BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
PHẠM THỊ HỮU KIỀU 
ỨNG DỤNG PHƯƠNG PHÁP PCR (POLYMERASE 
CHAIN REACTION) VÀ PHƯƠNG PHÁP NUÔI CẤY ĐỂ 
KHẢO SÁT SỰ NHIỄM VI SINH VẬT GÂY BỆNH 
TRONG THỰC PHẨM ĐƯỜNG PHỐ 
 Chuyên ngành : Vi sinh vật học 
 Mã số : 60 42 40 
LUẬN VĂN THẠC SĨ SINH HỌC 
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: 
 PGS.TS. TRẦN LINH THƯỚC 
Thành Phố Hồ Chí Minh - 2007
LỜI CẢM ƠN 
Với lòng kính trọng và chân thành, em xin cảm ơn: 
 Quý Thầy, Cô Khoa Sinh
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
84 trang | 
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2901 | Lượt tải: 1
              
            Tóm tắt tài liệu Ứng dụng phương pháp PCR (Polymerase chain reaction) và phương pháp nuôi cấy để khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Trường Đại Học Sư Phạm TP. HCM đã cung 
cấp cho em những kiến thức quý báu trong cả khóa học, dặc biệt là TS. Trần 
Thanh Thủy và TS. Trần Thị Thanh đã tận tình giúp đỡ, chỉ dẫn, động viên em 
trong suốt quá trình học tập. 
Em xin chân thành cảm ơn Thầy PGS.TS. Trần Linh Thước đã luôn tận 
tâm hướng dẫn và tạo mọi điều kiện để em hoàn thành tốt luận văn này. 
Xin cảm ơn các bạn Nhân, Linh, Vân, Dung, Na, Ánh và tất cả các thành 
viên của Lab A, đặc biệt là Ths. Nguyễn Thị Bạch Huệ, đang công tác tại Phòng 
Thí Nghiệm Công Nghệ Sinh học Phân tử, Trung tâm Khoa học và Công nghệ 
Sinh họcTrường ĐHKHTN, ĐHQG TP. HCM, đã hết lòng giúp đỡ tôi trong 
suốt thời gian thực nghiệm. 
 Xin cảm ơn các bạn lớp cao học K.15 - VSV và các thành viên Cao học 
khóa 15 đã cùng gắn bó với tôi. 
 Cảm ơn Anh! Người đã luôn sát cánh và ở cạnh tôi. 
 Lời cảm ơn cuối cùng, con xin gởi đến tất cả “Ba Mẹ” và đại gia đình thân 
yêu của con đã luôn yêu thương, đùm bọc con, là điểm tựa vững chắc và niềm 
tin của con trong suốt cuộc đời. 
TP. HCM, nam 2007 
Phạm Thị Hữu Kiều 
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 
AC : Relative Accuracy (Độ chính xác tương đối) 
AOAC : Association of Official Analytical Chemists 
ATP : Adenosine triphosphat 
bp : base pair (cặp base) 
BPW : Buffer Pepton Water (đệm pepton) 
cAMP : cyclic Adenosine Monophosphate 
cGMP : cyclic Guanosine Monophosphate 
DNA : Deoxyribose nucleic acid 
dNTP : deoxynucleotide triphosphate 
EDTA : Ethylene Diamine Tetra Acetic acid 
ELISA : Enzyme - Linked Immuno Sorbent Assay 
 (Phương pháp hấp thụ miễn dịch gắn enzyme) 
FN : False Negative (âm tính giả) 
NC : nuôi cấy 
FP : False Positive (dương tính giả) 
HUS : Haemolytic-Uraemic Syndrome (hội chứng tan huyết) 
LDC : Lysine Decarboxylase 
MMC : Microbiological Methods Committee 
MR : Methyl Red 
MYP : Mannitol - Egg York - Polymycin 
NordVal : Nordic System for Validation of Alternative 
PCR : Polymerase Chain Reaction 
SE : Relative Sensitivity (Độ nhạy tương đối) 
SP : Relative Specificity (Độ đặc hiệu tương đối) 
TAE : Tris-Acetate-EDTA 
TE : Tris-Acetate-EDTA 
TSB : Tryptone Soya Broth 
TSI : Triple Sugar Iron Agar 
VP : Voges - Proskauer 
WHO : World Health Organization 
XLD : Xylose Lysine Desoxycholate 
ISO : International Standards Organization 
EDTA : Ethylene Diamine Tetraacetic Acid 
DANH MUÏC CAÙC BAÛNG 
Bảng 1.1. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn ...........8 
Bảng 1.2. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và năm 2006 
........................................................................................................9 
Bảng 1.3. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và 
năm 2006 .....................................................................................10 
Bảng 1.4. Thống kê tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ 
năm 2001 đến 2006.......................................................................11 
Bảng 1.5. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với các loại nước giải khát ..............14 
Bảng 1.6. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm thực phẩm chế biến từ sữa
......................................................................................................14 
Bảng 1.7. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm sữa chua..........................15 
Bảng 1.8. Tiêu của Bộ Y tế đối với nhóm kem, nước đá.............................15 
Bảng 1.9. Bảng phân loại độc tố của C. perfringens ....................................22 
Bảng 2.1. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với nhóm sữa.............44 
Bảng 2.2. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với các loại 
nước giải khát ..............................................................................44 
Bảng 2.3. Chỉ tiêu phân tích vi sinh của Bộ Y tế đối với nhóm kem ...........44 
Bảng 2.4. Kích thước vạch khuếch đại của các vi khuẩn nghiên cứu ..........49 
Bảng 2.5. Trình tự các mồi được sử dụng trong phản ứng PCR...................50 
Bảng 3.1. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm sữa tại TP. 
HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ..................................63 
Bảng 3.2. Thống kê kết quả kiểm tra trên mẫu sữa tại TP. HCM bằng phương 
pháp PCR và nuôi cấy ................................................................66 
Bảng 3.3. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nước giải khát tại 
TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ...........................68 
Bảng 3.4. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm nước giải khát tại 
 TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy ...........................70 
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem 
tại TP. HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy .....................72 
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm kem tại TP. HCM 
theo phương pháp PCR và nuôi cấy ............................................73 
Bảng 3.7. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp 
nuôi cấy đối với chỉ tiêu Salmonella, E. coli và S. aureus ...........77 
Bảng 3.8. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương 
pháp nuôi cấy đối với chỉ tiêu B. cereus và C. perfringens77 
DANH MUÏC CAÙC HÌNH 
 Trang 
Hình 2.1. Thang DNA 100bp ...........................................................37 
Hình 2.2. Các bước của phản ứng PCR ..................................................... 38 
Hình 2.3. Số bản sao DNA tăng theo từng chu kỳ trong phản ứng PCR .. .39 
Hình 2.4. Đưa mẫu vào máy PCR ............................................................. 48 
Hình 3.1. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định Salmonella ............................ 58 
Hình 3.2. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định E. coli.................................... 58 
Hình 3.3. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định S. aureus ............................... 59 
Hình 3.4. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định B. cereus ............................... 59 
Hình 3.5. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định C. perfringens ....................... 59 
Hình 3.6. Kết quả phát hiện E. coli, Salmonella, B. cereus, S. aureus 
và C. perfringens bằng kỹ thuật PCR......................................... 59 
Hình 3.7. Khuẩn lạc B. cereus ................................................................... 60 
Hình 3.8. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định B. cereus ............................... 60 
Hình 3.9. Thử nghiệm sinh hóa khẳng định C. perfringens ...................... 60 
Hình 3.10. Khuẩn lạc C. perfringens ........................................................... 61 
Hình 3.11. Kết quả phát hiện E. coli, Salmonella, B. cereus, S. aureus và C. 
perfringens bằng kỹ thuật PCR .................................................. 62 
DANH MUÏC CAÙC BIEÅU ÑOÀ 
 Trang 
Biểu đồ 3.1. Tình hình nhiễm vi sinh vật trong mẫu sữa trên địa bàn 
 TP. HCM ..................................................................................63 
Biểu đồ 3.2. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nước giải khát tại địa bàn 
TP. HCM .................................................................................66 
Biểu đồ 3.3. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại địa bàn TP. HCM 
...................................................................................................68 
 MỞ ĐẦU 
1. Lý do chọn đề tài 
Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới (WHO, 2001), hàng năm có tới 30% 
dân số ở các nước phát triển bị bệnh do thực phẩm, chủ yếu là ngộ độc thực phẩm 
(NĐTP), ở các nước đang phát triển các trường hợp ngộ độc thực phẩm lại cao hơn 
nhiều [25]. 
Ngộ độc thực phẩm trong những năm gần đây được ghi nhận khá thường 
xuyên và đã trở thành mối quan tâm của toàn xã hội. Ở các nước phát triển, tình hình 
ngộ độc thực phẩm luôn là vấn đề được quan tâm vì những tổn thất lớn về kinh tế và 
con người do ngộ độc thực phẩm gây ra. Tại Mỹ, theo thống kê của trung tâm Kiểm 
soát và Phòng chống bệnh (CDC), hàng năm có khoảng 76 triệu ca ngộ độc thực 
phẩm và 5.000 trường hợp tử vong. Thiệt hại do các trường hợp ngộ độc thực phẩm 
ước tính khoảng từ 5 đến 17 tỉ USD [34]. Cũng như nhiều quốc gia khác, tại Việt 
Nam vấn đề ngộ độc thực phẩm ngày càng gia tăng, đặc biệt trong hai năm gần đây 
hiện tượng này càng phổ biến hơn. Mỗi năm, nước ta có 250 - 500 vụ ngộ độc thực 
phẩm với 7.000 - 10.000 nạn nhân và 100 - 200 ca tử vong. Nhà nước cũng phải chi 
trên 3 tỉ đồng cho việc điều trị, xét nghiệm và truy tìm nguyên nhân [50]. Theo thống 
kê chưa đầy đủ của cục Vệ sinh an toàn thực phẩm từ năm 2000 đến năm 2006, cả 
nước đã xảy ra 988 vụ ngộ độc thực phẩm với 23.190 người bị ngộ độc và 263 người 
chết [44]. Trong đó, có 155 vụ ngộ độc tại bếp ăn tập thể với 14.653 người bị ngộ độc 
bao gồm: 97 vụ NĐTP tại các khu công nghiệp, khu chế xuất với 9.989 người bị ngộ 
độc; 58 vụ NĐTP trong các trường học với 3.790 cháu bị ngộ độc và 2 cháu tử vong. 
Riêng tại TP. HCM có 113 vụ NĐTP với 7.688 người bị ngộ độc và 7 người tử vong. 
Tại Hà Nội xảy ra 37 vụ NĐTP với 370 người ngộ độc và 2 người tử vong [49]. 
Trong tổng số 988 vụ ngộ độc thực phẩm của cả nước (từ năm 2000 đến năm 
2006), có 161 vụ NĐTP do thức ăn đường phố (thực phẩm chế biến sẵn bán trên vỉa 
hè trước các chợ, công viên, trường học) với 3.759 người bị ngộ độc và 7 người tử 
vong. Thực trạng vấn đề ngộ độc do thức ăn đường phố hiện nay ở nước ta ngày càng 
gia tăng, hiện tượng vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhóm 
thực phẩm đường phố phổ biến. Trong khi đó, tình hình kiểm tra, giám sát của cơ 
quan chức năng đối với nhóm thực phẩm này gặp nhiều khó khăn và chưa đạt hiệu 
quả [48]. 
Có nhiều nguyên nhân khác nhau có thể gây ra các vụ ngộ độc thực phẩm như 
nhiễm vi sinh, nhiễm các hóa chất độc hại hoặc dư lượng thuốc trừ sâu và thuốc bảo 
vệ thực vật trong thực phẩm quá mức cho phép, nhưng phần lớn các trường hợp có 
nguồn từ vi sinh vật, do sự hiện diện của vi sinh vật gây bệnh hay sự hiện diện của 
độc tố tiết ra bởi các vi sinh vật gây bệnh [46]. 
Ngày nay, yêu cầu an toàn vệ sinh thực phẩm nhất là về phương diện vi sinh 
trở thành một trong những tiêu chuẩn không thể thiếu đối với chất lượng thực phẩm. 
Việc phân tích, phát hiện vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm và thực hiện các biện 
pháp đảm bảo đạt tiêu chuẩn về an toàn vi sinh trong sản xuất chế biến thực phẩm, 
đặc biệt là nhóm thực phẩm đường phố ngày càng được quan tâm [43]. 
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Ứng dụng phương pháp PCR 
(Polymerase Chain Reaction) và phương pháp nuôi cấy để khảo sát sự nhiễm vi sinh 
vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố” 
2. Sơ lược vấn đề nghiên cứu 
Tại Việt Nam, việc phát hiện các vi sinh vật gây bệnh chủ yếu dựa vào phương 
pháp nuôi cấy truyền thống, tốn nhiều thời gian, thao tác phức tạp và độ nhạy chưa 
cao. Trong khi đó, nhiều phương pháp mới như: phương pháp ELISA, phương pháp 
PCR, phương pháp sử dụng mẫu dò, phương pháp phát hiện vi sinh vật dựa trên kỹ 
thuật phát quang sinh học,… có nhiều ưu điểm về thời gian, độ nhạy và độ chính xác 
cao đang được phát triển rộng rãi trên thế giới và đang dần thay thế cho phương pháp 
truyền thống. Cũng như các nước, nhu cầu thực tế tại Việt Nam hiện nay là cần ứng 
dụng những kỹ thuật mới này vào việc kiểm tra, giám sát tình hình nhiễm vi sinh vật 
trong thực phẩm để nhanh chóng phát hiện các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm 
và ngăn ngừa một cách có hiệu quả các tác hại từ ngộ độc thực phẩm do vi sinh vật 
gây ra. 
Với nhu cầu thực tiễn như trên, Phòng thí nghiệm Công nghệ Sinh học phân tử 
Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG TP. HCM đã tiến hành xây dựng các quy 
trình và bộ kit PCR phát hiện nhanh các vi sinh vật gây ngộ độc trên thực phẩm như: 
Escherichia coli, Salmonella, Staphylococcus aureus, Bacillus cereus và Clostridium 
perfringens. Để được công nhận như một phương pháp chuẩn và được phép lưu hành 
rộng rãi tại các phòng thí nghiệm phân tích vi sinh trong cả nước, các quy trình này 
đã được tiến hành đánh giá hiệu lực bằng việc phân tích và so sánh kết quả thu nhận 
được giữa phương pháp nuôi cấy và phương pháp PCR tại các phòng thí nghiệm 
trọng điểm phía Nam. Đồng thời, để có thể sử dụng vào thực tế, các quy trình này đã 
được ứng dụng để khảo sát tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trên các mẫu thực tế 
và so sánh với kết quả theo phương pháp nuôi cấy truyền thống. Tuy nhiên, trong 
thực phẩm đường phố chưa được nghiên cứu và khảo sát để đưa ra kết luận cụ thể về 
mức độ nhiễm vi sinh ở nhóm thực phẩm này. Vì thế, đề tài luận văn này phần nào 
đáp ứng được nhu cầu thực tế về kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố hiện 
nay ở nước ta. 
