Bên cạnh việc khẳng định vai trò của pháp luật trong đời
sống xã hội, Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng vấn đề quan trọng hơn cả là “l
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_xay_dung_nha_nuoc_phap_quyen_cong_hoa_dan_ch.pdf