3. Mục đích nghiên cứu 
Mục đích nghiên cứu của đề tài luận văn này là ứng dụng các quy trình và bộ 
kit PCR nói trên để phát hiện E. coli, S. aureus, Salmonella, B. cereus và C. 
perfringens trong thực phẩm đường phố tại TP. HCM, đồng thời so sánh với kết quả 
theo phương pháp nuôi cấy. Từ đó, khảo sát được tình hình nhiễm vi sinh vật gây 
bệnh trong thực phẩm đường phố trên địa bàn TP. HCM so với chỉ tiêu cho phép của 
nhà nước. 
Nội dung của luận văn này là một phần thuộc đề tài khoa học và công nghệ 
trọng điểm cấp Nhà nước của Bộ Khoa học và Công nghệ “Nghiên cứu ứng dụng kỹ 
thuật sinh học phân tử vào việc kiểm tra, giám sát an toàn vệ sinh thực phẩm” mã số 
KC. 04. 30 do Trường Đại học Khoa học tự nhiên, ĐHQG, TP. HCM chủ trì và PGS. 
TS. Trần Linh Thước chủ nhiệm đề tài. 
4. Đối tượng nghiên cứu 
Nghiên cứu sự hiện diện của E. coli, Salmonella, S. aureus, B. cereus và C. 
perfringens trong nhóm thực phẩm đường phố (thực phẩm được chế biến sẵn bán trên 
vỉa hè trước các chợ, trường học, công viên,…), bao gồm: nhóm sữa như sữa tươi, 
sữa đậu nành, sữa đậu xanh và sữa chua; nước sâm, nước mía và nước rau má thuộc 
nhóm nước giải khát và các loại kem: kem tươi, kem ký, kem ly, kem cây, kem chiên 
và kem marino. 
5. Phạm vi nghiên cứu 
Nghiên cứu trên thực phẩm đường phố thuộc nhóm sữa, nước giải khát và kem 
tại các Quận: 3, 5, 8, 10 và quận Tân Bình thuộc địa bàn TP. HCM. 
6. Nhiệm vụ nghiên cứu 
- Phân tích các chỉ tiêu vi sinh vật gây bệnh trong các mẫu thực phẩm đường 
phố bằng phương pháp PCR và phương pháp nuôi cấy truyền thống. 
- Đánh giá tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm thực phẩm đường 
phố trên so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế. 
- So sánh, đánh giá kết quả phân tích của phương pháp PCR so với phương 
pháp nuôi cấy truyền thống. 
- Rút ra kết luận của đề tài 
- Đề nghị và hướng phát triển của đề tài 
7. Phương pháp nghiên cứu 
- Các phương pháp phân tích chỉ tiêu vi sinh: phương pháp PCR, phương pháp 
nuôi cấy, phân lập, các phương pháp thử nghiệm hóa sinh 
- Xử lí kết quả bằng phương pháp thống kê toán học đơn giản 
8. Dự kiến cấu trúc luận văn 
Luận văn gồm các phần: 
Mở đầu 
Chương 1: Tổng quan tài liệu 
Chương 2: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 
Chương 3: Kết quả và biện luận 
Kết luận và đề nghị 
Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 
1.1. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực 
 1.1.1. Khái niệm ngộ độc thực phẩm 
 Ngộ độc thực phẩm là khái niệm chung để chỉ các triệu chứng gây ra do sử 
dụng thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật gây bệnh, các chất độc từ môi trường hoặc chất 
độc tự nhiên có trong bản thân thực phẩm [27]. Theo Bộ Y tế, ngộ độc thực phẩm là 
hội chứng cấp tính xảy ra do ăn, uống phải thức ăn có chứa chất độc, biểu hiện bằng 
những triệu chứng dạ dày - ruột, thần kinh hoặc những triệu chứng khác tuỳ theo tác 
nhân gây ngộ độc [73]. 
 1.1.2. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm 
 Ngộ độc thực phẩm gây ra bởi hai nguyên nhân chính 
 1.1.2.1. Ngộ độc do hóa chất 
Là những trường hợp ăn phải thức ăn có chứa hóa chất độc như: chất phụ gia, 
kim loại nặng hoặc dư lượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học còn sót lại trên thực 
phẩm [45]. 
Ước tính có khoảng 11 - 27% vụ ngộ độc thực phẩm (so với tổng số các vụ 
NĐTP) có nguyên nhân là do thực phẩm bị nhiễm các loại hóa chất chẳng hạn: CN, 
As, Hg, Pb, hóa chất bảo quản thực phẩm, hóa chất bảo vệ thực vật [50]. 
 1.1.2.2. Ngộ độc do vi sinh vật 
 Là ngộ độc do ăn phải thức ăn có chứa vi sinh vật gây bệnh hoặc độc tố của 
chúng [45], bao gồm các trường hợp sau: 
 - Ngộ độc thực phẩm do thực phẩm bị nhiễm vi sinh vật (chiếm 33 - 49% so 
với tổng số các vụ NĐTP), chủ yếu do các chủng Salmonella, E. coli, Clostridium 
perfringens, Listeria monocytogenes [50]. Ngộ độc do ăn phải thức ăn có chứa vi sinh 
vật thường xảy ra khoảng 16 - 30 giờ sau khi ăn thức ăn nhiễm khuẩn. Các vi khuẩn 
được nhân lên trong cơ thể và gây bệnh thông qua quá trình xâm nhiễm hoặc do nội 
độc tố được tạo ra trong tế bào vi khuẩn và được phóng thích ra ngoài môi trường khi 
tế bào vi sinh vật bị phân hủy. 
- NĐTP do thực phẩm bị nhiễm độc tố của vi khuẩn (chiếm 20 - 30% tổng số 
các vụ NĐTP) là nguyên nhân của các vụ ngộ độc thực phẩm tập thể. Trong số này, 
vi khuẩn Staphylococcus aureus hiện diện trong các món ăn làm bằng tay (bánh 
ngọt), Clostridium perfringens hay phát sinh trong các món được nấu nướng và hâm 
nóng [20]. Ngộ độc do ăn phải thức ăn chứa độc tố là do một số vi khuẩn có khả năng 
tạo độc tố và tiết ra ngoài môi trường gọi là ngoại độc tố. Ngoại độc tố rất độc và gây 
ra những rối loạn điển hình, ngộ độc thực phẩm do độc tố thường xảy ra sau 1 - 6 giờ 
tùy thuộc vào lượng độc tố có trong cơ thể. Các vi sinh vật sinh độc tố điển hình là: 
C. botulinum, C. perfringens và S. aureus [50]. 
Ngoài ra, các vụ ngộ độc còn do thực phẩm vốn hàm chứa các chất độc tự 
nhiên (6 - 17,5% so với tổng số các vụ NĐTP) [45]. 
 1.1.3. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm 
Ngộ độc thực phẩm thường xảy ra ở nhiều người, có những triệu chứng giống 
nhau sau khi tiêu thụ thực phẩm. Tuy nhiên, mức độ tác động sẽ khác nhau tùy thuộc 
vào khả năng đáp ứng với độc tố và thể trạng của từng người. Các triệu chứng thường 
gặp của ngộ độc thực phẩm là: tiêu chảy, chóng mặt, nôn mửa, đau nhức người, sốt 
và đau đầu. Những triệu chứng này có thể thay đổi tùy thuộc vào tác nhân gây ngộ 
độc là tế bào hay độc tố của vi khuẩn [28]. 
 Triệu chứng ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn cũng như các loại thực 
phẩm thường chứa các vi khuẩn này được trình bày tóm tắt ở Bảng 1.1. 
Bảng 1.1. Triệu chứng của ngộ độc thực phẩm do một số vi khuẩn 
Tác nhân Nguồn gây bệnh Triệu chứng 
Salmonella Trứng, thịt gia cầm nấu chưa chín Sốt,tiêu chảy, đau 
bụng, nôn 
V. cholerae 
(phẩy khuẩn tả) 
Dùng nước ô nhiễm làm kem, đá, tưới rửa 
rau quả, ăn sống cá, nhuyễn thể 
Tiêu chảy, nôn, đau 
bụng 
Clostridium 
perfringens 
Thực phẩm đóng hộp bị ô nhiễm trong quá 
trình chế biến: cá, thịt, các loại rau 
Giảm trương lực cơ 
(mắt mờ, khó thở) 
Escherichia Coli 
Thịt, cá, rau, sữa tươi, nước bị ô nhiễm 
phân người 
Tiêu chảy (lỵ) 
phân có máu 
Staphylococcus 
aureus (tụ cầu) 
Sản phẩm từ sữa, thịt gia cầm nấu chưa 
chín. Nhiễm trùng từ mũi, tay và da lây 
Buồn nôn, tiêu 
chảy, đau bụng, 
sang thức ăn chín mất nước nặng 
Shigella (lỵ) Sữa và thực phẩm bị ẩm ướt, nhiễm phân Tiêu chảy, phân có 
máu, sốt 
Bacillus cereus Ngũ cốc, rau, sữa, thịt quay hoặc rán Đau bụng, tiêu 
chảy, buồn nôn 
Nguồn [69] 
1.1.4. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm 
 1.1.4.1. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm trên thế giới 
 Các cuộc khảo sát gần đây cho thấy, các bệnh do ngộ độc thực phẩm xảy ra có 
thể nhiều hơn 300 đến 350 lần số trường hợp được báo cáo. Ước tính hàng năm có 
khoảng 1,5 tỉ lượt trẻ em dưới 5 tuổi mắc bệnh tiêu chảy do thực phẩm và hơn 3 triệu 
trẻ em chết vì bệnh này, hầu hết các trường hợp trên là ở các nước đang phát triển 
[33]. 
Theo thống kê của FOODHACCP, năm 2005, trên thế giới có 940 vụ ngộ độc 
thực phẩm lớn, trong đó có 381 vụ ngộ độc do vi sinh vật, đứng đầu vẫn là do: E. 
coli, S. aureus, Salmonella và L. monocytogenes [35]. Vi khuẩn Salmonella là nguyên 
nhân của 70% vụ ngộ độc, vi khuẩn này có trong nhiều loại thực phẩm (đồ nguội, thịt 
nguội, nghêu, sò, gà, chế phẩm từ sữa sống, nhất là các món ăn chế biến từ trứng tươi 
hoặc còn hơi tươi sống) [45]. 
 Chỉ riêng những tháng đầu năm 2006, đã có hai trận dịch lớn xảy ra tại Angola 
và Nam Sudan làm 49.627 người mắc bệnh và 1.814 người tử vong. Nguyên nhân 
được xác định là do nguồn nước nhiễm V. cholerae [26]. 
Tại Thái Lan, ngày 17/03/2006 cũng đã xảy ra một vụ ngộ độc thực phẩm làm 
152 người bị ngộ độc với các triệu chứng: khó nuốt, khó cử động, đau bụng và nhũn 
cơ. Trong số 100 người nhập viện, có 40 người nhập viện với tình trạng khó thở, suy 
hô hấp nặng. Nguyên nhân được xác định là do Clostridium botulinum trong măng 
tây đóng hộp [32]. 
 1.1.4.2. Thực trạng vấn đề ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam 
 a. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam 
 Thống kê từ trung tâm chống độc Bệnh viện Bạch Mai, tại khu vực phía Bắc, 
số người bị ngộ độc thực phẩm năm 2005 là gần 4.000 người, trong đó có 50 trường 
hợp tử vong. So với năm 2004, tỉ lệ tử vong ở các trường hợp bị ngộ độc thực phẩm 
tăng gần 90% [52]. 
 Theo thống kê của cục An toàn vệ sinh thực phẩm, tình hình ngộ độc thực 
phẩm trong hai năm 2005 và 2006 như sau: 
Bảng 1.2. Tình hình ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 và 2006 
Thống kê 2005 2006 
Số vụ ngộ độc 127 139 
Số người bị ngộ độc 3.410 5.564 
Số người tử vong 21 49 
 Nguồn: [30] 
Năm 2005 được xem là đỉnh điểm của những vụ ngộ độc thực phẩm so với 
những năm trước đó, nhưng qua bảng thống kê trên cho thấy năm 2006 tình trạng 
NĐTP còn cao hơn cả về số vụ, số người mắc và tử vong. 
Trong “Tháng hành động vì vệ sinh an toàn thực phẩm” năm 2007 (từ ngày 
15/04 - 15/05/2007), cả nước đã xảy ra 19 vụ ngộ độc thực phẩm, với 534 người mắc, 
8 người tử vong, số vụ ngộ độc thực phẩm quy mô trên 50 người là 3 vụ với tổng số 
269 người mắc; trong “Tháng hành động vì vệ sinh an toàn thực phẩm”, năm 2006 
(từ ngày 15/04 - 15/05/2006) xảy ra 17 vụ NĐTP, có 278 người mắc, 4 người tử vong 
[53]. So với năm 2006, tình hình ngộ độc thực phẩm xảy ra trong “Tháng hành động 
vì vệ sinh an toàn thực phẩm” năm 2007 tăng cao hơn nhiều cả về số vụ lẫn số người 
bị ngộ độc, đáng chú ý là số người tử vong tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm 2006 
(năm 2006 có 4 người tử vong, năm 2007 là 8 người) [52]. 
 Trong các nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm năm 2005 và 2006, nguyên 
nhân do nhiễm vi sinh vật chiếm tỉ lệ cao nhất (năm 2005 là 50,4%, năm 2006 là 
31,8%); sau đó là do thực phẩm chứa chất độc tự nhiên (28,3% năm 2005, năm 2006 
là 23,7%) còn lại là do hóa chất và không xác định được rõ nguyên nhân [48]. 
Nguyên nhân gây NĐTP trong năm 2005 và 2006 được thống kê ở Bảng 1.3. 
Bảng 1.3. Nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm tại Việt Nam năm 2005 
và 2006 
Nguyên nhân 2005 2006 
Do vi sinh vật 64 vụ (50,4%) 53 vụ (38,1%) 
Thực phẩm độc 36 vụ (28,3%) 33 vụ (23,7%) 
Do hóa chất 10 vụ (7,9%) 16 vụ (11,5%) 
Không xác định 17 vụ (13,4%) 37 vụ (26,7%) 
 Nguồn: [48] 
 b. Tình hình ngộ độc thực phẩm trên địa bàn TP. HCM 
 Trong nhiều năm qua, TP. HCM được xem là một trong những địa phương có 
số vụ NĐTP cao nhất cả nước, vì đây là nơi tập trung đông dân cư, số dân nhập cư, 
hộ nghèo còn nhiều, do vậy mà việc quản lý vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm gặp 
nhiều khó khăn và chưa thật hiệu quả. 
Ở TP. HCM, theo trung tâm y tế dự phòng ghi nhận, tình hình ngộ độc thực 
phẩm từ năm 2001 đến 2006 được thống kê như sau: 
Bảng 1.4. Thống kê tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ năm 
2001 đến 2006 
Thống kê Tình hình ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM 
Năm thống kê 2001 2002 2003 2004 2005 2006
Số vụ ngộ độc thực phẩm 9 29 22 26 27 39 
Số người ngộ độc 796 930 1158 964 1536 1564
Ngộ độc do vi sinh (%) 83,9 75,7 67,7 64,1 39,1 38,1 
Số người tử vong 0 2 0 0 3 5 
 Nguồn: [47] 
 Trong vài năm gần đây, số vụ ngộ độc thực phẩm tại TP. HCM từ năm 2001 
đến 2006 được ghi nhận ngày càng gia tăng cả về số vụ lẫn số người mắc. Cao điểm 
là năm 2006 tại TP. HCM có 39 vụ ngộ độc với 1.564 người bị ngộ độc, chiếm một 
tỉ lệ cao về NĐTP của cả nước (chiếm 35,64% so với cả nước), so với năm 2001, 
năm 2006 số vụ NĐTP tăng hơn 4 lần, số người ngộ độc tăng gấp đôi, đặc biệt số 
người tử vong tăng 5 lần, nguyên nhân ngộ độc do vi sinh vật vẫn chiếm một tỉ lệ 
đáng kể (năm 2001 là 83,9%, năm 2006 là 38,1%) [58]. Nguyên nhân của sự gia tăng 
số vụ NĐTP này là do tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm nói chung không được 
bảo đảm chẳng hạn: tình hình kinh doanh những mặt hàng nguyên liệu thực phẩm 
kém chất lượng, không đảm bảo vệ sinh hoặc sử dụng những phụ gia độc hại; tình 
trạng chế biến bảo quản thực phẩm không an toàn; cơ sở vật chất, dụng cụ không đạt 
yêu cầu; vệ sinh cá nhân và ý thức nhân viên chế biến chưa tốt [52]. 
1.1.4.3. Tình hình ngộ độc do thức ăn đường phố 
 Đến nay, các cơ quan chức năng vẫn phải thừa nhận việc đảm bảo vệ sinh an 
toàn thực phẩm đường phố đang là vấn đề cần được quan tâm [42]. 
Hiện tượng vi phạm quy định vệ sinh an toàn thực phẩm ở các dịch vụ thức ăn 
đường phố ngày càng cao, kết quả trong tháng 8 năm 2005 có 11 ca ngộ độc do thức 
ăn đường phố với hơn 600 người mắc, trong đó có 3 người tử vong [45]. Cuộc khảo 
sát của Bộ Y tế, năm 2005 kết luận: ở Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh có 88% số 
cơ sở thức ăn đường phố kém chất lượng. Theo đánh giá của đoàn thanh tra Bộ Y tế 
sau một tuần hành động thanh tra, kiểm tra thức ăn đường phố tại Thành Phố Hồ Chí 
Minh (từ ngày 23 - 27/08/05) đã kết luận: “nhiều cơ sở chế biến thực phẩm đường 
phố còn sử dụng phẩm màu trong chế biến thức ăn, nguồn nước sử dụng chưa đảm 
bảo vệ sinh, đáng chú trọng hơn là hàm lượng vi sinh cao hơn tiêu chuẩn cho phép 
trong thực phẩm theo quy định của Bộ Y tế (4/1998)” [55]. 
 Đặc biệt là tình trạng thực phẩm đã chế biến sẵn bán tại các công viên, chợ, 
trường học rất phổ biến; trong khi đó, điều kiện vệ sinh cơ sở, vệ sinh dụng cụ chế 
biến và vệ sinh cá nhân người trực tiếp chế biến các loại thực phẩm này vẫn chưa bảo 
đảm, tình trạng sử dụng phụ gia thực phẩm ngoài danh mục cho phép vẫn còn [29]. 
Loạt bài: “Thực phẩm đường phố, 1.001 kiểu... mất vệ sinh” của Báo Thanh 
Niên [33] và cuộc hội thảo về vấn đề này tại TP. HCM vào cuối tuần tháng 8 năm 
2006 [41], đã cho thấy thực trạng thức ăn đường phố ở nước ta vượt quá ngưỡng báo 
động, ngoài tầm kiểm soát của cơ quan chức năng. Hiện tượng thực phẩm đường phố 
không đảm bảo vệ sinh trong khi chế biến, nguồn nước còn nhiễm bẩn, việc vệ sinh 
các dụng cụ đựng thức ăn chưa đạt yêu cầu,…vẫn đang diễn ra ở hầu hết các cơ sở 
bán thức ăn đường phố trong cả nước [54]. 
 Phần lớn ý kiến của các nhà chuyên môn, các nhà quản lý đều cho rằng hiện 
các văn bản pháp quy về vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố còn thiếu, hình thức 
xử phạt chưa đủ mạnh để răn đe. Đặc biệt, để đáp ứng nhu cầu ăn uống ngày càng gia 
tăng nên số lượng cơ sở chế biến kinh doanh thực phẩm quy mô nhỏ, không đảm bảo 
vệ sinh ngày một nhiều, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng ngộ độc thực phẩm đường 
phố, hơn nữa, việc quản lý những người bán thức ăn đường phố là rất khó, do số 
đông họ là những người nhập cư, là thành phần nghèo, khó khăn, điểm bán thường 
lưu động, khó xử lý, vì vậy mà việc giám sát vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đường 
phố hiện đang gặp rất nhiều khó khăn và cần sự phối hợp đồng bộ của toàn xã hội để 
giám sát tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố hiện nay ở nước ta [48]. 
Chính vì những lí do trên mà hiện nay, việc khảo sát để đưa ra kết luận về tình 
hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố so với tiêu chuẩn cho 
phép của nhà nước là điều cần thiết và đang được quan tâm. 
1.1.5. Các quy định hiện hành và tiêu chuẩn nhà nước về việc đảm bảo vệ 
sinh an toàn thực phẩm 
 1.1.5.1. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với các loại nước giải khát 
 Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ Y tế đối với các loại nước giải 
khát hiện nay ở nước ta rất đa dạng.Trong phần này, chúng tôi chỉ chọn một số quy 
định về chỉ tiêu vi sinh đối với một vài nhóm nước giải khát thuộc phạm vi nghiên 
cứu của đề tài. Các tiêu chuẩn này được trình bày ở Bảng 1.5. 
Bảng 1.5. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với các loại nước giải khát 
Chỉ tiêu thử nghiệm Nước khoáng đóng chai 
Nước không 
có cồn 
Nước 
có cồn 
Tổng vi khuẩn hiếu khí/g GMP/250ml 102 5.104 
Coliforms/g 0/250ml 10 102 
E. coli/g KQĐ 0 0 
S. aureus/g KQĐ 0 10 
Clostridium 
perfringens/g 
0/250ml 0 10 
Salmonella/25g KQĐ KQĐ 0 
Nấm men, mốc/g KQĐ 10 KQĐ 
Nguồn: [2] 
 1.1.5.2. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với nhóm sữa 
 Có rất nhiều loại sữa khác nhau hiện đang bán trên thị trường, tuy nhiên, chúng 
tôi chỉ đề cập đến chỉ tiêu vi sinh của Bộ Y tế đối với các sản phẩm được chế biến từ 
sữa và nhóm sữa chua. Các chỉ tiêu này được trình bày ở Bảng 1.6 và Bảng 1.7. 
 Bảng 1.6. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm các sản phẩm chế biến từ sữa 
Chỉ tiêu thử nghiệm Bơ, phomát Sữa tươi 
tuyệt trùng
Sữa hoàn nguyên 
tuyệt trùng 
Vi khuẩn hiếu khí/g 104 5.104 10 
Coliforms/g 10 10 0 
E. coli/g 0 3 0 
S. aureus/g 0 KQĐ 0 
Salmonella/25g 0 0 0 
C. perfringens/g KQĐ KQĐ 0 
Nguồn: [2] 
Bảng 1.7. Tiêu chuẩn của Bộ Y tế đối với nhóm sữa chua 
Chỉ tiêu thử nghiệm Sữa chua (Yoghurt) 
không xử lí nhiệt 
Sữa chua (Yoghurt) có 
xử lí nhiệt 
Vi khuẩn hiếu khí/g 104 10 
Coliforms/g 10 0 
E. coli/g 0 0 
S. aureus/g 0 0 
Salmonella/25g 0 0 
Nấm men, mốc/g 10 10 
Nguồn: [2] 
1.1.5.3. Tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm đối với kem, nước đá 
Các chỉ tiêu vi sinh hiện diện ở nhóm kem, nước đá theo quy định của Bộ Y tế 
được trình bày ở Bảng 1.8. 
Bảng 1.8. Tiêu của Bộ Y tế đối với nhóm kem, nước đá 
Chỉ tiêu thử nghiệm Kem, nước đá 
Tổng vi khuẩn hiếu khí/g 5.104 
Coliforms/g 102 
E. coli/g 0 
S. aureus/g 10 
Clostridium perfringens/g 10 
Salmonella/25g 0 
 Nguồn: [2] 
1.2. Các vi khuẩn gây ngộ độc thực phẩm thường gặp 
 1.2.1. Escherichia coli 
 E. coli là trực khuẩn Gram âm, ngắn, di động, tạo vỏ capsule polysac- charide. 
Loài E. coli gồm nhiều chủng khác nha._.u. Một số hoàn toàn là sinh vật hội sinh. Một 
số có thể kết hợp với yếu tố gây độc làm cho chúng có khả năng hoạt động như 
những vi khuẩn gây bệnh đặc hiệu ở đường ruột, ngoài đường tiêu hoá và đặc biệt là 
đường tiết niệu [31]. 
 E. coli có thể gây viêm đường ruột cấp ở người, đặc biệt là ở trẻ sơ sinh với tỷ 
lệ tử vong cao. Một số chủng có thể gây bệnh kiết lỵ và xuất huyết kết tràng. Các 
chủng E. coli gây bệnh được chia thành 5 nhóm với cơ chế gây bệnh khác nhau như 
sau [18]: 
 + Enterotoxigenic E. coli (ETEC): Gây bệnh bằng cách bám vào bề mặt niêm 
mạc màng nhầy của tế bào biểu mô ở ruột non và tạo các độc tố gắn kết với tế bào 
biểu mô và gây tiêu chảy [18]. Độc tố ETEC tạo ra bao gồm độc tố đường ruột không 
bền nhiệt (LT) và độc tố đường ruột bền nhiệt (ST). Bệnh tiêu chảy do ETEC gây ra 
không có triệu chứng viêm và không gây sốt [37]. 
 + Enteropathogenic E. coli (EPEC): gây viêm ruột ở trẻ sơ sinh, đặc biệt là ở 
những nước nhiệt đới và có thể gây tỷ lệ tử vong cao. EPEC cũng gây tiêu chảy 
tương tự như ETEC nhưng cơ chế hoàn toàn khác. Hầu hết các chủng EPEC không 
tạo độc tố LT, ST hay VT (vero cytotoxin) nhưng một số chủng có khả năng tạo độc 
tố Shiga, một loại độc tố mạnh ảnh hưởng đến thần kinh. EPEC gây bệnh bằng cách 
tạo ra một protein bám dính ở ngoài màng – intimin – tham gia vào quá trình bám 
dính vào thành ruột và tác động vào việc truyền tín hiệu trong tế bào. Nhiều chủng có 
khả năng kết bám mạnh vào tế bào biểu mô ruột, thường là ruột kết, dẫn đến sự phá 
hủy lớp nhung mao gây tiêu chảy. Bệnh gây ra do EPEC thường đi kèm với phản ứng 
viêm và một số triệu chứng khác do sự xâm nhiễm của vi khuẩn này vào tế bào chủ. 
Đại diện của nhóm này là Enteroadherent E. coli, đây là một tác nhân thường xuyên 
gây tiêu chảy tại Mexico và Nam Mỹ [18]. 
+ Enteroinvasive E. coli (EIEC): các chủng EIEC gây ra khoảng 5% các ca 
tiêu chảy ở những vùng có điều kiện vệ sinh kém. Các yếu tố gây độc ở EIEC giống 
với Shigella, được kiểm soát bởi các gen nằm trên plasmide và trên nhiễm sắc thể, mã 
hóa cho các protein màng ngoài cần thiết cho sự xâm nhiễm. Trong quá trình xâm 
nhiễm, EIEC xâm nhập qua lớp niêm mạc, gắn lên bề mặt tế bào và cảm ứng quá 
trình thực bào. Các gen trên plasmide giúp cho vi khuẩn thoát khỏi thực bào và lan 
nhiễm sang các tế bào kế cận dẫn đến việc các mô bị phân hủy và gây hiện tượng 
viêm. Đây là nguyên nhân cơ bản các triệu chứng của bệnh kiết lỵ do EIEC gây ra 
[45]. 
 + Enteroaggregative E. coli (EAEC): là tác nhân gây tiêu chảy kéo dài và liên 
tục ở trẻ em. Đặc điểm nổi bật của EAEC là khả năng tấn công tế bào biểu mô do sự 
kết bám của chúng với màng nhầy ruột và gây tiêu chảy. EAEC có khả năng tạo 
hemolysin và một độc tố kém bền với nhiệt có tên là EAST (Entero Aggregative ST). 
EAEC thường gây tiêu chảy liên tục ở trẻ em, không gây viêm và sốt [38]. 
 + Enterohemorrhagic E. coli (EHEC): còn gọi là Verocytotoxigenic E. coli 
(VTEC): gây xuất huyết hàng loạt nhưng không gây sốt. Độc tố do EHEC tiết ra ảnh 
hưởng đến thận, gây xuất huyết kết tràng và hội chứng HUS (haemolyticuraemic 
syndrome). EHEC có khả năng tạo độc tố đường ruột verotoxin (VT), rất giống với 
độc tố Shiga do S. dysenteriae nhóm 1 tạo ra gây ảnh hưởng mạnh đến hệ thần kinh 
[42]. Chúng có khả năng xâm nhiễm vào tế bào chủ gây tiêu chảy, viêm ruột và có 
thể dẫn đến hiện tượng xuất huyết gây tử vong. Tỷ lệ tử vong ở trẻ em do nhiễm 
EHEC rất cao vì thường dẫn đến hội chứng HUS và gây tử vong. Trong đó, đại diện 
của nhóm này là E. coli O157:H7, đây là tác nhân gây nhiều trận dịch lớn trên thế 
giới [36]. 
1.2.2. Staphylococcus aureus 
S.aureus là vi khuẩn Gram dương, thuộc họ vi khuẩn Staphylococc- aceae, 
giống Staphylococcus và loài là aureus, có khả năng phát triển trong điều kiện thiếu 
oxi, nhưng phát triển tốt nhất trong điều kiện hiếu khí. 
S. aureus không di động, không tạo bào tử, phát triển được trong môi trường có 
nồng độ muối lên tới hơn 15% [36]. Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển là từ 10 - 
45oC, nhưng nhiệt độ tối ưu là ở 30 - 37oC, pH thích hợp là 4,2 - 9,3, tối ưu trong 
khoảng 7- 7,5. Tất cả các dòng S. aureus đều mẫn cảm với novobiocine và dễ bị ức 
chế bởi các chất sát khuẩn như: hexachlorophere 3%, tím gelatian [39], [61] 
S. aureus có thể tạo nhiều loại độc tố bao gồm độc tố phá màng, độc tố đường 
ruột, độc tố tróc vảy, độc tố gây sốc [38]. 
- Độc tố gây sốc (TSST-1): có hoạt tính superantigen và gây ra hội chứng sốc 
độc tố. Chúng có thể gây sốc ở gan, thận, tim và trong một số trường hợp có thể dẫn 
đến tử vong 
- Độc tố tróc vảy (exfoliative toxin-ET): gồm hai loại là ETA và ETB gây ra 
triệu chứng da kết vảy hoặc nứt nẻ ở da 
-Độc tố phá màng: bao gồm α-toxin, β-toxin, δ-toxin, γ-toxin và leucocidin. 
Chúng có khả năng phá hủy màng và đóng vai trò quan trọng trong quá trình xâm 
nhập vào cơ thể 
- Độc tố đường ruột (Staphylococal enterotoxins-SE): là nguyên nhân chính 
gây ngộ độc thực phẩm, các độc tố này được phân loại dựa vào các kiểu kháng 
nguyên và được chia thành các kiểu độc tố đường ruột như: SE-A, SE-B, SE-C, SE-
D, SE-E, SE-G, SE-H, SE-J,…Các độc tố này có hoạt tính siêu kháng nguyên 
(superantigen), khi được phóng thích vào máu thì gây ra các triệu chứng sốt, tiêu 
chảy, nôn mửa. Đây cũng là triệu chứng chính của các vụ ngộ độc do S. aureus [63]. 
S. aureus cũng là nguyên nhân của nhiều bệnh, phổ biến nhất là bệnh về da. 
Đặc điểm chung của ngộ độc do S. aureus là buồn nôn, ói mửa, đau dầu, đau dạ dày, 
đôi khi bị tiêu chảy. Bệnh nhân nhiễm S. aureus thường có triệu chứng sốc, sốt cao, 
phát ban. Nguy hiểm hơn, S. aureus còn gây nhiễm trùng, viêm tủy xương, viêm 
phổi, viêm nội mạc tim và gây tử vong. Tuy nhiên, bệnh do S. aureus thường nhẹ và 
sẽ tự khỏi trong 1 - 2 ngày 
1.2.3. Salmonella 
Salmonella là vi khuẩn Gram âm, hình que, đa số đều có khả năng di động nhờ 
lông mao (trừ S. gallinarum, S. pullorum), không sinh bào tử, là sinh vật kỵ khí tùy ý, 
nhưng chúng phát triển tốt trong điều kiện hiếu khí. Salmonella phát triển tốt trong 
khoảng nhiệt độ từ 5 - 47oC và pH là 4,5 - 9. Phát triển tốt nhất ở 37oC và pH khoảng 
6,5 - 7,5 
Giống Salmonella được chia thành hai loài: S. enterica và S. bongori, và được 
chia thành các loài phụ: 
+ Loài S. enterica gồm 5 loài phụ: S. enterica I (S. enterica subspecies 
enterica), S. enterica II (S. enterica subspecies salamae), S. enterica IIIa (S. enterica 
subspecies arizonae), S. enterica IIIb (S. enterica subspecies diarizonae), S. enterica 
IV (S. enterica subspecies houtenae), S. enterica VI (S. enterica subspecies indica). 
+ Loài S. bongori hay còn gọi là Salmonella subspecies V. 
Salmonella enterica I đa số được tìm thấy ở người và động vật máu nóng. Các 
nhóm S. enterica II đến VI và S. bongori hầu như chỉ tìm thấy ở các động vật máu 
lạnh và trong tự nhiên. 
Salmonella tạo ra hai loại độc tố chính là: 
- Độc tố đường ruột (enterotoxin): có tác động lên dạ dày, ruột, gây viêm loét, 
độc tố này thấm vào máu gây nhiễm độc huyết. Có hai loại độc tố đường ruột [1], [4]: 
* Độc tố LT (Labile temperature): không bền với nhiệt, có tác dụng hoạt hóa 
men adenyl cylase kích thích tiết Cl- và bicarbonate ra khỏi tế bào, ức chế Na+ đi vào 
trong tế bào gây tiêu chảy, mất nước. 
* Độc tố ST (Stabile temperature): bền với nhiệt, cơ chế tác động tương tự LT, 
có tác dụng hoạt hóa men guanyl cylase làm tăng c-GMP trong tế bào dẫn đến hiện 
tượng tiêu chảy. 
Salmonella gây ra ba loại bệnh chính là: thương hàn (S. typhi và S. paratyphi); 
viêm dạ dày, viêm ruột (S. typhimurium) và nhiễm trùng máu (S. cholerasuis, S. 
typhimurium). 
 Khả năng gây độc của Salmonella phụ thuộc vào độc lực của từng dòng 
Salmonella xâm nhiễm và phụ thuộc vào trạng thái sức khỏe của mỗi người. Thông 
thường, một số Salmonella vẫn tồn tại trong ruột người, động vật nhưng không gây 
bệnh. Khi cơ thể bị suy nhược hay bị stress liên tục làm giảm sức đề kháng thì vi 
khuẩn này sẽ phát triển, xâm nhập vào hạch bạch huyết và các tổ chức khác của cơ 
thể gây sốt thương hàn hoặc phát tán theo hệ thống tuần hoàn đến khắp cơ thể gây 
nhiễm trùng máu. Phần lớn các bệnh nhân nhiễm Salmonella có thể tự hồi phục 
nhưng vi khuẩn thương hàn còn tồn tại lâu trong cơ thể. Bệnh nhân có thể trở thành 
người lành mang bệnh, từng đợt vi khuẩn theo phân ra ngoài và có thể trở thành 
nguồn lây bệnh nguy hiểm cho cộng đồng [9], [10]. 
 1.2.4. Bacillus cereus 
 B. cereus là vi khuẩn Gram dương, hình que, hiếu - kỵ khí tùy ý, di động, tạo 
nội bào tử và phân bố rộng rãi trong môi trường. Ngưỡng nhiệt phát triển của B. 
cereus là 5 - 50oC, tối ưu ở 28 - 40oC. Bào tử của B. cereus chịu được nhiệt độ cao 
trên 100oC. Khả năng chịu nhiệt được gia tăng trong các thực phẩm có dầu và hàm 
lượng chất béo cao [8], [9]. 
 B. cereus có 13 kiểu kháng nguyên màng, 42 kiểu kháng nguyên lông (kháng 
nguyên H) [56]. B. cereus có khả năng tạo nhiều loại độc tố, nguy hiểm nhất là độc tố 
gây nôn mửa vì gây ra các bệnh về gan. Đây là nội độc tố duy nhất kháng được 
trypsin, pepsin, chịu được pH cực đoan (pH: 2 - 11) và nhiệt độ cao (121oC trong 90 
phút). Độc tố này có thể gắn vào dây thần kinh phế vị gây nôn mửa hoặc gây cản trở 
các hoạt động biến dưỡng xảy ra trong 
cơ thể [16], [52]. 
 B. cereus là vi khuẩn gây bệnh cơ hội, gây tiêu chảy, nôn mửa và một số bệnh 
hoại thư. Độc tố gây tiêu chảy được tạo thành bởi phức hợp các nội độc tố tạo ra 
trong quá trình tăng trưởng của các tế bào sinh dưỡng sống trong ruột non. Thời gian 
ủ bệnh thường từ 10 - 13 giờ sau khi ăn phải thức ăn bị nhiễm. Bệnh thường nhẹ, kèm 
theo đau bụng, tiêu chảy nhiều, co thắt trực tràng và có cảm giác buồn nôn nhưng 
không nôn mửa. Các triệu chứng trên kéo dài trong 24 giờ. Ngộ độc thực phẩm gây ra 
bởi B. cereus thường nhẹ và sẽ tự khỏi [6], [22]. [56]. 
1.2.5. Clostridium perfringens 
 C. perfringens là trực khuẩn Gram dương, sinh bào tử và không di động. C. 
perfringens phát triển tối ưu ở nhiệt độ 37 - 45oC. Ở 45oC, vi khuẩn có thể phát triển 
rất nhanh, từ 7 đến 9 phút cho một thế hệ. Vì vậy, C. perfringens được xem là vi 
khuẩn có tốc độ sinh trưởng cao nhất trong các loài vi sinh vật. C. perfringens không 
đòi hỏi điều kiện kỵ khí nghiêm ngặt như các loài Clostridium khác. Do đó, một số 
chủng C. perfringens vẫn có khả năng phát triển trong môi trường có một ít oxi [21]. 
Tuy nhiên, C. perfringens thường không thể phát triển trong môi trường có nồng độ 
muối từ 6 - 8% hoặc nhiệt độ nuôi cấy nhỏ hơn 12oC, pH thích hợp đối với chủng này 
thường ở khoảng 6,0 - 7,5 [60]. 
 C. perfringens có khả năng tiết khoảng 20 độc tố, trong đó có bốn độc tố chính 
là alpha, beta, epsilon và iota. Dựa vào các loại độc tố chính được tạo ra, người ta xếp 
C. perfringens thành 5 nhóm là: A, B, C, D, và E. Trong đó, tất cả các nhóm này đều 
tạo ra độc tố alpha. Độc tố của C. perfringens được trình bày tóm tắc ở Bảng 1.9. 
Bảng 1.9. Bảng phân loại độc tố của C. perfringens 
Độc tố chính 
Nhóm 
Alpha Beta Epsilon Iota 
A + - - - 
B + + + - 
C + + - - 
D + - + - 
E + - - + 
 Nguồn: [47] 
 Các trường hợp ngộ độc do C. perfringens ở người đều do 2 chủng C. 
perfringens nhóm A và C gây ra. Ngộ độc thực phẩm nhóm A xảy ra phổ biến với tác 
nhân chính là độc tố đường ruột, tác động lên các tế bào ở màng ruột, làm tăng tính 
thấm của màng gây tiêu chảy. Các triệu chứng do C. perfringens nhóm A gây ra 
thường là tiêu chảy, đau thắt ở bụng trong vòng 8 đến 24 giờ sau khi ăn phải thực 
phẩm bị nhiễm khuẩn. Ít có trường hợp bị sốt, buồn nôn hay ói mửa. Bệnh thường 
chấm dứt sau 2 - 3 ngày và không gây tử vong [5]. Tác nhân gây độc do C. 
perfringens nhóm C hiếm xảy ra nhưng thường gây tử vong. Tác nhân gây độc trong 
trường hợp này là độc tố beta có khả năng phá hủy các mô nhầy ở thành ruột và gây 
viêm nhiễm ruột non. Các triệu chứng của bệnh bao gồm: nôn mửa, đau bụng và tiêu 
chảy ra máu. Bệnh thường dẫn tới tử vong do viêm ruột và nhiễm trùng máu [6], [20]. 
 1.2.6. Shigella 
 Shigella thuộc họ vi khuẩn đường ruột Enterobateriaceae, là vi khuẩn Gram 
âm, hình bầu dục, không có lông, không di động, không sinh bào tử. Shigella có 
ngưỡng nhiệt phát triển là từ 7 - 46oC, pH: 5,5 - 9, tối ưu ở 37oC và pH 7,8. Riêng S. 
sonnei có thể sinh trưởng ở 0oC, do đó có thể tồn tại qua bảo quản lạnh. 
Chúng là nguyên nhân gây ra nhiều vụ ngộ độc thực phẩm trên toàn thế giới 
[30]. Shigella có hai loại độc tố: 
 - Độc tố đường ruột: bao gồm hai loại độc tố là ShET1 và ShET2, bền vững ở 
1000C, tác động lên đường ruột gây tiêu chảy và thường dẫn đến lỵ. 
 - Độc tố thần kinh: được gọi là Shigatoxin, là một độc tố rất mạnh chỉ thấy ở S. 
dysenteriae 1, tương tự như verotoxin của E. coli O157:H7, tác động đặc hiệu vào hệ 
thần kinh. Ngoài ra, Shigatoxin còn được coi là tác nhân gây thương tổn ở niêm mạc 
sau khi xâm nhiễm vào tế bào ruột, kích thích sự phá hủy tế bào màng nhầy ruột [59]. 
 Shigella có khả năng gây bệnh với sự có mặt một lượng nhỏ từ 10 đến 200 tế 
bào. Sự lan truyền từ người qua người có thể dễ dàng xảy ra qua đường phân hoặc lan 
truyền qua đường nước và thức ăn. Đặc tính nổi bật của Shigella là khả năng xâm 
nhiễm vào tế bào chủ và phá hủy các mô tế bào. Bệnh do Shigella khởi phát đột ngột 
với triệu chứng tiêu chảy liên tục trong ngày kèm theo đau quặn bụng, sốt, nôn mửa, 
các biểu hiện của lỵ và nhiễm trùng cấp tính như sốt cao li bì và có thể dẫn đến hôn 
mê. Một số biến chứng của bệnh do Shigella như nhiễm trùng máu, các biến chứng 
thần kinh và hội chứng tan huyết, có thể dẫn đến tử vong [15]. 
1.2.7. Vibrio cholerae 
 V. cholerae là vi khuẩn Gram âm, hình que, hai đầu không bằng nhau tạo thành 
hình dấu phảy nên còn được gọi là phảy khuẩn, di động rất nhanh trong môi trường 
nước, sống kỵ khí tùy nghi, có tiêm mao ở một cực. Vi khuẩn này phát triển tốt ở 30 - 
40oC, chịu được pH kiềm, phát triển tốt ở pH: 8,5 - 9,5, có khả năng chịu mặn. Do đó, 
môi trường tăng sinh ban đầu thường được dùng là nước peptone kiềm và thạch kiềm 
[8]. 
 V. cholerae có thể gây bệnh do độc tố tả CT (cholerae toxin). Ngoài ra, còn có 
LT1 và Stn là những độc tố gây bệnh có nhiều đặc điểm tương tự CT nhưng độc tính 
yếu hơn. Độc tố CT là một protein nhạy cảm với nhiệt độ, có trọng lượng phân tử là 
8,4 kDa. Sự có mặt của độc tố CT trong cơ thể sẽ gây nên một chuỗi các rối loạn 
chuyển hóa bên trong tế bào, đáng kể nhất là hoạt hoá adenylate cyclase, làm tăng 
cAMP, gây bài tiết nước, Cl- và ức chế sự hấp thu Na+. Nếu khối lượng nước bị tiết ra 
quá lớn, vượt xa khả năng tái hấp thu của ruột sẽ gây tiêu chảy ồ ạt, nhanh chóng mất 
nước và điện giải (có thể lên đến 200 lít/ngày) và dẫn đến tử vong [5]. 
 Sự lan truyền bệnh tả chủ yếu do nguồn nước bị nhiễm khuẩn từ phân người 
bệnh. Ngoài ra, thức ăn cũng là một nguyên nhân truyền bệnh quan trọng. Nguồn lây 
bệnh qua thực phẩm chủ yếu là từ hải sản. Thời kỳ ủ bệnh do nhiễm V. cholerae kéo 
dài từ 24 - 48 giờ. Các triệu chứng lâm sàng ban đầu là đầy hơi, chướng bụng sau đó 
chuyển dần sang các biểu hiện điển hình của bệnh tả là khởi phát đột ngột với các dấu 
hiệu là tiêu chảy xối xả phân lỏng, mất nước và chất điện giải nhanh chóng. Kế đến là 
ói mửa dẫn đến tình trạng trụy tim mạch và gây tử vong. Phần lớn bệnh nhân không 
bị sốt. Tỷ lệ tử vong của bệnh tả này là hơn 60% nếu không được cấp cứu kịp thời 
[3], [64], [65]. 
 1.2.8. Listeria monocytogenes 
 Listeria monocytogenes là trực khuẩn Gram dương, kích thước nhỏ, đôi lúc xếp 
thành chuỗi ngắn, không tạo bào tử, chuyển động xoay tròn trong tiêu bản giọt treo 
khi nuôi cấy ở 20 - 25oC. L. monocytogenes có ngưỡng nhiệt phát triển từ: - 4oC - 
37oC. Do đó, chúng thường là tác nhân gây ngộ độc thực phẩm trong các loại thức ăn 
được bảo quản lạnh [1], [8]. 
 L. monocytogenes có khả năng xâm nhiễm cao và sinh sản nhanh chóng không 
chỉ ngoại bào mà ngay cả nội bào thậm chí trong các đại thực bào. Bệnh do L. 
monocytogenes gây ra ở người thường là viêm màng não, nhiễm khuẩn máu và đôi 
khi có thể gây áp xe não. Tỷ lệ tử vong do L. monocytogenes khá cao từ 20 - 25%. 
Một khi đã chuyển sang các biến chứng như viêm màng não hoặc nhiễm trùng máu 
thì tỉ lệ tử vong lên đến 50 - 70%. Ở phụ nữ mang thai, đặc biệt là phụ nữ mang thai 
đến tháng thứ ba, L. monocytogenes có thể vào bào thai gây ra hậu quả nghiêm trọng 
có thể dẫn tới xảy thai hoặc chết non [40], [57]. 
1.2.9. Vibrio parahaemolyticus 
 V. parahaemolyticus là vi khuẩn Gram âm, không sinh bào tử, hình que, di 
động, là loại vi khuẩn hiếu khí tùy ý. Đây là loại vi khuẩn ưa mặn, có thể sinh trưởng 
ở nồng độ NaCl từ 0,5 - 10%, tối ưu ở nồng độ NaCl 3%, thích hợp với nhiệt độ từ 5 
- 43oC, tối ưu là 37oC, chịu được pH từ 4,8 - 11 và tối ưu ở pH từ 7,8 - 8,6. V. 
parahaemolyticus sinh sản nhanh, ở điều kiện thuận lợi, thời gian cho một thế hệ của 
chúng là 9 - 10 phút. Chúng hiện diện phổ biến trong nước biển và có thể tồn tại 
trong thủy hải sản, chúng cũng có thể sống sót trong điều kiện đông lạnh. Do vậy cần 
lưu ý khi bảo quản thực phẩm, nhất là thực phẩm đông lạnh [19], [66]. 
 Các chủng V. parahaemolyticus có phản ứng Kanagawa dương tính, thường 
tiết ra độc tố TDH. Các độc tố này có cấu tạo và cơ chế gây bệnh tương tự như độc tố 
tả cholerae ở V. cholerae, có vai trò hoạt hóa adenyl cyclase làm tăng quá trình tổng 
hợp cAMP dẫn đến việc tiết ion Cl- quá mức vào ruột. Hậu quả là NaCl được tích lũy 
cao ở bên trong lòng ruột nên nước bị kéo vào trong lòng ruột một cách thụ động, gây 
nên tiêu chảy. Tiêu chảy làm mất đi một lượng lớn nước cùng với ion K+ và 
bicarbonate. Bệnh tiêu chảy do V. parahaemolyticus gây ra có các triệu chứng như ớn 
lạnh, buồn nôn, đau thắt vùng bụng và sốt. Thường những triệu chứng này xuất hiện 
trong vòng 24 giờ sau khi nhiễm khuẩn. Bệnh thường kéo dài từ 1 đến 7 ngày, đôi khi 
dài hơn, trung bình khoảng 2,5 ngày [21]. 
 1.2.10. Clostridium botulinum 
 C. botulinum thuộc vi khuẩn Gram dương, hình que, kỵ khí bắt buộc, có khả 
năng tạo bào tử . Bào tử của C. botulinum có thể chịu được nhiệt độ 105oC trong 1 - 2 
giờ và bị tiêu diệt ở 120oC sau 20 - 30 phút. Một vài chủng bào tử có thể chịu đựng 
được nhiệt độ cao: 120oC trong vài giờ. C. botulinum chỉ tăng trưởng được ở nhiệt độ 
thích hợp là 34 - 35oC, với pH nằm trong khoảng 7,4 - 7,6. 
 C. botulinum gây bệnh chủ yếu là do độc tố thần kinh botulin, độc tố này được 
xem là độc tố có độc tính mạnh nhất trong tự nhiên, độc tính của nó có thể gấp 
100.000 lần so với độc tố của rắn chuông. Chỉ cần 0,1μg độc tố này cũng có thể gây 
chết người. Đây là một ngoại độc tố có bản chất protein, kém bền với nhiệt, bao gồm 
7 loại độc tố được ký hiệu lần lượt là: A, B, C, D, E. F và G [20], [14]. 
 Trong các nhóm độc tố của C. botulinum được phân loại như trên, chỉ có nhóm 
A, B, E và F có khả năng gây độc cho người. Các triệu chứng gây độc thường xuất 
hiện sau 18 - 36 giờ kể từ khi bệnh nhân ăn phải thực phẩm bị nhiễm độc tố. Triệu 
chứng ban đầu thường là buồn nôn, ói mửa và đau bụng. Bệnh nhân có thể bị tiêu 
chảy hoặc táo bón nhưng không sốt. Sau đó là các triệu chứng có liên quan đến thần 
kinh như khó nuốt, khó phát âm, sa mí mắt, các cơ bị mỏi hay yếu đi. Bệnh nhân 
không thể nhận thức minh bạch, nhức đầu, choáng váng. Trong giai đoạn cuối, nếu 
không được điều trị kịp thời, bệnh nhân khó thở, thở nhanh và gấp, cuối cùng chết do 
nghẹt thở [33]. 
 Danh mục các vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố được chúng tôi 
chọn để làm chỉ tiêu phân tích trong luận văn này bao gồm: Escherichia coli, 
Salmonella spp, Clostridium perfringens, Bacillus cereus và Staphylococus aureus. 
1.3. Các phương pháp phát hiện vi sinh vật trong thực phẩm 
 1.3.1. Phương pháp truyền thống 
Phương pháp nuôi cấy có lịch sử phát triển và ứng dụng lâu dài từ những năm 
80 của thế kỷ XIX, nên đã được các cơ quan có thẩm quyền công nhận ở mức quốc 
gia cũng như quốc tế. Hiện nay, các phương pháp nuôi cấy đang được sử dụng rộng 
rãi và được công nhận là phương pháp chuẩn trong xét nghiệm vi sinh vật gây bệnh 
[7], [8], [9]. Quy trình phát hiện vi sinh vật theo phương pháp truyền thống gồm các 
bước cơ bản sau: 
- Tăng sinh: là quá trình làm tăng số lượng vi sinh vật mục tiêu trên môi trường 
nuôi cấy, đồng thời hạn chế quá trình phát triển của các vi sinh vật khác. Quá trình 
tăng sinh có thể gồm hai giai đoạn: Giai đoạn tăng sinh và giai đoạn tăng sinh chọn 
lọc trên môi trường đặc trưng. 
- Phân lập: là quá trình tách vi sinh vật mục tiêu ra khỏi quần thể vi sinh vật 
ban đầu dựa trên một số tính đặc trưng của vi sinh vật đích. 
- Khẳng định sinh hóa: là dùng các thử nghiệm sinh hóa, thử nghiệm miễn dịch 
để định danh vi sinh vật [8]. 
Nhược điểm của đa số các phương pháp truyền thống là tốn nhiều thời gian, 
chậm thu kết quả, mất nhiều công sức, tốn kém. Để khắc phục những nhược điểm 
này, nhiều phương pháp nhanh và tự động đã được phát triển và thương mại hóa. Các 
phương pháp này có thể được gọi chung là các phương pháp không truyền thống, các 
phương pháp không hiện đại có đặc điểm chung là cho kết quả nhanh hơn các 
phương pháp truyền thống. 
 1.3.2. Các phương pháp hiện đại 
 1.3.2.1. Phương pháp phát quang sinh học ATP 
Đây là phương pháp định lượng tổng số vi sinh vật hiếu khí dựa trên nguyên 
tắc định lượng ATP. Phân tử adenosine triphosphate (ATP) được tìm thấy trong tất cả 
các tế bào sống, nên sự phát hiện ATP là dấu hiệu để nhận biết vật thể sống đang tồn 
tại. ATP được phát hiện một cách nhanh chóng bởi lượng ánh sáng phát ra thông qua 
sự kết hợp với enzyme luciferase nhờ một máy đo ánh sáng. Kỹ thuật này có độ nhạy 
cao, có thể phát hiện 1pg ATP tương ứng với 103 tế bào vi khuẩn. Tuy nhiên, phương 
pháp phát quang dựa trên ATP không thể phát hiện các vi sinh vật chuyên biệt [8]. 
Ngày nay, sự phát quang sinh học đã được sử dụng khá rộng rãi để đánh giá 
chất lượng vệ sinh bề mặt thiết bị trong quá trình sản xuất, chế biến, đánh giá chất 
lượng thực phẩm, mỹ phẩm. Quy trình thực hiện rất đơn giản, cho kết quả nhanh 
chóng trong vài phút và có thể dễ dàng tự động hóa. Nguyên tắc chung của quy trình 
này là: mẫu được thu bằng cách dùng que bông vô trùng quẹt một diện tích nhất định 
trên bề mặt dụng cụ, thiết bị. Sau đó que bông được cho vào dung dịch ly trích ATP, 
xử lý với ATPase và cho phản ứng ánh sáng [8]. 
1.3.2.2. Phương pháp ELISA (Enzyme-Linked Immuno Sorbent Assay) 
Nguyên tắc của phương pháp miễn dịch này là phản ứng kết hợp giữa một 
kháng nguyên với một kháng thể đặc hiệu. Tín hiệu của phản ứng miễn dịch có thể 
nhận biết thông qua sự ngưng tủa hay kết dính của kháng nguyên-kháng thể hoặc 
bằng cách sử dụng những kháng thể đã được đánh dấu bằng chất nhuộm phát huỳnh 
quang, đồng vị phóng xạ hay enzyme [3]. Cụ thể là ta sử dụng kháng thể phủ bên 
ngoài những đĩa giếng (microplate). Kháng nguyên (nếu có) trong mẫu sẽ được giữ 
lại trên bề mặt giếng. Các kháng nguyên này sẽ được phát hiện bằng cách sử dụng 
kháng thể thứ cấp có gắn với enzyme như: horseradish peroxidase hoặc alkaline 
phosphatase [9]. Khi bổ sung một cơ chất đặc hiệu của enzyme vào giếng, enzyme sẽ 
xúc tác phản ứng thủy phân cơ chất để tạo ra sản phẩm có màu hoặc phát sáng [8]. 
Theo dõi sự thay đổi màu có thể phát hiện và định lượng được lượng kháng nguyên 
trong mẫu [4]. 
Phương pháp hấp phụ miễn dịch dùng enzyme (ELISA) được quan tâm nhiều 
do tính đơn giản và hiệu quả cao. 
1.3.2.3. Phương pháp lai phân tử (Hybridization) 
Từ những năm 1980, nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm ứng dụng các 
thành tựu kỹ thuật di truyền, sinh học phân tử vào lĩnh vực thực phẩm [8]. 
Đây là phương pháp sử dụng mẫu dò để phát hiện vi sinh vật trong thực phẩm 
dựa trên sự phát hiện một đoạn gen đặc trưng của vi sinh vật qua quá trình lai. Cơ sở 
của sự lai phân tử là sự tách rời hai mạch đơn của chuỗi xoắn kép DNA khi nhiệt độ 
môi trường vượt quá nhiệt độ nóng chảy (Tm ) và sự tái bắt cặp trở lại giữa hai mạch 
khi nhiệt độ được giảm từ từ. Một trong hai mạch DNA bổ sung (thường là DNA 
mục tiêu) được cố định trên một giá thể rắn hoặc nằm ngay trên tế bào hay mô. Sự tái 
bắt cặp chỉ xảy ra giữa hai trình tự hoàn toàn bổ sung. Các trình tự bổ sung có thể là 
DNA hay RNA, dẫn đến sự hình thành các phân tử lai DNA-DNA hay DNA-RNA 
[10]. 
Quá trình lai phân tử chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi các yếu tố: nồng độ DNA 
trong môi trường, nhiệt độ và thời gian phản ứng, kích thước các trình tự lai và lực 
ion của môi trường. 
1.3.2.4. Phương pháp PCR (Polymerase Chain Reaction) 
Phương pháp PCR là một phương pháp in vitro để tổng hợp DNA dựa trên 
khuôn là một trình tự đích DNA ban đầu, khuếch đại, nhân số lượng bản sao của 
khuôn này thành hàng triệu bản sao nhờ hoạt động của enzyme DNA polymerase và 
một cặp mồi (primer) đặc hiệu cho đoạn DNA đó [8], [11]. Kỹ thuật này do Karl 
Mullis và cộng sự (Mỹ) phát minh vào năm 1985. Hiện nay, kỹ thuật PCR được sử 
dụng rộng rãi để phát hiện, chuẩn đoán bệnh, phát hiện các vi sinh vật có trong thực 
phẩm. 
Phương pháp này dựa trên nguyên tắc là: tất cả các DNA polymerase đều cần 
những mồi chuyên biệt để tổng hợp một mạch DNA mới từ khuôn. Mạch khuôn 
thường là một trình tự DNA của gen (gọi là trình tự DNA mục tiêu) đặc trưng cho 
loài vi sinh vật mục tiêu hoặc là gen quy định việc tổng hợp một loại độc tố chuyên 
biệt của vi sinh vật này. Mồi là những đoạn DNA ngắn, có khả năng bắt cặp bổ sung 
với một đầu của mạch khuôn. Nhờ hoạt động của DNA polymerase đoạn mồi này 
được nối dài để hình thành mạch mới có trình tự bổ sung ngược chiều với mạch 
khuôn. Nếu có hai mồi chuyên biệt bắt cặp bổ sung ở hai đầu của một trình tự DNA, 
ở điều kiện đảm bảo hoạt động của DNA polymerase trong phản ứng PCR, số lượng 
bản sao của đoạn DNA nằm giữa hai mồi sẽ được nhân lên (khuếch đại) đến mức có 
thể thấy được vạch của DNA sau khi nhuộm bằng Ethidium bromide [3], [7], [8]. 
 Để khuếch đại một trình tự DNA xác định, cần phải có những thông tin tối 
thiểu về trình tự của DNA, đặc biệt là trình tự base ở hai đầu đoạn DNA đủ để tạo 
được cặp mồi chuyên biệt. Cặp mồi này gồm một mồi xuôi (sense primer) và một 
mồi ngược (antisense primer) so với chiều phiên mã của gen. 
Ngoài các phương pháp không truyền thống trên, hiện nay còn sử dụng một số 
phương pháp thử nhanh khác như: 
+ Kỹ thuật phân tách và tăng mật độ: nhằm tách các tế bào vi sinh vật mục tiêu 
với các tế bào vi sinh vật khác, bằng cách sử dụng những hạt có từ tính cao được bao 
bọc bên ngoài bởi những kháng thể của vi sinh vật mục tiêu [8], [17]. Các hạt này 
giúp hấp phụ chọn lọc các vi sinh vật mục tiêu và giữ chúng lại trênbờ mặt các hạt từ 
và tách chúng ra khỏi các quần thể vi sinh vật khác [8], [12]. 
+ Kỹ thuật màng Petri (Petrifilm): kỹ thuật này đã được dùng trong các ứng 
dụng kiểm tra tổng vi khuẩn hiếu khí, số coliform, nấm mốc, nấm men. Ưu điểm của 
kỹ thuật này là dễ thao tác, tiết kiệm không gian ủ và bảo quản, thời hạn sử dụng lâu 
và không cần hấp khử trùng môi trường [8]. 
+ Kỹ thuật độ dẫn điện, trở kháng (Conductance/ impedance): kỹ thuật này 
nhằm phát hiện và định lượng nhanh vi sinh vật dựa trên sự tăng độ dẫn điện của môi 
trường do sản phẩm trao đổi chất có tính ion được tiết vào môi trường bởi vi sinh vật. 
Môi trường nuôi cấy chọn lọc có tác dụng như dung dịch điện phân. Sự thay đổi về 
độ dẫn điện được ghi nhận bởi các thiết bị đo, nhờ vậy giúp phát hiện các vi sinh vật 
trong môi trường nuôi cấy [8], [24]. 
 1.3.3. Ưu điểm và nhược điểm của các phương pháp 
- Phương pháp truyền thống để phát hiện vi sinh vật gây bệnh được xem là 
phương pháp chuẩn và đang được sử dụng phổ biến trong các phòng thí nghiệm và 
các trung tâm phân tích. Tuy nhiên, việc phát hiện bằng phương pháp này tốn nhiều 
thời gian (5 - 7 ngày), tốn kém và mất nhiều công sức [8]. 
- Phương pháp ELISA có ưu điểm và độ nhạy cao, nhưng độ đặc hiệu lại thấp, 
do có thể hình thành các phản ứng chéo không đặc hiệu giữa các chủng khác nhau, 
phương pháp này đòi hỏi độ tinh sạch của mẫu cao nhằm tránh sự ức chế bởi các 
protein trong thực phẩm. Mặt khác, mẫu cần nguyên vẹn, không bị biến tính để tránh 
trường hợp cho kết quả âm tính giả [58]. 
- Phương pháp lai phân tử và phương pháp PCR đang được ứng dụng nhiều 
nhất hiện nay. Phương pháp lai dùng mẫu dò không đánh dấu bằng phóng xạ (được 
khuyến cáo sử dụng) chỉ phát hiện được vi sinh vật ở mức 106 - 108 tế bào/g mẫu. 
Trong khi đó, thông thường độ nhạy của phản ứng PCR có thể là 1 - 10 tế bào/g mẫu 
[23], [68]. 
Nhìn chung, so với các phương pháp hiện đại đã đề cập trên, phương pháp 
PCR có một số ưu điểm sau: 
+ Thời gian cho kết quả nhanh: phương pháp PCR có thể phát hiện vi sinh vật 
trong mẫu thực phẩm trong khoảng 1 - 2 ngày, trong khi đó, phương pháp nuôi cấy 
truyền thống là 5 - 7 ngày [8]. 
+ Thao tác đơn giản, có thể phân tích những vi sinh vật khó nuôi cấy, việc nuôi 
cấy tăng sinh đơn giản không cần qua giai đoạn tăng sinh chọn lọc. 
+ Hoá chất cần cho phản ứng PCR dễ tìm, dễ bảo quản. Không sử dụng nhiều 
môi trường nuôi cấy phức tạp như phương pháp nuôi cấy [4]. 
+ Độ nhạy và độ đặc hiệu của phương pháp PCR cao do nguyên tắc phát hiện 
dựa trên kiểu gen chuyên biệt của từng vi sinh vật đích [7]. 
Hiện nay, phòng thí nghiệm sinh học phân tử Trường Đại học Khoa học tự 
nhiên ĐHQG TP. HCM đã chuyển giao các quy trình và bộ kit PCR xét nghiệm các 
vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm với giá 30.000 VND, với giá thành này có thể 
cạnh tranh với các phương pháp khác [57]. 
Chính vì những ưu điểm trên mà phương pháp PCR đang ngày càng được sử 
dụng rộng rãi trong các xét nghiệm vi sinh. 
1.4. Tình hình ứng dụng kỹ thuật PCR vào việc kiểm tra các vi sinh vật gây bệnh 
trong thực phẩm trên thế giới và tại Việt Nam 
 1.4.1. Lịch sử ra đời kỹ thuật PCR 
Phương pháp PCR được Kary Mullis người Mỹ phát minh vào năm 1985 và 
được thừa nhận chính thức từ năm 1993, ._.ậy dễ dàng nhiễm các vi khuẩn E. coli, B. cereus, C. perfringens, Salmonella từ 
đất và S. aureus từ tay người. 
3.1.2.3. Nhận xét về tính tương đồng kết quả phân tích của 2 phương pháp 
PCR và nuôi cấy 
 Trong 26 mẫu nước giải khát được kiểm tra bao gồm các loại: nước sâm, nước 
mía và nước rau má. Tính tương đồng về kết quả của phương pháp PCR so với 
phương pháp nuôi cấy truyền thống được thống kê, phân tích và tổng hợp ở Bảng 3.4 
Bảng 3.4. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm nước giải khát tại TP. HCM theo 
phương pháp PCR và nuôi cấy 
E. coli S. aureus C. perfringens Thống kê 
 PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-)
NC (+) 17 2 0 0 5 0 
NC (-) 0 7 0 26 1 20 
Độ chính xác tương 
đối (AC%) 92,31% 100% 96,15% 
Độ khác biệt giữa hai 
phương pháp ( 2 ) 0.5 0 0 
 Qua bảng thống kê cho thấy: 
a. Đối với chỉ tiêu S. aureus 
Kết quả giữa phương pháp PCR và phương pháp truyền thống hoàn toàn khớp 
với nhau. Tỉ lệ tương đồng giữa hai phương pháp đạt 100%. 
b. Đối với chỉ tiêu E. coli 
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 17/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 65,38% 
+ Kết quả tương đồng (-): 7/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 26,92% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 2/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 7,69% 
Như vậy, bộ kit E. coli cho kết quả tương đồng giữa hai phương pháp PCR và 
NC là 92,31%, kết quả không tương đồng giữa PCR và NC là 7,69%. Nhưng độ khác 
biệt giữa hai phương pháp là 0,5 vẫn nhỏ hơn 3,84, chứng tỏ không có sự khác biệt về 
kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy. 
c. Đối với chỉ tiêu C. perfringens 
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 5/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 19,23% 
+ Kết quả tương đồng (-): 20/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 76,92% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 1/26 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,85% 
Bộ kit C. perfringens cho kết quả tương đồng giữa hai phương pháp PCR và 
NC là 96,15%, kết quả không tương đồng PCR (+) và NC (-) là 3,85%. Độ khác biệt 
giữa hai phương pháp là 0 nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ độ tin cậy về kết quả giữa phương 
pháp PCR và nuôi cấy là tương đương. 
 3.1.3. Kết quả phân tích nhóm mẫu kem 
 3.1.3.1. Thống kê kết quả phân tích bằng hai phương pháp 
Phân tích 30 mẫu kem (kem ly, kem ký, kem tươi, kem chiên, kem marino và 
kem cây) theo phương pháp PCR và nuôi cấy, kết quả được thống kê ở phần phụ lục. 
3.1.3.2. Nhận xét về tình hình vệ sinh thực phẩm trên nhóm kem 
Trong khi lấy mẫu và khảo sát thực tế tại các điểm bán kem trên địa bàn một số 
quận của TP. HCM đã ghi nhận: 
- Dùng nước máy để pha chế các nguyên liệu, sử dụng dụng cụ đã cũ, không 
sạch sẽ và dùng tay để trộn các nguyên liệu rất mất vệ sinh. 
- Tủ đựng kem còn chứa các thực phẩm tươi sống khác như: rau, thịt, cá, hải 
sản,… nên các vi sinh vật gây bệnh từ các loại thực phẩm này dễ dàng nhiễm sang 
kem. Chính vì vậy mà qua khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong mẫu kem tại 
TP. HCM cho kết quả như sau: 
Kết quả đánh giá tình hình nhiễm vi sinh vật trong 30 mẫu kem trên địa bàn 
TP. HCM theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế được ghi nhận ở Bảng 3.5. 
Bảng 3.5. Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP. 
HCM theo phương pháp PCR và nuôi cấy 
Salmonella E. coli S. aureus C. perfingens 
Thống kê 
PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC 
Số mẫu không đạt 
(N = 30) 
0 0 25 21 7 9 0 0 
Tỉ lệ mẫu không 
đạt (%) 0 0 83,33 70 23,33 30 0 0 
 NC: phương pháp nuôi cấy; PCR: phương pháp PCR 
Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP. HCM bằng cả 
hai phương pháp được thể hiện ở Biểu đồ 3.3 
65.38
73.1
0 0
23.08
19.23
0
10
20
30
40
50
60
70
80
E. coli S. aureus C.perfringens
PCR
NC
Biểu đồ 3.3. Tình hình nhiễm vi sinh vật trên nhóm kem tại TP. HCM 
* Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp nuôi cấy 
- Số mẫu không đạt tiêu chuẩn là: 21 mẫu nhiễm E. coli chiếm 70%, 9 mẫu nhiễm S. 
aureus chiếm 30%, số mẫu không đạt chung là 20 mẫu chiếm tỷ lệ 70% và nhiễm chủ 
yếu là E. coli (70% ), sau đó là do S. aureus (30%). 
* Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp PCR 
- Số mẫu không đạt tiêu chuẩn là: 25 mẫu nhiễm E. coli chiếm 83,33%, 7 mẫu 
nhiễm S. aureus chiếm 23,33%, số mẫu không đạt chung là 20 mẫu chiếm tỉ lệ 70% 
và chủ yếu cũng do nhiễm E. coli (83,33%), sau đó là do nhiễm S. aureus (23,33%). 
Như vậy, mẫu kem không đạt tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm do nhiễm 
E. coli là chủ yếu (PCR: 83,33%, nuôi cấy: 70%), sau đó là do nhiễm S. aureus 
(PCR: 23,33%, nuôi cấy: 30%). 
Như vậy tỉ lệ nhiễm vi sinh vật trên mẫu kem rất cao, cao nhất trong ba nhóm 
mẫu được khảo sát, trong đó hiện diện nhiều nhất là E. coli, kế tiếp là do S. aureus, 
điều này cho thấy tình trạng không đảm bảo vệ sinh trong khâu chế biến, bảo quản và 
sử dụng sản phẩm rất phổ biến. Do vậy, cần đảm bảo vấn đề vệ sinh an toàn thực 
phẩm đối với các loại thực phẩm là điều cần thiết và cấp bách hiện nay. 
3.1.3.3. Nhận xét về tính tương đồng về kết quả phân tích giữa phương pháp 
PCR và nuôi cấy 
Kết quả kiểm tra 30 mẫu kem theo phương pháp PCR và nuôi cấy. Tính tương 
đồng của hai phương pháp được thể hiện ở Bảng 3.6 
Bảng 3.6. Thống kê kết quả kiểm tra trên nhóm kem tại TP. HCM 
theo phương pháp PCR và nuôi cấy 
Salmonella E. coli S. aureus C. perfringensKý hiệu mẫu 
PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) 
NC (+) 0 0 21 0 7 2 0 0 
NC (-) 0 30 4 5 0 21 0 30 
Độ chính xác tương 
đối (AC%) 100% 86,67% 93,33% 100% 
Độ khác biệt giữa 
hai phương pháp 
( 2 ) 
0 2,25 0,5 0 
Qua bảng thống kê cho thấy tính tương đồng của phương pháp PCR so vớiu 
phương pháp nuôi cấy như sau: 
a. Đối với chỉ tiêu Salmonella và C. perfringens 
Độ tương đồng giữa hai phương pháp là 100%, cả hai phương pháp đều không 
pháp hiện Salmonella và C. perfringens trong các mẫu kem. 
b. Đối với chỉ tiêu E. coli 
+ Kết quả tương đồng (+) của hai phương pháp: 21/30 mẫu, chiếm 70% 
+ Kết quả tương đồng (-): 5/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 16,67% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 4/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 13,33% 
Như vậy, bộ kit PCR phát hiện E. coli cho kết quả tương đồng giữa hai phương 
pháp PCR và NC là 86,67%, kết quả không tương đồng giữa là 13,33%. Nhưng độ 
khác biệt giữa hai phương pháp là 2,25 vẫn nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ không có sự khác 
biệt về kết quả phân tích giữa phương pháp PCR và nuôi cấy. 
c. Đối với chỉ tiêu S. aureus 
+ Kết quả tương đồng (+): 7/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 23,33% 
+ Kết quả tương đồng (-): 21/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 70% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 2/30 mẫu, chiếm tỉ lệ 6,67% 
Như vậy, bộ kit PCR phát hiện S. aureus cho kết quả tương đồng giữa hai 
phương pháp PCR và NC là 93,33%, kết quả không tương đồng giữa PCR và NC là 
6,67%. Tuy nhiên, độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0,5 nhỏ hơn 3,84, chứng tỏ 
không có sự khác biệt về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy. 
Từ các kết quả phân tích trên đã khẳng định: các quy trình, bộ kit PCR phát 
hiện E. coli, S. aureus, Salmonella, B. cereus và C. perfringens hiện diện trong thực 
phẩm đều cho kết quả tương đương với phương pháp nuôi cấy truyền thống. Vì vậy, 
có thể áp dụng quy trình và các bộ kit này để phát hiện sự có mặt của các vi sinh vật 
trên trong các mẫu thực phẩm. 
3.2. Kết luận chung 
 3.2.1. Mức độ nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong thực phẩm đường phố trên 
địa bàn TP. HCM 
Chúng tôi đã tiến hành thu thập và kiểm tra tổng cộng 77 mẫu, bao gồm: 21 
mẫu sữa (sữa đậu xanh: 6 mẫu, sữa đậu nành: 5 mẫu, sữa chua: 5 mẫu và sữa tươi: 5 
mẫu); 26 mẫu nước giải khát (nước sâm: 8 mẫu, nước mía: 8 mẫu và nước rau má: 10 
mẫu) và 30 mẫu kem (kem tươi: 10 mẫu, kem ký: 6 mẫu, kem ly: 4 mẫu, kem cây: 8 
mẫu, 1 mẫu kem Marino và 1 mẫu kem chiên) tại các địa điểm: Quận 3 (chợ Bùi 
Phát, đường Nguyễn Thị Minh Khai, đường Võ Văn Tần và đường Cách Mạng 
Tháng Tám); Quận 5 (đường Nguyễn Biểu, đường Hồng Bàng, đường Trần Bình 
Trọng và đường Nguyễn Văn Cừ); Quận 8 (chợ Rạch Ông, đường Nguyễn Biểu, 
đường Nguyễn Thị Tần, đường Phạm Thế Hiển, đường Dạ Nam và đường Âu Dương 
Lân); Quận 10 (đường Nguyễn Tri Phương, đường 3 tháng 2, đường Lê Hồng Phong 
và đường Sư Vạn Hạnh) và Quận Tân Bình (đường Cách Mạng Tháng Tám, đường 
Bàu Cát và đường Bình Giã). Qua kết quả kiểm tra cho thấy tình hình nhiễm các loại 
vi sinh vật gây bệnh trên nhóm thực phẩm đường phố tại địa bàn TP. HCM như sau: 
3.2.1.1. Đối với nhóm sữa 
Tiến hành thu và phân tích 21 mẫu sữa, kết quả phân tích theo phương pháp 
nuôi cấy và PCR cho thấy tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm sữa 
chiếm tỉ lệ 52,4% so với quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đối với mẫu sữa của 
Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998). Trong đó tỉ lệ nhiễm cao nhất là E. coli (47,62%), 
sau đó là nhiễm B. cereus (40,48%) và cuối cùng là do nhiễm S. aureus (30,95%), 
không phát hiện sự hiện diện của Salmonella. 
3.2.1.2. Đối với nhóm nước giải khát 
Phân tích 26 mẫu nước giải khát theo hai phương pháp, kết quả cho thấy tình 
hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong nhóm thực phẩm này chiếm 76,9% so với chỉ 
tiêu cho phép của Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998), trong đó nhiễm cao nhất vẫn là 
E. coli (69,24%), sau đó là do nhiễm C. perfringens (21,16%), trong nhóm này không 
phát hiện sự hiện diện của S. aureus. 
3.2.1.3. Đối với nhóm kem 
Phân tích 30 mẫu kem, kết quả của hai phương pháp cho thấy, số mẫu không 
đạt so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế (867/QĐ-BYT, 04/1998) chiếm tỷ lệ 70% , 
trong đó, tỉ lệ nhiễm cao nhất vẫn là E. coli (76,67% ), tiếp đó tới S. aureus (26,67%), 
ở nhóm này không phát hiện sự hiện diện của Samonella và C. perfringens. 
Như vậy qua khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trên nhóm thực 
phẩm đường phố tại địa bàn TP. HCM cho thấy tình hình nhiễm vi sinh trong nhóm 
thực phẩm này rất cao so với quy định của Bộ Y tế. Chính vì thế cần phải có những 
giải pháp để khắc phục hiện trạng này, nhằm đảm bảo sức khỏe, tính mạng người dân 
và sự phát triển bền vững của đất nước. 
 3.2.2. Nhận xét chung về độ chính xác tương đối của phương pháp PCR so 
với phương pháp nuôi cấy 
Kết quả khảo sát tình hình nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong ba nhóm thực 
phẩm đường phố là sữa, nước giải khát và kem trên địa bàn TP. HCM đều cho thấy 
tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy là tương đương 
nhau. 
Tính tương đồng về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy được thống 
kê, phân tích và tổng hợp theo Bảng 3.7 và Bảng 3.8. 
Bảng 3.7. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương 
pháp nuôi cấy đối với chỉ tiêu Salmonella, E. coli, S. aureus 
Salmonella E. coli S. aureus Chỉ tiêu 
PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) PCR(+) PCR(-) 
NC (+) 0/51 0/51 48/77 3/77 12/77 3/77 
NC (-) 0/51 51/51 4/77 22/77 2/77 60/77 
Độ chính xác tương đối AC%) 100 90,91 93,51 
Độ khác biệt giữa hai phương 
pháp ( 2 ) 0 0 0 
Bảng 3.8. Tính tương đồng của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi 
cấy đối với chỉ tiêu B. cereus C. perfringens 
B. cereus C. perfringens 
Chỉ tiêu PCR(+) PCR (-) PCR(+) PCR (-) 
NC (+) 8/21 0/21 5/56 0/56 
NC (-) 1/21 12/21 1/56 50/56 
Độ chính xác tương đối (AC%) 95,24 98,21 
Độ khác biệt giữa hai 
phương pháp ( 2 ) 0 0 
Kết quả phân tích tính tương đồng cuả phương pháp PCR và nuôi cấy ở Bảng 
3.7 và Bảng 3.8 cho thấy: 
a. Trường hợp các chỉ tiêu Salmonella 
Bộ kit PCR phát hiện Salmonella trong thực phẩm cho kết quả tương đồng 
giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là 100%. Độ chính xác tương đối đạt 100%. Độ 
khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy về kết quả giữa phương 
pháp PCR và phương pháp nuôi cấy trong phân tích này là tương đương nhau. 
b. Trường hợp các chỉ tiêu E. coli 
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 48/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 
62,34% 
+ Kết quả tương đồng (-): 22/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 28,57% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-): 4/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 5,19% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+): 3/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,90%. 
Bộ kit PCR phát hiện E. coli trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa 
phương pháp PCR và nuôi cấy là 90,91%, kết quả không tương đồng giữa hai phương 
pháp là 9,09%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy về kết 
quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương. 
c. Trường hợp các chỉ tiêu S. aureus 
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 12/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 
15,58% 
+ Kết quả tương đồng (-) : 60/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 77,92% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 2/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 2,60% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 3/77 mẫu, chiếm tỉ lệ 3,89% 
Bộ kit PCR phát hiện S. aureus trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa 
hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 93,51%, kết quả không tương đồng giữa hai 
phương pháp là 6,49%. Không có sự khác biệt giữa hai phương pháp. Chứng tỏ độ 
tin cậy về kết quả giữa phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương. 
 d. Trường hợp các chỉ tiêu B. cereus 
+ Kết quả tương đồng (+) : 8/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 38,1% 
+ Kết quả tương đồng (-) : 12/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 57,14% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 1/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 4,76% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 0/21 mẫu, chiếm tỉ lệ 0% 
Bộ kit PCR phát hiện B. cereus trong thực phẩm cho kết quả tương đồng giữa 
hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 95,24 %, kết quả không tương đồng giữa hai 
phương pháp là 4,76%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin cậy 
về kết quả giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là như nhau. 
 e. Trường hợp các chỉ tiêu C. perfringens 
+ Kết quả tương đồng (+) của cả hai phương pháp: 5/56 mẫu, chiếm tỉ lệ 
8,93% 
+ Kết quả tương đồng (-) : 50/56 mẫu, chiếm tỉ lệ 89,29% 
+ Kết quả PCR (+) và NC (-) : 1/56 mẫu, chiếm tỉ lệ 1,78% 
+ Kết quả PCR (-) và NC (+) : 0/65 mẫu, chiếm tỉ lệ 0% 
Bộ kit PCR phát hiện C. perfringens trong thực phẩm cho kết quả tương đồng 
giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là 98,21%, kết quả không tương đồng giữa 
hai phương pháp là 1,78%. Độ khác biệt giữa hai phương pháp là 0. Chứng tỏ độ tin 
cậy về kết quả giữa hai phương pháp PCR và nuôi cấy là tương đương. 
Từ các kết quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh ở trên, có thể khẳng định: quy 
trình và các bộ kit PCR phát hiện sự hiện diện của Salmonella, E. coli, S. aureus, B. 
cereus và C. perfringens trong thực phẩm là đáng tin cậy và tương đương với phương 
pháp nuôi cấy truyền thống. 
 3.2.3. Nhận xét về ưu điểm và nhược điểm của phương pháp PCR so với 
phương pháp nuôi cấy truyền thống 
3.2.3.1. Ưu điểm 
 - Các kết quả phân tích giữa phương pháp PCR và phương pháp nuôi cấy 
truyền thống trên các chỉ tiêu vi sinh: E. coli, Salmonella, S. aureus, B.cereus và C. 
perfringens đều cho thấy kết quả của phương pháp PCR là tương đương với phương 
pháp nuôi cấy. Trong đó có một số trường hợp sai khác như sau: 
 + Trong nhóm sữa 
 Ở chỉ tiêu S. aureus, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 7/21 mẫu (+), 
kết quả phân tích theo phương pháp nuôi cấy có 6/21 mẫu (+). Chỉ tiêu B. cereus, kết 
quả theo phương pháp PCR có 9/21 mẫu (+), theo phương pháp nuôi cấy có 8/21 mẫu 
(+). Các chỉ tiêu khác đều như nhau. 
 + Trong nhóm nước giải khát 
 Ở chỉ tiêu E. coli, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 17/26 mẫu (+), 
kết quả theo phương pháp nuôi cấy có 19/26 mẫu (+). 
 Chỉ tiêu C. perfringens, kết quả theo PCR có 6/26 mẫu (+), theo nuôi cấy có 5/26 
mẫu (+). Các chỉ tiêu khác thì tương đương. 
 + Trong nhóm kem 
 Ở chỉ tiêu E. coli, kết quả phân tích theo phương pháp PCR có 25/30 mẫu (+), 
kết quả theo phương pháp nuôi cấy có 21/30 mẫu (+). Chỉ tiêu S. aureus, kết quả theo 
phương pháp PCR có 7/30 mẫu (+), theo nuôi cấy có 9/30 mẫu (+). Các chỉ tiêu còn 
lại như nhau. 
 Mặc dù có một vài sai khác về kết quả khi phân tích chỉ tiêu vi sinh trong các 
mẫu thực phẩm trên, nhưng độ khác biệt giữa hai phương pháp trong tất cả các 
trường hợp đều nhỏ hơn 3,84. Chứng tỏ, hai phương pháp này có độ tin cậy như 
nhau. Mặc khác, trong một số trường hợp phương pháp PCR tỏ ra có độ nhạy cao hơn 
phương pháp nuôi cấy truyền thống và đây cũng là ưu điểm của phương pháp PCR 
đối với mục đích xét nghiệm nhanh truy tìm nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm 
hiện nay ở nước ta. 
 - Ngoài ra, phương pháp PCR còn có ưu điểm là cho kết quả nhanh, trong vòng 
24 giờ đối với tất cả các vi sinh vật cần xét nghiệm. Vì thế, phương pháp PCR giúp 
tìm ra nguyên nhân gây ngộ độc nhanh hơn so với phương pháp nuôi cấy. Đây là 
điểm vượt trội của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy trong việc xác 
định nguyên nhân gây ngộ độc thực phẩm. 
 - Hơn nữa, phương pháp PCR có thể xét nghiệm dễ dàng hầu hết các vi sinh 
vật gây ngộ độc thực phẩm trong cùng một thời gian, cùng một nguyên tắc và cùng 
một thiết bị, do đó ít tốn nhiều nhân lực, thời gian khi tiến hành xét nghiệm. 
 - Hiện nay, Phòng thí nghiệm Sinh học Phân tử Trường ĐHKHTN, ĐHQG TP. 
HCM, đã và đang cung cấp các bộ kit xét nghiệm này cho các cơ quan, xí nghiệp có 
nhu cầu với giá khoảng 30.000 VND [51]. 
3.2.3.2. Nhược điểm 
Tuy nhiên, phương pháp PCR cũng có một số hạn chế là giá thành bộ kit phân 
tích ở các chỉ tiêu E. coli, S. aureus, B. cereus và C. perfringens vẫn còn cao hơn so 
với phương pháp truyền thống. Nhưng, giá thành của các bộ kit này vẫn còn thấp hơn 
nhiều lần so với các bộ kit cùng chủng loại được nhập từ nước ngoài mà vẫn đảm bảo 
ưu điểm về thời gian cũng như tính chích xác về kết quả của bộ kit. Mặc khác, 
phương pháp PCR đòi hỏi phải có các trang thiết bị hiện đại như máy PCR, máy ly 
tâm, máy vortex, hệ thống điện di và máy xem kết quả điện di thì mới có thể tiến 
hành kỹ thuật PCR. 
4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 
4.1. Kết luận 
 Với các kết quả thực nghiệm thu được đã trình bày ở phần trên, chúng tôi có 
một số kết luận như sau: 
 - Kết quả ứng dụng quy trình, bộ kit PCR phát hiện E. coli, Salmonella, S. 
aureus, B. cereus và C. perfringens trong thực phẩm để kiểm tra tình hình an toàn vệ 
sinh thực phẩm trên nhóm thực phẩm đường phố tại TP. HCM cho thấy đa số các 
thực phẩm thuộc nhóm sữa, kem và nước giải khát trên địa bàn TP. HCM đều có chỉ 
tiêu vi sinh cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế đối với nhóm thực phẩm 
này. Cụ thể là: 
+ Đối với nhóm sữa (sữa đậu xanh, sữa đậu nành, sữa tươi và sữa chua), tỉ lệ 
nhiễm các vi sinh vật gây bệnh cao hơn so với tiêu chuẩn cho phép của Bộ Y tế 
(04/1998) là 52,4%, trong đó hiện diện nhiều nhất là E. coli (chiếm 47,62%), sau đó 
là nhiễm B. cereus (chiếm 42,86%) và cuối cùng do nhiễm S. aureus (chiếm 33,33%). 
+ Đối với nhóm nước giải khát (nước sâm, nước mía và nước rau má) có tỉ lệ 
nhiễm vi sinh cao hơn so với chỉ tiêu cho phép của Bộ Y tế là 76,9%, trong đó nhiễm 
chủ yếu cũng là E. coli (chiếm 73,1%), sau đó là do sự hiện diện của C. perfringens 
(chiếm 23,08%). 
+ Đối với nhóm kem (kem tươi, kem ký, kem ly, kem cây, kem Marino và kem 
chiên), tình hình nhiễm vi sinh vật cao hơn so với tiêu chuẩn của Bộ Y tế là 70%, 
đứng đầu là do nhiễm E. coli (chiếm 83,33%), sau đó là do nhiễm S. aureus (chiếm 
30%). 
- Từ các kết quả về tính tương đồng và độ tin cậy giữa phương pháp PCR và 
phương pháp nuôi cấy như ở trên, có thể kết luận rằng: kết quả phân tích của quy 
trình, bộ kit PCR phát hiện E. coli, Salmonella, S. aureus, B. cereus và C. perfringens 
bằng phương pháp PCR là hoàn toàn tương đương với phương pháp nuôi cấy. Kết 
quả phân tích các chỉ tiêu vi sinh hiện diện trong thực phẩm bằng phương pháp PCR 
là đáng tin cậy. 
- Ưu điểm của phương pháp PCR so với phương pháp nuôi cấy là độ nhạy và độ 
đặc hiệu cao, có thể phát hiện sự hiện diện của các vi sinh vật gây bệnh ở mức 1 - 
10CFU/25g mẫu thực phẩm. Thời gian cho kết quả nhanh, trong vòng 24 giờ, ngắn 
hơn rất nhiều so với phương pháp nuôi cấy (từ 3 - 7 ngày). Hơn nữa, các thao tác cuả 
kỹ thuật PCR đơn giản, dễ thực hiện và có thể xét nghiệm hầu hết các vi sinh vật 
trong cùng một thời gian và thiết bị. Với những ưu điểm này, phương pháp PCR có 
thể thay thế phương pháp nuôi cấy truyền thống và phổ biến rộng rãi hơn nữa trong 
việc xét nghiệm sự hiện diện của các vi sinh vật gây ngộ độc trong thực phẩm. Tuy 
nhiên, phương pháp PCR cũng có nhược điểm là giá thành còn cao và đòi hỏi các 
trang thiết bị hiện đại. 
4.2. Đề nghị 
 - Cần ứng dụng quy trình, bộ kit PCR xét nghiệm các vi sinh vật gây bệnh 
trong thực phẩm ở nhiều lĩnh vực trong việc giám sát tình hình an toàn vệ sinh thực 
phẩm trong nước và xuất nhập khẩu hiện nay tại Việt Nam. 
 - Sử dụng phương pháp PCR để khảo sát sự nhiễm vi sinh vật gây bệnh trong 
nhiều nhóm thực phẩm khác thuộc thức ăn đường phố tại nhiều địa phương trong cả 
nước, nhằm đưa ra kết luận chung về tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm đường phố 
ở nước ta hiện nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Bùi Thị Thu Thuận, Phạm Văn Sổ (1975), Kiểm nghiệm lương thực, thực phẩm, 
Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
2. Danh mục tiêu chuẩn vệ sinh đối với lương thực thực phẩm (Theo TCVN và 
867/1998/QĐ - BYT). 
3. Lê Đình Hùng (1998), Đại cương về phương pháp kiểm tra vi sinh vật thực phẩm, 
Trung tâm tiêu chuẩn đo lường chất lượng khu vực III, TP. HCM. 
4. Lê Huy Chính (2005), Cẩm nang vi sinh vật y học, Nhà xuất bảm Y học, TP. 
HCM 
5. Lương Đức Phẩm (2000), Vi sinh vật và an toàn vi sinh thực phẩm, Nhà xuất bản 
Nông Nghiệp, Hà Nội. 
6. Lương Đức Phẩm và một số tác giả (1980), Vi sinh vật trong lương thực, thực 
phẩm, tạp chí lương thực, thực phẩm, Nhà xuất bản Hà Nội. 
7. Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Chúc, Lê Văn Việt Mẫn (2001), Thực tập vi sinh vật 
học thực phẩm, Trường Đại học Kỹ Thuật TP. HCM. 
8. Trần Linh Thước (2002), Phương pháp phân tích vi sinh vật trong nước, thực 
phẩm và mỹ phẩm, Nhà xuất bản Giáo dục, TP. HCM 
9. Trần Thị Nhài (2005), Nghiên cứu hiện trạng ô nhiễm vi khuẩn trong thịt tươi 
sống trên thị trường Hà Nội, Viện khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt 
Nam, Hà Nội. 
Tiếng Anh 
10. Adams abd M.O.Moss (2001), Food Microbiology, published by the Royal 
society of chemistry, 60 - 81. 
11. C. Schultsz et. Al (1994), Detection of enterotoxigenic Escherichia coli in stool 
samples by using nonradioactively labeled oligonucleotide DNA probes and 
PCR, J Clin Microbiol. 32 (10), 2392 – 2397. 
12. Collins, Lyne (1995), Microbiological Methods. 7th ed. Butterworth. 
13. Cynthia W. Brasher, Angelo Depaola, Daniel D. Jones, Asim K. Bej (1998), 
Detection of Microbial Pathogens in Shellfish with Multiplex PCR, Curren 
Microbiology, 37 (2), 101 – 108. 
14. E. Augustynowicz, A. Gzyl and J. Slusarczyk. Detection of enterotoxigenic 
Clostridium perfringens with a duplex PCR. J. Med. Microbiol. Patrick. Vol. 
54. 
15. George A. Wistreich (1997), Microbiology Laboratory Fundamentals and 
Applications, Prentice-Hall, Inc., USA 
16. Hau-Yang Tsen et. Al. (2002), Bacillus cereus group strains, their hemolysin 
activity and their detection in foods using a 16S RNA ang hemolysin gene-
targeted multiplex polymerase chain reaction system, Journal of Food 
Protection, 63 (11), 1496 – 1502. 
17. James M.Jay (1996), Modern food and microbiology. 
18. James P. Nataro, James B. Kaper (1998), Diarrheagenic Escherichia coli, 
Clinical Microbiology Reviews, 11 (1), 142 – 201. 
19. Microbiological analysis. FAO food and nutrient paper. Rome. 
20. Patrick Fach and Michel R. Popoff (1997), Detection of enterotoxigenic 
Clostridium perfringens in food and fecal samples with a duplex PCR and 
the slide latex agglutination test. Applied and Enviromental Microbiology 
Journal. Vol. 63. No. 11. 
21. W. Andrews (1992), Manual of food quality control 4 Rev. 1. Microbiological 
analysis. FAO food and nutrient paper. Rome. 
22. Wijnands LM., Dufrenne JB., Leusden FM (2002), Characterization of Bacillus 
cereus, 2509 – 12002. 
23. William C., Frcezier and Denmis C.Westhoff. Food Mcrobiology, Mc Graw- Hill 
Book Company,. 
24. Ziemer CJ,Steadham SR (2003), Evaluation of the specifity of Salmonella PCR 
primers using intestinal bacterial species, Lett Appl Microbiol. 37 (6), 463 – 
469. 
Từ Internet 
25. vne.xpress.net/Vietnam/suc_khoe/2001/06/3B9B1E63/13K. 
26. www.biotechvn.com.vn/ 
27.  
28.  
29.  
30.  
31.  
32.  
33.  
34.  
35.  
36.  
37.  
38.  
39.  poisoning 
40.  
41.  
42.  
43.  
44.  
45.  
46. www.kcom.edu/faculty/chamberlain/website/lectures/lecture/G14.htm 
47.  
48.  
49.  
50.  
51.  
52.  
53.  
54.  
55.  
56.  B cereus FAR.pdf 
57. www.moh.gov.vn/homebyt/vn/portal/InfoDetail.jsp?area=222&cat=1909&ID=33
79 - 49k 
58. www19.dantri.com.vn/suckhoe/2006/7/127935.vip - 88k 
59. 
D=2 
60.  
61.  
62.  
63.  
64. www.moh.gov.vn/tainanthuongtich/details.asp?CatMainID=2&Cat_ID=7&NewsI
D=781 - 44k 
65. www.rfa.org/vietnamese/in_depth/2005/07/26/FoodSafetyBelowStandards_TMi/ - 
24k 
66.  
67.  
68. 
6 
69. 
nelID=46 
70.  
71.  
72.  
73. 
D=2079 
74.  
PHỤ LỤC 
KẾT QUẢ KIỂM MẪU THEO PHƯƠNG PHÁP PCR VÀ NUÔI 
CẤY 
1. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU SỮA 
Salmonella E. coli S. aureus B. cereus Địa điểm thu 
mẫu 
Tên 
mẫu PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC 
SX3  KPH < 3 KPH  KPH  KPH 
SC3  KPH < 3 KPH  KPH  KPH Quận 3 
Chợ Bùi 
Phát 
ST3  KPH ≥ 3 3,0.102  4  KPH 
SX5  KPH ≥ 3 2,0.103  KPH  2,4.102 
SN5  KPH < 3 KPH  KPH  7 
SX5  KPH < 3 KPH  1,2.102  1,5.102 
SC5  KPH < 3 KPH  4  4 
Quận 
5 
Đường 
Nguyễn 
Biểu 
ST5  KPH ≥ 3 2,7.103  KPH  KPH 
SX8  KPH < 3 1,0.101  4  KPH 
SN8  KPH < 3 KPH  2,6.102  KPH 
SC8  KPH < 3 KPH  KPH  KPH 
Quận 
8 
Chợ 
Rạch 
Ông 
ST8  KPH ≥ 3 1,2.101  KPH  KPH 
SX10  KPH ≥ 3 2,0.105  KPH  4,3.101 
SN10  KPH ≥ 3 2,8.101  KPH  1,5.101 
SN10  KPH ≥ 3 1,3.101  KPH  9 
SC10  KPH < 3 KPH  KPH  KPH 
Quận 
10 
Chợ 
Nguyễn 
Tri 
Phương 
ST10  KPH ≥ 3 8,0.101  KPH  KPH 
SXTB  KPH ≥ 3 KPH  KPH  KPH 
SNTB  KPH < 3 KPH  3,5.102  KPH 
SCTB  KPH < 3 KPH  KPH  KPH 
Quận 
Tân 
Bình 
Đường 
Cách 
Mạng 
Tháng 
Tám STTB  KPH ≥ 3 4,5.104  KPH  4 
SX: sữa đậu xanh; SN: sữa đậu nành; SC: sữa chua; ST: sữa tươi ; KPH: 
không phát hiện 
2. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU NƯỚC GIẢI KHÁT 
E. coli S. aureus C.perfringens Địa điểm thu mẫu Tên mẫu Ký hiệu mẫu PCR NC PCR NC PCR NC 
Nước 
sâm H11  KPH  KPH  KPH 
Nước mía H12  9  KPH  KPH 
Nước rau 
má H13  KPH  KPH  2,3.10
1 
Nước rau 
má H14  KPH  KPH  KPH 
Quận 5 Đường Hồng 
Bàng 
Nước 
sâm H15  KPH  KPH  KPH 
Nước mía H16  1,1.102  KPH  KPH 
Nước rau 
má H17  3  KPH  KPH 
Nước rau 
má H18  KPH  KPH  KPH 
Nước 
sâm H19  9  KPH  2 
Nước 
sâm H20  3  KPH  KPH 
Nước mía H21  4  KPH  KPH 
Quận 8 
Đường 
Nguyễn 
Biểu – 
Nguyễn 
Thị Tần 
Nước mía H22  9,3.101  KPH  KPH 
Nước rau 
má H25  9,3.10
1  KPH  KPH Quận 
10 
Đường 
3/2 Nước rau 
má H26  4  KPH  KPH 
Nước 
sâm H27  3,2.10
3  KPH  KPH 
Nước 
sâm H28  1,1.10
2  KPH  KPH 
Nước mía H29  3,0.102  KPH  KPH 
Nước mía H30  9,3.101  KPH  KPH 
Nước rau 
má H31  9,3.10
1  KPH  8,0.102 
Quận 3 
Đường 
Nguyễn 
Thị 
Minh 
Khai – 
Võ Văn 
Tần 
Nước rau 
má H32  6,0.10
4  KPH  KPH 
Nước 
sâm H33  1,0.10
3  KPH  KPH 
Nước 
sâm H34 (+) 9,3.10
1  KPH  KPH 
Nước rau 
má H35  KPH  KPH  2,0.10
2 
Nước rau 
má H36  15  KPH  6,0.10
1 
Nước mía H37  KPH  KPH  KPH 
Quận 
Tân 
Bình 
Đường 
Cách 
Mạng 
Tháng 
Tám 
Nước mía H38  1,5.103  KPH  KPH 
 3. KẾT QUẢ PHÂN TÍCH MẪU KEM 
Salmonella E. coli S. aureus C.perfringensĐịa điểm thu mẫu Tên mẫu 
Ký 
hiệu PCR NC PCR NC PCR NC PCR NC 
Kem 
tươi H75  KPH  9  KPH  KPH 
Kem 
tươi H76  KPH  1,0.10
1 < 10 2,3.101  KPH 
Kem ký H77  KPH  2,0.101 ≥ 10 2,3.101  KPH 
Kem ký H78  KPH  2,0.103 ≥ 10 2,3.101  KPH 
Kem 
cây H79  KPH  4,0.10
1 < 10 2,3.101  KPH 
Quận 
3 
Đường 
Cách 
mạng 
tháng tám 
Kem 
cây H80  KPH  2,0.10
2 ≥ 10 2,3.101  KPH 
Đường 
Trần Bình 
Trọng 
Kem 
tươi H81  KPH  1,0.101  KPH  KPH 
Kem 
cây H82  KPH  KPH  KPH  KPH 
Quận 
5 
Đường 
Trần Tuấn 
Khải Kem cây H83  KPH  6,3.10
2  KPH  KPH 
Kem 
tươi H84  KPH  2,0.10
1  KPH  KPH 
Kem 
tươi H85  KPH  3,0.10
1  KPH  KPH 
Đường 
Nguyễn 
Văn Cừ Kem 
tươi H86  KPH  9  KPH  KPH 
Kem 
cây H87  KPH  KPH  KPH 10 KPH 
Kem ký H88  KPH  7,0.101 ≥ 10 2,3.101  KPH 
Đường 
Phạm Thế 
Hiển Kem 
cây H89  KPH  1,7.10
2 ≥ 10 2,3.101  KPH 
Kem 
Marino H90  KPH  KPH  KPH  KPH Đường Dạ Nam Kem ký H91  KPH  KPH  KPH  KPH 
Quận 
8 
Đường 
Âu 
Dương 
Lân 
Kem 
tươi H92  KPH  2,0.101  KPH < 10 KPH 
Kem ly H93  KPH  4,2.102  KPH  KPH Kem Baby 
Lê Hồng 
Phong 
Kem ly H94  KPH  5.103 ≥ 10 9,3.101 < 10 KPH 
Tin A - Sư 
Vạn Hạnh 
Kem ly H95  KPH  KPH  KPH < 10 KPH 
Đường 
Sư Vạn 
Hạnh 
Kem ly 
H96  KPH  KPH  KPH  KPH 
 Sư Vạn 
Hạnh 
Kem 
chiên H97  KPH  KPH  KPH  KPH 
Quận 
10 
Đường 
3/2 
Kem 
tươi H98  KPH  KPH  KPH  KPH 
Kem 
tươi H99  KPH  1,0.10
1  KPH  KPH Đường 
Bàu Cát Kem 
tưoi H100  KPH  2,0.10
1 ≥ 10 9,3.101  KPH 
Kem 
cây H101  KPH  4,0.10
1  KPH  KPH Đường 
Bình Giã Kem 
cây H102  KPH  1,3.10
2  KPH  KPH 
Kem ký H103  KPH  1,0.103  KPH  KPH 
Quận 
Tân 
Bình 
Cách 
Mạng 
Tháng 
Tám 
Kem ký 
H104  KPH  KPH <10 KPH  KPH 
._.
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
LA7350.pdf